DLV: Vô Kỵ Giữa Chúng Ta III
Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu:
Kỳ
3
Đỗ Long Vân
VÔ KỴ GIỮA CHÚNG
TA
hay là
HIỆN TƯỢNG KIM
DUNG
8. Tiến tới một sự phân loại
"Dear Reader: Behind every story you read, there’s another story waiting to be told"
(Bạn đọc thân mến: Đằng sau mỗi câu chuyện bạn đọc, có một câu chuyện đang chờ tới lượt mình).
The Guardian Weekly.
"Người ta thường xuyên gặp trong Kim Dung thái độ nước đôi ấy trước trí năng, vừa cảm phục vừa nghi kỵ."
"Không phải ngẫu nhiên mà họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng không lẽ…"
ĐLV
"Qui est Ky?"
De Gaulle
Cái bể võ học chập chùng chẳng biết đâu là giới
hạn. Không võ công nào giống võ công nào. Nhưng
nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một
mối, thì trong khi chờ đợi, sao không thể xếp
loại chúng? Hình như Kim Dung đã chia tất cả võ
công trên đời ra làm hai khối lớn: Âm công và
Dương công. Võ công thuộc Âm công thì mau, mềm
mại và ác độc; thuộc Dương thì chậm nhưng dũng
mãnh và cương trực. Người đời coi thứ võ công
này là chính giáo và thứ võ kia là môn. Võ công
tuy nhiên chỉ là phương tiện. Khác nhau duy ở
mục đích cuối cùng của người dụng võ. Âm hay
Dương thì võ công nào mà chẳng giết người. Xem
Kim Dung nhấn mạnh trên mọi sự phân biệt giữa Âm
và Dương thì người ta thấy rằng tất cả cố gắng
của ông là để xem những tiêu chuẩn tự nhiên thay
thế cho những tiêu chuẩn nhân văn và đạo lý. Tà
và Chính đổi thành Âm và Dương nghĩa là hai mãnh
lực của tự nhiên; trong tự nhiên không có Tà và
Chính, và Âu Dương Phong và Hồng Thất Công, một
người đại diện cho Ác tâm và một người đại diện
cho Thiện chí, sau mười mấy ngày đấu liên tiếp,
lại có thể ôm nhau để cùng chết giữa lúc tiếng
cười của họ càng chấn động cái hoang vu của
những đỉnh núi tuyết nghìn năm. Mẹ tự nhiên đã
giải hoà hai đứa con xung khắc của mình. Xã hội
người đặt chúng vào cái thế tương nghịch. Ác của
đứa này tuy nhiên cũng như thiện của đứa kia đều
có gốc ở năng tính. Và năng tính giống như một
mãnh lực của tự nhiên, trong Kim Dung, người ta
biết là bao giờ cũng tốt. Khả nghi nhất là những
con người của trí năng. Ấy là những Hoàng Dược
sư chẳng hạn. Người đời thường hỏi họ thiện hay
ác. Nhưng họ khinh dư luận, coi rẻ đạo lý của
người đời và tự đặt những quy luật riêng để hành
động. Tham vọng của họ là mang tài mình ra cướp
quyền tạo hoá. Không những giỏi võ công mà,
trong những lĩnh vực khác, kiến thức của họ
thường cũng thâm viễn vô cùng. Ngoài cái tài hoa
của một nghệ sĩ, Hoàng Dược sư còn thông thạo
trận đồ, kiến trúc và những kỹ thuật làm máy
móc. Xa lục địa, trên đảo Đào Hoa, ông xây dựng
cả một giang sơn biệt lập cho mình. Cái trí, cái
xảo, cái tài hoa ấy tuy nhiên có một cái gì điêu
bạc. Những con người ấy quá nhậy cảm và giàu
tưởng tượng. Óc của họ không ngừng làm việc, bầy
mưu và thiết kế. Làm sao trong sự giao động
thường xuyên họ có thể có cái tĩnh cần thiết để
tới cái chân nguyên của võ học mà chỉ thông đạt
những tâm hồn chất phác và đơn thuần nghĩa là
gần tự nhiên hơn? Cho nên những võ công mà chính
cái tài hoa của họ làm họ không tài nào luyện
được. Và võ công của họ thường cũng mang ấn tích
của cái tài hoa ấy mà họ vốn có thừa, nghĩa là
phức tạp, khi thực khi hư, mau lẹ và uyển
chuyển, nhưng nhu Lạc Anh quyền, đôi khi không
khỏi thiếu phần cương trực. Người ta sẽ thường
xuyên gặp trong Kim Dung thái độ nước đôi ấy
trước trí năng, vừa cảm phục lại vừa nghi kị. Ấy
là cái ngòi bảo thủ trong văn ông.
