Imre Kertesz par ML
Imre
Kertesz par ML (1)
Ông có nhận
được cú đọc nào đáng kể, tôi muốn nói, đam mê đọc, từ một sư phụ nào
không?
Vous n’avez recu la passion de la lecture de personne?
Vous n’avez recu la passion de la lecture de personne?
Đam mê đọc, đọc
phát khùng, phát điên lên, là do những tác phẩm của Thomas Mann, và của
Camus đem
đến cho tôi [gợi lên ở nơi tôi]. Họ là những ông bố văn học của tôi,
hay, như
người ta nói, hai ngôi sao Berger của tôi.
Kafka nữa chứ,
phải không?
[Kafka aussi?]
[Kafka aussi?]
Tôi khám phá
ra Kafka hơi muộn, Phải đến năm 1964, như tôi còn nhớ được, tác phẩm
của Kafka
lần đầu tiên ra mắt tại Hung, và là Mẽo, America,
Vụ Án, Le Procès. Dịch được lắm, mãi sau đó, tôi mới được đọc. Thần
sầu,
thiên tài, génial. Không chỉ trong tính đề tài, luận đề, mà còn trong
cách miêu
tả một xen, une scène… Phải can đảm đến khùng điên thì mới dám thuổng
Kafka, il
faut un grand courage pour oser écrire après Kafka, en tout cas.
Trong 1 cuộc
phỏng vấn mới đây, ông [thuổng Sến], phán, tớ rất mừng vì đếch
có tí vay muợn nào tiền chiến, đúng không?
[Cái này dịch
bậy. Nguyên văn: Ông rất mừng vì đếch thuộc về, hay liên hệ. Thời của
những đại
ý thức hệ đã qua rồi. Ông có tiếc nuối điều này? Vous avez déclaré dans
un récent
entretien que vous vous réjouissez d’être sans appartenance. L’époque
des
grandes idéologies est arrivée à son terme. Le regrettez-vous?]
Phải lại bắt
đầu từ khá xa. Trước tiên, phải biết là, sau Auschwitz, thế giới trở
nên khác,
le monde est devenu autre, những bảng luật bị gẫy vụn, les tables de la
loi se
sont brisées. Ông biết câu chuyện 1 thuỷ thủ Hy Lạp, trong lúc loay
hoay cập 1
hòn đảo thì nghe la: Thượng Đế đã chết [On crie que le grand Pan est
mort]. Thế
đó: một nền văn hóa đã chết. Sau Lò Thiêu, không 1 ý thức hệ nào còn có
giá
nữa
[valable].
Sau Lò Thiêu, là phải suy nghĩ khác đi.
Sau Lò Thiêu, là phải suy nghĩ khác đi.
Một trong những
cuốn tiểu thuyết của ông có tên là Những kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces.
Liệu bây giờ còn những người tìm dấu vết, so, comparable, với
những
nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn
chứ, chắc chắn [Il y en a, sans doute]
Ông khuyên họ,
sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn
tiểu thuyết mà nữ tác giả sống ở
Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà chính trị được nhiều người biết, connu.
Trong
bốn chục năm, bà ta không biết gốc mình là Do Thái, tuy ngửi ra có 1
cái gì đó bị
giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose clochait]. Thế
rồi 1 bữa
có người bất thình lình hỏi bà, "Thế nào sống sót có cực không?"
[Et comment vous avez survécu?: Bà sống sót như thế nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ lời trách móc, tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói, bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
[Et comment vous avez survécu?: Bà sống sót như thế nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ lời trách móc, tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói, bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì
đó, liên quan tới cái vụ Bắc Kít rất thèm
được là… Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người như vậy, và đã từng viết ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại, trình cho bà con cùng đọc.
Gấu đã từng gặp những người như vậy, và đã từng viết ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại, trình cho bà con cùng đọc.
Hà, hà!
"Sao
không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời,
tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước
mắt.
Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến
điêu đứng,
rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm
chán. Nhớ
những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình
Phùng gần
nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra,
hớt hải lắc
đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường
Gia Long.
Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt
nhìn người
yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha
thẩn giữa
những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu
trên vai
cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu
mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường
nghêu
ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời
chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền
Bắc lì lợm,
dai dẳng.
Trong mỗi
chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi,
để cho
Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Buổi sáng cuối cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền... Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng cay, tủi nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong mắt kẻ thắng trận nỗi thèm khát, mong sao được là Nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con ngựa thành Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước về. Nàng Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương Chi suốt đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một người...
Buổi sáng cuối cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền... Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng cay, tủi nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong mắt kẻ thắng trận nỗi thèm khát, mong sao được là Nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con ngựa thành Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước về. Nàng Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương Chi suốt đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một người...
Và tôi bỗng
thấy bớt nhớ Sài-gòn.
*
*
V/v Lần Cuối
Sài Gòn.
Đây là cái
truyện ngắn đầu tay, của đời thứ nhì, viết ở Trại Tị Nạn Thái Lan, cùng
với Bụi.
