WB



 

*


View of an arcade (the passage Choiseul, located in the second arrondissement of Paris),
as an example of the characteristic architecture of the covered arcades of 19th-century Paris. (1)

 
*
Thương Xá là từ của NTV đề nghị, để dịch cái tít The Arcades Project của Walter Benjamin.
Nhưng bây giờ, GCC nghĩ, nên dịch Dự Án Vòm thì mới giữ được cái giấc mộng xì ke tuyệt vời của ông, và nhờ nó mà ông đi luôn, không bị đưa đi cải tạo phục hồi nhân phẩm ở Phạm Văn Cội, Củ Chi, hay ở Đỗ Hòa, Cần Giờ như GCC!

Trong cuốn tiểu sử của Koestler,
[Koestler: The Literary and Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic], Michael Scammell cho biết, vào những ngày nhốn nháo đó, hai ông bạn gặp nhau, và K có hỏi xin Benjamin một liều, phòng ngừa lúc chót, lỡ gặp VC/SS, thì bèn bỏ vô họng.
K. không phải sử dụng tới, còn Benjamin thì được toại nguyện!
Dự Án Vòm thì còn có lý, chứ Ngõ Vòm thì nhảm quá.
Vòm của GCC là muốn nhắc tới cái đỉnh cao vời vợi, thường gọi là Quang Minh Đỉnh, hay Đỉnh Vòm, nơi đệ tử Cô Ba tụ họp, thường là 1 gác xép trên đỉnh một tòa nhà cao ngất ở Sài Gòn.
Với GCC là đỉnh vòm ở một tòa nhà trên đường Trần Hưng Đạo, khu Nancy.
Đó là nơi GCC và ông bạn ca sĩ SP thường kéo nhau tới đi mây về gió.
Walter Bejamin là ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một sử gia? Hay "chỉ là" một nhà văn?
Câu trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là một "trong số những người không thể xếp loại… là những người có tác phẩm không hợp với trật tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào."
Cách tiếp cận độc đáo của ông – tới với một đề tài không theo lối thẳng băng, mà đi xiên từ một góc độ, bước từng bậc, từ một tổng kết qui mô đã hoàn hảo, tới bậc kế tiếp – khiến người ta nhận ra ngay, vì chẳng ai bắt chước nổi, với trí tuệ sắc bén, với kiến thức nhẹ mang, và với một văn phong chính xác và súc tích tuyệt vời, đã có lần ông đành không dám nghĩ về mình, là giáo sư tiến sĩ. Làm sao tới được sự thực về thời đại của chúng ta, đó là cốt lõi dự án của ông, và nó được nhấn mạnh bởi một tư tưởng, mà Bejamin nhận thấy, đã được diễn tả bởi Goethe: làm bật ra những sự kiện, theo kiểu này: những sự kiện sẽ là lý thuyết của chính chúng.

