Alice Munro wins Nobel prize in literature 2013
The Nobel Prize in Literature 2013
“I hoped to write novels,” Ms Munro admitted in the preface to her "Selected Stories". But her life didn’t seem to allow for them. “When you are responsible for running a house and taking care of small children, particularly in the days before disposable diapers or ubiquitous automatic washing machines, it’s hard to arrange for large chunks of time.” The moral dramas faced by women—by every woman—have always been at the centre of her work. This makes the award of the Nobel all the more welcome. Out of 106 Nobel prizes for literature, this is only the 13th to go to a woman.
Prospero
“Tôi mong viết tiểu thuyết,” Ms Munro viết, trong lời tựa cho tập truyện “Truyện ngắn chọn lọc”. Nhưng đời hình như không chiều bà. “Khi bạn đầu tắt mặt tối với căn nhà, với lũ trẻ, vào cái thuở hồng hoang, con người chưa sáng chế ra được cái tã lót, và máy gặt quần áo, thật khó cưu mang 1 cuốn tiểu thuyết. Truyện ngắn thì OK”. Cái gọi là bi kịch đạo đức mà người đàn bà trực diện – mọi nguời đàn bà – luôn luôn ở trung tâm cái viết của bà. Truyện ngắn mà đợp Nobel mới bảnh chứ truyện dài thì nói làm gì! “Nữ dzăng sĩ” lại càng bảnh hơn nữa. Trong 106 người lãnh giải, chỉ có 13 bà. Con số xui xẻo may mắn!
Nhà văn nữ lớn đoạt Nobel thì chúng ta biết rồi, nhưng còn độc giả lớn, người đó trưởng thành ra sao (Were you a big reader growing up”)? “Fan” của những ai (What work of any had an influence)? The Paris Review.
Đọc là đời tôi cho tới khi tôi 30 tuổi. Tôi sống ở trong sách. Những nhà văn Nam Mỹ là những người đầu tiên thực sự làm tôi xúc động bởi là vì họ chỉ cho tôi, tôi có thể viết về những thành phố nhỏ, những con người nhà quê, và cái thứ cuộc đời này thì tôi quá rành. Nhưng điều mà những nhà văn Miền Nam làm tôi quan tâm, tôi thực sự không nhận ra, đó là, tất cả những nhà văn Miền Nam đó, thì đều là đàn bà, tôi không thích Faulkner nhiều lắm đâu. Tôi mê Eudora Welty, Flannery O’Connor, Katherine Anne Porter, Carson McCullers. Có cái cảm giác là những người đàn bà này có thể viết về những cái kỳ cục, thói đồng bóng, vùng ven, ngoại vi, bên lề…
Vinh danh
Muno, đám phê bình thường nhắc tới Chekhov, người Nga, tới William
Trevor, người
Ái Nhĩ Lan, là những bực tổ sư truyện ngắn, và cõi nhân sinh
nhỏ bé mà
truyện ngắn chuyên chở. Nhưng, có 1 sự khác biệt giữa Chekhov và
Munro, nếu 1 độc
giả Á Châu, mê truyện ngắn, đọc chăm chú, sẽ nhận ra. Cái sự đói khổ,
cái ác của
xứ Á, phân biệt một Chekhov với Munro, mà những người ảnh hưởng tới bà,
là những
nhà văn nữ Miền Nam nước Mỹ.
Bạn muốn chứng thực điều này, theo tôi, nên
tìm đọc Yiyun Li, cũng 1 chuyên gia về
truyện ngắn, tuy cũng
viết truyện dài, và thầy cũng là Chekhov, và Trevor.
Vả chăng, truyện
ngắn của
Munro không tiên đoán 1 sự thay đổi thời tiết, [Not yet & No
longer],
theo quan niệm của
Lukacs mà GCC đã muợn, để áp dụng vào trường hợp những truyện ngắn của
Nguyễn
Huy Thiệp. (1)
Lukacs phán:
Độc giả đọc Một ngày là cảm thấy đây là biểu tượng cho mọi ngày của thời kỳ Stalin. Tuy nhiên, không có một tí dấu vết của chủ nghĩa biểu tượng trong cách miêu tả của Solz. Ông trình ra một ngày của tên tù Ivan như một lát hiện thực, a guenine, realistic slice of life, qua đó, không một chi tiết bị khái quát quá để có mùi biểu tượng. Nói rõ hơn, số phận của hàng triệu triệu con người được nén lại vào trong một lát mỏng này
Điều làm cho Solz thực sự trở thành số một, độc nhất, là sự kiện đơn giản tác phẩm của ông được xuất bản, ở Liên Xô, khi Khrushchev đang toàn quyền lực.
Applebaum
Nhận xét về Một ngày, như trên, không đúng, bởi vì Applebaum không phải là một nhà văn. Bà không hiểu gì về thể loại văn học có tên là truyện ngắn, nhất là những truyện ngắn ở vào những thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử. Một khi nó xuất hiện, là có biến chuyển, một thứ chim báo bão.
Khi viết về NHT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ giữa Tướng về hưu và Một Ngày, cũng như Lukacs nhận ra sự liên hệ giữa Một ngày và Typhoon của Conrad, hay Ngư ông và Biển cả của Hemingway.
Tuy nhiên, có lẽ phải đọc Tướng về hưu song song với Bếp Lửa, một ở đầu, một ở cuối cuộc chiến, một Not-Yet và một No-Longer, theo cách nhìn của Lukacs. Ở giữa hai truyện ngắn đó, là truyện Dọc Đường. Truyện ngắn này, lại là một Not-Yet, mở ra cuộc Exodus Vượt Biển của người Việt tị nạn: Hình ảnh người đàn ông lỡ độ đường đứng trơ vơ giữa cuộc chiến, với bọc quần áo tiên đoán số phận người vượt biển đi những ngày sau dead line, chẳng nước nào nhận!
*
Nhận xét về truyện ngắn, và vai trò “Not Yet & No Longer” của nó trong lịch sử văn học, của Lukacs, ghê thật, nhưng chưa ghê bằng nhận xét của Brodsky về thơ, khi ông đọc Akkhmatova:
At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly enable her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions first through the prism of the individual heart then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics any way:
Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.
Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Đừng nghĩ là Gấu tự thổi, nhưng mấy cái truyện ngắn Mậu Thân của Gấu, sau này, là những “lỗ đen” chứa trong nó cả 1 thời kỳ thê lương, của Xề Gòn, giống những bản nhạc sến, hay thơ TTT...
Hà, hà!
G. Lukacs, trong “Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” (1969) [William David Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge, Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ nội tại giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their historical connection and their interrelationship throughout the course of literary development]. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình văn học hiện thời [the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn [novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên văn: tiền thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmerhr].
Áp dụng nhận xét trên vào Một Ngày... của Solz., Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người.
[With this reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man’s moral stature…..]
“Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa.” [Lukacs].
Truyện ngắn của NHT có gì tương tự với Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenisyn. Nó báo hiệu sự suy tàn của một chế độ, sự tận cùng của một thời kỳ [a termination at the end of a period, a No-Longer], và đồng thời nó đăng quang con người, như một cá nhân [lại khám phá ra một cái tôi, thí dụ như của NHT, của Bùi Ngọc Tấn, và nhất là, của Nguyễn Chí Thiện, một cái tôi như là tôi dám tự chọn cho tôi: nhà thơ ngục sĩ đời đời!
Prospero
Alice Munro and the Nobel prize
The best fiction acts as a kind of mirror, showing us to ourselves through the lives of others. This is one of Ms Munro’s greatest gifts. “Millions of readers pick up an Alice Munro story and react with a kind of galvanized self-recognition,” marveled Jane Smiley, a novelist and Man Booker judge chairman, when she presented the Man Booker international prize to Ms Munro in 2009. This was the first time the award went to a short-story writer. Books such as "The Progress of Love" (1986), "The Love of a Good Woman" (1988) and "Runaway" (2004) cemented Ms Munro's reputation as a writer capable of reinventing a seemingly tired form. Her stories play with structure and theme, even as they evoke a deeply felt realism.
Giả tưởng thứ xịn thì giống như 1 thứ gương soi, nó cho chúng ta nhìn thấy chúng ta, qua cuộc đời của những người khác. Đó là một trong những tài năng lớn lao nhất của Ms Munro. "Hàng triệu độc giả cầm một cuốn truyện của Alice Muno lên, và nó như 1 thỏi nam châm, làm người đó nhận ra mình”, Jane Smiley, tiểu thuyết gia và là chánh chủ khảo Man Booker, khi trao giải thưởng này, 2009, cho Ms Munro, rạng rỡ phán. Đó là lần thứ nhất giải về tay 1 tác giả chuyên viết truyện ngắn. Những tác phẩm như "The Progress of Love" (1986), "The Love of a Good Woman" (1988) và "Runaway" (2004), làm danh tiếng của bà trở thành bất hủ, vĩnh viễn: một nhà văn tái phát minh, làm sống lại, một thể dạng văn học đã... mệt nhoài: truyện ngắn.
... I got an offer of a
job teaching creative
writing at York University outside of Toronto. But I didn’t last at
that job at
all. I hated it, and even though I had no money, I quit.