Năng tính là giải thuyết của sự đối lập giữa Thiện và Ác. Nhưng giữa năng tính và trí năng thì sao? Hình như Kim Dung lại muốn vượt sự đối lập ấy trong con người của Đạo. Sau khi nghe giảng Thái Cực quyền lần thứ nhất, thì Vô Kỵ chỉ nhớ một nửa những chiêu đã học. Nhưng nghe giảng một lần nữa thì xét lại, chàng còn nhớ có hai ba chiêu trong đầu. Người ta không khỏi ngạc nhiên. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn nữa là khi cái lối càng học càng quên ấy lại được coi là một tiến bộ. Cũng như thế, trong một truyện khác, người ta thấy một anh hùng giang hồ than thở là kiếm pháp trên đời tuy ông đã thuộc cả, nhưng vẫn chưa đến chỗ tối cao là quên được những kiếm pháp đã học ấy! Thì ra cái biết thực của võ học không ở những cách khoa chân và múa tay của những chiêu lẻ mà ở nguyên lý của chúng. Khi thấy cái nguyên lý ấy rối, nghĩa là đã thu những tạp chiêu ấy và một mối, thì người ta không cần nhớ đến chúng nữa. Một chiêu còn nhớ là một chiêu chưa thấu triệt, sự thống nhất chưa trọn vẹn, và cái biết còn dở dang. Cái biết thực của võ học cũng như trong đạo là một sự lãng quên những ảo ảnh của ngoại thể để tới cái chân nguyên của tất cả. Nhưng người và tự nhiên khi ấy mới thực tương đồng, trí năng và năng tính là một. Cá nhân thực hiện được sự thống nhất của mình. Những xôn xao của ngoại giới không thể làm hắn phân tâm nữa và cái tĩnh thuần nhất của lòng hắn không còn gì giao động nổi. Ngay võ công luyện được hắn cũng quên đi. Ấy là khi võ công đã thấm vào người hắn đến chỗ có thể tuỳ nghi tự ý phát động mà không cần sự can thiệp của ý chí. Tương Trùng Dương trong Anh hùng xạ điêu, Trương Tam Phong và bộ ba Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp trong truyện Đồ long đao, nhà sư già coi Tàng Kinh Các trong Thiên Long bát bộ là những người đã gần như tới độ tối cao của võ học. Không phải ngẫu nhiên họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng chẳng lẽ Kim Dung lại kể chuyện võ hiệp để ca ngợi cái đức của sự tu hành? Nhưng có lẽ một cái nhìn kỹ lưỡng vào thế giới và nghệ thuật Kim Dung sẽ cho người ta một đáp thuyết vững vàng hơn.
