Tribute to Koestler

1 2 3 4

 Tribute


Người hôm qua?
Raging towards Utopia
Koestler 1
Koestler 2



1
2
3
4





*

Chỉ thua me-xừ Thông, trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, của Nguyễn Tuân!

Nguyễn Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng.
Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn này: Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông, những chữ như thế này, phải tìm đất khác để mà tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.
Sẽ có người bực mình, đã đọc Chữ Người Tử Tù, đâu có thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ, đọc là mô phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt... Nếu như bạn muốn trung thành với văn bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ Nguyễn đắc ý nhất, đắc địa chỉ có mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay người bên giáo?" Ôi chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao nhiêu lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết, phải tàn bao nhiêu ngọn đèn dầu lạc, phải tu tận hoan bao nhiêu lần, bỉnh chúc bao nhiêu phen, phải để cho nhân vật của mình ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình, rồi cứng đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có thể phán một câu nhẹ nhàng như vậy:
"Xuyến người bên lương hay là bên giáo?"


Một chuyến đi


Tình cảm yêu nước không phải là điều tưởng tượng, mà bắt đầu từ những hình ảnh thật cụ thể, thật đời thường. Trong một phim Hiệp Sĩ Mù, nhân vật nghe gió kiếm này tình cờ trở lại làng quê cũ, khi sờ sờ cái cột ở đầu làng, và bèn lấy ra một đồng tiền tung lên trời, để quyết định có nên vô làng, hay là đi luôn, sau khi đã chọn mặt phải, hoặc mặt trái của đồng tiền.
Nhưng tuyệt nhất là xen hiệp sĩ mù mò mò, rồi đào đào bới bới, miệng lẩm bẩm, nó phải ở chỗ này, và quả đúng như vậy: anh mù đào được pho tượng ngày nào, khi còn nhỏ, mắt chưa mù, chỉ mới mờ mờ, chơi đùa quanh pho tượng đó.
Với GNV, tình cảm yêu nước có thể gắn liền với tình hoài hương, bắt đầu ‘đúng vào lúc’ hai ông bà Adam và Eva bị đá văng ra khỏi địa đàng, như GNV phán ở trên.
Brodsky cho rằng nó liên quan tới hồi nhớ, và hồi nhớ, có, là để thay thế cho cái đuôi của con người theo với đà tiến hóa.
Tiện đây, trích câu của Milosz, áp dụng vào đất Bắc Kít cũng thật hạp:
It is good to be born in a small country where nature is on a human scale, where various languages and religions have coexisted for centuries. I am thinking here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với con người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi đang nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Tình cảm yêu nước là cái nôi phát sinh ra những câu văn tuyệt vời như trên, theo GNV.
*
Trong bài Sự thách đố của chủ nghĩa quốc gia, The challenge of the nationalism, in trong Wellsprings Llosa viết:
Trong Đường tới nông nô, The Road to Serfdom [1944-45], Friedrich Hayek viết, chủ nghĩa xã hội, socialism, và chủ nghĩa quốc gia, nationalism, là hai hiểm nguy lớn lao nhất đối với văn minh. Nhà kinh tế lớn lao người Áo chắc chắn phải thêm vào nhận xét của ông, vào những ngày như thế này, chủ nghĩa chính thống giáo, religious fundamentalism.
Cái chủ nghĩa xã hội mà ông nhắc tới ở đây, là chủ nghĩa Mác, kẻ thù không đội trời chung của dân chủ tự do, mà chủ nghĩa Mác gọi là một hình thức bóc lột của tư bản, a form of capitalist exploitation. Cái thứ xã hội chủ nghĩa này nhắm tiêu diệt tư hữu mọi phương cách sản xuất, tập thể hoá đất đai, quốc hữu hóa kỹ nghệ, tập trung và lên kế hoạch kinh tế, ban hành nền chuyên chính vô sản như là bước đầu tiến tới xã hội không còn giai cấp trong tương lai. Chủ nghĩa xã hội mác xít biến mất cùng với sự tan rã của Liên Xô và sự chuyển đổi của chủ nghĩa CS Trung Quốc thành một chủ nghĩa tư bản độc đảng cầm quyền, single-party authoritarian capitalism. Mộ chí của nó, its epithah, là sự sụp đổ Bức Tường Bá Linh vào năm 1989.
Không có gì tởm hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt kẻ khác, nhân danh quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng. Chủ nghĩa quốc gia là nọc độc của lịch sử hiện đại.
Quê hương của một con người, thì cũng chỉ là một mảnh không gian - có thể một căn phòng khách sạn, hay băng ghế nơi công viên gần nhất - nơi con mắt của nhân dân hay sự phiền hà của một chế độ thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn cho phép một con người, và tác phẩm của người đó. Cây có rễ, người có chân để mà bỏ đi, sau khi lương tâm của nó nói: Không!
George Steiner: The Cleric of Treason

Chủ nghĩa quốc gia, ở xứ Mít, là chủ nghĩa Bắc Kít!
Xã hội chủ nghĩa, qua cái tên Mác Xít, ở xứ Mít, cũng là chủ nghĩa Bắc Kít!

Raging towards Utopia
Điểm Sách London đọc tiểu sử Koestler của Scammell
Nhìn từ một khoảng cách an toàn, cuộc đời K giống như một trái cầu lửa, bùng lên một cách hung hãn ngay từ khởi đầu và, cứ thế lao vào đám đông, quảng trường, những khu vuờn sau nhà... phóng ra những tia lửa, những khối sáng vào những cái đầu tăm tối; sự nghiệp, cuộc đời của ông để lại những vết cháy nám đen, và những khối sáng lòa dọc theo thế kỷ 20.
Khi trái cầu ngưng hẳn, khối lửa lụi tàn, và bóng đen bất thình lình kể như tuyệt đối.

Cuộc “phần thân” mới khủng khiếp làm sao!
So với ông, kể như chỉ có nhi đồng Lê Văn Tám!
Bây giờ gần như mọi người đều quên ông, nhưng đã có thời, tất cả những sinh viên với tí mầm bất bình thế giới, họ đọc ông. Những sinh viên, đám cháu chít của họ, hay đám trí thức “của” ngày mai, họ chẳng hề nghe nói đến ông. Một số nhà phê bình nghĩ, sự lãng quên này thì là do những cái nhảm nhí trong cuộc đời riêng tư của ông, hầu hết được hé lộ sau khi ông mất: hiếp bà này, trấn bà kia, và nhất là, cái tội ép bà vợ trẻ sau cùng cùng đi với ông trong chuyến tầu suốt. Lời giải thích sau đây thoả đáng hơn: thời gian thay đổi. Nội dung trọn một khối của tất cả những gì mà Koestler sống, sống sót, chiến đấu, rao giảng, lên lớp…  - thời những độc tài toàn trị, những vận động, huy động, chuyển vận…  mang tính thiên niên kỷ, những cuộc chiến toàn thể - đã biến mất. Và biến mất cùng với nó (cũng còn một tí xíu chưa chịu biến mất), là những chọn lựa đạo đức cổ điển choàng lên lương tâm, ý thức, [và trên vai ta đôi vầng nhật nguyệt] của hàng bao nhiêu con người, đàn ông đàn bà của thế kỷ 20: Liệu có nên hy sinh ngày hôm nay để có một ngày mai ca hát? Thà trốn lính chứ đừng nhẩy toán? Liệu có nên khứng chịu con quỉ 1 sừng để tránh con quỉ 2 sừng, 10 sừng, liệu có nên đổ xuống sợi xiềng thực dân cũ, thực dân mới máu của 3 triệu dân Mít [đứng vùng lên gông xích ta đập tan] để có được một cái nhà nhà Mít to đẹp hơn, đàng hoàng hơn?
Ui chao nếu như thế, thì Gấu quả là 1 độc giả sau cùng, độc nhất [?], của Koestler! (1)
**