INTERVIEWER
Because you
didn’t like teaching fiction?
MUNRO
No! It was
terrible. This was 1973. York was one of the more radical Canadian
universities, yet my class was all male except for one girl who hardly
got to
speak. They were doing what was fashionable at the time, which had to
do with
being both incomprehensible and trite; they seemed intolerant of
anything else.
It was good for me to learn to shout back and express some ideas about
writing
that I hadn’t sharpened up before, but I didn’t know how to reach them,
how not
to be an adversary. Maybe I’d know now. But it didn’t seem to have
anything to
do with writing—more like good training for going into television or
something,
getting really comfortable with clichés. I should have been able to
change
that, but I couldn’t. I had one student who wasn’t in the class, who
brought me
a story. I remember tears came into my eyes because it was so good,
because I
hadn’t seen a good piece of student writing in so long. She asked, How
can I
get into your class? And I said, Don’t! Don’t come near my class, just
keep
bringing me your work. And she has become a writer. The only one who
did.
Tôi được mời dậy môn sáng tác tại Đại Học York, ngoại vi Toronto, nhưng đếch khoái, sau cùng đành bỏ. Nói, tôi ghét mới đúng, và dù đếch có tiền, vưỡn bỏ.
Bởi là vì bà không thích dậy môn giả tưởng?
Không. Thật
khủng, phải nói như thế. Đó là năm 1973. York là 1 trong những đại học
cấp
tiến của Canada, tuy nhiên lớp của tôi toàn nam sinh viên, chỉ có 1
mống nữ, và
em này rất ít nói. Đám sinh viên tỏ ra thời thượng, vào thời gian đó,
tức là lúc
nào cũng làm ra vẻ đếch ai hiểu nổi lũ chúng ông, và thật là cũ rích,
rẻ tiền. Họ
có vẻ cố chấp về bất cứ chuyện gì. Cũng thật tốt cho tôi, nhờ thế, học
được điều,
biết quạt lại, và hiểu ra được 1 số ý nghĩ về việc viết, trước đó tôi
lơ là, không làm
sao bắt kịp, đại khái, làm thế nào không là 1 địch thủ. Có thể, bây giờ
tôi biết,
nhưng ba cái thứ lẻ tẻ này thực không liên quan đến việc viết – mà như
để tỏ ra
lành nghề khi xuất hiện trên màn hình TV, hay tỏ ra thoải mái với ba
thứ sáo mòn,
bản kẽm….
Có 1 nữ sinh viên, không học lớp tôi, đưa cho tôi một truyện ngắn của
em. Thần sầu, đọc 1 phát là nước mắt ràn rụa. Em hỏi, em có thể học lớp
của cô.
Tôi quát, đừng! Đừng bao giờ mò đến đó, mà chỉ việc mang những truyện
ngắn cho
tôi đọc.
Và em trở thành 1 nhà văn. Người độc nhất làm được điều này.
Ui chao, đọc 1 phát, là
nhớ đến cái em sinh viên của Steiner:
Tôi chán ông
quá rồi. Tôi bỏ lớp, bỏ trường, đi về quê, chăn trâu, mai mốt làm vợ… Sáu Dân! (1)
Hà, hà!
Trong đời tôi, tôi đã gặp được năm hoặc sáu sinh viên phú bẩm (doués), sáng láng (créatifs) hơn tôi. Một lần ở [Đại học] Cambridge, một trong những nữ sinh viên, con chim đầu đàn của khóa học, đã nói với tôi: "Tôi ghê tởm tất cả những gì thầy dậy tôi; tôi quá chán tất cả những gì mà thầy đại diện; tôi chẳng bao giờ thèm nghe nói về văn hóa, và tôi bỏ đi làm một người y sĩ chân trần ở Trung quốc." Vài năm sau, tôi được mời thăm Bắc kinh, và vị Đại sứ Anh quốc đã cho tôi tin tức về người đàn bà này. Bà là một y sĩ, trong một làng quê không điện không nước… Vậy đó, bà ta có lẽ là một thành công độc nhất của tôi.
INTERVIEWER
Were you a
big reader growing up? What work if any had an influence?
MUNRO
Reading was
my life really until I was thirty. I was living in books. The writers
of the
American South were the first writers who really moved me because they
showed
me that you could write about small towns, rural people, and that kind
of life
I knew very well. But the thing about the Southern writers that
interested me,
without my being really aware of it, was that all the Southern writers
whom I
really loved were women. I didn’t really like Faulkner that much. I
loved
Eudora Welty, Flannery O’Connor, Katherine Ann Porter, Carson
McCullers. There
was a feeling that women could write about the freakish, the marginal.
INTERVIEWER
What is your
reaction to magic realism?
MUNRO
I did love One Hundred Years of
Solitude. I loved it, but it can’t be imitated. It looks
easy but it’s not. It’s wonderful when the ants carry off the baby,
when the
virgin rises into the sky, when the patriarch dies, and it rains
flowers. But
just as hard to pull off and just as wonderful is William Maxwell’s So
Long, See You Tomorrow, where the dog is the character. He’s
dealing with
a subject that potentially is so banal and makes it brilliant.
The Nobel Prize in Literature 2013
Alice Munro
Photo: ©
shapton
Alice Munro
Born: 10
July 1931, Wing ham, Canada
Prize motivation: "master of the contemporary short story"
“Thầy truyện ngắn hiện đại”.
Note: Vòng
hoa Nobel văn chương năm nay, có thể cũng là do những vòng hoa trước,
gây
"trouble", mà ra.
Bèn ngắn gọn:
Bậc thầy truyện ngắn!
Cóc cần “tỉu thiết”. Cóc cần kịch cọt!
“Mấy con dã
tràng” đủ ăn Nobel rùi!
Thì cũng....
Canada.
Biết đâu đấy!
Hà, hà!
Chắc là phải
mướn người dịch lẹ qua tiếng mũi lõ!
Lucky Thirteen!
Alice Munro is the 13th woman awarded the Nobel Prize in Literature so far. She is also the 110th Literature Laureate in total.
The Paris Review
Alice Munro, The Art of Fiction No. 137
Interviewed by Jeanne McCulloch, Mona Simpson
Canadian short-story
writer, 82, was one of favourites to
win honour, awarded in same year she announced retirement
Nữ văn sĩ Canada, chuyên viết truyện ngắn, 82 tuổi, được Nobel năm nay,
đúng
vào năm bà tuyên bố về hưu
Alice Munro, winner of the 2013 Nobel prize in literature. Photograph: Andrew Testa/Rex Features
Alice Munro, the Canadian doyenne of the short story, has been awarded the Nobel prize in literature, following in the footsteps of Sartre, Hemingway, Pinter and Pirandello.
The 82-year-old had been among the favourites to win the prize, along with the Japanese novelist Haruki Murakami and the Belorussian journalist and author Svetlana Alexieva.
In her 14 volumes of short stories, including The View From Castle Rock (2006) and The Progress of Love (1986), the warp and weft of rural and small-town life in south-western Ontario has always been her subject, having only once swerved off course into the novel.
She once said of her work: "What I wanted was every last thing, every layer of speech and thought, stroke of light on bark or walls, every smell, pothole, pain, crack, delusion, held still and held together – radiant, everlasting."
Earlier this year she announced her retirement from writing – which prompted the following tribute from the novelist Jane Smiley: "Thank you, Alice Munro, for one glittering jewel of a story after another. Thank you for the many days and nights I spent lost in your work. Thank you for your unembarrassed woman's perspective on the lives of girls and women, but also the lives of boys and men. Thank you for your cruelty as well as your kindness, because the one plus the other is the essence of truthfulness."
Munro is the
110th winner of the prize and the 13th woman to receive it.
*
Not many successful writers have lived into their 80s – the perennially mature Henry James was 72 when he died, Tolstoy 71 when he published his last novel. Edith Wharton was working on her last novel when she died at 75. The View from Castle Rock, which Munro published when she was 75, was a grand and intriguing departure, both geographically and thematically, and one of my favourites.
But now we must let her off the hook. Thank you, Alice Munro, for one glittering jewel of a story after another. Thank you for the many days and nights I spent lost in your work. Thank you for your unembarrassed woman's perspective on the lives of girls and women, but also the lives of boys and men. Thank you for your cruelty as well as your kindness, because the one plus the other is the essence of truthfulness.
Jane Smiley: Farewell Alice Munro, and thanks for everything
Ít nhà văn thành công sống thọ, tới tám bó – Henry James 72 ngỏm, Tolstoy 71, khi cho xb cuốn chót... Cái Nhìn từ Castle Rock, Munro cho xb năm bà 75 tuổi, là 1 chuyến khởi hành lớn, tình tiết hấp dẫn, cả về mặt địa dư lẫn chủ đề, và là 1 trong những cuốn tôi mê.
