Lolita

&
Chìa khoá vàng: Chỉ ra luận lý, trong khùng điên, ba trợn, và ngược lại



LANDSCAPES OF THE MIND

Robert Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”

LOLITA'S LOATHSOME BRILLIANCE



Note: Bài viết thần sầu trên, trên tờ Intel, về Lo, Gấu chôm về Tin Văn, tính dịch hầu quí độc giả. Thú vị hơn nữa, trên số báo Intel, số mới nhất, có 1 độc giả, gửi thư cho toàn soạn, v/v bài viết, và về điều mà vì độc giả gọi là “Over-exposure”: Như bác sĩ, cớm, hầu hết những tên chủ khách sạn, học rất nhanh, những hình thái của cái ác của con người. Gấu post cái thư sau đây, rồi lèm bèm tiếp.


Overexposure
Re: A loathsome brilliance (Landscapes of the Mind, March/April)

Of the real nature of the relationship between Lolita and Humbert, Robert Macfarlane ponders, "Why do the motel owners not see what is going on'?" But no doubt they do. It is a product of exposure. Like doctors and police officers, most motel owners, I suspect, do learn - and learn fast - the forms of human evil. This is a fact clearly not known to Humbert, who arrogantly prides himself on his canniness. Yet Nabokov must have known it. Having fled Berlin in 1937 and Paris in 1940, he was no doubt well aware of the frequency with which good persons choose to look the other way, and of the black consequences of doing so. It is something that, since late October of last year, we have been thinking a good deal of here in Toronto, given the scandal of Jian Ghomeshi.

BOYD HOLMES, TORONTO

Landscapes of the Mind: Nabokov’s “Lolita” unfolds in motel America. Robert Macfarlane travels along the road to despair

Phong cảnh của tâm hồn: “Lolita” trải lòng ra, qua những phòng ngủ ở thiên đàng

Humbert Humbert, nhân vật nổi tiếng số 1 sờ soạng con nít của văn chương, coi đó là “joy-ride”, cuộc đi chơi của niềm vui. Ròng rã 1 năm trời, thằng chả chạy xe trên những những con lộ hẻo lánh, hạng nhì ở miền quê nước Mẽo, với Lolita, lúc đó 12, như là một bạn đường bị ép buộc, và cũng là nạn nhân thường lệ của hắn. Cả hai trải qua, phủ lên, choàng lên…  [“cover”, từ này, tưởng dễ mà thật khó dịch!] hàng ngàn dặm đường trong chiếc sedan, lượn lờ trên những con đường nhựa hào “nhoáng”, từ New England tới Rockies, qua những cánh đồng bắp Midwestern. Cả hai trở thành những chuyên viên bậc thầy,  connoisseurs, về…  nếm ngửi, thở hít, ăn ngủ sờ soạng, của “motel”, phòng ngủ bên đường, của Mẽo – luôn luôn ghi vô sổ đăng ký khách sạn như là bố và con gái, và không bao giờ ở quá lâu, chỉ vài đêm, phán chục phát, cỡ đó, là tếch.

Đây có lẽ là 1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1 đứa con nít: Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra cánh cửa địa ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel: “Lolita” unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".

Quái làm sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và những chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Nhớ nhất, là lần về Long Xuyên, như…  Humbert Humbert, được thưởng thức mùi vị của một cô Miên lai, da ngăm đen. Cô này, thực sự không làm nghề này, cô làm nghề giữ con nít cho 1 gia đình cũng ở gần khách sạn.
Gấu mê cô quá, hồi đó chưa lấy vợ, cứ lần lữa kéo dài chuyến đi tới cả tháng, sau này viết l
ại, trong


Ba Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu, không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.

Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này

Hết hai năm tập sự, đổi qua làm việc tại một đài chuyên duy trì những đường dây liên lạc quốc tế, về viễn ký, viễn ảnh, điện thoại đường dài [điện thoại viễn liên], giữa Sài Gòn và một số thủ đô trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố, quên dần những chuyến đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một thành phố một hai lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt không liên quan, không ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến trúc phảng phất nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây quanh bởi một vài khách sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ tíu, quán bi da, banh bàn; những sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng nghiêm chào cờ theo lệnh một chiếc loa công cộng [thời còn ông Diệm], (thành phố lúc đó có một bộ mặt trang nghiêm thật tức cười, những thực khách đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy, miệng còn mẩu bánh chưa kịp nuốt, dáng lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa kịp hiểu chuyện gì đang xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay trong khi chập chờn ngủ, được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ tập trong quán cà phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như tiếng thở than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt chẳng hề nói của cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây một tiếng động, như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong cơ thể người khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay vào đó, là một con mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc nào, mắt xanh biếc trong bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng kế bên, một người khách lơ đễnh không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những chiếc xe hàng đánh thức giấc ngủ khoảng ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm mốc hình như toát ra từ những bức tường loang lổ, từ chiếc nệm giường mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường làm dậy một nỗi trắc ẩn vô duyên cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...

Trở lại Ba Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.

*

THE BIG QUESTION
http://moreintelligentlife.com/content/ideas/whats-best-sense

[Không làm sao làm link được! Hình trên net. Hình báo giấy, dưới đây, tuyệt hơn nhiều]

What’s the best sense? Stephen Schiff says it is touch, Julian Barnes a sense of self, Julie Myerson a sense of colour, Adam Foulds hearing, Richard Eyre common sense, Ann Wroe the sixth sense and Andrew Solomon a sense of humour

Intel, số mới, câu hỏi lớn, cảm quan, mùi gì, bảnh nhất, what’s the best sense? Tin Văn sẽ giới thiệu, bài của Julian Barnes: Mùi của [“của” nhe!]… mình, a sense of self.












*

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư