Kung Fu
Trong “Nước
cờ Hư Trúc”, Gấu Cà Chớn đã “mách nước” đám Hậu Vệ, đừng tìm cái
mới cho mất công,
cứ cái cũ mà xài, và nếu cần, thì làm như Kim Dung, đốt 1 que diêm đã
đốt rồi!
Đây đúng là tuyệt chiêu của Kim Dung, đốt 1 que diêm đốt rồi, mà vẫn cháy như thường, và có khi còn bảnh hơn lần cháy trước!
Hư Trúc, do muốn cứu mạng “Ác quán mãn doanh" Đoàn Diên Khánh bị ván cờ quái dị của chưởng môn phái Tiêu Dao đưa vào cõi chết, bèn nhặt đại 1 con cờ bỏ đại xuống bàn cờ, lay tỉnh họ Đoàn, nhưng khi Đệ Nhất Ác Nhân tỉnh lại, nhìn nước cờ “mình tự giết mình” – bởi vì đặt quân cờ vào chỗ đó, là tàn sát hầu như toàn thể quân ta, nhờ vậy, bàn cờ trở nên thoáng ra - bèn nhìn ra sinh lộ!
Thú vị hơn nữa, là sau đó, ông lại dùng chiêu này để cứu Thiên Sơn Đồng Mỗ, chủ nhân Linh Thíu Cung!
Cũng thế, là trận đấu giữa Miêu Nhân Phượng và Hồ Nhất Đao. Trong khi hai bên tử đấu, bà vợ HND ẵm Hồ Phi đứng coi, tối về nựng con, bố mày là Đệ Nhất Cao Thủ, ông chồng ngạc nhiên hỏi, ta đánh mãi không thắng hắn, “đệ nhất” cái gì. Bà vợ mới cho biết, do đứng ngoài, nhìn từ phía sau lưng MNP, nhận ra, mỗi lần ra chiêu “gì gì đó” [Gấu quên tên], là vai phải [hay vai trái] nhúc nhích. Ngày mai, nếu hắn ra chiêu kiếm đó đó, anh dùng chiêu này này, trong Hồ Gia đao pháp, là rồi đời hắn!
Bữa sau, quả nhiên như vậy, nhưng Hồ Nhất Đao vào giờ chót, tha mạng MNP, và nói, cái này là do bà xã đứng ngoài nhìn thấy, mách nước, thôi bỏ. Nhân đó, hỏi, MNP kể, khi còn nhỏ tập kiếm với ông bố, đúng lúc ra chiêu đó đó, thì bị 1 con kiến cắn, thế là nhói 1 cái, và bèn nhúc nhích vai, bị bố đánh đau quá, sau, mỗi lần ra chiêu, là nhúc nhích vai, chẳng cần kiến cắn nữa!
Trận đấu sau, lập lại trận đấu đó, giữa MNP và Hồ Phi, con HND, mới khủng khiếp.
MNP phải giết Hồ Phi, vì thấy thằng cà chớn từ trên giường phóng ra, cứu MNP, nhưng nhìn lại thì cô con gái của mình nằm trần truồng trên giường, do bị bế huyệt đạo, nhưng ông đâu có biết nguồn cơn …
Nên nhớ MNP, vì vợ bỏ theo trai, bây giờ có cô gái cưng lại bị thằng khốn làm thịt, làm sao tha cho nó được!
Lần trước thù giết bố, lần này vì con gái bị làm nhục.
Đây đúng là tuyệt chiêu của Kim Dung, đốt 1 que diêm đốt rồi, mà vẫn cháy như thường, và có khi còn bảnh hơn lần cháy trước!
Hư Trúc, do muốn cứu mạng “Ác quán mãn doanh" Đoàn Diên Khánh bị ván cờ quái dị của chưởng môn phái Tiêu Dao đưa vào cõi chết, bèn nhặt đại 1 con cờ bỏ đại xuống bàn cờ, lay tỉnh họ Đoàn, nhưng khi Đệ Nhất Ác Nhân tỉnh lại, nhìn nước cờ “mình tự giết mình” – bởi vì đặt quân cờ vào chỗ đó, là tàn sát hầu như toàn thể quân ta, nhờ vậy, bàn cờ trở nên thoáng ra - bèn nhìn ra sinh lộ!
Thú vị hơn nữa, là sau đó, ông lại dùng chiêu này để cứu Thiên Sơn Đồng Mỗ, chủ nhân Linh Thíu Cung!
Cũng thế, là trận đấu giữa Miêu Nhân Phượng và Hồ Nhất Đao. Trong khi hai bên tử đấu, bà vợ HND ẵm Hồ Phi đứng coi, tối về nựng con, bố mày là Đệ Nhất Cao Thủ, ông chồng ngạc nhiên hỏi, ta đánh mãi không thắng hắn, “đệ nhất” cái gì. Bà vợ mới cho biết, do đứng ngoài, nhìn từ phía sau lưng MNP, nhận ra, mỗi lần ra chiêu “gì gì đó” [Gấu quên tên], là vai phải [hay vai trái] nhúc nhích. Ngày mai, nếu hắn ra chiêu kiếm đó đó, anh dùng chiêu này này, trong Hồ Gia đao pháp, là rồi đời hắn!
Bữa sau, quả nhiên như vậy, nhưng Hồ Nhất Đao vào giờ chót, tha mạng MNP, và nói, cái này là do bà xã đứng ngoài nhìn thấy, mách nước, thôi bỏ. Nhân đó, hỏi, MNP kể, khi còn nhỏ tập kiếm với ông bố, đúng lúc ra chiêu đó đó, thì bị 1 con kiến cắn, thế là nhói 1 cái, và bèn nhúc nhích vai, bị bố đánh đau quá, sau, mỗi lần ra chiêu, là nhúc nhích vai, chẳng cần kiến cắn nữa!
Trận đấu sau, lập lại trận đấu đó, giữa MNP và Hồ Phi, con HND, mới khủng khiếp.
MNP phải giết Hồ Phi, vì thấy thằng cà chớn từ trên giường phóng ra, cứu MNP, nhưng nhìn lại thì cô con gái của mình nằm trần truồng trên giường, do bị bế huyệt đạo, nhưng ông đâu có biết nguồn cơn …
Nên nhớ MNP, vì vợ bỏ theo trai, bây giờ có cô gái cưng lại bị thằng khốn làm thịt, làm sao tha cho nó được!
Lần trước thù giết bố, lần này vì con gái bị làm nhục.
*
Kính anh
Nguyễn Quốc Trụ,
….
….
Em vào ngay
đây:
"Và
cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại
cho võ học, là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân
tích được”(Đỗ
Long Vân).
Đây là một khẳng định rất dễ gây tranh luận, vì nó đối nghịch với quan niệm “thông thường”, khi cho rằng thơ là để “cảm nhận”: Cái cõi nhẹ như tơ, mong manh như sương khói đó, đâu phải là để… phân tích!
Nên nhớ, cơ cấu luận là từ toán học mà ra. Người ta không thể nói về nó mà không khởi từ toán học, theo tính cách lịch sử cũng như lô gíc của vấn đề. Lévi-Strauss chẳng hạn, đã tạo nên những mẫu mã cơ cấu của ông từ môn đại số đại cương (algèbre générale).
Cho nên, từ định lý “cái nên thơ… của những gì phân tích được”, chúng ta có thể có được một hệ luận, là:
“Cái gì có thể phân tích được, là thơ.”
[Trích Vô Kỵ giữa chúng ta]
Đây là một khẳng định rất dễ gây tranh luận, vì nó đối nghịch với quan niệm “thông thường”, khi cho rằng thơ là để “cảm nhận”: Cái cõi nhẹ như tơ, mong manh như sương khói đó, đâu phải là để… phân tích!
Nên nhớ, cơ cấu luận là từ toán học mà ra. Người ta không thể nói về nó mà không khởi từ toán học, theo tính cách lịch sử cũng như lô gíc của vấn đề. Lévi-Strauss chẳng hạn, đã tạo nên những mẫu mã cơ cấu của ông từ môn đại số đại cương (algèbre générale).
Cho nên, từ định lý “cái nên thơ… của những gì phân tích được”, chúng ta có thể có được một hệ luận, là:
“Cái gì có thể phân tích được, là thơ.”
[Trích Vô Kỵ giữa chúng ta]
Ta có
mệnh đề:
Nếu f(a) = f(b) suy ra: a = b
Thì mệnh đề tương đương của nó là:
Nếu a khác b suy ra f(a) khác f(b).
Thì mệnh đề tương đương của nó là:
Nếu a khác b suy ra f(a) khác f(b).
Em xin nêu 1
ví dụ:
Cái gì đẹp
thì lạ nhưng cái gì lạ thường không đẹp.