Năng tính là giải thuyết của sự đối lập giữa Thiện và Ác. Nhưng giữa năng tính và trí năng thì sao? Hình như Kim Dung lại muốn vượt sự đối lập ấy trong con người của Đạo. Sau khi nghe giảng Thái Cực quyền lần thứ nhất, thì Vô Kỵ chỉ nhớ một nửa những chiêu đã học. Nhưng nghe giảng một lần nữa thì xét lại, chàng còn nhớ có hai ba chiêu trong đầu. Người ta không khỏi ngạc nhiên. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn nữa là khi cái lối càng học càng quên ấy lại được coi là một tiến bộ. Cũng như thế, trong một truyện khác, người ta thấy một anh hùng giang hồ than thở là kiếm pháp trên đời tuy ông đã thuộc cả, nhưng vẫn chưa đến chỗ tối cao là quên được những kiếm pháp đã học ấy! Thì ra cái biết thực của võ học không ở những cách khoa chân và múa tay của những chiêu lẻ mà ở nguyên lý của chúng. Khi thấy cái nguyên lý ấy rối, nghĩa là đã thu những tạp chiêu ấy và một mối, thì người ta không cần nhớ đến chúng nữa. Một chiêu còn nhớ là một chiêu chưa thấu triệt, sự thống nhất chưa trọn vẹn, và cái biết còn dở dang. Cái biết thực của võ học cũng như trong đạo là một sự lãng quên những ảo ảnh của ngoại thể để tới cái chân nguyên của tất cả. Nhưng người và tự nhiên khi ấy mới thực tương đồng, trí năng và năng tính là một. Cá nhân thực hiện được sự thống nhất của mình. Những xôn xao của ngoại giới không thể làm hắn phân tâm nữa và cái tĩnh thuần nhất của lòng hắn không còn gì giao động nổi. Ngay võ công luyện được hắn cũng quên đi. Ấy là khi võ công đã thấm vào người hắn đến chỗ có thể tuỳ nghi tự ý phát động mà không cần sự can thiệp của ý chí. Tương Trùng Dương trong Anh hùng xạ điêu, Trương Tam Phong và bộ ba Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp trong truyện Đồ long đao, nhà sư già coi Tàng Kinh Các trong Thiên Long bát bộ là những người đã gần như tới độ tối cao của võ học. Không phải ngẫu nhiên họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng chẳng lẽ Kim Dung lại kể chuyện võ hiệp để ca ngợi cái đức của sự tu hành? Nhưng có lẽ một cái nhìn kỹ lưỡng vào thế giới và nghệ thuật Kim Dung sẽ cho người ta một đáp thuyết vững vàng hơn.
Đỗ Long Vân
_________
Ghi chú:
Ở trên, trong phần ghi chú, người giới thiệu đã cho rằng, Đỗ Long Vân đã sử dụng cơ cấu luận như một phương pháp "tiện tay, đương thời" để đọc Kim Dung.
Gérard Genette, trong bài "Cơ cấu luận và phê bình văn học", in trong Hình Tượng I (Figures I, nhà xb Seuil, tủ sách Essais, 1966), đã nhắc tới một chương trong cuốn Tư Tưởng Hoang Sơ (La Pensée Sauvage) theo đó, Lévi-Strauss đã coi tư tưởng huyền thoại như là "một kiểu loay hoay về tinh thần" (une sorte de bricolage intellectuel). Chúng ta có thể mượn quan niệm trên đây của Lévi-Strauss, để giải thích tại sao Đỗ Long Vân lại dựa vào cơ cấu luận, khi viết "Vô Kỵ giữa chúng ta". Từ đó, chúng ta có thể đi đến kết luận: Vô Kỵ là ai? (Qui est Ky?, mượn lại câu hỏi của de Gaulle, khi hoà đàm về Việt Nam đang diễn ra tại Paris; Ky ở đây là Nguyễn Cao Kỳ). Biết đâu, nhân đó, chúng ta có thể xác định vai trò của một người viết, như Đỗ Long Vân, ở giữa chúng ta.
Thế nào là một tay loay hoay, hí hoáy (le bricoleur)?
Khác với viên kỹ sư, đồ nào vào việc đó, nồi nào vung đó, nguyên tắc của "hí hoáy gia" là: xoay sở từ những phương tiện, vật dụng sẵn có. Những phương tiện, vật dụng, được sử dụng theo kiểu "cốt sao cho được việc" như thế, ở trong một hệ thống lý luận như thế, chúng không còn "y chang" như thuở ban đầu của chúng nữa.
Cơ cấu luận đã có những thành tựu lớn lao qua một số tác giả như Lévi-Strauss, Roland Barthes, Gérard Genette… và nhất là Michel Foucault, cho dù ông đây đẩy từ chối nhãn hiệu cơ cấu (làm sao nhét vào đầu óc của những kẻ thiển cận…tôi không hề sử dụng bất cứ thứ gì của cơ cấu luận). Trong số những tư tưởng cận đại và hiện đại như hiện sinh, cơ cấu, giải cơ cấu, hậu hiện đại… đóng góp của cơ cấu luận là đáng kể nhất, theo chủ quan của người viết.