Đời thứ nhì, là từ cái
message, trong cuốn video, một cái movie của Nhựt, đúng
hơn, khi đi trên xe đò từ thành phố biên giới Thái Lan, sau khi vượt
sông Mekong,
lên Bangkok, GCC đã từng lèm bèm rồi.
Câu chuyện 1
vệ sĩ, của 1 hoàng hậu hay công chúa, yêu "Người Đẹp", mà đâu dám nói
ra. Một lần
nàng tắm,
đứng hầu từ xa, nàng cởi đôi hài, ném về phía anh vệ sĩ, trước khi bước
vô bồn tắm.
Thế là nhớ hoài, nhớ hoài.
Thế là nhớ hoài, nhớ hoài.
Sau vỡ lở, tuy chẳng được
sơ múi gì, thế là bị chét
bùn đầy người, thành 1 pho tượng, đứng gác nơi vườn vua.
Vưỡn sống nhăn,
dưới lớp bùn!
Thế rồi qua
kiếp thứ nhì, lớp bùn vỡ ra, thành quái nhân, sống giữa thành phố
Tokyo, thời
hiện đại, và trong kiếp mới này, gặp lại 1 em, là công chúa ngày nào,
đầu thai vào kiếp khác, và cuộc tình chấm dứt đúng lúc cô gái cầm đôi
hài,
hàng hiệu
Vulton, ném về phía quái nhân.
Cũng chẳng
sơ múi gì, chẳng biết "hàng có gân" mùi vị ra sao!
Đời Gấu y chang!
Đời Gấu y chang!
"Tiền
kiếp của Gấu" thì cũng thê thảm chẳng khác gì Gấu!
Gấu gặp lại
BHD, của đời sau, ở hải ngoại!
Vưỡn cái cảnh
ở bên ngoài trường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn, được lập lại!
Khủng nhất là
lần xém chết ở bên ngoài khu PLT, Quận Cam, Tiểu Sài Gòn.
Hà, hà!
Đây cũng là
ý mẩu thơ ở trên:
All night by
the rose, the rose,
All night by the rose I lay.
Though I dare not steal the rose,
I bore the flower away-
All night by the rose I lay.
Though I dare not steal the rose,
I bore the flower away-
Suốt đời bên
bông hồng
Đếch dám chôm
Tôi mang nó theo tôi
Đến cõi khác, đời khác.
Đếch dám chôm
Tôi mang nó theo tôi
Đến cõi khác, đời khác.
Cô Sáu cười
khẽ nói, "Người khinh bạc như y làm sao gần gũi được?"
Imre
Kertesz: U mặc của tôi là của hình giảo đài.
Tôi là “tên hề của Lò Thiêu”.
[Trả lời phỏng vấn, tờ ML, số Tháng Chạp, 2013) (1)
Tôi là “tên hề của Lò Thiêu”.
[Trả lời phỏng vấn, tờ ML, số Tháng Chạp, 2013) (1)
Survivant d'Auschwitz,
«point zéro» de notre
civilisation occidentale, où il est de porté à l'age de 15 ans, Imre
Kertesz a
tenté d'en écrire l'experience en refusant à tout prix de s'enfermer
dans une
industrialisation mémorielle de la Shoah. Dans Être sans
destin, l'écrivain hongrois invente une forme de récit
autobiographique distancié, empreint d'un troublant mélange d'analyse
lucide et
d'ironie, qui le rendra célèbre en 1985, dix ans après sa première
parution, et
lui vaudra le prix Nobel de littérature en 2002. Après la chute du
régime
communiste hongrois, qui censura son oeuvre, il poursuivra, dans son
travail de
traducteur de l'allemand comme dans d'autres méditations sur la
déshumanisation
concen- trationnaire sous la forme d'essais, de témoignages ou de
romans
(citons le magnifique Kaddish pour
l'enjant qui ne naitra pas, 1990, ou le Journal
de galère, 1992), une interrogation exigeante sur l'ethique de
l'ecriture
apres la Shoah, différente mais sans doute complémentaire de celle de
Perec ou
de Primo Levi, qui voudra en penser la portée culturelle en prenant
acte de la
survie de la littérature dans un monde où les utopies comme les
interlocuteurs
manquent. Produisant une catharsis morale à la fois personnelle et
collective,
l'invention de formes littéraires originales est pour Imre Kertesz une
exigence
éthique capable de transcender les catégories traditionnelles de roman
ou de témoignage,
fiction et essai philosophique, histoire et mémoire pour réactualiser
sans
sombrer dans la naivete ou les poncifs les interrogations fondamentales
de
l'humanisme européen. C'est cette quête, indissociable de celle d'un
style
bouleversant dans sa sincèrité souvent faussement désinvolte et
humoristique,
qui fait la profondeur de celui qui s'est baptisé
lui-même “le clown de l'Holocauste”.
Alexandre Gefen
Alexandre Gefen
Sống sót
Auschwitz, ”điểm không”, “point zéro”, của văn hóa Tây Phương của
chúng ta,
nơi bị tống tới đó, khi 15 tuổi, Imre Kertész đã toan tính viết lại
kinh nghiệm
trên, trong khi từ chối, bằng mọi giá, bị nhốt vô nền kỹ nghệ hóa hồi
tưởng có
tên là Lò Thiêu, Shoah.