Nhưng bi giờ, chúng ta phải tha cho bà thôi, cho bà nghỉ hưu, đừng làm phiền bà nữa. Cám ơn bà về những truyện ngắn, như những viên ngọc quí, viên này tới viên khác. Cám ơn bà, vì những ngày đêm tôi mất ăn mất ngủ với chúng. Cám ơn bà về cái nhìn không bực bội, nhạy cảm hay không nhạy cảm của người đàn bà, về cuộc sống của thiếu nữ cũng như phụ nữ, và còn của thanh thiếu niên, và đàn ông. Cám ơn sự độc ác, cũng như sự dịu dàng của bà, bởi là vì, cái nọ cộng cái kia thì mới làm nên yếu tính của cái có thực.
Gấu mới đọc
1 bài trên The New Yorker cằn nhằn vô cùng về cái chuyện Mẽo
đếch được
Nobel. Cằn nhằn thì nhiều lần rồi, nhưng năm nay sức ép coi bộ dữ dằn
lên Uỷ
Ban Nobel, và Gấu tự hỏi, làm sao đây.
Thế là họ bèn cho 1 tên Canada, cũng Mẽo, nhưng Bắc Mẽo, cùng quê
với...
GCC!
Lẽ tất nhiên Munro quá xứng đáng, nhưng không thể bỏ qua cái
sự cằn
nhằn của anh láng giềng của nó, trong vụ trao Nobel năm nay.
Cũng thế,
khi trao Nobel cho Milosz, cho Pasternak...
Họ xứng đáng, quá xứng
đáng, nhưng
ngoài cái đó ra, còn có 1 cái gì khác nữa!
Ui chao, lại
nhớ đến Primo Levi, bài viết ngay dưới đây. Ông “vặc”, “sao tui ?”, khi
sống
sót… Lò Thiêu!
November 20, 2012
On “Dear Life”: An Interview with Alice Munro
Posted by Deborah
Treisman
Làm gì làm một chuyện suốt đời:
À peine
adolescente, elle décide de devenir écrivain et ne déviera jamais de sa
voie.
«Je n'ai
aucun autre talent, je ne suis pas intellectuelle et me débrouille mal
comme
maîtresse de maison. Donc rien ne vient perturber ce que je fais»,
déclarait-elle il y a quelques années.
Nhà văn có
sách bán nhưng không ra mắt sách!
«Ce n'est
pas un écrivain mondain, on la voit rarement en public, elle ne court
pas les
lancements», observe David Homel, écrivain, traducteur et critique
littéraire
américain établi à Montréal.
Tả phụ nữ
nhưng không đề cao sắc đẹp của họ.
Malgré le
succès et une moisson impressionnante de prix littéraires qu'elle
engrange
depuis quarante ans, elle reste discrète, à l'image de ses personnages,
essentiellement des femmes, dont ses textes ne mettent jamais en relief
la
beauté physique. Un écho, peut-être, des influences puritaines ayant
marqué le
milieu de son enfance.
Nói về phụ nữ
nhưng không nói xấu đàn ông…
«Elle écrit
sur les femmes et pour les femmes, mais elle ne diabolise pas les
hommes», dit
David Homel.
Publié le 10 octobre 2013 à 07h16 | Mis à jour à 07h16
Le Nobel de littérature est décerné à Alice Munro
Alice Munro AFP
En attendant Nobel 2013
Trong khi chờ Nobel 2013
Pamuk's Nobel is a family affair
The
Anger of
the Damned
Orhan Pamuk,
translated by Mary Isin
Đỉnh Cao Chói
Lọi. DTH: Nobel văn chương?
Ceux qui ne tirent
pas les
leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải
sống
lại nó.
Hannah
Arendt.
Note: Bài viết này, của GCC, đọc thú quá!
Hà, hà!
Văn
chương Mít
sở dĩ không hấp dẫn thế giới, chính là vì nó là thứ văn chương “tam, tứ
vô”: vô
ích, vô hại, vô học, vô dụng…
Nó là thứ văn chương không “tham dự lớn vào bản
khế ước xã hội”, như Le Clézio phán. Thứ văn chương "không dám sống thế
nào thì không dám viết thế đó"!
Ngay
cả thứ văn học dịch ở trong nước, nở rộ, vì là nhu cầu tất yếu
của một xã hội bị bưng bít đủ mọi đường, cố tìm cách vươn ra ngoài, y
chang như
Gấu khi ra được ngoài này, khi làm trang Tin Văn, khi xin xỏ được viết
cho Sến
cô nương.
Nhưng
hãy thử nhìn xem, văn học dịch ở trong nước ra
làm sao. Cũng toàn
thứ vô hại, vô dụng… Ngay cả với những tác giả nguy hại, thì cũng bị lũ
thợ dịch
hoặc tự ý kiểm duyệt, hoặc cơ quan kiểm duyệt thiến sạch những đoạn
‘nhạy cảm’!
Đến
Brodsky, khi được ông thợ dịch lừng danh "Butor Mít"
giới thiệu với độc giả Mít, thì cũng biến thành dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy,
nữa là!
Bởi thế mà mấy em trong nước, có em đã từng phàn nàn với bà chị Sến,
sao đọc văn dịch thấy dở quá, chúng em viết còn hay hơn nhiều!
Gấu
nhớ, hình như là Fuentes có phán một câu nghe thật khoái lỗ nhĩ, về
tiểu thuyết, và tiểu thuyết gia, đại khái như vầy, có những tác giả
thời nào cũng đọc được, thí dụ Proust, có những tác giả, mà thời đó
không có ông ta là không được, thí dụ Kafka. Giả như không có Kafka,
làm sao chúng ta hiểu được chính chúng ta, chính cái thế kỷ của chúng
ta ?
Và, như chúng ta đã từng biết, Kafka phán, cái thứ văn chương mà chúng
ta cần đọc, nó giống như cái rìu phá băng, phá tảng băng lạnh giá là
cái đầu vô cảm của chúng ta. (1)
Vả chăng, cái trò mê văn học vệ quốc của Liên Xô của đám Yankee mũi tẹt, theo Gấu chỉ là ‘nguỵ tín’, hay nói huỵch toẹt, lập lờ, mượn mầu ‘vỏ lựu, máu chó, mào gà’, ‘đánh lận con đen’, như Tú Bà dậy Kiều!
Ấy là vì với chúng, làm đếch gì có "vệ quốc", mà là ‘ăn cướp’.
Khốn nạn thế đấy!
'It's a wonderful thing for the short story'
This week
Alice Munro will receive the Nobel prize for literature. Lisa
Allardice, who
met Munro in Canada after the publication of her collection The View
from
Castle Rock, asks her about the dividing line between life and
work
V/v Tiếng Mít quái dị.
Quả là quái dị thật, nếu đúng như ông kể:
Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế (1)
Bợ
đít VC đến như thế này thì đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy thua xa!
Nghe
[chỉ nghe thôi], một bài diễn văn của một ông Tổng Thống, đọc vào lúc
Miền Nam
sắp sửa mất, Sài Gòn sắp sửa biến thành "biển máu", may quá, giờ phút
chót, biến thành biển nước mắt, biển mặn... vậy mà có người còn chi li
về văn
phạm, và còn suy ra rằng (thì là), "các chính thể đến giờ phút lụi tàn
bao
giờ cũng có những biểu hiện như thế", thì quái đản thật!
Gấu chỉ nhớ mài mại, xuất hiện trên TV, Tông Tông, đau lòng vì quá tin Mẽo, có lúc như muốn bật khóc, nói năng lắp bắp, không nhớ có sai văn phạm hay không!
Mà, làm sao lại có thứ văn phạm “nói”?
"Boys
And Girls"
Bày Cáo Bạc 1 2
Nguyên tác,
“Trai & Gái”.
Cái tít tiếng
Anh, là có dụng ý của Alice Munro.
Nguyên tác
có trên net.
Và 1 số bài
viết về nội dung truyện.
Gấu sở dĩ tò
mò, là vì một câu văn dịch:
“Khi còn trên
dương thế, bầy cáo bạc cư ngụ trong một cõi riêng mà cha tôi tạo lập
cho chúng”
Alive, the
foxes inhabited a world my father made for them.
GCC dịch:
Khi còn sống,
bày cáo ngụ trong 1 thế giới cha tôi làm cho chúng.
Dịch “còn
trên dương thế”, khiến Gấu bị lầm, tưởng là, “khi ông bố còn sống”!
Ít khi, con
người áp dụng "còn trên dương thế” cho loài vật!
Và đó là ý
nghĩa của truyện ngắn, trong đó, con gái
không ngang hàng với con trai. Và còn không có được cả 1 cái tên riêng
nữa.
Cái tên đứa
con trai, Laird, là cũng có dụng ý.
Alice Munro’s “Boys and Girls”: Summary & Analysis
Alice Munro’s short story, “Boys and Girls,” has a very interesting detail written into it. The narrator’s brother is named Laird, which was carefully chosen by the author. Laird is a synonym for lord, which plays a important role in a story where a young girl has society’s unwritten rules forced upon her. At the time of the story, society did not consider men and women equal. The name symbolized how the male child was superior in the parent’s eyes and in general. Along with that, the name also symbolizes the difference between the sexes when this story took place. The time when this story took place was a time when men and women were not equal. Mothers had traditional roles, which usually left them in the house, while men also had their roles, outside of the house.