***
"Nhưng nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một mối, thì trong khi chờ đợi, sao người ta không thử xếp loại chúng?"
Trong khi chờ đợi (Godot?): Thời gian chờ đợi - nếu chúng ta cùng gật gù với Barthes - "Huyền hoặc thay, sở hữu thế gian không bắt đầu từ Sáng Thế Ký, mà là khi tư hữu bắt đầu, tức là từ Đại Hồng Thủy, khi con người bắt buộc phải đặt tên cho từng chủng loại, lo nơi ăn chốn ở cho chúng, tức là tách chúng ra khỏi những chủng loại khác." - phải tính từ Đại Hồng Thủy, và cái công việc "thử xếp loại", cũng đã bắt đầu từ đó. Và đây là lịch sử nhân loại trước khi, và chắc là chẳng bao giờ được thu về một mối.
Và đó cũng là một trong những "chủ đề" của cuốn "Chữ và Vật".
"Les Mots et les Choses", nhan đề bản tiếng Anh có lẽ sáng sủa và thích hợp với chúng ta: "The Order of Things (Trật tự của những sự vật)." Trong Lời Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng từ một bài viết của Borges. Và cùng với bài viết, là tiếng cười làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta (Tây phương). Borges nhắc tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài vật được chia ra như sau:
a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/ chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động như người điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà thật mịn, l/v…v… và v… v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.
Theo Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của Tây phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài cái trật tự abcd như trên? Trong khi tìm hiểu một trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải lịch sử trật tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra khỏi lịch sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng bức lao động.
****
Thu về một mối, ôi cái giấc mơ "thống nhất, đại đồng, hết còn vong thân, hết còn giai cấp..", sau cùng hoá ra là một cơn ác mộng.
Và chúng ta có lẽ nên bằng lòng cứ thế chờ đợi, như anh chàng nhà quê của Kafka, trước cánh cửa mở ra cái thế giới thu về một mối…
Và con người tự do trong cái hữu hạn đó: trong khi chờ đợi, chẳng biết làm gì, bèn bịa đặt ra những ký hiệu, những ý nghĩa, đặt tên sự vật, sắp xếp, suy nghĩ về chúng, và về chính mình, như là một kẻ ở giữa hai cực điểm: nhà thơ và tên khùng, theo một định nghĩa của Foucault: Thi sĩ đẩy sự tương đồng về những ký hiệu nói lên sự tương đồng đó, người điên coi tất cả những ký hiệu đều chỉ ra, chỉ một sự tương đồng [mọi vật đều giống nhau hết], cuối cùng xóa nhoà mọi ký hiệu.
***
"Remember me,"
whispers the dust.
("Hãy nhớ đến tôi,"
Hạt bụi thì thầm.)
Peter Huchel (thi sĩ Đức)
[Joseph Brodsky trích dẫn, trong "Ca ngợi buồn phiền", "In Praise of Boredom"]
***
Đỗ Long Vân mất tại quê nhà tháng Tám năm 1997. Người viết chỉ được biết, nhân đọc mục thư tín trao đổi với bạn đọc của một tạp chí văn học ở hải ngoại.
Và sau đó có viết vài dòng về ông, như một tưởng niệm muộn, và mượn ngay tên bài viết của ông làm của mình. Cả bài viết của ông, sau bao tai biến, chỉ còn lại một cái tên trong trí nhớ người viết. Gửi theo ông rồi, mới quên điều tính hỏi: Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta?
***
"Mỗi một bài viết bạn đang đọc…", bạn đọc hãy coi những dòng sau đây, như là một bài viết bên lề, vẫn như một lời tưởng niệm muộn, gửi theo người đã khuất.