Trong “Không Số Kiếp”, ông phát minh ra 1 cách viết “ký, tự thuật từ xa, tạo khoảng cách”, trộn trạo giữa nghiên cứu sáng suốt, với chất hề, diễu, khiến ông trở thành nổi tiếng vào năm 1985, mười năm sau khi xuất hiện, ông được Nobel văn chương năm 2002.
Sau khi chế độ CS Hung, đã từng kiểm duyệt tác phẩm của ông, sụp đổ, ông tiếp tục công việc dịch thuật, như 1dịch giả tiếng Đức, và tiếp tục suy nghĩ về sự huỷ hoại, thoái hóa của con người trong chế độ toàn trị, dưới dạng tiểu luận, chứng thực, hay tiểu thuyết thí dụ, “Kinh Cầu cho đứa trẻ đếch thèm bò ra đời”, 1990, hay “Journal de galère”, 1992, một tra hỏi rất đòi hỏi, exigeante, về “đạo hạnh của cách viết”, l’éthique de l’écriture, sau Lò Thiêu, khác, và tất nhiên, bổ túc cho cái nhìn của Perec, hay của Primo Levi, khi cả hai suy nghĩ về tầm vóc văn hóa, và, liệu có chăng sự sống sót của văn chương, trong 1 thế giới không còn không tưởng, và luôn cả, người đối thoại?
Tạo ra 1 thanh tẩy đạo đức, cùng lúc, vừa có tính cá nhân, vừa có tính tập thể, sự phát minh những thể dạng có tính uyên nguyên, cội nguồn, đối với Imre Kertsz, đây là 1 đòi hỏi đạo hạnh, nhờ đó, có thể vượt được những phạm trù truyền thống của tiểu thuyết và chứng thực, giả tưởng và tiểu luận triết học, sự học và hồi ức, để tái nhập [réactualiser], mà không tiêu trầm, sombrer, vào trong sự ngây ngô, ngu ngốc, giả đò, la naiveté.....
Trong “Không Số Kiếp”, ông phát minh ra 1 cách viết “ký, tự thuật từ xa, tạo khoảng cách”, trộn trạo giữa nghiên cứu sáng suốt, với chất hề, diễu, khiến ông trở thành nổi tiếng vào năm 1985, mười năm sau khi xuất hiện, ông được Nobel văn chương năm 2002.
Sau khi chế độ CS Hung, đã từng kiểm duyệt tác phẩm của ông, sụp đổ, ông tiếp tục công việc dịch thuật, như 1dịch giả tiếng Đức, và tiếp tục suy nghĩ về sự huỷ hoại, thoái hóa của con người trong chế độ toàn trị, dưới dạng tiểu luận, chứng thực, hay tiểu thuyết thí dụ, “Kinh Cầu cho đứa trẻ đếch thèm bò ra đời”, 1990, hay “Journal de galère”, 1992, một tra hỏi rất đòi hỏi, exigeante, về “đạo hạnh của cách viết”, l’éthique de l’écriture, sau Lò Thiêu, khác, và tất nhiên, bổ túc cho cái nhìn của Perec, hay của Primo Levi, khi cả hai suy nghĩ về tầm vóc văn hóa, và, liệu có chăng sự sống sót của văn chương, trong 1 thế giới không còn không tưởng, và luôn cả, người đối thoại?
Tạo ra 1 thanh tẩy đạo đức, cùng lúc, vừa có tính cá nhân, vừa có tính tập thể, sự phát minh những thể dạng có tính uyên nguyên, cội nguồn, đối với Imre Kertsz, đây là 1 đòi hỏi đạo hạnh, nhờ đó, có thể vượt được những phạm trù truyền thống của tiểu thuyết và chứng thực, giả tưởng và tiểu luận triết học, sự học và hồi ức, để tái nhập [réactualiser], mà không tiêu trầm, sombrer, vào trong sự ngây ngô, ngu ngốc, giả đò, la naiveté.....
Alexandre Gefen:
Nếu ông cho
phép, tôi sẽ bắt đầu bài phỏng vấn bằng 1 giai thoại nhỏ. Cách đây
chừng chục
năm, tôi ngồi quán cà phê nơi nhà ga, chờ tàu, và đọc 1 cuốn sách tôi
bắt đầu từ
hôm trước, "Kinh cầu cho một đứa trẻ chẳng bao giờ ra đời, Kaddish pour
l’enfant qui ne naitra pas." Cuốn sách khủng đến nỗi tôi quên
luôn chuyến
tàu!
Tôi không biết có phải đó là ý định của ông, khi viết nó? Và đây là câu hỏi của tôi: Ông tưởng tượng như thế nào, về 1 tên độc giả của ông. Tên đó, hình dung ra sao?
Tôi không biết có phải đó là ý định của ông, khi viết nó? Và đây là câu hỏi của tôi: Ông tưởng tượng như thế nào, về 1 tên độc giả của ông. Tên đó, hình dung ra sao?