Tương tự câu - muốn tiến lên CNXH cần có con người XHCN
sẽ đưa đến hậu quả là:
Tương tự câu - muốn tiến lên CNXH cần có con người XHCN
sẽ đưa đến hậu quả là:
Nếu (VN)
không có con người XHCN thì (VN) không có CNXH
Thực tế đã cho thấy không bao giờ có con người XHCN nên CS đã bị tổ trác trên toàn thế giới.
Kính anh. Nếu có điều chỉ giáo xin anh cứ mạnh tay.
SCD
Thực tế đã cho thấy không bao giờ có con người XHCN nên CS đã bị tổ trác trên toàn thế giới.
Kính anh. Nếu có điều chỉ giáo xin anh cứ mạnh tay.
SCD
Vậy hệ luận
mà anh nêu trên sẽ viết là:
Cái gì không thể phân tích được không phải là thơ
[GCC tô đậm]
Cái gì không thể phân tích được không phải là thơ
[GCC tô đậm]
Phúc đáp.
Bài viết bên
lề tác phẩm Vô Kỵ giữa chúng ta
của DLV, thực sự mà nói, chỉ là bản nháp. Đọc 1
khúc, thì lại viết 1 khúc, thế rồi nhân có dịp, bèn in, chưa có dịp
hoàn chỉnh.
Bài viết này đã từng được 1 website về chưởng Kim Dung type và post, và Gấu đã có mail, cho biết tình trạng như trên, và mấy vị chủ trương website cho biết, cứ post đã, sau có bản hoàn chỉnh, sẽ lại post tiếp!
Bài viết này đã từng được 1 website về chưởng Kim Dung type và post, và Gấu đã có mail, cho biết tình trạng như trên, và mấy vị chủ trương website cho biết, cứ post đã, sau có bản hoàn chỉnh, sẽ lại post tiếp!
Hà, hà!
Và cái câu
phán của mấy vị này, cũng có thể dùng để nói về.. cơ cấu luận: Có 1 cái
gì đó
chưa hoàn chỉnh về lý thuyết văn học này.
Tuy nhiên, 1 định luật toán học có phần đảo, phần thuận, phải đúng cả hai, thì mới coi là định lý được. Những góc vuông thì đều bằng nhau, nhưng những góc bằng nhau đâu “nhất thiết, bắt buộc” phải là… góc vuông!
Tuy nhiên, 1 định luật toán học có phần đảo, phần thuận, phải đúng cả hai, thì mới coi là định lý được. Những góc vuông thì đều bằng nhau, nhưng những góc bằng nhau đâu “nhất thiết, bắt buộc” phải là… góc vuông!
Hệ luận mà bạn
đưa ra, theo tôi, giống như thế, “những góc bằng nhau thì đều là góc
vuông”
Chủ nghĩa CS thì cũng y chang: Mít sẽ xây cái nhà to tổ bố, sau cuộc chiến Mít, nhưng nhà đâu chẳng thấy, mà hầu hết dân Mít thì đều mất nhà!
Chủ nghĩa CS thì cũng y chang: Mít sẽ xây cái nhà to tổ bố, sau cuộc chiến Mít, nhưng nhà đâu chẳng thấy, mà hầu hết dân Mít thì đều mất nhà!
Thân
NQT
Câu
bạn hỏi và vấn đề liên quan tới thơ & cảm thơ & phân tích
thơ &
thơ hũ nút & thơ hiểu được & không thể hiểuNQT
Văn
Chương Kung Fu
Trong “đại lục”
Kim Dung, nếu Gấu nhớ không lầm, có ba kho tàng.
Một, trong Bích
Huyết Kiếm, chủ nhân
kho tàng, là 1 ông vua, bị cháu lật đổ, bỏ chạy, thu gom vàng bạc, mong
dùng nó
tuyển mộ quân đội cướp lại ngôi. Bản đồ là 1 trong “tam bảo” của Ngũ
Độc Giáo. Viên
Thừa Chí nhờ bản đồ, kiếm được kho tàng, biếu Sấm Vương, đánh bại vì
vua cuối cùng
của nhà Minh, là Sùng Chinh, tức ông vua xử tử Viên Sùng Hoán, bố Viên
Thừa Chí.
Kho tàng thứ
nhì, ở núi Tuyết Sơn, là của Sấm Vương. Khi đại cục tan vỡ, Sấm Vương
thu gom vàng
bạc, lập kho tàng, làm bản đồ, 1 nửa giấu trong thanh đao lệnh của Sấm
Vương, một
nửa sau cùng nằm trong cây thoa Miêu Nhược Lan, con gái Miêu Nhân
Phượng, đeo. Sấm
Vương biết, Mãn Thanh dù có lấy được TQ, thì sau này, chắc chắn dân TQ
cũng sẽ
nổi lên, đuổi Mãn Thành ra khỏi TQ.