Tiếng Việt của
tay bác sĩ & thi sĩ & dịch sĩ thật là quái dị! “Alive”, còn
sống, [bày
cáo còn sống, chưa bị người nuôi giết để lấy da], vậy mà dịch là “khi
còn trên
dương thế”!
Lần đấng này
dịch thơ Robert Frost cũng y chang, “Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết
phủ”, ông
ta bèn “chế” thành “dừng chân bên rừng”! Dịch như thế là hỏng mẹ cả bài
thơ, vì những dòng sau đó, con ngựa thắc
mắc…
Dịch đã dở mà
bèn cho đăng ở mấy diễn đàn!
Robert Frost
Stopping by Woods on a Snowy Evening
Whose woods
these are I think I know.
His house is
in the village, though;
He will not
see me stopping here
To watch his
woods fill up with snow.
My little
horse must think it queer
To stop
without a farmhouse near
Between the
woods and frozen lake
The darkest
evening of the year.
He gives his
harness bells a shake
To ask if
there is some mistake.
The only
other sound's the sweep
Of easy wind
and downy flake.
The woods
are lovely, dark and deep,
But I have
promises to keep,
And miles to
go before I sleep,
And miles to
go before I sleep
Dừng ngựa bên rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của
ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở
trong làng
Làm sao ông
ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết
rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi
chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao
ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng
và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều
hôm cuối năm
Nó bèn khẩy
khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với
chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại
tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió
thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp,
tối, và sâu
Nhưng tôi
còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm
đường phải đi
Trước khi
lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Bản dịch truyện ngắn của Alice Munro, còn có thể đọc ở đây:
Khi chưa bị
giết để lấy lông, bầy cáo sinh sống trong một thế giới mà cha tôi đã
tạo ra cho
chúng.
The Nobel Prize in Literature 2013
Frey kể câu chuyện nhiều người biết, về 1 ông bạn y sĩ, giang hồ vặt Bắc Cực, với người dẫn đường là 1 thổ dân Inuit, và đụng bão tuyết. Trong cái lạnh khủng khiếp, trong cái đêm dày đặc, ông bác sĩ cảm thấy mình bị thế giới văn minh bỏ rơi, bèn la lớn,"chúng ta lạc rồi, we are lost". Anh thổ dân dẫn đường ngạc nhiên quá, "chúng ta đâu có lạc. Chúng ta ở đây, we are not lost. We are here".
Có cái “ở đây” thần sầu của Xứ Lạnh!
Khi cho Nobel ‘bà già xứ lạnh’, đám “mafia” da trắng Thuỵ Điển muốn vinh danh "cái ở đây" đó nữa, hà hà!
Một bà già khác, cũng Xứ Lạnh, nổi tiếng chẳng kém Munro, là Margaret Atwood, phán, "cái Bắc xoáy nỗi xốn xang của chúng tôi, The north focuses our anxieties."
Mô phỏng
Atwood, GCC bèn phán, “Cái Đói, Cái Ác Bắc Kít xoáy vào nỗi đau của Mít
chúng
ta”!
Vẫn bà già Atwood, có lần phán, “Turning to face north, we enter our
own
unconscious. Always, in retrospect, the journey north has the quality
of a
dream”, “Nhìn về phía Bắc, chúng tôi đi vô tiềm thức riêng của chúng
tôi.
Luôn luôn, trong ngoái nhìn lại, cuộc lữ
Bắc có phẩm chất của một giấc mơ".
No, I “can”
U!
GCC đếch có
giấc mơ “từ thuở
mang gươm đi dựng nước” này!
The Nobel Prize in Literature 2013
Maclenan’s, trích dẫn Le Monde, gọi Alice Munro là “nữ hoàng truyện ngắn”, “La Reine de la nouvelle”.
Chip McGrath, biên tập New Yorker, coi Nobel của Munro là "win, win, win", cho bà, cho Canada, và cho [thể loại] truyện ngắn.
Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người. [With this reservation, one can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man's moral stature…..]
"Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. “Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich” của Solzhenitsyn là một khai mở ý nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã hội chủ nghĩa." [Lukacs]
Như thế, Nobel năm nay, là trao cho “man's moral stature”, cho 1 xứ sở không vướng1 tí bụi toàn trị, qua thứ truyện ngắn của vị nữ hoàng của nó.
Bài viết của
Lukacs, về truyện ngắn "Một Ngày" của Solzhenitsyn, theo GCC rất quan
trọng, nhất
là đối với trong nước: Ông là tổ sư phê bình Mác Xít mà có lẽ chẳng tên
nào biết
đến cả, thế mới tếu. Trong văn chương thế giới, ông cũng ít được nhắc
tới. GCC
chỉ thấy có hai đấng nhắc tới ông, là Steiner và Octavio Paz. Trong bài
viết về
Solzhenityn của mình, Paz có nhắc tới 1 ông Lukacs, vào lúc chót đời
mới đọc được
Solz, và coi Solz mới đúng là 1 tên "xã hội chủ nghĩa đích thực".
Trong Về những
nhà thơ và những người khác, On poets and
Others, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài Gulag, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước.
Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN,
bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông
Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was
an
imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến
giành độc
lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của
ông [dù hạn
chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1
chứng liệu.
Note: Không
hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê
Solz?
GCC sợ rằng,
Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực
dân cũ [Tẩy],
và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì
cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú… ăn
cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến
Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!
In
the twentieth century it is not easy for an honest man to be a literary
critic.
There are so many more urgent things to be done. Criticism is an
adjunct....
.... Lukacs has always held himself responsible to history. This has
enabled
him to produce a body of critical and philosophic work intensely
expressive of
the cruel and serious spirit of the age. Whether or not we share
his
beliefs, there can be no doubt that he has given to the minor Muse of
criticism
a notable dignity. His late years of solitude and recurrent danger only
emphasize what I observed the outset: in the twentieth century it is
not easy
for an honest man be a literary critic.
But then, it never was.
G. Steiner: Georg Lukacs và tờ hợp đồng với quỉ của ông
Vào thế kỷ 20 thật khó mà là một phê bình gia.
Và, quả như thế thực!
Chứng cớ: Xứ
Mít! Đếch có phê bình gia. Nếu có, thì đều là thứ dởm, tự xưng,
bịp.
Đó là sự thực.
Một tên điểm sách cũng chẳng có được, nói chi phê bình gia!
*
Hầu hết là chuyện của những người đàn bà trong những khoảnh khắc quyết định bước đi này hay bước đi kia của số phận. Hạnh phúc thì ngắn ngủi và vô định. Bất hạnh dài gấp đôi. Song với tất cả sự không khoan nhượng, người kể chuyện lão luyện Alice Munro không bỏ mặc người đọc cho bi quan. Tôi vốn rất dè chừng với cái gọi là chức năng nâng đỡ tâm hồn của văn chương. Nhưng thuở ấy, sau mỗi đêm đọc Alice Munro, sáng dậy hình như tôi đã nhìn cuộc đời đang khá vô định của mình điềm tĩnh hơn một chút.
Sến Cô Nương: Viết nhỏ
Văn chương Bắc Kít, như GCC đã từng chỉ ra, viết được 1 câu, là bèn ngưng, để giải thích câu vừa viết, [mà Gấu gạch đít, gạch chân, ở trên để chứng minh], vì chúng chỉ sợ, hoặc độc giả ngu hơn chúng, hoặc chê chúng, chưa chi, hơi 1 tí, là đã... vãi linh hồn!
GCC bỗng nhớ BHD, chán thế.
Cũng Bắc Kít, chắc thế.
Một lần GCC đi
coi phim, Mẹ, một phim Nhật. Có cái tít
phụ, Nước Mắt Chảy Xuôi. Khóc mùi mẫn.
Về khoe với BHD, phim hay quá, anh coi, nước mắt nước mũi ròng ròng.
Em ngạc nhiên
quá.
Phim đó mà cũng
đi coi.
Mà còn vãi
nuớc mắt nữa chứ!
Ui chao, phải
đến khi em đi xa, thật xa rồi, thì Gấu mới hiểu.
Em rất đau lòng, về cái chuyện bố mẹ
em sinh em ra đời, chỉ để mong sau này, em học thành bác sĩ, để làm ra
tiền, để trả
nợ bố mẹ.
SHORT STORIES
Dear Life by Alice Munro (Chatto, hardback, out now). Hiding her craftsmanship under an easy, conversational style, Alice Munro uses the first ten stories in this collection to revisit small-town Ontario, and to reveal just how surreal real life can be. Every word pulls its weight (a wallflower at a party feels that everyone else is "equipped" with friends) as Munro homes in on the things that throw lives off kilter: the nuance of character that, slowly but surely, derails a marriage; the despair that drives a nine-year-old to suicide. She saves the best till last, closing with a quartet of stories that are, she says, the closest she will ever come to memoir. "The Eye", in which Munro’s capricious mother makes her visit the corpse of a nanny to whom she has become traitorously attached, is a gem.
Maggie Fergusson
Cái lời em
xin lỗi Gấu khi bỏ đi mới kín đáo, mới thê lương, biết là chừng nào.
GCC đã kể ra
vài lần rồi.
