Kiều Phong




V/v nhân vật của KD, và sự thích đấng này hay đấng kia, cái thích này là ở phía độc giả.
Nếu thế, nhìn từ phía tác giả, thì sao?
Hà, hà.
Theo Gấu, nhân vật đỉnh cao của KD, là Kiều Phong, và Kiều Phong là đỉnh cao của cái gọi là chính, trong cuộc tử đấu chính vs tà của truyện võ hiệp của ông. Sau đó, do vẫn phải viết, nhân vật của KD phải đi xuống, tới Vi Tiểu Bảo là tà quá cỡ thợ mộc. Bạn chọn nhân vật nào, là công chúng nhìn ra, bạn thuộc phe tà hay phe chính.
Gấu chọn Quách Tường, nick của Gấu Cái.



Trong bài giới thiệu Vô Kỵ giữa chúng ta, của Đỗ Long Vân, NQT tui đã áp dụng cách Coetzee đọc văn chương trắng của một số nhà văn Nam Phi, vào  nhân vật Kiều Phong của Kim Dung và đề nghị một cách viết về cuộc chiến VN: Bi kịch về máu: 
"There is therefore a poetics of blood. It is a poetics of tragedy and pain, for blood is never happy" 
"Từ đó, có một thi học về máu. Đó là một thi học về bi thảm và đau đớn, bởi máu là chẳng thể nào hạnh phúc." Gaston Bachelard. [Về Tưởng tượng Thi ca và Mơ mộng, On Poetic Imagination and Reverie; Colette Gaudin biên tập, nhà xb Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1971. Coetzee trích dẫn, trong "White Writing: On the Culture of Letters in South Africa", nhà xuất bản Yale University Press].
Người hùng Kiều Phong là một sáng tạo tuyệt vời, "đỉnh cao trí tuệ" của Kim Dung, theo nghĩa: đây là người hùng mang tính chủng tộc thay thế người hùng mang tính giai cấp, tức những A Q, Chí Phèo. Theo nghĩa đó, W. Faulkner, qua một bài điểm sách trên tờ Người Kinh Tế, được coi là nhà văn "hậu hiện đại", trước khi có thuật ngữ này. 
Nhân tiện, đề nghị một đề tài tiểu thuyết ở đây: Trái Tim của Bóng Đen, viết về một anh chàng Bắc Kỳ theo chân đoàn quân viễn chinh vượt Trường Sơn, tới trái tim của bóng đen: Sài Gòn: đỉnh cao của sa đọa... cuối cùng khám phá ra... Hà Nội! 
Đừng tưởng đùa, bởi vì đã có tới hai tiểu thuyết gia ở hải ngoại sử dụng " ẩn dụ" này rồi, một coi cuộc Nam Tiến của Miền Bắc tương tự như những cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Hoa, một coi đây là do cái ác muôn đời của người dân một miền đất, và muốn cải tạo, tổ quốc phải ăn năn... 
Coetzee, trong bài viết (Máu, Hôi, Hư, Rữa: Những cuốn tiểu thuyết của) Blood, Taint, Flaw, Degeneration: The Novels of Sarah Gertrude Millin (trong White Writing), đã coi "máu" (blood) là từ-chìa khóa trong những tiểu thuyết đề cập tới xã hội Nam Phi của nhà văn nữ Nam Phi viết văn bằng tiếng Anh này. Máu phân biệt dân Phi châu với dân Âu Châu, Englishman khác Afrikaner, Hottentot khác Xhosa, Gentile khác Jew. Nói tới máu là nói tới sắc dân. Nhưng ‘máu" ở trong những tác phẩm của Millin không giản dị chỉ là một hình dung từ để chỉ sắc dân, mà đây là một "thực thể", một dòng nước nhờn đỏ, có thể dầy hoặc mỏng, nóng hoặc lạnh, sạch hoặc dơ, chảy từ đàn ông qua đàn bà, từ bà mẹ qua đứa con... Một thi học về máu hơn là một chính trị học về sắc dân, đã khêu dậy trí tưởng tượng của bà... 
Tờ báo Anh, The Guardian coi Coetzee, như là một tác giả đã chọn kẻ xa lạ, người ngoài hành tinh, kẻ ngoại cuộc, đứng bên lề (the outsider), như là một thể loại nghệ thuật, hay nói một cách khác, đây là nghệ thuật của kẻ ngoài lề, với những suy tư thật là u ám của kẻ đó, về chế độ hậu-phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. 