(1) Mới dinh cuốn Bóng Đêm từ một tiệm sách cũ về, cùng với cuốn Bộ lạc thứ 13:
The Thirteenth Tribe, written near the end of his life, attempted to prove that Ashkenazi Jews - the main body of European Jewry - were not ethnic Jews at all but the descendants of the Khazars, Turkic nomads from Asia who had converted to Judaism in the eighth century. To the dismay of most Jews, the book was a huge success and is still quoted with delight by Israel's hostile neighbors.
Neal Ascherson: Raging towards Utopia

Gấu đọc lại Đêm giữa Ngọ, để kiểm tra trí nhớ, và để sống lại những ngày mới vô Sài Gòn.
Quả có mấy xen, thí dụ, Ông số 2 đang đêm bị hai chú công an đến tóm, và ông ra lệnh cho chú công an trẻ măng, cách mạng 30 Tháng Tư, lấy cho tao cái áo đại quân thay vì đứng xớ rớ mân mê khẩu súng! Có cái xen ông số 2 dí mẩu thuốc đỏ hỏn vô lòng bàn tay, và tưởng tượng ra cái cảnh mình đang được đám đệ tử tra tấn. Có câu chuyện thê lương về anh chàng ‘Rip của Koestler’ [Giá mà Bác Hồ hồi đó, khi ở Paris, đọc được, thì chắc là hết dám sáng tác Giấc Ngủ 10 năm, có khi còn từ bỏ Đảng cũng nên!]
Thà chơi bửn mà thắng, còn hơn chơi đẹp mà thua!
Trong lúc rảnh rỗi, tôi viết một cuốn tiểu thuyết Tới và Đi, Arrival and Departure, và một số tiểu luận, sau được đưa vô The Yogi and the Commissar [Du Già và Chính Uỷ]
Tới và Đi là tập thứ ba, trong một bộ ba tập, trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc xung đột giữa đạo đức và thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động cơ cá nhân – khi nào, hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh phong nhã [vẫn còn có thể] biện minh cho một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài Xưa như Diễm, nhưng nó ám ảnh tôi suốt những năm là một đảng viên CS .
Tập đầu của bộ ba, là Những tên giác đấu, The Gladiators, kể cuộc cách mạng [revolution] của những nô lệ La mã, 73-71 BC, cầm đầu bởi Spartacus, xém một tí là thành công, và cái lý do chính của sự thất bại, là, Spartacus đã thiếu quyết định [lack of determination] – ông từ chối áp dụng luật quay đầu, trở ngược, “law of detours”; luật này đòi hỏi, trên con đường đi tới Không Tưởng, người lãnh đạo phải “không thương hại nhân danh thương hại”, ‘pitiless for the sake of pity’. Nôm na là, ông từ chối xử tử những kẻ ly khai và những tên gây rối, không áp dụng luật khủng bố - và, do từ chối áp dụng luật này khiến cho cuộc cách mạng thất bại.
Trong Bóng đêm giữa ban ngày, tay cựu truởng lão VC Liên Xô Rubashov đi ngược lại, nghĩa là, ông theo đúng luật trở ngược đến tận cùng cay đắng - chỉ để khám phá ra rằng ‘lô gíc không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.’
Hai cuốn, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, và cả hai đều tận cùng bằng tuyệt lộ.
In the next TLS
Jeremy Treglown:
Whoever reads Arthur Koestler now?
Ai còn đọc K. bây giờ?
Có tớ, đây!
*
Raging towards Utopia
Điểm Sách London đọc tiểu sử Koestler của Scammell
*

Em này là tác giả cái tít cuốn sách của VTH: Đêm giữa ban ngày!
Cái tít Đêm giữa Ngọ, như trong cuốn tiểu sử K của Scammell cho biết, K. nghĩ rằng, được trích dẫn từ Samson Agonistes của Milton: “Oh dark, dark, dark, amid the blaze of noon”. Thực sự, Daphne được gợi hứng từ Sách của [Book of] Job: “They meet with darkness in the daytime, and grope in the noonday as in the night” [Job 5:14]
*
K. mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là Xịa. ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!]
Bộ sách vĩ đại Văn Học Miền Nam của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa khác! Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third blackguard, and one third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3 khủng, mát] tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù Pentonville, báo cáo với sếp.





Tribute to Arthur Koestler
From the right to life, to the right to die: an extract from Michael Scammell's biography of Arthur Koestler, one of the most influential figures of the 20th century
William Skidelsky on Arthur Koestler