***
Chết là hết, như người Việt thường nói. Nhưng Volkov, trong bài viết tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky, "Con sói cô đơn của thơ ca", đã trích dẫn câu thơ của nữ sĩ Akhmatova, "Khi một người đàn ông chết, những bức chân dung của người đó thay đổi", và đưa ra nhận xét, "có chút chi lạnh lẽo ở hai dòng thơ này". Theo ông, thường ra, khi được tin một người bạn mất, và được trao công việc lọc lựa những bức chân dung, ông nhận thấy có những thay đổi thật tế vi, đôi khi gây kinh ngạc, từ nét mặt người quá vãng. Như thể thần chết vạch giùm cho chúng ta thấy một ý nghĩa, một viễn tượng nào đó, ở nơi người chết, chỉ sau khi đã phán bảo: người này chết rồi. Những giai thoại-sau cái chết (the posthumous legend) càng mạnh, hậu quả của chúng càng xáo trộn, ở nơi những bức chân dung đó. Và theo Volkov, chuyện như vậy đã không xẩy ra, trong trường hợp của Joseph Brodsky. Sau khi ông mất vì bịnh tim vào ngày 28 tháng Giêng năm 1996 ở New York City, giai thoại về ông khi còn sống nhập hẳn vào những bức hình của ông, qua đó, là thời niên thiếu nổi loạn trong một thành phố bị vây hãm, cuộc vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử cận đại, chưa kịp hồi phục bị giáng thêm đòn thanh trừng thời kỳ Stalin, rồi tới bản án theo kiểu Kafka của nhà nước Xô viết…
Người viết đã có lần giới thiệu bài tưởng niệm Joseph Brodsky, của T. Tolstaya, rồi nhân đó, tưởng niệm một nhà thơ Việt. Một người quen đã bực mình, tại sao lại để hai nhà thơ kế nhau như thế? Brodsky thì ai cũng biết, nhà thơ bạn anh, đâu có ai biết đến mà chơi cái trò ăn theo!
Tôi thật sự ngạc nhiên, khi bị hỏi như vậy, lần đó.
Trong bài viết của Tolstaya có nhắc tới một người thợ mộc ở Moscow, nhân được phỏng vấn, đã trả lời: Tôi chỉ mong có một cuộc sống riêng tư. Như Joseph Brodsky!
Anh bạn nhà thơ của người viết sau 1975 đã làm nghề thợ mộc. Trước đó anh làm nghề dạy học. Anh khoe, tìm thấy những vân gỗ y hệt những vần thơ!
Cái ông thợ mộc chẳng ai biết đến đó lại mong có một cuộc đời rất riêng tư của một nhà thơ được giải Nobel văn chương!
Cái ông thợ mộc bạn tôi, giả sử như gặp nhà thơ Nga ở cái thế giới nào đó, có thể sẽ là hai người bạn thân. Tôi thực sự mong mỏi như vậy. Và tôi còn tin rằng Joseph Brodsky sẽ thèm thuồng cái số phận của anh bạn thơ của tôi, ở trong cái thế giới cả hai đã cùng từ bỏ.
Nhà thơ Nga bị nhà nước Nga tống xuất, xin xỏ mãi để được ở lại, mà không được. Bạn tôi cứ tà tà ở lại, chẳng ai đuổi, và cũng chẳng thèm đi! Bạn tôi làm thợ mộc, nhà thơ Nga phải làm nghề mổ tử thi. Ông tự hào về nghề đó, và xấu hổ khi phải bỏ nghề. Anh bạn nhà thơ của tôi tự hào là một anh thợ mộc, và anh tìm thấy thơ ở đó, khi không còn có thể làm thơ được nữa.
Thử hỏi Brodsky có tìm thấy thơ từ những xác chết hay không?
Anh bạn nhà thơ của tôi, là bạn thân của Đỗ Long Vân.
Tôi viết bài tưởng niệm Đỗ quân cũng trong ước vọng đó: được có một cuộc đời riêng tư như Đỗ quân.
Bởi vì cái cuộc đời riêng tư đó thật là hiển hách vô cùng, đối với đám tụi tôi. Đám chúng tôi, khi đi trình diện nhập ngũ, trưng đủ thứ bằng cấp, để được đi học sĩ quan (bằng tú tài), để được biệt phái về một đơn vị không tác chiến (bằng chuyên môn)…
Đỗ quân, tuy bằng cấp đầy mình, đã từng du học Paris, giáo sư đại học, đi trình diện như một cái bang chẳng có một túi nào!