Kho tàng sẽ dùng vào việc đó.
Kho tàng này, trong Tuyết Sơn Phi Hồ.
Kho tàng sẽ dùng vào việc đó.
Kho tàng này, trong Tuyết Sơn Phi Hồ.
Phi Hồ, là tên của Hồ Phi,
đọc ngược.
Kho tàng thứ
ba là của quân Mãn Thanh.
Mãn Thanh, dù lấy được TQ, nhưng vẫn biết, sẽ có ngày bị đá ra khỏi TQ, bèn thu gom vàng bạc, lập pho tàng này, sau Vi Tiểu Bảo, trong Lộc Đỉnh Ký, kiếm thấy.
Mãn Thanh, dù lấy được TQ, nhưng vẫn biết, sẽ có ngày bị đá ra khỏi TQ, bèn thu gom vàng bạc, lập pho tàng này, sau Vi Tiểu Bảo, trong Lộc Đỉnh Ký, kiếm thấy.
Tuyết Sơn
Phi Hồ và Lãnh Nguyệt Bảo Đao,
có thể nói, là một. Không đọc truyện này, thì
khó hiểu được chuyện kia.
Tuyết Sơn
Phi Hồ, nếu biểu là hay nhất của Kim Dung, thì 1 phần của cái
hay của nó, là do
“viết hỏng” mà ra.
Trong TSPH, có những cái lỗi, có thể nói, không làm sao sửa được. KD cũng nhận ra, và cố sửa, nhưng sau cùng chịu thua.
Trong TSPH, có những cái lỗi, có thể nói, không làm sao sửa được. KD cũng nhận ra, và cố sửa, nhưng sau cùng chịu thua.
Lỗi nặng nhất,
là, Miêu Nhân Phượng đã từng gặp Hồ Phi mấy lần, vậy mà không nhận ra
để đến nỗi
cả hai phải lập lại trận đấu trước, giữa Miêu Nhân Phượng vs Hồ Nhất
Đao, và kết
quả của trận đấu, gây 1 trường náo loạn trong những độc giả của KD, vì
không biết
ai chết, giữa Miêu Nhân Phượng và Hồ Phi.
Kết thúc Tuyết Sơn Phi Hồ là
1 thai đố
giống như thai đố “mỹ nhân hay mãnh hổ” chắc nhiều độc giả đã từng
biết.
Trên TV hình
như cũng đã lèm bèm về chuyện này rồi.
Kim Dung viết Thần
Đao Hồ Đại Đởm, [tức Tuyết
Sơn Phi Hồ], thấy một vài chi tiết
sai, ông cố sửa, và viết lại cuốn truyện, thành Lãnh
Nguyệt Bảo Đao. Nhưng vẫn không thể giải thích tại sao Miêu
Nhân Phượng không nhận ra Hồ Phỉ, cậu bé con của người bạn ngày nào, dù
hai người
đã gặp nhau mấy lần.
Theo truyền
thuyết Ấn độ, Ganesh, vị thần đầu voi, vì quá mê văn chương, nên đã
chịu ngồi
dưới chân nhà thơ Vyasa, nghe kể và ghi lại toàn bộ bản văn
Mahabharata. Saleem
Sinai, nhân vật chính trong Những đứa con
giờ Tý của S. Rushdie, nhắc lại thần thoại trên, nhưng Ganesh của
anh lại
ngồi dưới chân thi sĩ Valmiki, và ghi lại Ramayana. Tác giả hy vọng
người đọc đừng
quá tin tưởng vào anh ta, và cũng đừng coi cuốn tiểu thuyết của ông là
một hướng
dẫn lịch sử Ấn độ sau khi được độc lập, cho dù nhân vật của ông sinh
vào nửa
đêm, giờ thứ nhất ngày 15 tháng Tám, 1947, giờ của tự do.
Theo
"qui ước", những nhân vật tiểu thuyết hay lầm lẫn thường là những kẻ
"ngu đần", và độc giả nhận ra liền ý nghĩa của câu chuyện. Nhưng nhân
vật trong truyện của Rushdie lại không ngu, anh ta hiểu chuyện gì đang
xẩy ra.