Kertész:
Đây là 1 câu
hỏi thường gặp. Sartre cũng đã từng nói tới, trong “Viết cho ai?" Thì
lẽ
dĩ nhiên, viết cho chính mình. Tôi cũng nói như thế, trong bài diễn văn
Nobel.
Người ta viết cho chính mình.
Note: Câu trả
lời của Nabokov thú vị hơn nhiều. (2)
Nhớ đại
khái, buổi sáng, bạn cạo râu, soi gương, nhìn thằng khốn trong gương,
đó là độc
giả, chính hắn đó, của bạn!
NMG có lần rất bực, khi nghe ai đó phán, viết cho mình chứ viết cho ai. Ông vặc lại, viết cho mình, thì cần gì in ấn, xuất bản cho tốn giấy mực!
Ông chủ chi địa ngày nào của Gấu không hiểu ra vấn đề, là, cái tên độc giả mua sách của ông, chính là… ông!
Kertesz phán, bởi là vì nếu bạn muốn làm hài lòng 1 tên độc giả tưởng tượng, thì phải tạo ra hắn, trong chính bạn, il faudrait l’avoir créé en nous-mêmes.
Một cách nào đó, những độc giả của TV, thì đều là… Gấu Cà Chớn!
NMG có lần rất bực, khi nghe ai đó phán, viết cho mình chứ viết cho ai. Ông vặc lại, viết cho mình, thì cần gì in ấn, xuất bản cho tốn giấy mực!
Ông chủ chi địa ngày nào của Gấu không hiểu ra vấn đề, là, cái tên độc giả mua sách của ông, chính là… ông!
Kertesz phán, bởi là vì nếu bạn muốn làm hài lòng 1 tên độc giả tưởng tượng, thì phải tạo ra hắn, trong chính bạn, il faudrait l’avoir créé en nous-mêmes.
Một cách nào đó, những độc giả của TV, thì đều là… Gấu Cà Chớn!
Có cuốn nào
cũng tạo 1 ép phê khủng khiếp như thế chăng, theo ông?
Có đấy. Người
Xa Lạ, của Camus. Kozony,
L’Étranger. Tiếng Hung, nó có nghĩa “dửng dưng”
[indifférent].
Note: Bởi thế
mà Dương Tường mới dịch "L'Étranger" là "Người Dưng". Tuy nhiên, tiếng
Việt, người
dưng không có nghĩa dửng dưng, mà là người không cùng máu mủ với mình,
như
trong ca dao vẫn thường dùng.
Nabokov chẳng
đã từng bị hỏi, ông nghĩ sao về độc giả của mình, và đã trả lời, đại
khái, ông
chỉ có mỗi một độc giả, là cái thằng khốn nạn, buổi sáng sớm nào cũng
đụng nó,
khi soi gương, cạo râu.
Bởi vì bạn viết, thực sự mà nói, cho chính bạn, đọc. Những độc giả khác, nếu có, cũng chính là bạn!
Bởi thế, Nabokov nói tiếp, độc giả của ông, ngồi đầy phòng, người nào cũng đeo mặt nạ, là ông.
Bởi vì bạn viết, thực sự mà nói, cho chính bạn, đọc. Những độc giả khác, nếu có, cũng chính là bạn!
Bởi thế, Nabokov nói tiếp, độc giả của ông, ngồi đầy phòng, người nào cũng đeo mặt nạ, là ông.
Sauvegarde
Alexandre Gefen:
Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu, tôi nghĩ, nguồn của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu, tôi nghĩ, nguồn của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt
đầu viết Kaddish, tôi bị ám
ảnh bởi ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe
au-dessus
des nuages”], chẳng hề biết là tôi trích dẫn thơ Celan. (2)
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en exergue]….
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en exergue]….
Ông cảm thấy
ra sao, lần đầu đọc bài thơ?
Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1 dịch giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức qua, trao tay cho tôi bài thơ, tại nhà xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được in, nhưng 1 băng audio cassette.
Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1 dịch giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức qua, trao tay cho tôi bài thơ, tại nhà xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được in, nhưng 1 băng audio cassette.
Ghi âm bài
thơ của Celan?
Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật là đẹp…
Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật là đẹp…
Về vụ này,
xin hỏi ông thêm, về cái tương quan, le rapport, của ông với tiếng Đức?
Một tương quan tốt đẹp, un bon rapport. Đó là ngoại ngữ độc nhất mà tôi biết.
Một tương quan tốt đẹp, un bon rapport. Đó là ngoại ngữ độc nhất mà tôi biết.
Nhưng có tí
chết ở trong đó, đúng không [như tiếng Bắc Kít, hà, hà!]?
[Mais n’est-ce-pas un peu la langue de la mort?]
[Mais n’est-ce-pas un peu la langue de la mort?]
Note:
Hồi mới lớn, nhớ xứ
Bắc Kít, có
thể, Gấu mê nghe Thái Thanh ca, nhất là “tôi yêu tiếng nước tôi”, sau
sợ quá,
không dám nghe Bắc Kít hát nữa.
Nghe the thé! Thái Thanh mà ca “Bà Mẹ Gio Linh”, khủng lắm!