Sĩ quan, binh lính miền nam trước 1975 thường mặc quân phục bó sát người. Kỷ niệm của tôi về Đỗ quân, trong lần tình cờ đi cùng anh bạn thi sĩ Joseph Huỳnh Văn ghé thăm ông tại Đài Truyền Tin Phú Lâm, là một anh lính trong bộ quần áo nhà binh rộng thùng thình, tươi cười, thoải mái. Tôi có cảm tưởng ông thoải mái hơn cả lần đầu gặp tại quán Cái Chùa, đường Tự Do.
Ở trên, trong phần ghi chú, người giới thiệu đã cho rằng, Đỗ Long Vân đã sử dụng cơ cấu luận như một phương pháp "tiện tay, đương thời" để đọc Kim Dung.
Gérard Genette, trong bài "Cơ cấu luận và phê bình văn học", in trong Hình Tượng I (Figures I, nhà xb Seuil, tủ sách Essais, 1966), đã nhắc tới một chương trong cuốn Tư Tưởng Hoang Sơ (La Pensée Sauvage) theo đó, Lévi-Strauss đã coi tư tưởng huyền thoại như là "một kiểu loay hoay về tinh thần" (une sorte de bricolage intellectuel). Chúng ta có thể mượn quan niệm trên đây của Lévi-Strauss, để giải thích tại sao Đỗ Long Vân lại dựa vào cơ cấu luận, khi viết "Vô Kỵ giữa chúng ta". Từ đó, chúng ta có thể đi đến kết luận: Vô Kỵ là ai? (Qui est Ky?, mượn lại câu hỏi của de Gaulle, khi hoà đàm về Việt Nam đang diễn ra tại Paris; Ky ở đây là Nguyễn Cao Kỳ). Biết đâu, nhân đó, chúng ta có thể xác định vai trò của một người viết, như Đỗ Long Vân, ở giữa chúng ta.
Thế nào là một tay loay hoay, hí hoáy (le bricoleur)?
Khác với viên kỹ sư, đồ nào vào việc đó, nồi nào vung đó, nguyên tắc của "hí hoáy gia" là: xoay sở từ những phương tiện, vật dụng sẵn có. Những phương tiện, vật dụng, được sử dụng theo kiểu "cốt sao cho được việc" như thế, ở trong một hệ thống lý luận như thế, chúng không còn "y chang" như thuở ban đầu của chúng nữa.
Cơ cấu luận đã có những thành tựu lớn lao qua một số tác giả như Lévi-Strauss, Roland Barthes, Gérard Genette… và nhất là Michel Foucault, cho dù ông đây đẩy từ chối nhãn hiệu cơ cấu (làm sao nhét vào đầu óc của những kẻ thiển cận…tôi không hề sử dụng bất cứ thứ gì của cơ cấu luận). Trong số những tư tưởng cận đại và hiện đại như hiện sinh, cơ cấu, giải cơ cấu, hậu hiện đại… đóng góp của cơ cấu luận là đáng kể nhất, theo chủ quan của người viết.
***
"Nhưng nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một mối, thì trong khi chờ đợi, sao người ta không thử xếp loại chúng?"
Trong khi chờ đợi (Godot?): Thời gian chờ đợi - nếu chúng ta cùng gật gù với Barthes - "Huyền hoặc thay, sở hữu thế gian không bắt đầu từ Sáng Thế Ký, mà là khi tư hữu bắt đầu, tức là từ Đại Hồng Thủy, khi con người bắt buộc phải đặt tên cho từng chủng loại, lo nơi ăn chốn ở cho chúng, tức là tách chúng ra khỏi những chủng loại khác." - phải tính từ Đại Hồng Thủy, và cái công việc "thử xếp loại", cũng đã bắt đầu từ đó. Và đây là lịch sử nhân loại trước khi, và chắc là chẳng bao giờ được thu về một mối.
Và đó cũng là một trong những "chủ đề" của cuốn "Chữ và Vật".