Vậy thì phải cắt nghĩa sao đây, về những chi tiết lầm lạc? Đành đổ tội
cho tác
giả, đã không chịu nghiên cứu, tìm tòi. Một lần, Rushdie gặp một độc
giả. Người
này giận dữ "sửa lưng" tác giả: "Nếu ông muốn sử dụng những truyền
thống Ấn độ, xin ông hãy cố gắng trân trọng chúng." Ông cũng nhận được
rất
nhiều thư độc giả, "sửa lưng" người viết, về những sai lạc trong những
tuyến xe buýt tại Bombay, những chức tước, cấp bậc trong quân đội...
Đọc thư,
ông như nhìn ra nụ cười hóm hỉnh của người viết.
Ông thừa nhận,
cuốn sách có vài chi tiết sai lầm. Ông đã lầm, nhân vật của ông cũng
bắt chước
ông, lầm "thêm" một lần nữa. Về cuộc tàn sát ở Amritsar, ông đã để
cho Saleem kể là, Dyer đi vào trong vườn Jalianwala Bagh, theo sau có
"năm
chục binh sĩ da trắng". Sự thực có 50 binh sĩ, nhưng không phải tất cả
da
trắng. Khi khám phá ra sự lầm lạc, ông rất bực bội, và cứ loay hoay tìm
cách
"sửa sai". Nhưng dần dà, ông nhận ra: Sự lầm lạc càng ngày càng
"thuộc về" nhân vật của ông. Rằng có cái gì đúng ở trong đó. Có những
đoạn, khi nhận ra sai, thay vì sửa, ông lại "quan trọng hóa" vấn đề.
Ông giải thích: Thoạt đầu, ông muốn nó mang hơi hướng của Proust. "Thời
gian và di dân: bộ lọc giữa tôi và đề tài. Và nếu như sức tưởng tượng
của tôi
khá mạnh mẽ, tôi có thể nhìn qua bộ lọc đó, và viết, như thể đây không
là quá
khứ; như thể tôi chưa từng rời khỏi Ấn Độ tới Tây phương. Nhưng trong
khi làm
việc, tôi khám phá ra, điều tôi quan tâm, chính là hiện tượng thẩm
thấu. Không
còn đi tìm thời gian đã mất mà là "cách" tái tạo quá khứ, dùng hồi nhớ
như một dụng cụ, sao cho quá khứ đáp ứng hiện tại."
[Viết, như
thể đây không là quá khứ, "như thể chẳng có gì đã xẩy ra, chẳng có gì
đã
thay đổi," như thể chưa từng, chưa từng... có lẽ đây là giấc mơ lớn
lao,
tuyệt vời nhất của chúng ta. "Thơ phải được đọc lên, được nghe, như đây
là
định mệnh cuối cùng của nó. Định mệnh của một tiếng nói nhưng cũng là
định mệnh
của hồi nhớ của bao nhiêu con người" (Thanh Tâm Tuyền, "Thơ giữa chiến
tranh và trại tù").]
Hồi nhớ thường
lầm lạc, và thường hay "chọc quê" con người. Để chống lại, con người
ôm lấy kỷ niệm giả, thay vì sự kiện thực. Người đọc đành phải coi những
biến cố
trong tiểu thuyết chỉ là những giả dụ. Bản thân người viết, qua mục
"Tạp
Ghi" (trên tờ Văn Học, Cali) đã hơn một lần bị trí nhớ đánh lừa. Câu
của
Sartre, trong bài viết về Koestler, "tác phẩm lớn như cây đại thụ",
thực sự không phải vậy. Khi viết về Sartoris của Faulkner, ông cho rằng
tác phẩm
lớn, tới một lúc nào đó, giống như sỏi đá, cây cỏ. Người đọc chấp nhận,
và quên
luôn nó đã từng có một tác giả. Cũng trong bài "Trầm luân vì niềm
tin" kể trên, người viết đã cố tình "hiểu sai" ý nghĩa của cuốn
truyện, vì như một độc giả có thiên kiến, hoặc như bao con người của 10
ngày cải
tạo, anh ta không tin sự chuyển hoá cuối cùng, Rubashov "lần hồi" trở
lại làm người.