'I don't believe in humanity, I believe in the individual' (1)
(1)
Tôi không tin vào nhân loại. Tôi tin vào cá nhân.
Câu này tặng cá nhân Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định, nhân Tết Canh Dần, cũng thấy ấm lòng.
Nhân loại Mít, Gấu, tuy không là Koestler, nhưng quả thật là quá chán nó rồi!
Hết tin vào nó rồi!
Cũng sắp đi, chán hay không chán, thì cũng đành thôi.
NQT
*
Arthur Koestler and wife Cynthia Jeffries. Photograph: Peter Williams/Camera Press
Tết nhằm vào Ngày Tình Yêu, kể lại cuộc tình của Arthur Koestler & Cynthia Jeffries cũng có lý đấy chứ!
"Out of my quarrels with the human condition I made my novels; the other books are attempts to analyse that same condition in scientific terms. In my more optimistic moments it seems to me that the two add up to a whole. At any rate, without both media I would feel only half alive".
A. Koestler
Trong khi lầu bầu về phận người mà tôi đẻ ra những cuốn tiểu thuyết, những cuốn khác là toan tính phân tích cũng phận người, bằng thuật ngữ khoa học. Những lúc thú quá, tôi nghĩ cả hai cộng lại thành trọn một. Nói gì thì nói, thiếu một "nửa linh hồn", là Koestler tui thành nửa đời nửa đoạn.
If I were asked to name the most important date in the history and prehistory of the human race, I would answer without hesitation, 6 August 1945. The reason is simple. From the dawn of consciousness until 6 August 1945, man had to live with the prospect of his death as an individual; since the day when the first atomic bomb outshone the sun over Hiroshima, mankind as a whole has had to live with the prospect of its extinction as a species.
We have been taught to accept the transitory-ness of personal existence, while taking the potential immortality of the human race for granted. This belief has ceased to be valid. We have to revise our axioms.
Ngày 6 Tháng Tám 1945 là quan trọng nhất của giống người. Trước đó, nó chết, như là một cá nhân. Kể từ ngày đó, cả nhân loại có nguy cơ bị huỷ diệt, tuyệt chủng.
Koestler
Mô phỏng K., có thể  nói, với mỗi một giống dân, cũng có một ngày quan trọng như thế.
Milosz cho rằng, với Ba Lan của ông, đó là năm 1942.
Năm đó, nước ông trở thành anus mundi. [The cloaca of the world] (1)
Với Việt Nam, theo Gấu, đó là 1975.
Một nhà văn 76 tuổi, chỉ còn chờ hai điều:
Được quên trước khi chết, hay chết trước khi được quên.
A writer aged seventy-six has only two prospects before him:
to be forgotten before he dies, or to die before he is forgotten
Ở đâu ra cái tít Đêm giữa Ngọ, của Koestler?
Từ Milton, nhưng không phải do tác giả chọn, như những dòng sau đây, trong Kẻ Lạ Ở Quảng Trường cho biết:
Chính là khi ở Pentonville mà tôi nhận được bản in thử của Darkness at Noon, và lần đầu tiên biết được cái tít tiếng Anh của cuốn sách - dựa trên một trích dẫn từ Milton, mà Daphne đề nghị, và tôi rất thích. Đúng là một sự trớ trêu, ở trong tình trạng tù đọc bản in thử của một cuốn tiểu thuyết về một người đàn ông ở trong tình trạng tù. Nhưng tôi may mắn hơn, vì ở tù ở Pentonville thì chắc chắn hơn hẳn ở Lubianka [nhà tù nổi tiếng của Liên Xô].
Đêm giữa Ngọ, cái tít đúng là như vậy.
Ngọ, Noon ở đây, là chỉ hiện tượng nhật thực, giữa trưa mà trời đất đen thui.
*
"...O dark, dark, dark, amid the blaze of noon,
Irrecoverably dark, total eclipse
Without all hope of day!"
Nguồn
Những dữ kiện như trên, cho thấy, không dễ gì mà có được cái tít Đêm giữa ban ngày.
Từ đó suy ra, không dễ gì, mà không tin, Ngài VTH cầm nhầm cái tít của Koestler!
*
Khi cuốn sách của VTH xb ở hải ngoại, và nó nổi lên như cồn, Gấu đã nghi rồi, nhưng thấy cũng chẳng đáng khui ra, nhưng bi giờ, hàng nhái lại trở nên bảnh hơn đồ zin, đồ xịn, thì đành phải lên tiếng. Chán thật! NQT
The Urge to Self-Destruction
Homicide committed for personal reasons is a statistical rarity in all cultures, including our own. Homicide for unselfish reasons, at the risk of one's own life, is the dominant phenomenon in history. Even the members of the Mafia feel compelled to rationalize their motives into an ideology, the Cosa Nostra, 'our cause'.
Làm thịt người khác vì những lý do cá nhân thì hơi bị ít, trong mọi văn hóa. Làm thịt người khác do những lý do không có tính vị kỷ, thì nói mẹ ra, vì nghĩa cả, vì đường ra trận mùa này đẹp lắm, vì đốt sạch Trường Sơn cũng phải đốt, thì cái mạng nhỏ này nhằm nhò gì, cái đó mới bỏ mẹ!
Ngay cả những thành viên của Mafia cũng có nghĩa cả của chúng, nữa là Bắc Bộ Phủ!
*
Rubashov, nhân vật chính trong Đêm giữa ban ngày, Kẻ Tử Đạo: Đạo Cộng Sản, là tổng hợp của rất nhiều nhân vật có thực ở ngoài đời. Cái xen ông bị bắt, mở ra truyện, Koestler dựa vào kinh nghiệm của chính mình, khi bị bắt trong Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Tuy nhiên, ít ai ngờ, nhân vật nữ đồng chí trong truyện, người tình của R., có thực ở ngoài đời, và là do nhà nước Liên Xô cung cấp cho ông, trong những ngày ông tham quan cái nôi của Cách Mạng vô sản. Ông làm xong công tác, trả lại cho KBG thủ tiêu.
Điều trên, Gấu đọc trong một thư độc giả, trên tờ Người Nữu Ước, vào lúc cuốn tiểu sử của ông vừa ra lò, trong đó có những chi tiết về sức mạnh giống đực của ông, gặp gái là làm thịt, bất kể là gái nào! Độc giả nói trên, cho biết tên cô gái, và trường hợp bị thủ tiêu. Milosz cũng nói sơ sơ về tài năng của K
Lạ một điều, ông được gái rất mê, và có những cuộc tình thật lãng mạn. Khi ông bị bệnh, và quyết định tự kết liễu đời mình, bà vợ của ông đã tự nguyện chết theo ông. Kẻ lạ ở Quảng trường, Stranger on the Square kể cuộc tình, và cuộc chết của họ.
Gấu đã từng nói dai nói dài nói mãi về cái lần vô thư viện tình cờ cầm cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng, và từ đó, rắp tâm làm trang Tin Văn, nhưng nếu không có sự giúp đỡ của PCL, chủ biên tờ VHNT trên lưới, thì cũng thua.
PCL lúc đầu còn mất công đọc bài, đăng bài sau mở hẳn một account cho Gấu tự tung tự tác, cho đến lúc PCL gặp khó khăn về vấn đề server, thì bèn tách ra hoàn toàn.
Nay nhân mấy đấng trên Hội Luận nhớ về VHNT, nhưng thực chất, nhớ về chính họ, nhớ cái thuở còn hàn vi, chưa là đại văn hào, cũng một kiểu áo thụng vái nhau, Gấu bèn nhớ về nhớ về nhớ về.....
Cũng là một cách hội luận với Hồ Nam, tức là với trong nước! (1)
(1)
Gấu vs Hồ Nam
*
Cha đẻ của Hội Luận về Tự Do Văn Hoá, Congrès [hội nghị, hội luận, hội loạn thì cũng rứa] pour la Liberté de la Culture, là mấy anh Xịa, chứ không phải VC.
Dưới cái entry như trên Milosz bốc phét: Tớ rất rành vụ này, và dư sức viết cả một cuốn sách về nó, nhưng tớ không "mặn". Nói cho cùng, có cả một đống rồi, được gọi bằng cái tên "âm mưu tự do" [the 'libéral conspiracy'].

Đây là một thời kỳ quan trọng trong Chiến Tranh Lạnh. Chuyện là như vầy: Thành phố Nữu Ước sặc mùi Mác xít từ trước chiến tranh, và hai băng đảng Mác xịt và Trột kịt  làm thịt nhau hàng ngày. Khi chiến tranh bùng ra, đám OSS, tiền thân của CIA, bèn mướn một số nhà văn của phong trào NCL, Non-Communist Left.
OSS hiểu sự quan trọng của ý thức hệ, nhất là ở Âu Châu. Khi OSS trở thành CIA, cũng là lúc họ có phương tiện hành động. Nhưng người đưa ý nghĩ, tổ chức một hội luận Chống Cộng tại Tây Đức vào năm 1950, là Koestler. Ông là viên chức Cộng Sản vào thập niên 1930, tại chuồng ngựa nổi tiếng Willi Munzenberg. Koestler làm việc cho trung tâm của Munzenberg. Ở Paris, sau khi cắt bào đoạn nghĩa với Đảng, ông bèn tơ tưởng chuyện tạo ra một trung tâm tương tự, nhưng, thay vì ý thức hệ Cộng Sản, thì lèm bèm về ý thức hệ Tự Do!
*
Trong lý lịch trích ngang, do chính ông viết, trong Kẻ lạ ở quảng trường, ông giải thích tại sao vô Đảng:
1931. Hitler ante portas. (1) Gia nhập Đảng Cộng Sản Đức, như là một giải pháp ngoài mặt, đối với Luật Nazi.
1932-33. Du lịch Liên Xô, Caucasus và Trung Á, do Agitprop Komintern bảo trợ, để viết về Kế hoạch 5 Năm.
(1) Before the gates: Giống như những binh đoàn VC ở bên ngoài Sài Gòn, và viễn tượng Biển Máu... Đại khái như vậy.
*
Thành thử những hội luận hội liệc, những WC hay WJC gì gì, nói cho cùng, thì cũng vẫn Mẽo phịa ra, y như hồi xửa hồi xưa thôi.
Gấu nhắc lại Xịa, chứ không phải VC.
*