Lần đó, biết được số điện thoại của em [không nhớ làm sao biết], đúng thời gian Sài Gòn đảo chính lên, đảo chính xuống. Bèn nhờ 1 nữ điện thoại viên cùng làm việc tại Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, gọi dùm sau khi đã căn dặn đủ chuyện, vì biết, ông bố sẽ cầm lên điện thoại và sẽ vặn vẹo đủ thứ…
Gấu sự thực cũng chẳng tính hỏi han làm gì [lại bắt chước Sến đi 1 đuờng giải thích], nhưng bất thình lình, bỗng hỏi thăm, “boyfriend” thế nào, OK không. Em nói, anh ta được lắm. Ngưng 1 chút, em kể, mỗi lần Sài Gòn rục rịch, là anh ta khệ nệ vác một, hai bao gạo, tới nhà cho ông bà bà bô….
Ngưng một lúc
thật lâu, em nói tiếp:
Gấu không làm
được chuyện đó đâu.
Chekhov vốn
không viết được truyện dài, và giải thích cho sự không thể viết của
mình:
"Chỉ những nhà văn thuộc nòi phong nhã [issu de la noblesse] mới biết
viết
tiểu thuyết. Còn chúng ta, thuộc thứ tiểu-trưởng giả, tiểu thuyết vượt
quá sức
chúng ta."
[Roger Grenier, Hãy nhìn tuyết rơi
(những ấn tượng về Chekhov), nhà xb
Gallimard, tủ sách Folio, 1992]
The Nobel Prize in Literature 2013
Mon amour
pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie.
Tình yêu của
tôi đối với Tchekhov, tôi phải thú nhận, luôn quằn quại thương đau, vì
ghen
tuông.
Italo
Calvino.
Người xưng tụng
Chekhov bảnh nhất, tới nhất, theo GCC, là Amoz Oz, khi ông đọc song
song "Cây vĩ cầm
của Rothschild", của Chekhov,
và "Y Sĩ Đồng
Quê", của
Kafka.
La petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov
GCC đọc Oz,
thì mới vỡ ra cái truyện “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka, đọc từ hồi còn Xề
Gòn.
Và khi đọc DTH, bà kể, ngồi khóc ở hè đường Xề Gòn ngày 30 Tháng
Tư..., thì gặp lại viên y sĩ của Kafka: "Dupé!
Je suis dupé!" (Bị lừa! Tôi bị lừa!).
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp của mình ở trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của cô con dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !
Đó là một thành phố nhỏ, thê thảm còn hơn cả một làng quê. Toàn những người già, họa hoằn lắm mới chịu nằm xuống, thế mới bực! Hơn nữa, ít khi người ta cần tới quan tài, dù là ở nhà thương, hay ở nhà tù. Nói ngắn gọn, chẳng làm sao buôn bán làm ăn ở đây. Nếu Yakov Ivanov làm nghề đóng hòm ở một chốn thị tứ, chắc là ông đã có được một căn nhà, và được gọi là Ông Ivanov. Nhưng ở cái chốn tệ mạt này, giản dị chỉ là Yakov. Vì một lý do nào đó, ngoài đường họ gọi ông bằng biệt hiệu Đồng. Ông sống nghèo khổ như bất cứ một người dân quê bình thường trong một túp lều, cùng với bà vợ Marfa, một cái bếp, cái giường, mấy cái hòm...
.... Viên cảnh sát địa phương bịnh dầm dề hai năm ròng, và đang chờ đi luôn. Yakov nóng ruột, đợi hoài đợi hủy chuyến tầu suốt của ông này. Nhưng viên cảnh sát dời lên thành phố chính để chữa trị, và chắc là phó thác linh hồn cho quỉ ma ở đó... thế là mất toi ít nhất 10 rúp, bởi vì đây là thứ hòm đắt tiền. Cứ đêm đêm Yakov lại bị nỗi mất mát lớn lao hành hạ. Ông để cây vĩ cầm kế bên giường và những lúc không thể chịu đựng nổi cơn dầy vò, ông mân mê mấy sợi dây. Cây vĩ cầm "tinh, tinh" trong đêm tối, và ông ta cảm thấy đỡ đi.
Cái buồn dìu dịu, cái diễu ấm áp, nhân hậu, tha thứ... thật không ăn khớp gì với cách chọn lọc thật lạnh lùng những chi tiết, cách nhìn thiên nhiên như một ông y sĩ giải phẫu, cách đo đạc thật chi ly khoảng cách giữa nhân vật và sự thực.
Những nhân vật thường chẳng để ý, hoặc chẳng thừa nhận chân lý, sự thực, nhưng độc giả được mời nhận ra nó, giữa những dòng chữ. Ở đây cũng như ở trong những chuyện khác, Chekhov tạo một sự cân bằng thật chính xác, như một nhà hóa học cân đo đong đếm, giữa dị hợm (ridiculous) và nỗi đau xé ruột xé gan. Khế ước là sự đồng cảm, giữa người đọc và người kể, qua những con chữ. Thường xuyên người đọc phải nhận ra bằng cách đảo ngược. Thí dụ như những câu mở đầu: nỗi khóc than ca cẩm, về chuyện "hiếm" người chết ở trong làng, về chuyện người già "họa hoằn mới chết và chuyện này thật là bực". Khế ước là từ người kể chuyện, không phải từ nhân vật, nhưng người đọc nhận ra, sau khi đã hết ngỡ ngàng, đây chính là lời than van của người làm hòm, do công việc ế ẩm. Cũng vậy, "Marfa, cái bếp, mấy cái hòm...", người để kế bên vật; ở đây độc giả biết, người kể đã trộn giọng nói của mình với giọng của "Đồng không tim".
Đồng ngần ngại làm hòm cho con nít, "mất thì giờ vì chuyện không đâu", chi tiết này, ngay ở đầu truyện, cho thấy đây là một con người biển lận. Nhưng tới nửa truyện, người đọc biết, Đồng cố xóa khỏi trí nhớ, và cuộc đời, cái chết của bé gái độc nhất của hai vợ chồng, 50 năm trước. Chỉ sau khi bà vợ chết, độc giả mới hiểu, Đồng cố làm cho trái tim của ông trơ ra, để cho ông đỡ đau.
Khế ước khởi đầu làm độc
giả lầm lạc, bởi vì người kể đã sử
dụng thoải mái quan điểm, và luôn cả ngôn từ của người làm hòm già. Làm
như
vậy, người kể bắt buộc người đọc làm một công việc "chuyển dịch" cẩn
trọng: "biển lận" còn là mật mã, để chỉ nỗi cô đơn sâu thẳm. Ngần
ngại làm hòm cho con nít là để giấu nỗi đau mất con. Tiếng đàn "tinh
tinh'
trong đêm theo điệu sáo của Rothschild, là để chống banh ra những vết
thương.
Dần dà theo dòng truyện, người đọc nhận ra, những mất mát lớn lao
Bronze than
van, là về đời người phí phạm, bỏ đi, về nỗi vô thường của vô thường
(vanity of
vanities), tức phận người.
Cốt truyện giản đơn, chỉ
một tí, một tẹo: chuyện một người
làm hòm tại một làng quê cố gắng để đừng bị chết đói, lâu lâu làm thêm:
chơi vĩ
cầm cho đám cưới mạt. Ông thật thảm, thật tã, và cứ thế gầm gừ, với cả
đời sống
và cái chết, bằng một trái tim cố tìm đủ mọi cách để đanh lại; ngày này
qua
ngày khác: chỉ là triền miên mất mát thu nhập.
Ngã bịnh, vui ngấm vui ngầm: bà vợ chấp nhận cái chết sau cùng tới -
như một
giải thoát hằng mong đợi, để ra khỏi giếng nước mắt. Thấy vợ vui, người
chồng
đau lòng vì suốt đời đối sử chai đá. Ông kéo bà vợ bịnh tới nhà người y
sĩ độc
nhất trong làng và lạy lục - đúng ra là mà cả - hãy cứu vợ tôi. Nhưng
viên y sĩ
già nhẫn tâm lắc đầu, quay qua bịnh nhân khác. Hai vợ chồng về nhà, và
người
chồng bắt đầu đo hòm cho vợ: ông đưa thất thu vào trong cuốn sổ cái.
Trong
những giờ cuối cùng, bà vợ cố nhắc nhở ông chồng về đứa con đã mất,
nhưng ông
chẳng thể nhớ. Sau đám tang, ông cũng ngã bịnh, và hung hãn gây gổ với
người
thổi sáo Do-thái tới trò chuyện với ông. Ông lang thang ra bờ sông, bị
những
đứa trẻ ngoài đường trêu ghẹo. Ông di chúc cây vĩ cầm cho Rothschild.
Sau khi
ông chết, Rothschild sáng tác những giai điệu buồn từ cây vĩ cầm này.
Bốn nỗi thất vọng, lạc đường ở tên truyện (Rothschild không phải là vị hầu tước; Rothschild không phải là người chơi vĩ cầm; Rothschild không phải là nhân vật trong truyện; cây vĩ cầm không phải của ông), sau cùng trở thành đúng, một cách không chờ đợi, ở cuối truyện. Rothschild được thừa hưởng cây vĩ cầm trở thành giầu có; ông không còn là một người thổi sáo mà là người chơi vĩ cầm, "gieo nhạc buồn của Bronze đi khắp chốn". Người đọc lúc đầu đã tưởng rằng những sự kiện ở tên truyện là sai, sau mới nhận ra giá trị của chúng.