Về chuyện thả
mồi bắt bóng, Borges là một bậc thầy. Ông còn đi xa hơn, coi Don
Quichotte, của
Cervantes, là một cuốn sách "giả", chính nó được viết ra bởi một tác
giả "giả", Pierre Ménard. Gilles Deleuze nhân đó, cho rằng, đã đến
lúc phải kể một cuốn sách thực, về triết học đã qua, như đây là một
cuốn sách
giả. Như vậy, sự lập lại đúng nhất, triệt để nhất "đẩy" sự khác biệt
tới mức tối đa ("Bản văn của Cervantes và Ménard từ ngữ y hệt nhau,
nhưng
cái sau rõ ràng là súc tích vô cùng..."). Giả và thực là hiện hữu kép
của
tác phẩm. Tác phẩm kép "lý tưởng" chính là sự lập lại bản cổ văn/ bản
hiện đại, cái nọ trong cái kia. (Gilles Deleuze, Différence et Répétition,
Paris, PUF, 1972).
Vũ Quần
Phương, Tổng Biên Tập báo Người Hà Nội,
khi được phỏng vấn về "bối cảnh lịch
sử", và nhận định với tư cách thành viên Ban chung khảo giải thưởng, về
cuốn
Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, ông cho biết: "Tôi đề nghị cho giải
B,
vì cuộc chiến Bảo Ninh thể hiện không phải là cuộc chiến ta đã trải
qua. Tôi đã
sống giai đoạn lịch sử này, tôi thấy cảnh ném bom tả ở ga Thanh Hoá là
không có
trong thời kỳ chiến tranh phá hoại. Tôi nhớ một thành viên trong ban
giám khảo
giải thích: "Bảo Ninh không định phản ánh hiện thực, anh suy ngẫm hiện
thực"
Tôi không tin, vì muốn suy ngẫm đúng thì phải dựa trên dữ kiện đúng...
Tác giả
như muốn đứng cao hơn cả hai phía để phán xét cuộc chiến. Với anh,
chiến tranh
là chiến tranh, không có tính từ nào kèm theo. Đó là bộ máy huỷ diệt -
đi qua
nó, cái tốt đẹp bị huỷ diệt, cái còn lại thành thân tàn ma dại không
thích hợp
với thời bình. Sau này, một nhà nghiên cứu giải thích cho riêng tôi:
Bảo Ninh
ra trận ở cuối giai đoạn của cuộc chiến, sự trải nghiệm của anh có thể
khác lúc
tôi đi..."
Trong giai
phẩm "gió đông", (đã đình bản), Vũ Hoằng Dương nhận định một bài của
Nguyễn Khải, viết về Hà-nội: "Riêng nhà văn, dường như ông không màng
đến
chuyện đánh giá. Ông cứ kể tỉnh bơ, kể những chuyện động đến nhà nước,
đến con
người, đến luôn bản thân ông... Ông tỉnh bơ như thể: tôi chỉ nói thực
tế, bản
thân chẳng ý kiến gì".
Nhưng
"kể tỉnh bơ", là đã có vấn đề rồi. Văn tự "trắng, trung
tính" là cõi không tưởng, một đảo ngược "đất hứa", thời đại
hoàng kim của nhà văn-không văn chương, khi con người còn ngạc nhiên về
vẻ tự
nhiên của sự vật.
Vũ Hoằng
Dương trích dẫn Bùi Minh Quốc, "Chả trách Nguyên Ngọc có lần xếp Nguyễn
Khải
(cùng với Chế Lan Viên) là hai trong "những người thông minh sắc sảo
vào
hàng nhất nước". Chính vì quá thông minh, nên Nguyễn Khải đã chọn lựa
một
cách viết tối hảo cho ông, khi viết về những chuyện động đến nhà nước:
để cho sự
kiện nói. Bởi vì ông hiểu rất rõ, chi tiết, sự kiện, là "ông trời"
trong văn chương.
Người ta nói
đến những chi tiết tàn nhẫn, cái ác trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp.
"Người Nghệ sĩ Đói" được coi là truyện ngắn độc ác nhất của Kafka:
công chúng phải trả tiền để vào xem người nghệ sĩ đói, ở trong chuồng,
để mân
mê thân hình trơ xương của anh. Liệu chúng ta có thể nhìn ra, một hiện
hữu kép
của tác phẩm, như "sự kiện giả", ở Bảo Ninh, và "sự kiện thật, kể
tỉnh bơ", ở Nguyễn Khải?
Chi tiết là
Thượng đế trong văn chương. Cô Hiền, nhân vật của Nguyễn Khải chỉ biết
mặt
trái, phía "sau, tối, khuất" của Hà-nội. Vậy thì phía sáng của nó
đâu? Lê Trọng Phương, trong "gió đông", khi nhắc đến tấm bản đồ tỷ lệ
xích 1:1, rách tả tơi mà một số người cố gắng mang ra khỏi nước, rồi
tìm đủ mọi
cách vá víu lại, ngụ ý đây là phía sáng của Hà-nội. Đọc những tác giả
ra đi từ
miền Bắc, cá nhân tôi bắt gặp những chi tiết "cửa sổ" đó; những chi
tiết cực kỳ thơ, trong một thế giới cực kỳ không thơ mà Kundera đã nói
tới.