Nhân đây, nói chuyện Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến.
Khi lấy tiền của Mẽo để viết nó, chắc chắn VP còn nhớ trong đầu, cái vụ Mai Thảo bị Nguyên Sa tố lấy tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo. Ông không muốn mang tiếng, và vờ đi, và thay vào đó, là lời cám ơn “Uỷ ban Nghiên cứu Khoa học, Xã hội”, nghĩa là thay vì để tên thực, bằng tiếng Anh của cơ quan cung cấp tiền, ông dịch cái tên tiếng Anh ra tiếng Việt.
Nên nhớ, một cái tên riêng không thể nào dịch được, và không thể sử dụng bản dịch thay thế bản chính được.
Gấu đã từng kể chuyện, hồi học Đệ Thất trường Nguyễn Trãi Hà Nội, có ông thầy dậy tiếng Anh tên là Xuân, và một bữa, có anh học trò hí hoáy vẽ lên bảng một bức hí hoạ, và ghi là Mr. Spring. Đúng lúc đó, Thầy bước vô, và định phạt anh học trò, nhưng anh này láu lỉnh cãi:
-Spring không phải là tên Thầy.
Ông thầy gật gù, đúng!
Y chang trường hợp của Võ Phiến.
Gấu, ra ngoài này, lần đầu được một người bạn đưa cho đọc, tự hỏi, ở đâu ra cái Uỷ ban đáng quí này. Liệu nó có giúp được gì một thằng cha Gấu, với cả lố tác phẩm ở trong đầu?
Những chuyện này không thể không viết ra. Gấu đâu có thù hằn gì Võ Phiến, hay Nguyễn Mộng Giác, [sử dụng tên HPNT cho một  nhân vật của ông] hay bất cứ một ông bạn quí. Gấu đã tính vờ hết, nhưng, đúng như Gấu đã từng kể, nhiều lần, về cái bữa nằm mơ nhìn thấy xác Gấu nổi lều bều trên dòng… Bến Hải, tỉnh dậy, bèn viết ra tất cả, chẳng chừa một chuyện gì, để thanh thản mà đi!
Dù thế nào thì thế nào, Gấu cũng vẫn là một tên Yankee mũi tẹt. (1)
Giả như Gấu không bỏ chạy vào năm 1954, thì cũng là một trong những tên ăn cướp, và miệng lúc nào cũng có mùi vị chiến lợi phẩm, hẳn thế!
Viết là viết trong cái thú đau thương đó, đâu thù hằn chi ai?
Cái vụ Dọn, là cũng trong tinh thần đó, nhưng như chàng dũng sĩ hạ san trừ quỉ của Nhất Hạnh, đúng vào lúc Gấu sắp biến thành quỉ thì bạn bè hét lên, này coi chừng, thế là tỉnh dậy, may quá!
(1)
As a Hungarian Jew and native German speaker who wrote in English, he isn't a natural part of anybody's literary canon. There is an Orwell Society at Eton, but I doubt very much that there is a Koestler Society at any school in Budapest.
Yesterday's Man?
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammell

*
Nhập nước Pháp, như là một kẻ xa lạ chẳng ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày, cuốn sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa số, ông chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc giả Tây Phương nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài CS. Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu châu của Berlin, sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,” ông viết trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có thể bị tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự do Văn hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống lại tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết. Tranh cãi sau đó liên quan tới hội nghị, là, liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp. Scammell, tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington, bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét, như nhìn rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền trợ cấp của Mẽo, trao cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia, có biết không? Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không phải lúc thoạt đầu, mà sau đó, chắc là do MT xì ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS tố nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và luôn cả ở MT, có thể là do ảnh hưởng của ông đối với đám viết lách liền sau ông, là HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Mai Thảo không đọc sách, nếu có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là sự thực. Ông rành tiếng Tây, nhưng để đọc được đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ giỏi tiếng Tây. Gấu đã từng có kinh nghiệm này rồi, với ông anh Hiếu Chân. Một bữa, ông phán, mày đưa tao thử đọc cuốn La Nausée coi. Đọc chưa hết mấy trang đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao không hiểu được, tại sao tụi mày lại mê cuốn đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích Brahms? Đăng từng kỳ trên tờ Điện Ảnh, khi làm tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông đã từng nói ra, khi còn Sài Gòn, và sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG cho biết, khi đem bài tạp ghi của Gấu viết về ông vô cho ông đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người gật gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành một chương cho Hội nghị Tự Do Văn Hóa, và tiền tài trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện tiền bạc, chúng ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô thư ký Cynthia Jefferies. Khi họ quyết định cùng chết, K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55, hoàn toàn khỏe mạnh. Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed in the last period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào khúc chót của cuộc đời  - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K" phán, trên đời này, chỉ có tình là đáng kể, và tình thật đẹp là tình thật sến, theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở nơi cổng trường Đại học Khoa học Sài Gòn mà chẳng sến ơi là sến sao?
Bữa đó, Trời cũng khóc, mà khóc cũng thật là sến!
[Vậy mà cũng vưỡn chưa được coi cuốn phim của TNM.]
NQT
Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
Sơ Dạ Hương
Hết gì đâu mà hết!
Đến già vẫn còn chết [vì nó]!
*
… a true romantic story of total devotion, absolute loyalty, unconditional surrender and true love.
George Mikes, Sunday Telegraph
Quả đúng là như thế, nhưng cái tay viết bài Intro cho cuốn Kẻ lạ ở Quảng trường, nhận xét, tinh tế hơn:
Cuốn sách này, trong cõi thâm sâu của nó, in essence, là một chuyện tình, nhưng “đếch” giống bất cứ một chuyện tình nào mà tôi đã từng đọc. Có lẽ, nên gọi nó, đúng hơn, câu chuyện về nỗi ám ảnh [the story of an obsession].
Vào Tháng Bẩy, 1949, Cynthia Jefferies, một cô gái xinh đẹp nhưng đau thương sầu muộn trong nỗi e thẹn và cũng khá ngốc nga ngốc nghếch, lúng túng vụng về, một cô gái từ Nam Phi, trả lời một mẩu tin cần người. Một nhà văn cần một cô thư ký tạm, temporary. Nhà văn là Arthur Koestler. Vào lúc đó, ông sống tại một căn nhà ở gần Fontainbleau [chỗ Bác Hồ đã từng ngụ ký hiệp định với Tây?], với Mamaine Paget, một trong hai cô gái xinh đẹp sinh đôi, sau đó ông lấy làm vợ, sau khi cuộc ly dị với bà trước xong xuôi. Cynthia thì sống ở Paris.
Cô có được cái job thư ký, và trong sáu năm tiếp theo, lúc ở Pháp, lúc Anh, lúc Mẽo. Trong thời gian này, cô có chồng, và rồi ly dị. Vào năm 1955, cô từ bỏ việc làm của cô ở New York, để trả lời một cái message của Koestler, và trở về Lơndon làm thư ký toàn thời gian. Vào giai đoạn nào họ trở thành hai người yêu nhau, độc giả cuốn sách hãy tự quyết định và rút ra lời kết luận. Nhưng chẳng nghi ngờ chi, Cynthia yêu Arthur hầu như ngay lần đầu nhìn thấy ông, trong cái cuộc phỏng vấn nhận việc, trong cái dáng điệu ngớ nga ngớ ngẩn của cô, tại Paris.
Họ chia sẻ cuộc đời cho nhau, vào năm 1955 đó, và vào năm 1965, họ làm lễ kết hôn. Vào Tháng Ba 1983, hai cái xác của họ được kiếm thấy, trong phòng khách của căn nhà của họ ở Montpelier Square, [căn nhà mà chúng ta thấy ở bià cuốn sách]. Koestler ngồi trên ghế bành, ly rượu brandy vẫn còn trong tay. Cynthia nằm sô pha, một ly whisky trên bàn kế bên. Ly nào cũng chứa một liều cực mạnh thuốc ngủ barbiturates.
Koestler lúc đó 77 tuổi. Trong bẩy năm cuối cùng, ông đau khổ với chứng bịnh Parkinson, lúc đầu còn kiềm chế được, nhưng ngày một tệ hại. Bốn năm chót, còn thêm bịnh leukaemia, vào thời kỳ chót. Cynthia, 55, hoàn toàn mạnh khoẻ.
Bên cạnh cái note của K, là những dòng của Cynthia: Tôi đã tính tính sổ làm thư ký cho K - một câu chuyện bắt đầu khi đường đời của chúng tôi đụng nhau vào năm 1949. Tuy nhiên, tôi không thể sống không có Arthur, mặc dù cũng một số vốn liếng riêng.
Tôi [Harold Harris] nghĩ, Cynthia quyết định cùng đi, khi nhận ra Arthur hết còn chịu đựng nổi gánh nặng cuộc đời.
Nguồn
Koestler là một ký giả thiên tài, và về mặt này, ông là chàng ngự lâm quân thứ tư, Đác Ta Nhan. Ba ông kia, Albert Camus, Whittaker Chambers and George Orwell, đều là những đấng bạn quí của ông!
Nếu tầm uyên bác của K. rộng, thì tầm nghệ sĩ, hẹp, so với mấy ông kia. Quái, là, ông lại được cả thế giới biết đến như là “Koestler, nhà văn”, với độc một cuốn tiểu thuyết Bóng đêm giữa ban ngày!
Nhà phê bình Leslie Fiedler đã có lần nhận xét, cuốn Hứa và Làm, Promise and Fulfillment, của K. viết về Israel, nên được đưa vào thư viện dưới chữ cái K, tức viết về Koestler, thay vì chữ I, tức Israel.
Ý của ông là, sống hay viết, với K, hoàn toàn bị dẫn dắt bởi cái tôi to tổ bố của ông, thay vì bởi nguyên tắc. Đề tài của ông là chính ông. Tuy nhiên, vào thời điểm mà bóng ma của chủ nghĩa CS Liên Xô còn…  vô hình hơn cả vô hình, với… toàn thể nhân loại, nhất là giới trí thức, thì ông, một kẻ có vẻ như đếch có lương tâm, thấy gái là quất [ông t
ính quất cả bà vợ triết gia Bertrand Russell, Bertrand Russell's wife claimed Koestler tried to rape her, too!] đã đánh thức lương tâm của Tây Phương! (1)
(1) Nguồn
"The final rout of the Soviet imperium in 1989-1990 began with the publication of Darkness at Noon [1940]"
David Cesarani: Arthur Koestler: The homeless mind, Một cái đầu không nhà.
1940 mà đã nhìn ra hiệp chót của con quái vật CS, xẩy ra vào thời kỳ 1989-1990, "the final rout in 1989-1990", thì đúng là đòn "cách sơn đả ngưu" của Kim Dung tiên sinh!
Trong những bài điểm cuốn tiểu sử K của Scammell, bài của Anne Applebaum thật tuyệt. Bà là tác giả cuốn Gulag một lịch sử, trên TV đã từng giới thiệu. Scammell còn là tác giả một cuốn tiểu sử Solz. Nghĩa là, cả hai rất rành về Liên Xô, về CS, và những tác giả như Koestler.

Volume 57, Number 2 · February 11, 2010
Yesterday's Man?
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammell
Random House, 689 pp., $35.00
He began his education in the twilight of the Austro-Hungarian Empire, at an experimental kindergarten in Budapest. His mother was briefly a patient of Sigmund Freud's. In interwar Vienna he wound up as the personal secretary of Vladimir Jabotinsky, one of the early leaders of the Zionist movement. Traveling in Soviet Turkmenistan as a young and ardent Communist sympathizer, he ran into Langston Hughes. Fighting in the Spanish civil war, he met W.H. Auden at a "crazy party" in Valencia, before winding up in one of Franco's prisons. In Weimar Berlin he fell into the circle of the infamous Comintern agent Willi Münzenberg, through whom he met the leading German Communists of the era: Johannes Becher, Hanns Eisler, Bertolt Brecht. Afraid of being caught by the Gestapo while fleeing France, he borrowed suicide pills from Walter Benjamin. He took them several weeks later when it seemed he would be unable to get out of Lisbon, but didn't die (though Benjamin, denied passage into Spain at the French border, took them and did).
Along the way he had lunch with Thomas Mann, got drunk with Dylan Thomas, made friends with George Orwell, flirted with Mary McCarthy, and lived in Cyril Connolly's London flat. In 1940, Koestler was released from a French detention camp, partly thanks to the intervention of Harold Nicholson and Noël Coward. In the 1950s, he helped found the Congress for Cultural Freedom, together with Mel Lasky and Sidney Hook. In the 1960s, he took LSD with Timothy Leary. In the 1970s, he was still giving lectures that impressed, among others, the young Salman Rushdie.
It is difficult, in other words, to think of a single important twentieth-century intellectual who did not cross paths with Arthur Koestler, or a single important twentieth-century intellectual movement that Koestler did not either join or oppose. From progressive education and Freudian psychoanalysis through Zionism, communism, and existentialism to psychedelic drugs, parapsychology, and euthanasia, Koestler was fascinated by every philosophical fad, serious and unserious, political and apolitical, of his era.
Nor were these shallow passions. His belief in communism led him to fight in Spain and travel in the USSR. His Zionism led him to a kibbutz near Haifa. At different times, he advocated the use of violence, whether to bring about a Communist utopia or to create the state of Israel. Even when he turned against his previous causes (and against his previous friends who still believed in them) he did so with real fervor. He is, after all, best known as an anti-Communist, not as a Communist, largely because of his best and most influential book, Darkness at Noon, a fictional account of the interrogation of a leading member of an unnamed Communist party. His involvement with Revisionist Zionism is also probably less well known than The Thirteenth Tribe, a book that argues that modern European Jews are descended from the Central Asian Khazars, and not from the Jews who lived in the Palestine of antiquity—a thesis which, whatever its merits, is hugely popular among the enemies of Zionism. Even so, when in the grip of one particular mania he was incapable of seeing the counterarguments: in the face of all rational argument, he even stuck to his late passion for telepathy and ESP—so much so that he left most of his estate to fund a professorial chair in parapsychology.
Koestler was equally likely to succumb to extreme passions in his personal life—notoriously so. He was variously in thrall to Jabotinsky, to his analyst, and to an extraordinary series of women. He was also consumed by violent hatreds—starting with his mother—and pursued many vendettas, against fellow writers (he was fiercely jealous of Hemingway, loathed Bertrand Russell) as well as romantic rivals (including Edmund Wilson) and ex-husbands. Eventually, he offended almost everyone he knew, but only after getting drunk with them first.
Even his entertainments often went to extremes, as this superb new biography well illustrates. Far and away my favorite Koestler moment—in a book full of amazing Koestler moments—is Michael Scammell's description of an evening in 1946, during which Koestler and his then girlfriend (and later wife) Mamaine Paget went out drinking with Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus, and Camus's wife, Francine. The festivities began with dinner in an Algerian bistro, continued in a dance hall "lit with pink and blue neon lights," and then, at Koestler's insistence, progressed to Schéhérazade, a nightclub filled with "violinists wandering about playing soulful Russian music into the guests' ears." There were arguments about communism, and about friendship. "If only it were possible to tell the truth," exclaimed Camus at one point.
At about 4 AM, Koestler was pried away from the nightclub, and the group "repaired to Chez Victor in Les Halles for onion soup, oysters, and white wine." Roaring drunk, Koestler threw a crust of bread across the table and hit Mamaine in the eye; Sartre, equally drunk, poured salt and pepper into napkins that he put in his pocket and said he had to deliver a lecture at the Sorbonne in the morning on "The Responsibility of the Writer." Camus said, "Well, you'll have to speak without me" ("Alors, tu parleras sans moi "). Sartre said he wished he "could speak without me too" ("Je voudrais bien pouvoir parler sans moi ") and collapsed into giggles.
Scammell, whose fine-tuned sense of irony serves him well here, describes that evening's conclusion:
They broke up at dawn. Alone with Sartre, Beauvoir sobbed "over the tragedy of the human condition," then leaned on the parapet of a bridge over the Seine and said: "I don't see why we don't throw ourselves in the river." "All right," agreed Sartre, "let's throw ourselves in," and began to cry himself. In another part of the city, Koestler too burst into tears as he stared into the Seine. Then he disappeared into a pissoir and shouted to Mamaine, "Don't leave me, I love you, I'll always love you." They got home at about eight o'clock and slept all day, except for Sartre, who stuffed himself with pep pills and dragged himself off to the Sorbonne to give his lecture. It wasn't possible even for an existentialist to address the students "sans moi."
Leaving aside its entertainment value, that particular passage raises some interesting questions. We are not so many years removed from 1946, in the grand scheme of things. Yet much has changed since then, starting with the rules of acceptable public behavior. It is simply not possible to imagine any three prominent contemporary American public intellectuals—say, Malcolm Gladwell, Niall Ferguson, and David Brooks—indulging in a night on the town such as that one, let alone weeping over the human condition and threatening to throw themselves into the Seine at the end of it. Hollywood starlets and pseudo-celebrities behave that way in our culture, not serious people.
More to the point, Koestler was, in our contemporary definition of these things, an alcoholic, as were many of the people around him. He was also, in our contemporary definition of these things, a sexual predator. He was blatantly unfaithful to all of his three wives, as well as to the other women he lived with. He flirted outrageously, and sometimes aggressively, with other men's wives too. Just a few days before the evening at Schéhérazade and Chez Victor, Koestler actually went to bed with Simone de Beauvoir.
David Cesarani, a previous biographer of Koestler, has even described him as a "serial rapist."[1] Scammell disputes that accusation at some length. In the end, only one woman—Jill Craigie, the wife of the British Labour leader Michael Foot—ever actually accused him of rape, and there are some ambiguities about her story. She made the charge when she was in her eighties, and Koestler was dead. Others, including her husband, remembered the incident differently. Scammell notes these discrepancies, and convincingly dismisses some of Cesarani's other accusations as unfounded. He also notes that the charge has nevertheless deeply tarnished Koestler's posthumous reputation. This is not at all surprising. Even if "rape" is not the right word, some of the sexual behavior Scammell describes would, in the contemporary world, be considered absolutely beyond the pale—and probably illegal as well.
Nor are the rules of public behavior the only things that have changed. The professionalization of literary and intellectual life was underway even in Koestler's lifetime, and he chafed against it. He disliked the lecture circuit and never had any real interest in teaching. He had very little time for universities in general. He also refused to be categorized as a simple "novelist" or "journalist," and in the latter part of his career wrote books about science, philosophy, history, and psychology. He understood the term "intellectual" in a much broader sense than we do today, and felt comfortable ranging over a huge number of fields in which he had no professional expertise whatsoever. This approach to the life of the mind, perfectly acceptable in the Vienna of Koestler's youth, simply looks amateurish from the perspective of the present. As a result, many of his later books have slipped off the radar and are long out of print. Others, notably The Thirteenth Tribe, are considered curiosities that appeal to conspiracy theorists, not scholars.
The most important change, however, is political. To put it bluntly, the deadly struggle between communism and anticommunism—the central moral issue of Koestler's lifetime—not only no longer exists, it no longer evokes much interest. Thanks to the opening of archives, quite a few Western historians are, it is true, still investigating the history of the Soviet Union and of the international Communist movement. But outside of a few university comparative literature departments, Soviet-style Marxism itself is not a living political idea anywhere in the West. In the wake of the Lehman Brothers crash in the autumn of 2008, there were calls for a government bailout of the auto industry. No one—no major newspaper columnists, no leading politicians, no popular intellectual magazines—called upon the vanguard of the proletariat to rise up and overthrow the bourgeois capitalist exploiters. In the Europe of 1948, somebody would have done so.
What that means, though, is that the entire political context in which Koest- ler, Sartre, and Camus functioned—and in which Koestler's most important works were written—is now gone. In the years following their debauched evening in Paris, Sartre and Koestler actually stopped speaking to each other. Partly this was personal: Sartre tried to seduce Mamaine, Koestler did seduce Beauvoir, and there were bad feelings all around. But the more important reason was political. After Darkness at Noon became a best seller in France, Sartre distanced himself from its author, on the grounds that Koestler, by publicizing the crimes of the repressive Soviet regime, was putting himself at the service of American imperialism and blocking the progress of the left. It was not that Sartre did not know about the horrors Koestler described—the prisons, the torture, and the labor camps of the Soviet Union—it was that he did not find them politically convenient. They gave too much encouragement to the bourgeoisie.
What was true of Sartre was true of many, many others, and not only those on the far left. In his superb recent account of the publication of Darkness at Noon and its impact on the Western public, Princeton literary scholar John Fleming writes that any appreciation of the heated international debate about the book "requires the reconstruction of some modes of thought nearly vanished from the earth."[2] Concepts like "belief" and "faith" do not figure very often anymore in contemporary Western politics—and even when they do (as perhaps they did in the 2008 American presidential election) they are almost always a preface to disillusion. In the 1930s and 1940s, by contrast, belief and faith mattered a great deal, and true Communists and fellow travelers did not become disillusioned. They simply altered their analysis of the current situation, put their trust in the ultimate wisdom of the Party, and progressed onward toward the construction of utopia.