Có một nối kết thật tinh tế giữa những người Do-thái và âm nhạc, giữa âm nhạc và tâm hồn (linh hồn). "Rothschild's Fiddle" gợi nhớ những câu chuyện kể Hassidic (1), và nhân vật Bronze thuộc huyền thoại về một con người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man), của dân tộc Do-thái.
Độc giả phải chuyển hai lần, những lời ca cẩm, than van "thất thu" của Bronze: một chuyển hài, và một chuyển bi. Trong chuyển bi, có những "thất thu không thực hiện" cũng được đưa vào cuốn sổ cái:
Sau chót, đây là con sông thực, không chỉ là một con suối nhỏ. Bạn có thể tới đó câu, rồi bán cá cho những người mua, những viên thư ký, và người coi ga, và để tiền vào sổ. Bạn có thể theo thuyền đi dọc con sông, ghé những nhà hàng quán nước chơi vĩ cầm, và đủ thứ người sẽ trả tiền cho bạn. Bạn có thể lại có một công việc làm ăn trên sông nước, khá hơn nghề làm hòm. Bạn có thể nuôi ngan ngỗng, giết chúng và đưa đi Moscow làm thực phẩm mùa đông. Có thể chỉ tiền cọc không thôi cũng tới 10 rúp một năm. Ôi đau đớn làm sao, ông ta cứ để cho nước chẩy qua cầu, mà chẳng chịu động đậy chân tay. Ôi, bao nhiêu tiền bạc đã theo dòng nước trôi đi! Nếu bạn cứ cộng mãi vào - câu cá này, chơi vĩ cầm này, giữ tầu thuyền, giết ngỗng - ông ta đã làm ra biết bao nhiêu là tiền!
"Chuyển bi" là đổi mới lớn lao của Chekhov, cả trong truyện và kịch: gỡ bỏ cái hàng rào thủ cựu giữa hài kịch và bi kịch, cho về vườn (canceling) cái qui ước ngặt nghèo: rằng những nhân vật "hạ tiện" (Chí Phèo?), cục cằn, vô học, bắt buộc thuộc về cõi hài (comic realm), trong khi không gian bi là để dành riêng cho những con người phong nhã. Chỉ những kẻ phong nhã, những kẻ được soi sáng, là có thể đưa nạng chống trời, có quyền vác thánh giá, chống lại những biển sầu, đại dương nước mắt, chống lại những trục trặc của thế gian, rồi từ đó, đưa ra một kết luận cảm thông, có thể hiểu được, về số mệnh, phận người, cõi nhân sinh phi lý, hay là cái phần dơ dáy giấu sâu trong nhân vật, chính vì nó mà họ bị kết án phải đọa đầy.
Yakov Ivanov, biệt hiệu Bronze, vào lúc hấp hối đã vươn tới đỉnh cao của cảm nhận bi. Bằng con đường ngu si đần độn, qua - hoặc quá - cuộc đời vô nghĩa của riêng ông, ông đã loáng thoáng nhìn ra phận người:
Đời cứ thế trôi, không lợi nhuận, không lạc thú, nó cứ thế qua đi, chẳng nhắm tới đâu, chẳng vì mục đích gì. Chẳng có gì để nhìn tới, và nếu bạn ngoảnh lại, chỉ là một phí phạm khủng khiếp tiền bạc, đủ để cho bạn làm một cuộc đổi đời tốt đẹp, mầu mỡ. Làm sao con người có thể sống mà không có tổn thất, phí phạm?.... Ông kết luận chỉ có thể có lời bằng cách chết: sẽ không phải ăn, không uống, không đóng thuế, không sỉ nhục người khác. Kể từ khi một người nằm trong mồ, không chỉ một năm mà hàng trăm, hàng ngàn năm, lợi nhuận thật bao la, vô cùng... Kết luận như vậy là đúng, lẽ dĩ nhiên, nhưng eo ôi, thật không thể chịu nổi. Tại sao chuyện đời lại được sắp xếp một cách kỳ quặc như vậy, một khi bạn chỉ có một đời để sống, và không có gì để phô ra, cho đời?
Khúc độc thoại thê lương không thoát ra từ cửa miệng một người hùng (nhân vật, a hero, so với nhân vật, a character mà tác giả, Amos Oz dùng để chỉ Bronze), hay một hoàng tử-triết gia, nhưng từ cửa miệng một người nhà quê vô học, thiển cận, biển lận, đã chiếu một tia sáng khác lạ cho phần đầu câu chuyện. Cái biển lận, tham lam, sự tầm thường ti tiện không chỉ được coi như là cái vỏ sò mỏng mảnh mà người đọc cứ lột bỏ đi là vớ được viên kim cương, hột xoàn ở bên trong: Tham lam, biển lận, ti tiện, tầm phào, cái vỏ, hột xoàn, tất cả "là một và chỉ một mà thôi". Với Chekhov, ở đây, Bronze là Hoàng tử Hamlet. Nỗi đau thê lương, ý thức bi đát, và công cuộc vác nạng chống trời, chống lại cái trật tự thế gian, là từ đáy sâu của câu chuyện bật ra.
Sau cùng, ở đâu, và bằng
cách nào Chekhov gieo những giác ngộ
vô ngôn này (unspoken understandings), giữa người viết và người đọc, ở
đằng sau
lưng nhân vật?
Biết đâu đấy, chúng ta có thể nghe thấy chúng, qua những
dạ khúc
của người làm hòm, khi, cố dỗ giấc ngủ trên chiếc giường đời trơ trọi,
ông ta
đưa tay với cây vĩ cầm. Vào những giây phút như thế, Bronze biến thành
cả hai:
Saul (2), khật khừ với quỉ dữ; và David (3), người "sẽ chạm vào những
sợi
dây, cây vĩ cầm lại tinh tinh trong đêm tối, và như vậy ông ta sẽ đỡ
hơn"
(... David, who "would touch the strings, the fiddle would twang in the
dark and he would feel better").
Tham lam, biển lận, ti tiện, tầm phào, cái vỏ, hột xoàn, tất cả "là một và chỉ một mà thôi". Với Chekhov, ở đây, Bronze là Hoàng tử Hamlet.
Calvino Italo cũng nhận ra như trên khi viết về Chekhov:
Dans la nouvelle La Fille d'Albion, qui date de 1885, nous trouvons déjà Tchekhov à son plus haut degré, et le métal dont il forge ses contrastes comiques ou dramatiques : la dignité de l'homme. Dans des nouvelles comme celle-ci, ou comme La Choriste (1886), plus il fouaille ses petits humains, plus il en découvre les égoismes, les faussetés et les mesquineries sous le masque de leur fausse « dignité », plus se révèle à nous quelque chose qui résiste à la dégradation, quelque chose de supérieur à la bassesse générale, une qualité impalpable que nous devons recommencer à appeler dignité humaine, une dignité tout à fait opposée à celle, hypocrite et formelle, des moeurs bourgeoises. Mais Tchekhov atteint ses meilleurs résultats lorsque la découverte de la fausse dignité et les retrouvailles avec la vraie ont lieu chez le même personnage ; lorsque le couteau qui ouvre l'abcès touche la chair vive. Et l'on voit apparaitre alors la « pitié » de Tchekhov, toujours d'autant plus présente qu'il est « sans pitié » : voilà que, après avoir découvert sous le personnage le petit-bourgeois - sa mesquinerie et son horreur historique -, sous le petit-bourgeois, il découvre l 'homme.
Gấu càng mổ
xẻ Bắc Kít, càng tìm ra những nét nhơ bửn, ti tiện, Cái Ác Bắc Kít!
Nhưng cố kiếm
thêm tí nữa, ngoáy mãi vào cái vết thương đã mưng mủ, từ những ngày 30
Tháng Tư, chẳng bao giờ thành sẹo, tới phần thịt còn tươi, thì Gấu lại
khám phá ra... con người!
Hà, hà!
Giải Nobel năm
nay, trao cho truyện ngắn - thứ truyện ngắn, như của Alice Munro,
"thuần văn chương", "bậc thầy của truyện ngắn", vượt ra khỏi những mắc
mớ có
tính thời sự, thời đại, (năm ngoái cho Mặc Ngôn đã bị chửi; năm nay,
giả thử cho Oz, làm sao
khối Ả Rập bỏ qua; cho Murakami, Tẫu chửi… ) - một cách nào đó, rơi
đúng
vào thời
kỳ “No longer & Not yet", mà Lukacs chỉ ra, khi viết về Một Ngày của
Solzhnitsyn.
Hannah
Arendt cũng đã dùng thuật ngữ này, khi đọc The Death
of Virgil của
Herman Broch.
Hannah Arendt sử dụng
cặp từ "No Longer/Not Yet", để giải thích hố thẳm giữa Proust và Kafka.