Coetzee: Những Kỳ Tích về Walter Benjamin

*
Trang đầu của Dự Án Vòm

 
by Elif Shafak
'One doesn't read him to feel better – one reads him to feel' 
Tôi là sinh viên cao đẳng khi bắt đầu đọc Walter Benjamin. Nhà phê bình văn học, triết gia, tiểu luận gia, ông là 1 người của những con chữ. Là một người Đức Do Thái, sinh vào thời nhiễu nhương, vào cuối thế kỷ 19, và ở một nơi chốn nguy hiểm nhất, Berlin.
Khi còn sống, ông được chỉ một dúm người biết tới, và sau khi chết, danh tiếng của ông thì bắn đi như 1 trái hoả tiễn. Tôi còn nhớ, mình kiên nhẫn đợi khủng như thế nào, bản tiếng Thổ “Dự Án Vòm” của ông.
Cuốn sách du lịch mọi nơi cùng với chủ của nó, là tôi, tất nhiên, trang nhàu nát, góc xoắn tít, thời gian nhấm nháp, tàn thuốc ăn lủng, mặt đầy tàn nhang, là những giọt cà phê, và một lần, trong 1 buổi hòa nhạc rốc, chủ của nó bỏ mặc nó dưới mưa.
Trong tất cả những cuốn sách mà tôi đọc trong năm dó, giả tưởng hay không giả tưởng, không có cuốn nào được yêu thương bằng 1 cách thương đau, một cách rã rời, tả tơi như Dự Án Vòm!
Benjamin là một nhà luyện kim kiểu này hoặc kiểu nọ, một nhà trí thức Mác Xít quái đản nhất, con cừu đen ở mọi bày đàn. Ông quậy văn chương vô triết học, những câu hỏi được tôn giáo nêu ra với những câu trả lời từ thế tục, đối lập tả phái với chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa lý tưởng Đức với duy vật lịch sử, chán chường, tuyệt vọng với sáng tạo… Ông là một chuyên gia về Goethe, Proust, Kafka, va Baudelaire, nhưng cũng còn viết rộng rãi về những điều nhỏ bé, bình thường ở đời. Ông không phải thứ triết gia tháp ngà. Một khi bạn tiếp tục đọc ông thì hầu như bạn đang theo dõi ông lang thang trên đường phố, lắng nghe những con người, loay hoay ghi chép, làm những phác họa, hoài hoài thâu gom, nhặt nhạnh.
Người ta không đọc ông để cảm thấy khá hơn. Người ta đọc ông để “cảm thấy”. Trong vũ trụ của ông không điều gì xuất hiện như là nó xuất hiện, có đó, và có một sự cần thiết sống còn, cực kỳ quan trọng, là, vượt quá những bề mặt và móc nối với nhân loại. Sống là bước trên đống đổ nát, lắng nghe bất cứ dấu hiệu của đời sống từ bên dưới điêu tàn vọng ra. Buồn bã tạo nên phần nội của hiện hữu của ông. Một buổi chiều, một tên bạn trai tôn thờ hư vô chủ nghĩa, nhậu say, nhìn bức hình Benjamin trên tường la lớn: “Cười đi, me-xừ Walter!” Đâu cần ông vác thế giới trên đôi vai của ông. Ông chết rồi mà, hãy relax!” Anh ta sau đó ném ly rượu vang vào ông. Tôi nghi là anh ta tính quăng vào mặt tôi. Tôi lau dọn sạch sẽ bằng xà bông giặt đồ, một vệt dơ rượu vang nằm ỳ trên mắt kiếng, khiến như ông nhìn mọi vật qua cặp kiếng màu đỏ.
Thượng Đế, tiến bộ, văn minh, không có thứ gì mà ông không nghi ngờ, đặc biệt là, chính ông. Nhà trí thức cao vời vợi như ngọn tháp còn là 1 con người hồ nghi một cách thật khiêm nhường.
Gershom Scholem, tổ sư của chủ nghĩa thần bí Do Thái cho rằng, Benjamin là một linh hồn đặc dị nhất, nhưng hà cớ làm sao mà ông ta lại đàn đúm với đám tả phái, lại phò… VC!
Brecht cực kỳ nể Benjamin nhưng cũng chẳng bao giờ hiểu nổi ông loay hoay làm gì với đám thần bí.
Và giữa hai thế giới đó, trong khi chuyển giải những từ ngữ của những kẻ chẳng nói chung 1 thứ ngôn ngữ, Benjamin dọn riêng cho mình 1 cái chiếu, đẹp tuyệt vời trong cái cô đơn mình ên của ông.
Khi Nazi cũng cố quyền lực của chúng, và nhân loại đổi lẽ phải lấy khùng điên, hài hòa lấy mù quáng, ông phải bỏ chạy quê hương của ông, người đàn ông không thể nào sống rời xa cái thư viện của mình. Cuộc lữ lòng vòng quanh Âu Châu thì đầy những hiểm nguy. Vào ngày 26 Tháng Chín 1940, ông tự chấm dứt đời mình ở biên giới Pháp- Tây Ban Nha, trong khi chờ visa được chấp thuận.
Suddenly he had decided to wait no more, doubt no more.
Bất thình lình, ông quyết định đếch thèm đợi, đếch thèm nghi ngờ nữa.
Elif Shafak
• Elif Shafak's Honour is published this month by Viking.
Danh dự, tác phẩm của Elif Shafak đượcViking xb tháng này [April, 2012]
Thương Xá, The Arcades Project, của Benjamin mở ra bằng câu thơ của một thi sĩ Việt Nam,
để vinh danh Paris, Kinh Đô Thế Kỷ 19:
The waters are blue, the plants pink, the evening is sweet to look on;
One goes for a walk; the grandes dames go for a walk; behind them stroll the petites dames.
[Những dòng nước xanh, cây cối đỏ hồng, buổi chiều nhìn thú biết bao;
Người ta đi dạo, những mệnh phụ phu nhân đi dạo, theo sau nhẩn nha là những phụ nữ bình dân]
Nguyen Trong Hiep, Paris, capitale de la France: Receuil de vers (Hanoi, 1897), poem 25.
Bản tiếng Anh của Harvard University Press.
Nguyên bản tiếng Pháp [do Nguyễn Tiến Văn sưu tầm]:
Les eaux sont bleues et les plantes roses;
Le soir est doux à contempler;
on se promène.
Les grandes dames se promènent;
derrière elles vont et viennent de petites dames. 
Nguyễn Trọng Hiệp [1934-1902], danh thần đời Tự Đức, quê Hà Đông, tác giả những bộ sử quan trọng như Minh Mạng Chính Yếu, ĐạiNam Chính Biên Liệt Truyện, từng giữ chức Tổng Tài Quốc Sử Quán.
Hai câu thơ Benjamin trích dẫn, ở trong tập thơ Tây Sà Thi Tập.
Benjamin khởi sự viết Thương Xá tháng Năm 1935, sau khi bỏ chạy Đức Nazi qua Pháp. Vụ Yên Bái nổ ra vào năm 1930.
Simone Weil bị ảnh hưởng sâu đậm bởi những bài báo trên tờ Người Paris Nhỏ, về số phận người Annamites, vài tháng sau khi vụ Yên Bái bị dập tắt trong hai tuần lễ. "Tôi không bao giờ quên được lúc mà, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm và hiểu được bi kịch thực dân thuộc địa".
Chắc là Benjamin cũng bị ảnh hưởng tương tự, và đó là lý do Benjamin mở ra Thương Xá bằng những dòng thơ của Nguyễn Trọng Hiệp, như là một tiên đoán sự cáo chung của chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam.
Engels nói với tôi rằng chính tại Paris, vào năm 1848, ở quán Café de la Régence [một trong những trung tâm sớm sủa nhất của cách mạng 1789), Marx đã trình bày cho Engels định mệnh thuyết kinh tế về lý thuyết duy vật lịch sử của ông. - Paul Lafargue.
Vào năm 1757 cả Paris chỉ có 3 tiệm cà phê.
[Thương Xá, trang 108].
Tôi bị hạ đo ván, khi đọc Thương Xá, nói vậy vẫn chưa đủ mạnh!
Tôi biết, đây là một tác phẩm về lịch sử văn hóa, và nó còn thật có ích,
nếu được đọc như phê bình văn học, hay triết học.
Nhưng tôi không làm sao bỏ qua, ý tưởng, rằng,
đây là một bài thơ sử thi vĩ đại nhất được viết bởi thế kỷ 20:
mẩu đoạn, mâu thuẫn, xung đột, và mời gọi một cách thật là sâu thẳm.
André Alexis, Globe and Mail
"Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.
Đây là sân khấu của tất cả những cuộc chiến đấu, tất cả những tư tưởng của tôi.
Benjamin viết về Thương Xá (1)
It… "must be saved. It is more important than I am".
Nó, trang Tin Văn, phải được ‘save’.
Nó quan trọng hơn Gấu Cà Chớn rất nhiều!
Hà, hà!
*
"Tay này không học bơi, theo chiều, hay nguợc chiều dòng nước"
Hannah Arendt
Trong bài viết về ông, trên tờ Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín, 2009, có một chi tiết sai: ông mất ở Port-Bou, thuộc Tây Ban Nha, không phải Pháp.
Những Kỳ Tích về Walter Benjamin
Từ một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.
"To great writers, finished works weigh lighter than those fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)
Ui chao, câu trên mà đề tặng Gấu Nhà Văn thì thật là tuyệt:
Bài viết nào cũng nhếch nhác, chẳng bài nào hoàn tất, chẳng biết khúc nào Gấu viết, khúc nào Gấu chôm chĩa!
Vẫn thua giấc đại mộng của Benjamin: Viết một đại tác phẩm, toàn trích đoạn, chôm của kẻ khác!
*