Gấu nghi, cái lần trở về lại Đất Bắc, đi thăm bướm Bắc, bị 1 em chửi, mi là 1 tên Nam Kít, bày đặt học tiếng Bắc Kít, tởm lắm, có liên can tới vụ này, hà hà!
Em đó, chắc cũng quá tởm tiếng Bắc!
Nghe the thé! Thái Thanh mà ca “Bà Mẹ Gio Linh”, khủng lắm!
Gấu nghi, cái lần trở về lại Đất Bắc, đi thăm bướm Bắc, bị 1 em chửi, mi là 1 tên Nam Kít, bày đặt học tiếng Bắc Kít, tởm lắm, có liên can tới vụ này, hà hà!
Em đó, chắc cũng quá tởm tiếng Bắc!
Nên nhớ, tiếng Nam,
cũng
là tiếng Bắc, nhưng được đọc làm sao cho bớt the thé, bớt chát chúa
đi.
Đây là do thổ ngơi, ảnh hưởng vô tiếng nói, giọng nói.
Ray rứt trời mưa bỗng nghe mặn môi!
Giăng mắc trời mưa, phố xưa buồn tên
Đây là do thổ ngơi, ảnh hưởng vô tiếng nói, giọng nói.
Ray rứt trời mưa bỗng nghe mặn môi!
Giăng mắc trời mưa, phố xưa buồn tên
Phải buồn tên mới
được!
Mấy em Nam Kỳ, nửa khuya mà rên bài này, là chỉ có từ chết đến bị thương!
Mấy em Nam Kỳ, nửa khuya mà rên bài này, là chỉ có từ chết đến bị thương!
Trong “Tẩu Khúc”, có hình
ảnh "mồ đi trên mây":
Your ashen hair Shulamith
we shovel a grave in the air there
you won't lie too
cramped...
Mẹ có đau khổ không mẹ ơi
cramped...
Nhảm quá [C’est
une idiotie]. Khi bạn nói chuyện với 1 người Đức có học thức, văn hóa,
cultivé,
thì đâu có phải là giọng nói của 1 tên SS mà bạn đang nghe. Tôi theo,
đây là 1
thứ bịnh hoạn, một trường hợp hận thù nặng nề [Ce serait de ma part
quelque
chose de l’ordre du machoisme forcé, d’un ressentiment grave]. Khi tôi
dịch Nietzsche,
tôi nhìn thấy thi sĩ trong ông, và tôi dịch ông, như khi tôi dịch Sự ra đời của bi kịch, La naissance de la tragédie.
Có thể so sánh,
như với trường hợp tiếng Hung?
Tiếng Hung
thì thân hơn, intime. Thì đương nhiên, nó phải như thế, logique.
Trở lại 1 tí
với Kaddish: đâu là mối nối
giữa việc từ bỏ quan hệ cha con và số mệnh, hay sự
thiếu vắng số mệnh?
[Quel est le lien entre le rejet de la parternité et le destin, ou l’absence de destin?]
[Quel est le lien entre le rejet de la parternité et le destin, ou l’absence de destin?]
Eh bien,
trong Không Số Mệnh, Être sans destin,
điều tôi cực quan tâm, là chủ
nghĩa toàn
trị, và đó là vấn đề mà tôi nghiên cứu. Tôi cho chủ nghĩa toàn trị đóng
vai ông
bố, và đó là lý do tại sao tôi đặt để ở trung tâm câu chuyện 1 đứa con
trai –
không phải để cho độc giả vãi linh hồn, non pas pour faire pleurer le
lecteur –
mà là, theo tôi, à mon avis, chủ nghĩa toàn trị đẩy con người
tới trạng
thái con nít, la dictature totale réduit l’homme au state de
l’enfant,
hay nói đúng hơn, tới mức suy nghĩ, hành động y chang 1 đứa bé. Chính
vì lý do đó,
mà nhân vật của tôi là 1 đứa trẻ. Nhìn theo quan điểm này thì Kaddish
là 1 kéo
dài, nó làm bùng nổ vấn đề theo 1 chiều hướng khác.
Note: Gấu đả
sử dụng đúng cái nhìn trên, để đọc Tuổi
Hai Mươi Yêu Dấu của Nguyễn Huy Thiệp.
Hà, hà!
Thằng
nhóc của NHT, ghiền, và chỉ hết ghiền, khi nghe tin ông bố ngỏm.
"Tôi đã
sững sờ vì một lần lên bờ cắt tóc, soi trong gương tôi nhận ra đầu mình
bạc trắng!
Tôi không tin được là tôi có thể biến đổi đến như ngần ấy. Trong tiệm
cắt tóc
có một tập báo cũ, vô tình tôi vớ lên xem. Tôi lặng người đi khi đọc
báo thấy
tin bố tôi vừa mất! Nước mắt tôi trào ra. Những dòng chữ nhảy nhót,
nhòa đi trước
mắt tôi. Tôi gục xuống như bị một đòn trời giáng, run rẩy hết cả chân
tay. Mọi
người chạy lại đỡ tôi nhưng tôi gạt đi rồi chạy ra ngoài, vừa chạy vừa
khóc nức
nở. Trời đất như sụp đổ trước mặt tôi. Bố!"