"Les Mots et les Choses", nhan đề bản tiếng Anh có lẽ sáng sủa và thích hợp với chúng ta: "The Order of Things (Trật tự của những sự vật)." Trong Lời Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng từ một bài viết của Borges. Và cùng với bài viết, là tiếng cười làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta (Tây phương). Borges nhắc tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài vật được chia ra như sau:
a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/ chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động như người điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà thật mịn, l/v…v… và v… v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.
Theo Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của Tây phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài cái trật tự abcd như trên? Trong khi tìm hiểu một trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải lịch sử trật tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra khỏi lịch sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng bức lao động.
****
Thu về một mối, ôi cái giấc mơ "thống nhất, đại đồng, hết còn vong thân, hết còn giai cấp..", sau cùng hoá ra là một cơn ác mộng.
Và chúng ta có lẽ nên bằng lòng cứ thế chờ đợi, như anh chàng nhà quê của Kafka, trước cánh cửa mở ra cái thế giới thu về một mối…
Và con người tự do trong cái hữu hạn đó: trong khi chờ đợi, chẳng biết làm gì, bèn bịa đặt ra những ký hiệu, những ý nghĩa, đặt tên sự vật, sắp xếp, suy nghĩ về chúng, và về chính mình, như là một kẻ ở giữa hai cực điểm: nhà thơ và tên khùng, theo một định nghĩa của Foucault: Thi sĩ đẩy sự tương đồng về những ký hiệu nói lên sự tương đồng đó, người điên coi tất cả những ký hiệu đều chỉ ra, chỉ một sự tương đồng [mọi vật đều giống nhau hết], cuối cùng xóa nhoà mọi ký hiệu.
***
"Remember me,"
whispers the dust.
("Hãy nhớ đến tôi,"
Hạt bụi thì thầm.)
Peter Huchel (thi sĩ Đức)
[Joseph Brodsky trích dẫn, trong "Ca ngợi buồn phiền", "In Praise of Boredom"]
***
Đỗ Long Vân mất tại quê nhà tháng Tám năm 1997. Người viết chỉ được biết, nhân đọc mục thư tín trao đổi với bạn đọc của một tạp chí văn học ở hải ngoại.
Và sau đó có viết vài dòng về ông, như một tưởng niệm muộn, và mượn ngay tên bài viết của ông làm của mình. Cả bài viết của ông, sau bao tai biến, chỉ còn lại một cái tên trong trí nhớ người viết. Gửi theo ông rồi, mới quên điều tính hỏi: Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta?
***
"Mỗi một bài viết bạn đang đọc…", bạn đọc hãy coi những dòng sau đây, như là một bài viết bên lề, vẫn như một lời tưởng niệm muộn, gửi theo người đã khuất.
***
Chết là hết, như người Việt thường nói. Nhưng Volkov, trong bài viết tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky, "Con sói cô đơn của thơ ca", đã trích dẫn câu thơ của nữ sĩ Akhmatova, "Khi một người đàn ông chết, những bức chân dung của người đó thay đổi", và đưa ra nhận xét, "có chút chi lạnh lẽo ở hai dòng thơ này". Theo ông, thường ra, khi được tin một người bạn mất, và được trao công việc lọc lựa những bức chân dung, ông nhận thấy có những thay đổi thật tế vi, đôi khi gây kinh ngạc, từ nét mặt người quá vãng. Như thể thần chết vạch giùm cho chúng ta thấy một ý nghĩa, một viễn tượng nào đó, ở nơi người chết, chỉ sau khi đã phán bảo: người này chết rồi. Những giai thoại-sau cái chết (the posthumous legend) càng mạnh, hậu quả của chúng càng xáo trộn, ở nơi những bức chân dung đó. Và theo Volkov, chuyện như vậy đã không xẩy ra, trong trường hợp của Joseph Brodsky. Sau khi ông mất vì bịnh tim vào ngày 28 tháng Giêng năm 1996 ở New York City, giai thoại về ông khi còn sống nhập hẳn vào những bức hình của ông, qua đó, là thời niên thiếu nổi loạn trong một thành phố bị vây hãm, cuộc vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử cận đại, chưa kịp hồi phục bị giáng thêm đòn thanh trừng thời kỳ Stalin, rồi tới bản án theo kiểu Kafka của nhà nước Xô viết…
Người viết đã có lần giới thiệu bài tưởng niệm Joseph Brodsky, của T. Tolstaya, rồi nhân đó, tưởng niệm một nhà thơ Việt. Một người quen đã bực mình, tại sao lại để hai nhà thơ kế nhau như thế? Brodsky thì ai cũng biết, nhà thơ bạn anh, đâu có ai biết đến mà chơi cái trò ăn theo!