Koestler had an almost unique ability to shake such people to their foundations. Unlike right-wing and even liberal critics of communism, he had a certain status on the cultural left. He was a victim of fascism, an ex-refugee, a familiar face in Comintern circles, a former combatant in the Spanish civil war. His devastating critique of the Soviet Union therefore had to be taken seriously by his former comrades. To some of them, he was a heretic, a defector, a traitor to the cause. To others, he became a hero.
As for Darkness at Noon, it was not just a popular book, it was one of the primary reasons that the Communist Party never came to power in France, a real possibility at the time. Hard though it is for us now to imagine, it was not at all obvious, in 1946 or even 1956, that Western Europe and the United States would remain solidly united for fifty years. Nor did it seem at all inevitable that the West would win the cold war. Along with Orwell's Animal Farm and Victor Kravchenko's I Chose Freedom, Darkness at Noon was one of the books that helped turn the tide on the intellectual front line, and ensured that the West prevailed. But unless one understands all of that, the political and literary achievements of Arthur Koestler are, to a contemporary reader, easily outweighed by the extravagance of his sexual and personal transgressions. 
For all of those reasons, Michael Scammell cannot have found this an easy book to write, and indeed it took him a very long time to write it. Scammell is the author of the definitive and deservedly celebrated biography of Alexander Solzhenitsyn, published in 1984.[3] A few years after it was finished, he set out to follow up with a biography of Koestler. This turned out to be a major feat of endurance scholarship. By his own admission, he "followed [Koestler] to fourteen countries on three continents," interviewed hundreds of people, and read through many boxes of archives. This effort has certainly paid off. 
Because he has looked at all possible forms of documentation, he is able to reconstruct complicated scenes from Koestler's life with real historical and literary flair. More than once, he tells us what is happening from several perspectives: what Koestler said, what Koestler's then girlfriend said, what another person at the party remembered twenty years later, and how another writer depicted the event in his diaries. Scammell is also a scholar of Russian literature, and this shows too. Although this is a long book, it feels compact. None of the carefully selected details or quotations seems extraneous. The main characters are shown from every angle, with all of their faults and virtues. Koestler himself seems at times so alive he might leap off the page.
 And yet the passage of time is a problem, if not for Scammell then for his readers. An elderly Central European acquaintance recently told me that in his youth, nothing was considered so tacky and outdated as art nouveau furniture. Something similar has happened to Koestler. At the moment, he still seems like yesterday's man, unfashionable and obsolete. His better qualities might eventually be visible to a younger generation, just as an elegantly restored art nouveau table now appeals to collectors and connoisseurs. But a good deal of historical and literary work will have to be done, and more time may have to pass, before that is possible.
In the case of Koestler, a number of other things are also working against his posthumous reputation. One of these is the nature of his death, a double suicide, carried out in tandem with his wife. Koestler himself was seventy-seven years old and dying of leukemia. But his wife, Cynthia, was fifty-five and healthy. Unlike his previous wives, she was neither beautiful nor accomplished. She had been his secretary—in effect his servant—before they were married. Above all he admired her ability to take dictation. Though it seems that in the last part of their lives the power balance between them evened out, and though it is very clear that she was in full possession of her faculties at the time—she even had the presence of mind to cancel the newspapers—it is impossible to escape the suspicion that somehow, in an effort to achieve a spectacular grand finale, he bullied her into killing herself alongside him.
Cynthia's death was not only distasteful to the public, it left Koestler's literary estate without an obvious manager. Having persuaded numerous women to have abortions, he had no children, with the possible exception of one unacknowledged daughter (who had nothing to do with him, or he with her). By the time of his death he had fallen out with those of his contemporaries who were still alive. Most of his later books were financially and critically unsuccessful. His final legacy, that gift of money for the study of parapsychology, didn't exactly enhance his reputation either. Nor did he have, as Orwell did, an obvious national audience. As a Hungarian Jew and native German speaker who wrote in English, he isn't a natural part of anybody's literary canon. There is an Orwell Society at Eton, but I doubt very much that there is a Koestler Society at any school in Budapest. 
As a result, Koestler's reputation has waned dramatically since his death. Although Darkness at Noon remains high on lists of "great books of the twentieth century," his journalism, which in its time was at least as significant as that of Orwell, is hardly known at all. Before coming to write this review, I had not read Scum of the Earth, Koestler's autobiographical and journalistic account of the fate of refugees in wartime France. I can't remember anybody ever telling me to read it either. But because Scammell praises it, and because Scum of the Earth is still in print, I bought a copy. It was a revelation: astonishingly fresh, clear, and relevant, not only explaining the rapid collapse of France in 1940, but also illuminating some of the difficulties that France and other European countries still have in absorbing "foreigners" even today. After I'd finished, I lent the book to somebody else. And this, it occurred to me, is how a literary reputation revives.
Scammell has clearly set out to make this happen, and in that sense, this is more than a biography. It is an argument in defense of Koestler's literary oeuvre, if not entirely in defense of Koestler himself. Scammell does not make excuses for his subject, and does not gloss over his many faults. But by recreating the historical setting in which Koestler lived and worked, by fitting him squarely in the middle of the great debates of the twentieth century, he makes his achievements much clearer to a contemporary reader—and thus there is a chance, at least, that he will succeed.
Notes
[1]David Cesarani, Arthur Koestler: The Homeless Mind (London: Heineman, 1998). 
[2]John V. Fleming, The Anti-Communist Manifestos ( Norton, 2009), p. 65. 
[3]Michael Scammell, Solzhenitsyn: A Biography (Norton, 1984). 
Volume 57, Number 4 · March 11, 2010
Koestler Comes Back
By Thomas Baroth
In response to Yesterday's Man? (February 11, 2010) 
To the Editors: 
Anne Applebaum writes in her review ["Yesterday's Man," NYR, February 11] that she doubts that there is a "Koestler Society in any school in Budapest." This may or may not be true; nevertheless, on October 21, 2009, a statue of Koestler was unveiled by the mayor of Budapest in a public square in the city's 6th district. It does not appear that he has been entirely forgotten in the place of his birth. 
Thomas Baroth
Media, Pennsylvania
Tribute to Koestler
Trong những bài điểm cuốn tiểu sử K của Scammell, bài của Anne Applebaum thật tuyệt. Bà là tác giả cuốn Gulag một lịch sử, trên TV đã từng giới thiệu. Scammell còn là tác giả một cuốn tiểu sử Solz. Nghĩa là, cả hai rất rành về Liên Xô, về CS, và những tác giả như Koestler.
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael
Scammel
Random House, 689 pp., $35.00
By Thomas Baroth
In response to Yesterday's Man? (February 11, 2010)
To the Editors:
Anne Applebaum writes in her review ["Yesterday's Man," NYR, February 11] that she doubts that there is a "Koestler Society in any school in Budapest." This may or may not be true; nevertheless, on October 21, 2009, a statue of Koestler was unveiled by the mayor of Budapest in a public square in the city's 6th district. It does not appear that he has been entirely forgotten in the place of his birth.
Thomas Baroth
Media, Pennsylvania
*
Trong cuốn viết về VP, NHQ cho biết, [tóm tắt ở đây] sau CM Tháng Tám, VP theo VC, và do làm việc với một lũ cán bộ cuồng tín càng ngày ông càng chán ngán, cuối cùng thành “phản động” hẳn.
Cũng giai đoạn này, trong Bếp Lửa, của TTT, một nhân vật của ông phán:
"Tôi nghĩ rằng cho đến bây giờ không thể đi khác hơn được. Nó còn đúng. Mình còn phải nhắm mắt nhận lấy thân phận của giai cấp mình.”
Nó - Đại muốn nói về chủ nghĩa cộng sản. Tôi cầm lên cuốn sách của Đại để sang bên và trông vào tấm hình. Tôi nói:
“Tôi cũng nghĩ như thế nhưng tôi lại muốn nghĩ thêm chút nữa. Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp mình, tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai cấp vô sản”
“Làm thế nào được khi đế quốc còn đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng thứ ba.”
“Tôi cũng không tin.”
Nhưng với Koestler, qua Applebaum, chúng ta có một cái nhìn rộng hơn, về thời kỳ này.
Thay đổi quan trọng nhất, tuy nhiên, là về chính trị. Nói rõ ra, cuộc chiến đấu sinh tử, chết người, giữa cộng sản và chống cộng - giải pháp đạo đức trung tâm suốt cuộc đời của K – qua rồi, và không chỉ qua rồi, mà còn chẳng ai thèm để ý, quan tâm tới nữa [Vào cái lúc mới lớn, đây là điều Gấu quan tâm khi đọc VP, cùng lúc đọc K, đọc Lukacs, thí dụ, và băn khoăn tự hỏi.... Thành thử, khi viết về VP, là cũng còn viết về thời của ông, của những con người như ông, qua những nhân vật của ông, của TTT, của…, của… thổi VP không thôi, là không đủ!]. Nhờ cái sự mở ra kho hồ sơ cũ, một số sử gia Tây phương vẫn tiếp tục điều tra, truy tìm về lịch sử Xô Viết, và phong trào CS quốc tế… Điều muốn nói ở đây là, toàn bộ nội dung chính trị qua đó Koestler, Sartre và Camus làm việc [function], và qua đó, K viết những tác phẩm quan trọng nhất của ông, thì đều đã qua rồi. Những năm tiếp theo sau những đêm sa đọa trác táng của họ ở Paris, Sartre và Koestler sau cùng hết còn nói chuyện với nhau, một phần là do vấn đề cá nhân: Sartre cố dụ dỗ Mamaine, Koestler tán tỉnh Beauvoir, có những điều chẳng ra gì giữa họ, tuy nhiên, lý do quan trọng nhất, vẫn là chính trị. Sau khi Bóng đêm giữa ban ngày trở thành best-seller ở Pháp, Sartre dãn ra khỏi tác giả cuốn sách, ra ý, Koetsler, do tố cáo, chỉ trích những tội ác của chế độ Xô Viết, đã tự biến mình thành một thứ đồ chơi [mượn chữ của VP] của chủ nghĩa đế quốc, và ngăn chặn sự tiến bộ của tả phái.
Không phải Sartre không biết những điều ghê rợn mà K mô tả - nhà tù, tra tấn, trại cuỡng bức lao động cải tạo ở Liên Xô – nhưng ông ta cho rằng, không thích hợp khi tố cáo những chuyện như thế, vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, về mặt chính trị. Làm như thế là nối giáo cho giặc, tức giai cấp trưởng giả.
Bây giờ đọc lại, Gấu hiểu vì sao Gấu cứ đinh ninh là chưa từng viết về VP.
Gấu “quên” VP, sau khi đọc những tác giả như Koestler, Lukacs, đối diện với cuộc chiến đám Gấu sắp sửa bước vô, có những thằng trong đám, đã lên rừng, đã nằm vùng, như HPNT, như Đào Hiếu….
Và cái bài viết về VP, đăng ở một phụ trang VHNT của tờ nhật báo Tiền Tuyến, thì làm sao nhớ?
Gấu không hề biết sau đó nó lại được ông bạn quí của Gấu lôi ra khỏi sọt rác, để mà đăng trên Văn!
Gấu không hề giữ, bất cứ một bài viết nào viết trước 1975, đừng nói một bài viết được viết ra để trám một lỗ hổng cho một trang nhật báo.
Khi Gấu xin lỗi NHQ, là xin lỗi về cái chuyện quên một bài viết vứt vô thùng rác, chứ đâu có xin lỗi cái chuyện ông ta muốn lôi đời tư của Gấu ra để mà xỉ vả?