[Tuổi Hai
Mươi Yêu Dấu. Chương chót. NHT]
Hoặc nói một cách khác, Tuổi Bụi chính là
ouverture, cho một xứ sở không còn tuổi bụi nữa, một khi mà Ông Bố ngỏm
củ tỏi.
Nhân đây, Gấu xin tặng
"bạn ta, người ở
Thọ Xuân" một nhận xét - của ông
vua tiểu thuyết gián điệp, ngưòi Anh, John Le Carré, trong lời tựa cuốn
tiểu
thuyết của ông - áp dụng cho Tuổi
Hai Mươi Yêu Dấu sao lại quá hợp:
"Nhưng ở
đây, qua cuốn tiểu thuyết, giai đoạn Lịch Sử chỉ là cái nền, cho câu
chuyện một
đấng con trai, bị ám ảnh bởi một ông bố, và khi thấy mình đủ sức dám
đối diện với
cái bóng của ông ta, bèn khám phá ra rằng, cái con quỉ hành hạ anh ta
suốt đời
đó, sau cùng hoá ra là một người đàn ông nhỏ thó, buồn bã, và trống
rỗng."
Lời Tựa cuốn Single & Single [ở
đây, Gấu sử dụng bản dịch tiếng Tây, tủ sách Points, loại
bỏ túi]
Gấu bỗng nhớ lần gặp thứ
nhì, do một tay xe
ôm, đi theo lời chỉ dẫn của Thiệp, vậy mà cũng ba trật bốn vuột mới tới
được
"ngoại vi". Chỉ cần tới ngoại vi, nghĩa là khu phố, hoặc đầu ngõ, hỏi,
là ai cũng gật đầu, biết, làm sao không biết... Anh xe ôm đã đi theo
một người
lối xóm như vậy, tới tận cổng nhà Thiệp.
Sau khi chào
hỏi, mời anh xe ôm vô nhà, uống một ly bia, rồi nói, ông để ông bạn của
tôi ở
đây, về trước mà đón khách tiếp, lát nữa, có ông xe ôm cây nhà lá vườn,
sẽ đưa
ông tới tận nhà [ở khu Phố Cổ Hà Nội] đàng hoàng.
Bữa hôm sau, gặp lại anh
xe ôm, anh ta vẫn
chưa hết nét sửng sốt. Vậy là ông quen cái ông Thiệp đó hả? Ối giời ơi
là giời,
nhờ ông mà tôi được bắt tay ông ta, được uống với ông ta một ly bia.
Đúng là
ngàn năm một thuở, mà phải nhờ một ông ở tận nước người, mới có được!
Chính cái chi tiết người
nhỏ thó, ở trên, làm
tôi nhớ lại lần gặp Thiệp, và cái cảm giác sững sờ của anh chàng xe ôm.
Nó còn
làm cho tôi nhớ lại, cũng một nhận xét của ông vua tiểu thuyết điệp
viên người
Anh nói trên, trong cuốn Tay Điệp
Viên Tuyệt Hảo, The Perfect Spy, bản tiếng
Tây dịch là Tay Điệp Viên Nhà Nòi, hoặc Ròng, Un Pur Espion, ông đưa ra nhận
xét sau đây:
Như rất nhiều
những tay độc tài, Miss D. thì thật là nhỏ thó!
Một kaddish
không Thượng Đế?
Không: Một kaddish
không ông bố. Đó là kinh cầu [kaddidh] mà khởi thuỷ, những đứa
trẻ đọc,
dành cho những ông bố đã chết. Trong cuốn sách của tôi, ngược hẳn lại:
không có
ông bố. Không có cả cái tay để mà cầu kinh cho xừ luý nữa.
Nhưng mà rồi
cũng có ngày ông trở thành 1 ông bố cho những nhà văn trẻ, đúng không?
[Mais entre-temps n’êtes-vous pas devenu une figure paternelle pour de plus jeunes auteurs?]
[Mais entre-temps n’êtes-vous pas devenu une figure paternelle pour de plus jeunes auteurs?]
Ông tin vậy ư?
Tôi đếch có tin. Vả như có trường hợp đó, thì tôi cũng đếch thành 1 thứ
Thầy như
Thầy Kuốc chẳng hạn, hà, hà!
[Je ne suis pas de l’espèce des éducateurs]
[Je ne suis pas de l’espèce des éducateurs]
Ai là những
tác giả mà ông sẽ kể tên trong những người đại diện cho văn học Hung
đương
đại?
Với thế
hệ
trẻ, tôi có thể kể ra Szilard Norbély, một nhà thơ bảnh, excellent. Anh
vừa cho
in một cuốn tiểu thuyết, nhan là Nincstelenek,
“Les Indigents”. Nghe nói khủng lắm, tôi rất muốn tin là như thế.
Một tài năng
lớn, thí dụ, theo tôi. Những kẻ rành số phận của tôi thì thường là tự tử!
"U mặc" của tôi, là của
hình giảo đài!
Kertesz:
Những kẻ rành số phận của
tôi thì thường là tự tử!
"U mặc" của tôi, là của hình giảo đài!