Viện Hàn Lâm Thụy Điển ca ngợi tác giả, với những cuốn như Tủi Nhục, Chờ Những Dân Rợ, như là “một người hồ nghi một cách thận trọng, và thật là tàn nhẫn, không một chút xót thương, khi phải phê bình tính duy lý độc ác, và cái thứ làm ra vẻ đạo đức của văn minh Tây Phương”.
*

*

J. M. COETZEE (1940-): Nobel Văn Chương 2003 
“Trong khi thám hiểm, khai phóng sự yếu đuối, và thất bại, Coetzee làm bật ra cái chất thiêng, cái chất huyền, cái gọi là yếu tính của con người”
Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển. 
"I am not a herald of community or anything else. I am someone who has intimations of freedom (as every chained prisoner has) and constructs representations of people slipping their chains and turning their faces to the light."
"Tôi không phải là một nhân vật nổi cộm của cộng đồng, hay là cái chi chi gì khác. Tôi là thằng cha thèm thuồng tự do [như bất cứ một tù nhân bị xiềng nào thèm thuồng nó], thế là tôi loay hoay vẽ vời ra những con người tuồn khỏi xiềng, chường mặt về phía sáng." 
Nhà văn Nam Phi Coetzee đã  thắng giải Nobel văn  chương 2003. Trên  trang Tin Văn [www.tanvien.net] do Jennifer Tran và Nguyễn Quốc Trụ phụ trách, chúng tôi đã giới  thiệu về ông, qua chuyển ngữ bài tiểu luận viết về một trong những học giả nổi tiếng của thế kỷ 20, và cũng là một nạn nhân của Đức quốc xã, là Walter Benjamin [Những Kỳ tích về Benjamin], và trong một số bài viết khác, như trong bài viết về Nguyễn Khải, về Võ Phiến, về Nguyễn Chí Kham... 
Ông đã từng viết về Việt Nam ngay trong tác phẩm đầu tay, Phương Án Việt Nam, [The Vietnam Project], in chung với The Narrative of [Tự sự của] Jacobus Coetzee, trong Dusklands, Đất Tối, nhà xb Penguin Books. 
Đây là một cuộc đìều tra về ảnh hưởng của truyên truyền của Mỹ, và cuộc chiến tâm lý  Việt Nam, được in song song với câu chuyện của một người da trắng kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi, như một  ẩn dụ so sánh chế độ thực dân thuộc địa thời kỳ 1760 và chủ nghĩa đế quốc 1970. 
Ngay trang đầu của Phương Án Việt Nam, là câu trích dẫn Herman Kahn, người Mỹ,  vốn được coi là một trong những nhà tương lai học: 
Thật dễ dàng thông cảm với sự ghê tởm của khán thính giả Âu Châu và Mỹ, khi nhìn cảnh phi công Mẽo xả bom na-pan thui nướng VC, nhưng không lẽ chính phủ Mẽo trưng dụng cái thứ phi công chết nhát không thể hoàn tất phi vụ, hoặc phát khùng phát điên, vì cảm thấy tội lỗi đầy mình? 
[Obviously it is difficult not to sympathize with those European and American audiences who, when shown films of fighter-bomber pilots visibiy exhilarated by successful napalm bombing runs on Viet-Cong targets, react with horror and disgust. Yet, it is unreasonable to expect the U.S. Government to obtain pilots who are so appalled by the damage they may be doing that they cannot carry out their missions or become excessively depressed or guilt-ridden]. 
Đây là điều Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển lọc ra, trong thông báo dành cho báo chí: Quan tâm của ông chủ yếu ở những hoàn cảnh, khi mà sự phân biệt giữa đâu là đúng đâu là sai, mặc dù hiển nhiên, nhưng hoàn toàn vô dụng. 
Trong bài giới thiệu Vô Kỵ giữa chúng ta, của Đỗ Long Vân, NQT đã áp dụng cách Coetzee đọc văn chương trắng của một số nhà văn Nam Phi, vào  nhân vật Kiều Phong của Kim Dung và đề nghị một cách viết về cuộc chiến VN: Bi kịch về máu: 
"There is therefore a poetics of blood. It is a poetics of tragedy and pain, for blood is never happy" 
"Từ đó, có một thi học về máu. Đó là một thi học về bi thảm và đau đớn, bởi máu là chẳng thể nào hạnh phúc." Gaston Bachelard. [Về Tưởng tượng Thi ca và Mơ mộng, On Poetic Imagination and Reverie; Colette Gaudin biên tập, nhà xb Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1971. Coetzee trích dẫn, trong "White Writing: On the Culture of Letters in South Africa", nhà xuất bản Yale University Press].