Nếu áp dụng cái nhìn
của bà vào trường hợp nhóm Sáng Tạo,
và cú đả phá văn chương tiền chiến
của họ, xem ra có thể giải thích câu hỏi Võ Phiến đặt ra, trong Tổng
Quan Văn Học.
*
Hannah Arendt mở ra bài viết No
Longer and Not Yet, điểm
cuốn The Death of Virgil của
Herman Broch, trong tập tiểu
luận Essays in Understanding, bằng
nhận xét của Hume, trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ
thì không lui khỏi sàn diễn liền lập tức và một thế hệ khác kế tiếp nó,
như trường hợp tằm và bướm’. Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh cao
của khủng hoảng, một số phận tương tự như tằm và bướm giáng xuống một
thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới không bắt buộc phải sinh ra tiếp
theo liền; giữa những thế hệ,
giữa những con người vì lý do này hay lý do khác, vẫn thuộc về thế hệ
già, và những người hoặc cảm thấy cơn thảm họa ở trong xương trong hồn
trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng với nó, sợi ‘sên’ bị gẫy, và một
“lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất không người lịch sử xuất
hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không còn nữa, và chưa xẩy
ra nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the birth of
the new, is not necessarily an affair of continuity; between the
generations, between those who for some reason or other still belong to
the old and those who either feel the catastrophe in their very bones
or have already grown up with it, the chain is broken and an "empty
space," a kind of historical no man's land, comes to the surface which
can be described only in terms of "no longer and not yet."]
Đoạn Gấu gạch đít
trên, giải thích thái độ của nhóm Sáng Tạo khi đả phá văn học tiền
chiến, thế hệ già.
Đây cũng là thái độ của PTH, khi nói về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm: Sợi sên nối
tiếp giữa họ bị gãy, và một lỗ hổng lịch sử xuất hiện.
Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm bèm’ của đám trí thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay "thế hệ bỏ đi" nổi tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự thực của nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc ‘tự do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong hoặc giật lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi sên liên tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah
Arendt, thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo,
bằng mọi cách, ‘đả phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn
ra cái sợi sên bị đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Khoanh
vùng vào văn chương Âu châu mà nói, cái hố thẳm mở ra một không gian
trống và thời gian rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha, không đồng
điệu, giữa hai ông khổng lồ, hai vị sư phụ vĩ đại nhất của thời đại
chúng ta, đó là Marcel Proust và Franz Kafka. Proust là lời giã từ cuối
cùng, đẹp như mơ, gửi tới thế giới của thế kỷ 19, và khi chúng ta trở
lại với tác phẩm của ông, viết trong âm điệu "no longer", "không còn
nữa”, ["than ôi, hoa rụng bên kia sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi
chiều nay cơn mộng tan rồi”, "ố là là", hết Loan, hết Dũng, hết "Đôi
Bạn" mất rồi…], và thế là cái tâm trạng não nề [‘từ lúc đưa em về là
biết xa ngàn trùng’] khiến chúng ta vãi lệ chứa chan!
Kafka, về một mặt khác, là người đương thời với chúng ta, chỉ tới một giới hạn. Sự tình như thể, ông viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa là, từ một tương lai xa xa, như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một thế giới ‘not yet’, "chưa có nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng chiều nay, thì chưa! Điều này đẩy chúng ta vào một cái vị thế xa xa, bất cứ khi nào chúng ta đọc, và bàn về tác phẩm của ông, một khoảng cách chẳng bao giờ trở nên nhỏ lại, mặc dù chúng ta biết nghệ thuật của ông thì là biểu hiện của một thế giới tương lai nào đó, cũng là thế giới của chúng ta – giả như chúng ta có được tương lai!
Nếu
Nhất Linh, ông Trùm tiền chiến, đóng vai Proust, thì Kafka Mít, là
Thanh Tâm Tuyền!
Cái hố
thẳm giữa họ, được cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
Tất cả những nhà văn
và thi sĩ lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và những chuẩn mức đo
lường của họ ở đâu đó giữa hai vị thầy đã mất này. Nhưng sách của
Hermann Broch rớt vào một phạm trù khác hẳn so với số còn lại. Ông có
chung, với Proust giọng độc thoại nội tâm, và với Kafka sự chối bỏ hoàn
toàn và triệt để, điều mua vui, giải trí, cũng như sự bận bịu với cái
siêu hình. Ông chia sẻ với Proust một sự yêu mến quá đỗi, thật là thâm
sâu, với cõi đời, như là nó được trao cho chúng ta; và ông chia sẻ với
Kafka, niềm tin tưởng, rằng, “người hùng” của tiểu thuyết thì hết còn
là một nhân vật với một số phẩm chất được định nghĩa tới nơi tới chốn,
mà chỉ là “một con người như thế đó” (bởi vì đối với cuộc đời thực của
một con người và nhà thơ, Virgil chỉ là một cơ hội cho những dự đoán
triết học của Broch) - tất cả thì đều thực, và những lịch sử của văn
học sau này có thể sẽ nói ra điều này.
Điều quan trọng hơn – ít ra vào lúc này, là, tác phẩm của Broch – qua
những đề tài mà nó quan tâm, qua trọn tính uyên nguyên, qua giọng rất
đỗi thơ tuyệt vời của nó – có một điều gì giống như một đường dây dẫn
bị thiếu, mất, giữa Proust và Kafka, giữa một quá khứ mà chúng ta đã
mất và không thể nào lấy lại được và một tương lai chưa ở trong tay.
Nói một cách khác, cuốn sách, tự thân nó, thì giống như một cây cầu mà
Virgil cố gắng băng qua hố thẳm của quãng không giữa “không còn nữa” và
“chưa nhưng sẽ có”. Và kể từ khi mà cái hố thẳm này thì thực, rất đỗi
thực, kể từ khi mỗi năm nó lại mỗi sâu thêm, đáng sợ thêm, kể từ năm
định mệnh 1914 trở đi, cho tới khi những cơ xưởng của Thần Chết được
dựng lên ở ngay trái tim của Âu Châu, cắt đứt luôn sợi dây đã cũ mòn mà
nhờ nó chúng ta còn bám víu được với thực thể hơn hai ngàn năm lịch sử;
và, kể từ khi chúng ta hoàn toàn sống trong “cõi trống rỗng”, đối đầu
với một thực tại mù tịt về ý tưởng truyền thống về thế giới và con
người có thể thắp sáng – quý báu như thể truyền thống này vẫn còn nằm ở
trong tim của chúng ta – chúng ta phải cám ơn sâu xa tác phẩm thi ca
lớn lao cố bám víu thật tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ quặc là tác phẩm trước đó của Broch chẳng hề tiên đoán, ông
sẽ ị ra Cái Chết của Virgil. Những
kẻ mộng du, ngoại trừ những phẩm chất của nó, như là một cuốn
tiểu thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó thì đầy ứ tài kể
chuyện, xuyên suốt tác phẩm, ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của riêng
mình: ông nói với độc giả của mình, tốt nhất, hãy cố mà tìm cho ra kết
cục của câu chuyện, đừng trông mong ở nơi ông; ông lơ là nhân vật, tình
tiết và chỉ xoắn mãi vào những ức đoán dài dòng về bản chất của lịch
sử. Cho tới một thời điểm nào đó, Broch quả là một tay kể chuyện tốt,
chịu chơi, biết chọc cười, làm độc giả vui, nhưng không phải là một thi
sĩ lớn.
Cái biến động làm cho Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với màn
cuối u tối của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch
thức giấc…
Biến
động làm Broch thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với giai đoạn u tối
sau cùng của Âu Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch
thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại khiến ông ngỡ ngàng và thế là
ông lập tức chuyển dịch nó vào trong một giấc mơ, quá xứng hợp với một
người thức giấc trong đêm. Giấc mơ này là Cái Chết của Virgil.
Những nhà phê bình phán, cuốn sách được viết bằng một thứ văn xuôi trữ
tình, điều này không hẳn đã đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng
dồn nén, rất giống những lời cầu khấn trong những thánh ca Homer, trong
đó Thượng Đế được con người kêu gọi hoài hoài, mỗi lần là mỗi nơi chốn
Thượng Đế cư ngụ, mỗi khung cảnh thần thoại, nơi khấn bái, thờ phụng,
như thể kẻ cầu nguyện phải cảm thấy chắc chắc, tuyệt đối chắc chắn, anh
ta không thể nào quên Thượng Đế. Trong cùng đường hướng như vậy, Broch
cầu khấn Đời sống, hay Cái chết, hay Tình yêu, hay Thời gian, hay Không
gian, như thể ông muốn hoàn toàn chắc chắn, tuyệt đối chắc chắc, ông
không quên một điểm nào. Điều này đem cho cuộc độc
thoại khẩn thiết tình cảm thê thiết của nó và làm bật ra hành động căng
thẳng, tập trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của cuốn sách của Broch, như cái tít chỉ ra, là 24 giờ chót của
cuộc đời Virgil. Nhưng cái chết thì được coi như không phải là một sự
kiện mà là một thành tựu tối hậu của con người - hoặc theo nghĩa, những
khoảnh khắc hấp hối là cơ may sau cùng và độc nhất để biết đời sống là
cái gì, hay theo nghĩa, đó là thời khắc mà con người phán đoán về chính
cuộc đời của mình, kẻ đang chết đó. Phán đoán này không phải là tự buộc
tội, bởi vì lúc đó đã quá muộn để mà mất thì giờ với một việc như thế,
cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu như thế, thì việc này lại quá
sớm; đó là cố gắng tối hậu để tìm ra sự thực, lời nói chung quyết của
trọn câu chuyện. Điều này làm cho phán đoán sau cùng là chuyện của con
người, con người tự tính sổ với con người, tránh cho Thượng Đế khỏi
vướng bận vào chuyện tầm phào như thế!