"U mặc" của tôi, là của hình giảo đài!
Trên tờ The
Paris Review số 205 có bài phỏng vấn Kertesz, cũng thú lắm.
Bài mới này, là nhân
Nhật Ký, “Sauvegarde [Cứu Hộ] 2001-2003” mới ra lò [bản tiếng Pháp,
nhà
xb Actes Sud]. TV sẽ đi liền, như món quà đầu
năm, thay cho lời chúc thường lệ.
Hà, hà!
Đạp thuyền trên hồ Xuân Hương,
Đà Lạt, 1955, Gấu thực sự ngạc
nhiên, mình đang sống trong một thế giới khủng khiếp.
INTERVIEWER
Trong Hồ Sơ K. ông
phán, chỗ của tớ không
phải ở trong lịch sử, mà ở bàn viết.
Kertesz: Tớ đếch viết ở bàn
viết. Nhưng thôi, bỏ ba chuyện lẻ tẻ đi vô đời tư,
nhảm lắm!
[Rarely ever did I write at a
desk! But let’s not talk about personal
things]
Interviewed
by Luisa Zielinski
INTERVIEWER
In your
Nobel Lecture you said, “The nausea and depression to which I awoke
each
morning led me at once into the world I intended to describe.” Did
writing
subdue this condition?
IMRE KERTÉSZ
I was
suspended in a world that was forever foreign to me, one I had to
reenter each
day with no hope of relief. That was true of Stalinist Hungary, but
even more
so under National Socialism. The latter inspired that feeling even more
intensely. In Stalinism, you simply had to keep going, if you could.
The Nazi
regime, on the other hand, was a mechanism that worked with such brutal
speed
that “going on” meant bare survival. The Nazi system swallowed
everything. It
was a machine working so efficiently that most people did not even have
the
chance to understand the events they lived through.
To me, there
were three phases, in a literary sense. The first phase is the one just
before
the Holocaust. Times were tough, but you could get through somehow. The
second
phase, described by writers like Primo Levi, takes place in medias res,
as
though voiced from the inside, with all the astonishment and dismay of
witnessing
such events. These writers described what happened as something that
would
drive any man to madness—at least any man who continued to cling to old
values.
And what happened was beyond the witnesses’ capacity for coping. They
tried to
resist it as much as they could, but it left a mark on the rest of
their lives.
The third phase concerns literary works that came into existence after
National
Socialism and which examine the loss of old values. Writers such as
Jean Améry
or Tadeusz Borowski conceived their works for people who were already
familiar
with history and were aware that old values had lost their meaning.
What was at
stake was the creation of new values from such immense suffering, but
most of
those writers perished in the attempt. However, what they did bequeath
to us is
a radical tradition in literature.
INTERVIEWER
Do you
consider your own works part of this radical tradition?
KERTÉSZ
Yes, I do,
except I’m not sure whether it is my work or my illness that’s going to
kill me
now. Well, at least I tried to go on for as long as I could. So
obviously I
haven’t yet died in the attempt to come to terms with history, and
indeed it
looks as though I will be dying of a bourgeois disease instead—I am
about to
die of a very bourgeois Parkinson’s.
INTERVIEWER
Is writing a
means of survival?
KERTÉSZ
I was able
use my own life to study how somebody can survive this particularly
cruel brand
of totalitarianism. I didn’t want to commit suicide, but then I didn’t
want to
become a writer either—at least not initially. I rejected that idea for
a long
time, but then I realized that I would have to write, write about the
astonishment and the dismay of the witness—Is that what you are going
to do to
us? How could we survive something like this, and understand it, too?
Look, I don’t want to deny that I was a prisoner at Auschwitz and that I now have a Nobel Prize. What should I make of that? And what should I make of the fact that I survived, and continue to survive? At least I feel that I experienced something extraordinary, because not only did I live through those horrors, but I also managed to describe them, in a way that is bearable, acceptable, and nonetheless part of this radical tradition. Those of us who were brave enough to stare down this abyss—Borowski, Shalamov, Améry—well, there aren’t too many of us. For these writers, writing was always a prelude to suicide. Jean Améry’s gun was always present, in both his articles and his life, always by his side.
I am somebody who survived all of it, somebody who saw the Gorgon’s head and still retained enough strength to finish a work that reaches out to people in a language that is humane. The purpose of literature is for people to become educated, to be entertained, so we can’t ask them to deal with such gruesome visions. I created a work representing the Holocaust as such, but without this being an ugly literature of horrors.
Perhaps I’m being impertinent, but I feel that my work has a rare quality—I tried to depict the human face of this history, I wanted to write a book that people would actually want to read.
Look, I don’t want to deny that I was a prisoner at Auschwitz and that I now have a Nobel Prize. What should I make of that? And what should I make of the fact that I survived, and continue to survive? At least I feel that I experienced something extraordinary, because not only did I live through those horrors, but I also managed to describe them, in a way that is bearable, acceptable, and nonetheless part of this radical tradition. Those of us who were brave enough to stare down this abyss—Borowski, Shalamov, Améry—well, there aren’t too many of us. For these writers, writing was always a prelude to suicide. Jean Améry’s gun was always present, in both his articles and his life, always by his side.