Nhân vật
trong Về Làng của Lê Minh Hà
(Văn Học số tháng Sáu, 1997), về làng là để đi
luôn không về nữa. "Tôi còn gì ở đó?", cô gái tự hỏi. Tôi cũng tự hỏi
như vậy, và tìm thấy, ở trong truyện ngắn, những chi tiết "cửa sổ" mà
cô gái muốn mang đi cùng với cô. Bởi vì, "Bắt đầu lại từ đầu ở xứ người
vào tuổi ngoài ba mươi như thế nào tôi không hình dung được".
"Tôi
còn gì ở đó?".
Đây là một số chi tiết cô
còn: "Buổi chiều nắng hết ơi
ơi mà rực lên như nắng những ngày sau bão..." "Nhớ! sao không nhớ?
Xuy Xá. Đình tám mái sân đầy hoa gạo và cứt chim. Bãi dâu xanh mênh
mông. Hoa
muồng muồng vàng rực. Chợ Lai Thụ toàn thịt chuột là táo bột... Kỳ thi
học sinh
giỏi toàn miền Bắc năm đó tổ chức ở cái làng heo hút ấy. Máy bay Mỹ
oanh tạc khắp
nơi. Một kỷ niệm như thế quả thực không dễ có trong đời đi học."
Kim Phúc, cô
bé bị bom napan năm nào suốt đời chỉ mơ được mặc áo ngắn tay. Cô bỏ đi,
vì
không muốn nhà nước "lạm dụng" ước mơ của cô vào mục đích tuyên truyền.
Không muốn một ước mơ không làm sao đạt được, một chi tiết cửa sổ biến
thành
nhà tù giam giữ cô.
Viết như thể
đây không là quá khứ, như thể chẳng có gì đã xẩy ra, hay viết sao cho
quá khứ
đáp ứng hiện tại, hay viết một cuốn sách giả, về một cuốn sách thực...
NQT
PIX: Nguyễn Đình Thuần & Nguyễn Đức Bạn
Trước 1975,
Gấu không được quen Đỗ Long Vân. Có gặp, đúng hai lần. Một, ở Quán
Chùa, ông đi
cùng một hai người bạn, liền ngay sau bài giới thiệu Gấu viết về 1 cuốn
sách của
ông mới ra lò, đăng trên trang VHNT của nhật báo quân đội VNCH, Tiền
Tuyến.
Gấu có nhắc lại cuộc gặp gỡ này, trong bài tưởng niệm ông, khi nghe tin ông mất, trước đó cũng lâu, ở quê nhà, trên tờ Văn Học của NMG. Bài viết thực sự là cho báo Sóng Văn, nhưng NMG, đọc bản thảo, thú quá, bèn biểu “thằng người làm”, “thằng viết muớn”, thằng “hitman”, ông cho tôi bài này. Ông chủ báo Sóng Văn, biết, bực lắm, nhưng cũng bỏ qua!
Lần thứ nhì, gặp ông, là đi cùng với Joseph Huỳnh Văn tới Đài truyền tin Phú Lâm, nơi ông trực thuộc, khi bị bắt đi lính, như là 1 bình nhì, vì không trưng bằng cấp, tuy là giáo sư Đại Học. Joseph hẹn gặp, để lấy bài Truyện Kiều ABC, của DLV, viết cho tờ Tập San Văn Chương.
Chắc cũng chỉ tình cờ, bữa tá túc nhà bạn Bạn, ông hỏi tôi, Đỗ Long Vân thuộc băng đảng nào trước 1975.
Gấu bèn ngớ ra, và sau đành nói đại, ông hay viết cho tờ Trình Bày, như vậy, chắc thuộc băng “phản chiến”!
Còn ông bạn họa sĩ đang ngồi khoa tay, thì trong 1 lần nhậu, cho biết, có gặp bà xã của Đỗ Long Vân, trong lần triển lãm tranh ở Houston, Texas, và có nhắc tới cuốn Gấu viết về DLV, bà xã của ông bèn đưa ra nhận xét, ông ta có viết, nhưng đâu có viết gì về Đỗ Long Vân!