The Nobel Prize in Literature 2013
Sến Cô Nương
viết về Alice Munro
Tuyệt!
Thú, là Pat
[Patricia Highsmith] 1 tác giả Gấu rất mê, đọc, từ khi còn Xề Gòn.
Có câu văn
này, đọc thật khó hiểu: Hạnh phúc
thì ngắn ngủi và vô định. Bất hạnh dài gấp
đôi.
Làm sao biết,
gấp đôi?
Căng thật!
GCC đọc lại
bài viết về Pat thì mới ngộ ra, tại sao Sến mê Pat!
Mon amour
pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie.
Tình yêu của
tôi đối với Tchekhov, tôi phải thú nhận, luôn quằn quại thương đau, vì
ghen
tuông.
Italo
Calvino.
Người xưng tụng Chekhov bảnh nhất, tới nhất, theo GCC, là Amoz Oz, khi ông đọc song song "Cây vĩ cầm của Rothschild", của Chekhov, và "Y Sĩ Đồng Quê", của Kafka.
Chekhov vs KafkaChekhov: Đường vào vĩnh cửu
La petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov
GCC đọc Oz, thì mới vỡ ra cái truyện “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka, đọc từ hồi còn Xề Gòn. Và khi đọc DTH, bà kể, ngồi khóc ở hè đường Xề Gòn ngày 30 Tháng Tư..., thì gặp lại viên y sĩ của Kafka: "Dupé! Je suis dupé!" (Bị lừa! Tôi bị lừa!).
Trong
một bài diễn văn đọc năm 1975, Nadine Gordimer, Nobel văn chương, nói
về sức ép
và đòi hỏi đè nặng lên nhà văn da đen Phi Châu, và bà yêu cầu, anh ta
[chữ của
bà], phải giữ cho được tự do của mình, chỉ trong vị trí đó, anh ta mới
dâng hiến
tài năng của mình cho cuộc đấu tranh giải phóng. Và bà dẫn lời
Jean-Paul
Sartre: “Nhà văn một kẻ trung thành với cái bộ khung chính trị xã hội
[faithful
to the political and social body] nhưng không bao giờ ngưng chiến đấu
với nó”.
Và bà chỉ ra, người, suốt đời trung thành với ý tưởng cải tạo xã hội,
tuy nhiên
không ngưng chỉ trích, và chiến đấu, chống lại những đường hướng, chiến
thuật,
của những bạn bè chủ trương tiến bộ, đó là nhà văn Nga, Ivan Turgenev,
và cuốn Cha
và Con, Fathers and Sons [1862]. Khi phải trình ra một mẫu mã nhân
vật, như
Bazarov, một con người trong cái đa dạng, hết sức người của anh ta, in
his
full, all too-human complexity, Turgenev phải đối mặt với sự giận dữ
của đám trẻ
tiến bộ Nga, cho tới lúc đó, vẫn coi ông như là nhà vô địch của họ,
nhưng bây
giờ cảm thấy, bị chính ông đâm sau lưng.
… Đó là dịp
sau, chót, 1975, Gordimer dẫn ra một nhà văn Âu Châu, [da
trắng],
như một mẫu mã cho những nhà văn da đen. Bốn năm sau, bà muốn nhìn lại
hoàn
toàn vị trí của mình, entirely revise her position. Bà nói, ở Nam Phi,
có hai
văn hoá, một trắng, một đen. Đã qua cái thời văn hóa trắng áp đặt lên
văn hóa
đen. “Nghệ sĩ da đen trên sàn diễn như thế đó, là một khuôn mẫu tối
cao. Chỉ
như thế đó, mà tác phẩm của anh mới được đáng giá bởi chính dân tộc của
anh, và
họ, là một uy quyền tối cao, the supreme authority. Cho dù thiện ý của
một nhà
văn da trắng tới mức nào, “điều đưa ra, từ kinh nghiệm của anh ta, the
order of
experience, như là một nhà văn da trắng, khác biệt hoàn toàn với điều
đưa ra từ
kinh nghiệm da đen”. Và như thế, anh ta chẳng thể nào ở trong vị thế
đưa ra sự
cố vấn, hay đề nghị những khuôn mẫu. (1)
Cái vụ cho
Nobel năm nay, 1 tác giả chuyên viết truyện ngắn, ở 1 cái xứ chưa từng
biết đến
chủ nghĩa toàn trị, cái đói, cái ác của nó, Lò Thiêu, Lò Cải Tạo… xem
ra có cái
gì lấn cấn theo GCC, nếu nhìn theo quan điểm của Lukacs về thể loại
này.
Có vẻ
như Uỷ ban Nobel đang ở trong thời kỳ nằm giữa hai nút chặn, "Not Yet"
và "No
Longer"!
Hà, hà!
Tin Văn sẽ
post liền hai bài viết trong "Ngàn năm Kinh Kệ", "A Thousand
years of good prayers", 1, của David Robinson, "Nếu tôi mò về", "If I
Go Back",
trình bày quan điểm của YiYun Li, để tặng mấy tên nhà văn Mít hải ngoại
bò về,
và 1, là cái truyện ngắn tóm tắt ở trên.
V/v truyện
ngắn. Trên số báo Books mà GCC vừa nhắc
tới, có bài phỏng vấn nhà văn Tẫu Liao Yiwu, "Hãy chia nước Tẫu thành
20 xứ",
có cái truyện ngắn thật tuyệt: Màu của
cái chết, La couleur de la mort, tác giả Pema Tseden, một nhà làm
phim người
Tây Tạng. Khi nhìn thấy màu đó, là người ta biết chắc chắn, 1 người nào
đó, chết!
*
NQT bảo dịch Other Colors thành "những sắc màu khác". Tôi không đồng í vì "shade of color" mới là "sắc màu".
Tình cờ Gấu khám phá ra trang này, thấy post nhiều bài trên TV.
Tks
NQT
V/v màu sắc
vs màu.
Người Miền Nam thường nói
"sắc màu", hay "màu sắc",
khi nghĩ/dịch từ “color”.
Vả chăng, nếu
dịch sắc màu, thì lại lấy thêm được ý màu [da], và có thể Pamuk cũng có
ý đó,
khi đặt tên cuốn sách.
Một trong những ông thầy của Pamuk, là Faulkner, và
ông
này không cùng màu da với anh Thổ Nhĩ Kỳ, Pamuk.
Vargas Llosa cũng nghĩ như
thế, hẳn thế, khi viết về Faulkner. Ông phán, thằng chả, Yankee mũi lõ,
nhưng
đúng là cùng
màu da, cùng tiếng nói với chúng ta! (1)
(1)
“He wrote in
English, but he was one of our own”.
Vargas
Llosa: Fauklner in Labertino, in
"Making Waves"
Note: Bài này ngắn. GCC cứ tính dịch, nhưng sức người có hạn, hứa lèo hoài, vả lại ham chơi quá, thành ra quơn!
Trong “Tại
sao đọc những nhà văn cổ điển”, Italo Calvino có đi 1 đường về Chekhov,
sư phụ
của những Alice Munro, YiYun Li. Cái tít thú lắm, cõi nhân gian bé tí
của
Chekhov [nhớ đại khái, để coi lại].
Italo Calvion: Pourquoi lire les classiques
Note: Thay
vì viết về Alice Munro, Tin Văn giới thiệu bài viết của Italo Calvino,
về sư phụ
của Bà, Chekhov.
Ở trong bài
viết này, Calvino cũng nói ra cái ý mà GCC “vừa mới phán” [thế mới bảnh
chứ, đâu
có quàng cà chớn một ông Thần Tháp Rùa, với ông “Beckett, Nobel văn
chương- Lại Khám Phá
Ra Kịch"!]: Khó
mà coi Munro là đệ tử của Chekhov, so với 1 em Tẫu như Yiyun Li [cũng
da
vàng mũi tẹt
như Mít, cũng khốn nạn như Mít vì Cái Ác Á Châu,
hơn thế nữa, Cái Đại Ác CS]:
Il existe pour lui, en Union soviéique, une affection qui touche à la vénération: et, de ce petit médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez, ils font presque un prophète de la société socialiste; alors qu'en Occident il est célèbre tantôt comme un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux, tantôt même comme un symboliste mystique.
Ở Liên Bang Xô Viết, Chekhov được thờ phụng như nhà tiên tri của xã hội chủ nghĩa, trong khi ở Tây Phương, chúng coi ông là 1 tên bi quan, hay quá thế nữa, 1 tay biểu tượng thần bí!
Comments
Post a Comment