Người hùng Kiều Phong là một sáng tạo tuyệt vời, "đỉnh cao trí tuệ" của Kim Dung, theo nghĩa: đây là người hùng mang tính chủng tộc thay thế người hùng mang tính giai cấp, tức những A Q, Chí Phèo. Theo nghĩa đó, W. Faulkner, qua một bài điểm sách trên tờ Người Kinh Tế, được coi là nhà văn "hậu hiện đại", trước khi có thuật ngữ này. 
Nhân tiện, đề nghị một đề tài tiểu thuyết ở đây: Trái Tim của Bóng Đen, viết về một anh chàng Bắc Kỳ theo chân đoàn quân viễn chinh vượt Trường Sơn, tới trái tim của bóng đen: Sài Gòn: đỉnh cao của sa đọa... cuối cùng khám phá ra... Hà Nội! 
Đừng tưởng đùa, bởi vì đã có tới hai tiểu thuyết gia ở hải ngoại sử dụng " ẩn dụ" này rồi, một coi cuộc Nam Tiến của Miền Bắc tương tự như những cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Hoa, một coi đây là do cái ác muôn đời của người dân một miền đất, và muốn cải tạo, tổ quốc phải ăn năn... 
Coetzee, trong bài viết (Máu, Hôi, Hư, Rữa: Những cuốn tiểu thuyết của) Blood, Taint, Flaw, Degeneration: The Novels of Sarah Gertrude Millin (trong White Writing), đã coi "máu" (blood) là từ-chìa khóa trong những tiểu thuyết đề cập tới xã hội Nam Phi của nhà văn nữ Nam Phi viết văn bằng tiếng Anh này. Máu phân biệt dân Phi châu với dân Âu Châu, Englishman khác Afrikaner, Hottentot khác Xhosa, Gentile khác Jew. Nói tới máu là nói tới sắc dân. Nhưng ‘máu" ở trong những tác phẩm của Millin không giản dị chỉ là một hình dung từ để chỉ sắc dân, mà đây là một "thực thể", một dòng nước nhờn đỏ, có thể dầy hoặc mỏng, nóng hoặc lạnh, sạch hoặc dơ, chảy từ đàn ông qua đàn bà, từ bà mẹ qua đứa con... Một thi học về máu hơn là một chính trị học về sắc dân, đã khêu dậy trí tưởng tượng của bà... 
Tờ báo Anh, The Guardian coi Coetzee, như là một tác giả đã chọn kẻ xa lạ, người ngoài hành tinh, kẻ ngoại cuộc, đứng bên lề (the outsider), như là một thể loại nghệ thuật, hay nói một cách khác, đây là nghệ thuật của kẻ ngoài lề, với những suy tư thật là u ám của kẻ đó, về chế độ hậu-phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. 
Viện Hàn Lâm Thụy Điển ca ngợi tác giả, với những cuốn như Tủi Nhục, Chờ Những Dân Rợ, như là “một người hồ nghi một cách thận trọng, và thật là tàn nhẫn, không một chút xót thương, khi phải phê bình tính duy lý độc ác, và cái thứ làm ra vẻ đạo đức của văn minh Tây Phương”.
Từ chối phỏng vấn, qua thông báo của Đại Học Chicago, nơi ông hiện là một ‘visiting professor’, [giáo sư được mời tới,  còn được dịch là  giáo sư thỉnh giảng], nhà văn 63 tuổi này nói, tin ông được giải là một sự ngạc nhiên hoàn toàn.
Bạn bè, đồng sự chào mừng ông, coi đây như là một sự nhìn nhận một  tài năng văn học lớn lao, mà những cuốn tiểu thuyết xoáy vào nỗi đau nhức của cá nhân con người trong cuộc sống riêng tư của họ, trước thay đổi trật tự xã hội. 
Lời khen ngợi của Viện Hàn Lâm, [Coetzee] người mà "trong nhiều cung cách, miêu tả sự liên can lạ thường của kẻ ngoài lề", một lời khen như thế nhắm vào tác giả hơn là những nhân vật của ông, theo ký giả Rory Carroll của tờ The Guardian, Friday October 3, 2003 trong một bài viết từ thành phố Johannesburg, Nam Phi.
Coetzee rời Nam Phi Coetzee vài năm trước đây, như một cách tự đặt mình vào hoàn cảnh lưu vong, sau khi đụng độ với nhà cầm quyền ở đây [the ruling African National Congress] do cuốn tiểu thuyết của ông. Trong cuốn Tủi Nhục, con gái của nhân vật chính bị ba người da đen hãm hiếp, nhưng từ chối không chịu thưa gửi, một phần là do mặc cảm tội lỗi thực dân thuộc địa. Văn phòng bộ trưởng cho rằng câu chuyện mang tính kỳ thị mầu da (racist) và đánh thẳng vào vấn đề nhân quyền ở mức tối nguy hiểm của nó.
Coetzee chẳng bao giờ nói, chuyện ông rời bỏ Nam Phi tới Úc châu liên can tới vụ nói trên, nhưng nhiều người Nam Phi tin rằng ông cảm thấy bị săn đuổi, quấy rầy (hounded). Cũng có dư luận cho rằng, ông bực mình vì một vụ trộm viếng nhà.
Nếu nhà cầm quyền ở Nam Phi cảm thấy “lúng túng như ngậm hột thị”, họ cũng đủ khôn khéo không để lộ ra, vào ngày hôm qua [2, tháng Mười], và đã ca ngợi việc Coetzee được giải như là một bước tiếp nối nữ văn sĩ Nam Phi Nadine Gordimer, Nobel văn chương 1991. “Nhân danh quốc gia Nam Phi và thực sự ra là cả một lục địa Phi Châu, chúng tôi chào mừng nhà văn đoạt giải Nobel mới mẻ nhất, 2003 và chia sẻ cùng với ông vinh quang tỏa ra từ sự nhìn nhận này.” Tổng thống Thabo Mbeki tuyên bố. 
Dư luận báo chí quốc tế cho rằng, Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã chọn đúng người và qua tin hành lang, việc chọn Coetzee.. dễ dàng, đối với mấy ông hàn. Đây là một vinh danh tối hậu cho một tiểu thuyết gia luôn luôn hỏi những câu thật khó chịu (the ultimate honour for a novelist who always asks the uncomfortable questions).  Một trong những nhà văn lịch lãm, can đảm nhất của thời đại chúng ta. Chuyện chọn ông không có gì là bất ngờ, nhưng việc chọn thời điểm để tung ra thông báo quả là một sự ngạc nhiên. Hàn Lâm Viện đã có ý muốn, việc trao giải thưởng Nobel sẽ giống như Oscar, và đây là  cho một sự nghiệp một đời người cống hiến, khác hẳn những trường hợp trước đó, thí dụ như  với Gabriel Garcia Marquez, sau khi được giải thưởng, ông còn viết dữ, và viết hay hơn trước đó!
Vài hàng về tiểu sử, và giai thoại về ông:
John Maxwell Coetzee sinh tại Cape Town (Nam Phi) ngày 19.2.1940. Học tại Đại học Cape Town và sau đó tại Đại học Texas, lấy bằng Ph.D (1969), và trở lại Nam Phi năm 1972, dậy Anh ngữ tại Đại học Cape Town. Tiểu thuyết gia, nhà phê bình, dịch giả; những cuốn tiểu thuyết của ông là về hậu quả của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, thực ra là hai truyện vừa, "Dusklands" (1974), ông đối chiếu sự hiện diện của người Mỹ tại Việt Nam với những người Hòa Lan đầu tiên định cư tại Nam Phi. Trong lịch sử 31 năm của giải thưởng văn học The Booker, ông là người đầu tiên hai lần đoạt giải, lần thứ nhất vào năm 1983 với cuốn "Đời và Thời của (Life and Times of) Michael K.", và năm 1999, với cuốn "Disgrace" (Nhục nhã). Và bây giờ, là Nobel văn học 2003.
 "Cũng không mệt lắm đâu."
Coetzee là một con người ít nói, lạnh lùng, theo một số sinh viên của ông. Giles Foden, deputy literary editor của tờ Guardian kể, tuy không quen, nhưng có gặp Coetzee vài lần trong năm. Một lần gặp tại ghế sau một chiếc taxi, vào năm 1955, khi ông vừa nhận giải The Irish Times's international fiction prize. Trước đó, ông đã lãnh bộn rồi.
"Ông chắc thấy mệt với chuyện lãnh giải?", Giles Foden lầu bầu nói. Lúc đó cũng quá khuya rồi.
Ông chỉ mỉm cười. Đâu một lát sau, 'cóc' mới mở miệng:
"Cũng không mệt lắm đâu."
Nhưng có một lần, Giles Foden nghĩ là đã nhận ra một tí, của cái gọi là 'thép trong tâm hồn', của ông. Đó là lần gặp trong một buổi đọc văn tại Waterstone's. Một thính giả đứng lên hỏi:
-Ông có nghĩ, như vậy là đúng không, cái việc chúng ta đang ngồi đây bàn về văn chương trong khi người Mẽo oanh tạc Serbs?
Coetzee không nói gì. Người đó hạch tiếp:
-Liệu có một mối liên hệ nào giữa hai chuyện đó không?"
"Thẳng thừng mà nói, không!" Coetzee trả lời.
Tay tra hỏi kia bèn ngồi xuống.

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’