Steiner, trong ai điếu “La Morte d’Arthur”, viết:
Đêm giữa Ngọ của Koestler là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển của thế kỷ. Nó giáo dục những thế hệ về những ghê rợn của chúng, it educated generations to theirs terrors. Di chúc Tây Ban Nha, The Sapnish Testament (còn biết dưới cái tít Chuyện trò với Thần Chết, Dialogue with Death) thì cũng xấp xỉ cái thế giá đó. Những kẻ mộng du, The Sleepwalkers - đặc biệt là những chương về Kepler – là một trong những bữa tiệc hiếm của nhân gian, về sự tái-sáng tạo tưởng tượng thuyết phục của khoa học lớn, convincing imaginative re-creation of great science, về lô gíc thơ của khám phá, poetic logic of discovery. Tôi không chia sẻ những xác tín của ông trong Trầm tư về tội treo cổ, Reflections of Hanging, nhưng nó sẽ còn hoài như là một trong những dấu ấn lớn lao của thời đại chúng ta, và thời điểm mấu chốt liên quan đến cuộc tranh luận về án tử hình. Có những chương có tính cổ điển như thế, ngay cả ở trong những tác phẩm tự thuật như là Arrow in the Blue. Nhưng với Koestler, có một cảm quan về một cái gì đó vượt lên tổng số những gì ông viết ra. Có những con người, đàn ông hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào những xã hội, họ đưa mình ra, “đành làm” chứng nhân thiết yếu, cần thiết, không có không được, và chính là nhờ vào hiện hữu cá nhân, cảm quan riêng tư của một con người như thế mà những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được tập trung, được xoáy chiếu, và trở nên sáng sủa, visible. T
rong thế kỷ đen tối, dân Do Thái Trung Âu, có lẽ hơn bất cứ một bộ lạc nào khác, cưu mang trong nó sự tàn ác dã man của viễn ảnh và kinh nghiệm thúc ép, đòi cho có cho bằng được của nhân loại. Koestler, sinh năm 1905 ở ngay đúng nơi chốn mà những sợi gân lịch sử, chính trị, ngôn ngữ của thế kỷ 20 chấm dứt tại đó. Những trào lưu ác liệt, cường tráng của thế kỷ chảy qua ông. Lần giở cuốn “cà ta lô” những sự hiện diện lớn của hiện đại – chính trị học Mác Xít, khủng bố Phát Xít, phân tâm học, và những tra hỏi về những dị dạng của tinh thần, trí tưởng, của cái đầu của con người, bước nhẩy vọt của những môn sinh học, những xung đột của ý thức hệ và nghệ thuật – và thế là bạn không chỉ bắt gặp những tác phẩm lớn của Koestler, mà còn cả con người, chính nó! Ông rành rọt, -hay- dầy dạn, lưu vong và nhà tù, ly dị, trai gái, tứ đổ tường, cuộc giành giựt cuộc sống riêng tư với quần chúng, đám đông. Những tấm căn cước của Koestler, thực hay giả, những con dấu, những quá cảnh trên những tờ thông hành, những cuốn sổ địa chỉ, những cuốn nhật ký bàn giấy, desk diaries, tất cả vạch ra tấm bản đồ và những cuộc hành trình của một kẻ bị săn đuổi của thế kỷ của chúng ta.
























Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’