I am somebody who survived all of it, somebody who saw the Gorgon’s head and still retained enough strength to finish a work that reaches out to people in a language that is humane. The purpose of literature is for people to become educated, to be entertained, so we can’t ask them to deal with such gruesome visions. I created a work representing the Holocaust as such, but without this being an ugly literature of horrors.
Perhaps I’m being impertinent, but I feel that my work has a rare quality—I tried to depict the human face of this history, I wanted to write a book that people would actually want to read.
To read the
rest of this piece, purchase the issue.
Note: Bài phỏng
vấn này, đọc thú lắm, và nó liên quan đến "nhà văn sống sót" mà TTT
viện ra khi ông trả lời Le Huu Khoa, trong bài
viết bằng
tiếng Tây, trong Mảng Lưu Vong, La
Part d’Exile:
Kinh nghiệm
văn chương của ông trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 tới 1975?
Ngoài thơ
ra, tôi trải qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi.
Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội
trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái
chết. Lập
tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách
trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi:
"Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ
nghĩa,
nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?".
Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là
một kẻ sống sót. (1)
INTERVIEWER
Liệu có phẩm chất cứu chuộc trong “viết”, chính nó?
Is there perhaps a redemptive quality to writing itself?
Liệu có phẩm chất cứu chuộc trong “viết”, chính nó?
Is there perhaps a redemptive quality to writing itself?
Kertesz: Có
đấy, nhưng không phải cho mọi người
Not for everybody.
Not for everybody.
INTERVIEWER
Nhưng cho ông?
[GCC sẽ
chuyển
dịch bài viết này hầu độc giả Tin Văn]
Le Magazine Littéraire:
Nếu ông cho
phép, tôi sẽ bắt đầu bài phỏng vấn bằng 1 giai thoại nhỏ. Cách đây
chừng chục năm,
tôi ngồi quán cà phê nơi nhà ga, chờ tàu, và đọc 1 cuốn sách tôi bắt
đầu từ hôm
trước, "Kinh cầu cho một đứa trẻ chẳng bao giờ ra đời, Kaddish pour
l’enfant qui
ne naitra pas." Cuốn sách khủng đến nỗi tôi quên luôn chuyến tàu!
Tôi không biết có phải đó là ý định của ông, khi viết nó? Và đây là câu hỏi của tôi: Ông tưởng tượng như thế nào, về 1 tên độc giả của ông. Tên đó, hình dung ra sao?
Tôi không biết có phải đó là ý định của ông, khi viết nó? Và đây là câu hỏi của tôi: Ông tưởng tượng như thế nào, về 1 tên độc giả của ông. Tên đó, hình dung ra sao?
Đây là 1 câu
hỏi thường gặp. Sartre cũng đã từng nói tới, trong “Viết cho ai?" Thì
lẽ dĩ nhiên,
viết cho chính mình. Tôi cũng nói như thế, trong bài diễn văn
Nobel. Người
ta viết cho chính mình.
Note: Câu trả
lời của Nabokov thú vị hơn nhiều. Nhớ đại khái, buổi sáng, bạn cạo râu,
soi gương,
nhìn thằng khốn trong gương, đó là độc giả, chính hắn đó, của bạn!
NMG có lần rất
bực, khi nghe ai đó phán, viết cho mình chứ viết cho ai. Ông vặc lại,
viết cho
mình, thì cần gì in ấn, xuất bản cho tốn giấy mực!
Ông chủ chi địa ngày nào của Gấu không hiểu ra vấn đề, là, cái tên độc giả mua sách của ông, chính là… ông!
Kertesz phán, bởi là vì nếu bạn muốn làm hài lòng 1 tên độc giả tưởng tượng, thì phải tạo ra hắn, trong chính bạn, il faudrait l’avoir créé en nous-mêmes.
Một cách nào đó, những độc giả của TV, thì đều là… Gấu Cà Chớn!
Ông chủ chi địa ngày nào của Gấu không hiểu ra vấn đề, là, cái tên độc giả mua sách của ông, chính là… ông!
Kertesz phán, bởi là vì nếu bạn muốn làm hài lòng 1 tên độc giả tưởng tượng, thì phải tạo ra hắn, trong chính bạn, il faudrait l’avoir créé en nous-mêmes.
Một cách nào đó, những độc giả của TV, thì đều là… Gấu Cà Chớn!
Có cuốn nào
cũng tạo 1 ép phê khủng khiếp như thế chăng, theo ông?
Có đấy. Người Xa Lạ, của Camus. Kozony, L’Étranger. Tiếng Hung, nó có nghĩa “dửng dưng” [indifférent].
Có đấy. Người Xa Lạ, của Camus. Kozony, L’Étranger. Tiếng Hung, nó có nghĩa “dửng dưng” [indifférent].
Note: Bởi thế
mà Dương Tường mới dịch là "Người Dưng". Tuy nhiên, tiếng Việt, người
dưng không
có nghĩa dửng dưng, mà là người không cùng máu mủ với mình, như trong
ca dao vẫn
thường dùng.
Comments
Post a Comment