by Elif Shafak
'One doesn't read him to feel better – one reads him to feel'
Walter Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính cái gọi là vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái" (17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka. "Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những tư tưởng hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời: Thượng Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,' Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng Đế, một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những nhân vật thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng tròn gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là loài vật; ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb hay Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm của người cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên ngoài vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this circle).


Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật Tâm, trong Bếp Lửa, khi đã bỏ chạy thoát cái nước Mít khốn nạn, viết về cho Thanh, cô bạn gái, người em họ, cô ca sĩ:
Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.

Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956
Bếp Lửa

Tôi là sinh viên cao đẳng khi bắt đầu đọc WB. Nhà phê bình văn học, triết gia, tiểu luận gia, ông là 1 người của những con chữ. Là một người Đức Do Thái, sinh vào thời nhiễu nhương, vào cuối thế kỷ 19, và ở một nơi chốn nguy hiểm nhất, Berlin.
Khi còn sống, ông được chỉ một dúm người biết tới, và sau khi chết, danh tiếng của ông thì bắn đi như 1 trái hoả tiễn. Tôi còn nhớ, mình kiên nhẫn đợi khủng như thế nào, bản tiếng Thổ “Dự Án Vòm” của ông.
Cuốn sách du lịch mọi nơi cùng với chủ của nó, là tôi, tất nhiên, trang nhàu nát, góc xoắn tít, thời gian nhấm nháp, tàn thuốc ăn lủng, mặt đầy tàn nhang, là những giọt cà phê, và một lần, trong 1 buổi hòa nhạc rốc, chủ của nó bỏ mặc nó dưới mưa.
Trong tất cả những cuốn sách mà tôi đọc trong năm dó, giả tưởng hay không giả tưởng, không có cuốn nào được yêu thương bằng 1 cách thương đau, một cách rã rời, tả tơi như Dự Án Vòm!
Benjamin là một nhà luyện kim kiểu này hoặc kiểu nọ, một nhà trí thức Mác Xít quái đản nhất, con cừu đen ở mọi bày đàn. Ông quậy văn chương vô triết học, những câu hỏi được tôn giáo nêu ra với những câu trả lời từ thế tục, đối lập tả phái với chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa lý tưởng Đức với duy vật lịch sử, chán chường, tuyệt vọng với sáng tạo… Ông là một chuyên gia về Goethe, Proust, Kafka, va Baudelaire, nhưng cũng còn viết rộng rãi về những điều nhỏ bé, bình thường ở đời. Ông không phải thứ triết gia tháp ngà. Một khi bạn tiếp tục đọc ông thì hầu như bạn đang theo dõi ông lang thang trên đường phố, lắng nghe những con người, loay hoay ghi chép, làm những phác họa, hoài hoài thâu gom, nhặt nhạnh.
Người ta không đọc ông để cảm thấy khá hơn. Người ta đọc ông để “cảm thấy”. Trong vũ trụ của ông không điều gì xuất hiện như là nó xuất hiện, có đó, và có một sự cần thiết sống còn, cực kỳ quan trọng, là, vượt quá những bề mặt và móc nối với nhân loại. Sống là bước trên đống đổ nát, lắng nghe bất cứ dấu hiệu của đời sống từ bên dưới điêu tàn vọng ra. Buồn bã tạo nên phần nội của hiện hữu của ông. Một buổi chiều, một tên bạn trai tôn thờ hư vô chủ nghĩa, nhậu say, nhìn bức hình Benjamin trên tường la lớn: “Cười đi, me-xừ Mr. Walter!” Đâu cần ông vác thế giới trên đôi vai của ông. Ông chết rồi mà, hãy relax!” Anh ta sau đó ném ly rượu vang vào ông. Tôi nghi là anh ta tính quăng vào mặt tôi. Tôi lau dọn sạch sẽ bằng xà bông giặt đồ, một vệt dơ rượu vang nằm ỳ trên mắt kiếng, khiến như ông nhìn mọi vật qua cặp kiếng màu đỏ.
Elif Shafak 
Walter Benjamin là ‘hero’của Gấu Già, so với những Lukacs, Henri Lefebvre, Roland Barthes… của một Gấu Trẻ, thời mới lớn ở Sài Gòn.
Đám đệ tử của Thầy Cuốc thì cứ đổ diệt, thầy của mi là TTT, là Camus…, và về già, do mi muốn hồi đầu VC, thì là “hitman” HPNT, thí dụ.
Hay thằng nhóc VC, CVD!
Chả là Gấu đã từng viết bài Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân, trong có khen văn tài của đao phủ thủ HPNT.
Chúng cứ thấy khen VC là chịu không nổi!
Hà, hà!
Cái từ “vòm” này, chỉ dân “ken” mới hiểu được.
GCC đọc bài viết của cái em Thổ xưng tụng hero của mình, bèn nhớ ra,WB còn là bạn của GCC, bạn hút, và cùng lúc, nhớ ra cuốn sách trên của ông, viết về thú đi mây về gió.
Trong văn chương, nó đã từng được Nguyên Hồng sử dụng, trong Bỉ Vỏ, “cái gì gì”, "anh đây công tử không vòm", câu hát một tay anh chị ngân nga khi bị bắt vô tù.... Nhờ câu hát, bà vợ hoàn lương, lấy anh cai tù, bèn bỏ chồng mới, cứu chồng cũ, và cùng nhau trở lại cõi giang hồ.
GCC đã từng đòi phen toan tính sử dụng “kỹ thuật viết “của Walter Benjamin, hay đúng hơn, tham vọng, hay, giấc đại mộng của ông, làm sao viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn trích dẫn.
Lần bạn quí nhờ đỡ cho 1 tay, do đang đau ốm gì đó, đi 1 đường trên mục anh phụ trách, trên Blog VOA.
Bèn, 1 công đôi ba việc:
Viết về nhạc vàng, nhạc lính, nhạc sến, làm sao làm bật ra chân lý: cái hồn của văn học Miền Nam nằm trong những câu hát của nhạc sến.
Và bị độc giả & bạn quí [LTL, anh của KT] & đệ tử Thầy Cuốc chửi tơi bời hoa lá [thí dụ, thường, đọc nhiều, hiểu nhiều, phải tiêu hóa của hay vật lạ thành cái của riêng mình. Chứ bạ đâu cũng mượn tên ông Nga này, bà Tây nọ nhét vào bài viết, tựa như gái quê khoe của..]
Bài viết ngắn của Gấu về “nhịp thời gian”, khi nhắc tới câu của Brodsky vinh danh Mandelstam, khi nhắc tới Kinh Cầu của Akhmatova, là để đặt chúng vào hai đỉnh của một tam giác, đỉnh thứ ba là bài Rừng Lá Thấp.