Tôi thật sự ngạc nhiên, khi bị hỏi như vậy, lần đó.
Trong bài viết của Tolstaya có nhắc tới một người thợ mộc ở Moscow, nhân được phỏng vấn, đã trả lời: Tôi chỉ mong có một cuộc sống riêng tư. Như Joseph Brodsky!
Anh bạn nhà thơ của người viết sau 1975 đã làm nghề thợ mộc. Trước đó anh làm nghề dạy học. Anh khoe, tìm thấy những vân gỗ y hệt những vần thơ!
Cái ông thợ mộc chẳng ai biết đến đó lại mong có một cuộc đời rất riêng tư của một nhà thơ được giải Nobel văn chương!
Cái ông thợ mộc bạn tôi, giả sử như gặp nhà thơ Nga ở cái thế giới nào đó, có thể sẽ là hai người bạn thân. Tôi thực sự mong mỏi như vậy. Và tôi còn tin rằng Joseph Brodsky sẽ thèm thuồng cái số phận của anh bạn thơ của tôi, ở trong cái thế giới cả hai đã cùng từ bỏ.
Nhà thơ Nga bị nhà nước Nga tống xuất, xin xỏ mãi để được ở lại, mà không được. Bạn tôi cứ tà tà ở lại, chẳng ai đuổi, và cũng chẳng thèm đi! Bạn tôi làm thợ mộc, nhà thơ Nga phải làm nghề mổ tử thi. Ông tự hào về nghề đó, và xấu hổ khi phải bỏ nghề. Anh bạn nhà thơ của tôi tự hào là một anh thợ mộc, và anh tìm thấy thơ ở đó, khi không còn có thể làm thơ được nữa.
Thử hỏi Brodsky có tìm thấy thơ từ những xác chết hay không?
Anh bạn nhà thơ của tôi, là bạn thân của Đỗ Long Vân.
Tôi viết bài tưởng niệm Đỗ quân cũng trong ước vọng đó: được có một cuộc đời riêng tư như Đỗ quân.
Bởi vì cái cuộc đời riêng tư đó thật là hiển hách vô cùng, đối với đám tụi tôi. Đám chúng tôi, khi đi trình diện nhập ngũ, trưng đủ thứ bằng cấp, để được đi học sĩ quan (bằng tú tài), để được biệt phái về một đơn vị không tác chiến (bằng chuyên môn)…
Đỗ quân, tuy bằng cấp đầy mình, đã từng du học Paris, giáo sư đại học, đi trình diện như một cái bang chẳng có một túi nào!
Sĩ quan, binh lính miền nam trước 1975 thường mặc quân phục bó sát người. Kỷ niệm của tôi về Đỗ quân, trong lần tình cờ đi cùng anh bạn thi sĩ Joseph Huỳnh Văn ghé thăm ông tại Đài Truyền Tin Phú Lâm, là một anh lính trong bộ quần áo nhà binh rộng thùng thình, tươi cười, thoải mái. Tôi có cảm tưởng ông thoải mái hơn cả lần đầu gặp tại quán Cái Chùa, đường Tự Do.
( xem tiếp Kỳ 3b )
Những câu trích từ bài viết làm đề từ, là do
người giới thiệu bầy đặt ra, như một cách hiểu,
hoàn toàn mang tính cá nhân, tức chủ quan, bài
viết của Đỗ quân, và những vấn đề mà bài viết
đặt ra.
(Nguồn : Tin Văn
Comments
Post a Comment