Gấu có nhắc lại cuộc gặp gỡ này, trong bài tưởng niệm ông, khi nghe tin ông mất, trước đó cũng lâu, ở quê nhà, trên tờ Văn Học của NMG. Bài viết thực sự là cho báo Sóng Văn, nhưng NMG, đọc bản thảo, thú quá, bèn biểu “thằng người làm”, “thằng viết muớn”, thằng “hitman”, ông cho tôi bài này. Ông chủ báo Sóng Văn, biết, bực lắm, nhưng cũng bỏ qua!
Lần thứ nhì, gặp ông, là đi cùng với Joseph Huỳnh Văn tới Đài truyền tin Phú Lâm, nơi ông trực thuộc, khi bị bắt đi lính, như là 1 bình nhì, vì không trưng bằng cấp, tuy là giáo sư Đại Học. Joseph hẹn gặp, để lấy bài Truyện Kiều ABC, của DLV, viết cho tờ Tập San Văn Chương.
Chắc cũng chỉ tình cờ, bữa tá túc nhà bạn Bạn, ông hỏi tôi, Đỗ Long Vân thuộc băng đảng nào trước 1975.
Gấu bèn ngớ ra, và sau đành nói đại, ông hay viết cho tờ Trình Bày, như vậy, chắc thuộc băng “phản chiến”!
Còn ông bạn họa sĩ đang ngồi khoa tay, thì trong 1 lần nhậu, cho biết, có gặp bà xã của Đỗ Long Vân, trong lần triển lãm tranh ở Houston, Texas, và có nhắc tới cuốn Gấu viết về DLV, bà xã của ông bèn đưa ra nhận xét, ông ta có viết, nhưng đâu có viết gì về Đỗ Long Vân!
Đúng như vậy.
Gấu không được quen với DLV.
Những bè bạn của ông, viết, mới đúng.
Đinh Cường có lần nhắc tới DLV, ngồi đọc sách, trong khi ông nhậu với mấy đấng bạn khác, hình như thế.
Mới đây, Gấu đọc báo trong nước, 1 tay nào đó, có viết về cái chết, thật là đau lòng của ông, nhưng thôi, bỏ.
VC viết thì cũng khó tin, nhưng quả là những ngày sau 1975 của ông thì thê lương hơn nhiều, so với những ngày cũng thê lương chẳng thua gì, trước 1975.
Những bè bạn của ông, viết, mới đúng.
Đinh Cường có lần nhắc tới DLV, ngồi đọc sách, trong khi ông nhậu với mấy đấng bạn khác, hình như thế.
Mới đây, Gấu đọc báo trong nước, 1 tay nào đó, có viết về cái chết, thật là đau lòng của ông, nhưng thôi, bỏ.
VC viết thì cũng khó tin, nhưng quả là những ngày sau 1975 của ông thì thê lương hơn nhiều, so với những ngày cũng thê lương chẳng thua gì, trước 1975.
Đời Gấu Cà
Chớn mà chẳng thê luơng sao?
Hà, hà!
Đâu có sao!
Mà có sao thì cũng đếch cần!
Hà, hà!
Đâu có sao!
Mà có sao thì cũng đếch cần!
Duyên do Gấu
viết về bản văn “Vô Kỵ giữa chúng ta” của Đỗ Long Vân:
Gấu về Hà Nội,
vớ được nó, tại 1 sạp báo. Từ sạp báo, nhìn qua con hồ, Hồ Gươm, Gấu
muờng tượng
ra 1 cái tiệm thuốc Tây, hồi Gấu được về Hà Nội học, 1954 còn thấy nó,
nghe nói
của gia đình DLV. Ông đi Tây học, để về làm chủ tiệm thuốc Tây, nhưng
mê văn
chương, nhất là mê Simone Weil, thế là bèn tung hê hết. Cái chết của
ông, như
sau này đọc qua 1 tay nào trong nước viết, nếu đúng như thế, thì chắc
cũng là
noi gương Simone Weil.
Về lại
Canada, Gấu vừa gõ bài viết của DLV, vừa viết ở bên lề bản văn, lập lại
trường hợp
Đạt Ma Tổ Sư viết Cửu Dương Thần Công, ở bên lề 1 cuốn kinh Phật, vì
vậy mà sau
này mở ra 1 trường giang hồ gió tanh mưa máu, cùng sự xuất hiện của đủ
các thứ
môn phái võ học, nào Nga Mi, nào Côn Luân, nào Võ Đang....
Comments
Post a Comment