Chẳng có vấn đề tiêu hóa, ăn thức ăn mũi lõ rồi ị ra cứt Mít ở đây.
Cấu trúc bài viết, mô phỏng Walter Benjamin, khi ông mơ, viết được một tác phẩm, gồm toàn trích dẫn, và nếu có gì của ông ở trong đó, thì chúng giống như dàn giáo.
Nhà dựng xong, là tháo gỡ bỏ.
Nói rõ hơn, chẳng có cái chó gì của Gấu ở trong đó!
Nếu có thì đều là những 'câu bất thành cú', toàn là đồ vứt đi, sau khi dựng xong căn nhà!
*

Ở Việt Nam, có một điều rất chi thú vị: tôi nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi, rất dị ứng, rất nổi da gà da vịt trước những gì không hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ phải thật là uốn éo dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn tên là chứng bạo dâm bệnh lý: một người đọc "trí thức" ở Việt Nam luôn luôn có xu hướng đè bẹp tác giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải thấp thấp một tí, ẻo ẻo một tí, để mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ cho những người như Lê Hoàng hay Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này không giúp gì cho việc tiếp cận, đọc thực sự những người như Coetzee. Hic, giải thích khó nhỉ, các bác cứ thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách nào đó của Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi muốn nói gì.

Blog NL

Cuốn Thương Xá [tức Dự Án Vòm] của Walter Benjamin, khổng lồ, gồm toàn trích dẫn.
Độc giả Mít, đọc, chắc là phát điên lên được.
Tây mũi lõ cũng phát điên chứ đừng nói Mít.
Đọc bài biết của Coetzee về cuốn này, khi đăng trên NYRB, "Điểm sách New York", số đề ngày 11.1.2001, là Gấu bèn dịch liền tù tì, vốn liếng tiếng Anh ăn đong, phải viện tới NTV.
Gấu đã kể kỷ niệm tuyệt vời này rồi, hai thằng ngồi quán cá phê Tầu, Coffee Time, ở Phố Tầu Đông, cãi nhau ỏm tỏi, chủ quán bèn đuổi cổ ra công viên gần đó…
Bài này sau in trong Inner Workings, cuốn sách bạn NL đang giới thiệu






 

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư