Zweig vs Vo Phien
Zweig
Tờ Books có
hai bài, một, dịch bài trên LRB, "Zweig, ce pepsi de la littérature",
và một, trong số đặc biệt về đời riêng của những nhà văn, la vie privée
de
l'écrivain, đọc cuốn tiểu sử của Zweig, bản tiếng Đức, của Oliver
Matuschek.
Ông này cũng chê Zweig, tố cáo Zweig đã quay lưng trước đồng nghiệp,
trước Nazi.
Theo ông, những truyện ngắn của Zweig cho thấy 1 con người bị sex hành
hạ, và là
chính tác giả.
Truyện thần sầu của Zweig, với Gấu, là Người Chơi Cờ, được viết trước khi Zweig mất ít lâu.
Thời gian ở Brésil, ông không biết làm gì, bèn mê cờ, và mê đọc những trận cờ nổi tiếng trong chốn giang hồ.
Truyện thần sầu của Zweig, với Gấu, là Người Chơi Cờ, được viết trước khi Zweig mất ít lâu.
Thời gian ở Brésil, ông không biết làm gì, bèn mê cờ, và mê đọc những trận cờ nổi tiếng trong chốn giang hồ.
Những nhân vật
tiểu thuyết hiện đại đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể
lập lại,
với những nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu,
ông đã đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định,
và một
Võ Phiến bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B.
(không hiểu
khi bị bắt trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội
đốt vàng
những giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần" trong Thác Đổ Sau
Nhà, đã có một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái trong một căn
lều, giữa
rừng, cách biệt với thế giới loài người, có một cái gì thật quen thuộc
với đối
thủ của ông B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi
xuống bàn cờ
là kẻ thù nào cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều đầy khôn ngoan. Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14 tuổi vẫn phải dùng tay để đếm!
"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều đầy khôn ngoan. Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14 tuổi vẫn phải dùng tay để đếm!
[Nhưng đây là Hồ Tôn Hiến,
lớp 1, chăn trâu!]
Tôi vội lục
lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May, tôi còn giữ....
Gấu đã từng,
sau khi xin lỗi ông nhóc con trên talawas, viết mail riêng, đề nghị ông
nhóc
chuyển cho coi lại bài viết cũ.
Ông đếch thèm trả lời.
Ông đếch thèm trả lời.
Sở dĩ ông ta “đi 1 đường
hờ
hững”, là vì yên chí lớn, chẳng thằng nào con nào còn tờ Văn, số về VP.
Ông nhóc không ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá, còn hơn cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!
Ông nhóc không ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá, còn hơn cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!
Nhờ
“Cơn Sốt Vàng”, Gấu có lại được những bài viết không bao giờ nghĩ lại
được nhìn
lại chúng.
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!
Tks. Many Tks. NQT
Truyện ngắn Võ Phiến
Trong bài viết về VP, của Gấu, có câu, của Faulkner, tác phẩm lớn chỉ xuất hiện khi nỗi lo sợ tạm ngưng.
Tuyệt quá, nhưng chán quá, không biết thuổng từ cuốn nào của sư phụ!
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm,
một phần là do ông
anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương tờ nhật báo Tự
Do, và
sau đó, còn làm nhà xuất bản, nơi đã từng in cuốn Kể Trong Đêm Khuya
(?) của Võ
Phiến. Tôi đọc VP trước đó ít lâu, khi ông anh mang về nhà mấy tờ báo
mỏng
dính, in ấn lem nhem, như tự in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát hành đâu từ
miền
Trung. (1) Tôi chỉ nhớ cái thuở ban đầu làm quen những nhân vật của
ông, không
còn nhớ đã từng viết về ông, một phần là do, thời gian sau đó, tôi mải
mê, ngấu
nghiến đọc những tác giả, mà tôi hy vọng họ giúp tôi giải thích tại sao
sinh
ra, tại sao sống, tại sao chết, tại sao có cuộc chiến khốn khổ khốn nạn
đó...
Những tác giả, thí dụ như
Camus, mà câu văn sau
đây không thể nào gỡ ra khỏi ký ức, kể từ lần đầu tiên đọc nó, khi mới
lớn,
trong Sài Gòn...
Tôi lớn lên cùng với những
người của thế hệ
tôi, cùng những tiếng trống của Cuộc Chíến I, và lịch sử từ đó, không
ngừng chỉ
là sát nhân, bất công, và bạo lực...
[Nguyên văn câu tiếng Tây, hình như là như sau đây, tiếc rằng, không làm sao tìm lại được "nguyên con", để so sánh: J'ai grandi avec tous mes hommes de mon age, aux tambours de la première guerre, et l'histoire depuis, n'a pas cessé d'être meurtre, injustice, et violence..]
[Nguyên văn câu tiếng Tây, hình như là như sau đây, tiếc rằng, không làm sao tìm lại được "nguyên con", để so sánh: J'ai grandi avec tous mes hommes de mon age, aux tambours de la première guerre, et l'histoire depuis, n'a pas cessé d'être meurtre, injustice, et violence..]
Chỉ một phần thôi...
Lý do tôi không đọc Võ Phiến nữa, chính là nhờ ông, tôi lần ra một tác giả khác, giải quyết giùm cho tôi, một số câu hỏi mà những nhân vật của Võ Phiến không thể vượt qua được. Đó là Stefan Zweig....
Nhân vật của Võ Phiến rất giống nhân vật của Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra những Người Tù, Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những cuộc phiêu lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái thân thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig cũng y hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết người khủng khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ vẫn còn là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si...
Cái đòn thứ nhì này, tôi gọi là đòn gia bảo, gia truyền, không thể truyền cho ai, bất cứ đệ tử nào, như trong Thuyết Đường cho thấy, Tần Thúc Bảo không dám dạy La Thành cú Sát Thủ Giản, mà La Thành cũng giấu đòn Hồi Mã Thương...
Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới nơi, lạy lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai, trở về đời. Trong bữa ăn từ giã thiên thai, anh chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng tiền tính dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời, thần tiên đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là đi luôn!
Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn, không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại Người Tình Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn tới mức đó!
Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái "libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền. Lúc rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm Điêu Thuyền, bố, Lã Bố...
Võ Phiến còn một truyện ngắn, không hiểu sau khi ra hải ngoại, ông có cho in lại không, đó là truyện một anh CS về thành, được trao công việc đi giải độc. Giải độc mãi, tới một bữa, anh nhận ra là thiên hạ chỉ giả đò nghe anh lảm nhảm tố cộng, nhưng thật sự là đang lo làm việc khác... Tôi không hiểu có phải đây là một thứ tự truyện hay không.
Lý do tôi không đọc Võ Phiến nữa, chính là nhờ ông, tôi lần ra một tác giả khác, giải quyết giùm cho tôi, một số câu hỏi mà những nhân vật của Võ Phiến không thể vượt qua được. Đó là Stefan Zweig....
Nhân vật của Võ Phiến rất giống nhân vật của Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra những Người Tù, Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những cuộc phiêu lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái thân thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig cũng y hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết người khủng khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ vẫn còn là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si...
Cái đòn thứ nhì này, tôi gọi là đòn gia bảo, gia truyền, không thể truyền cho ai, bất cứ đệ tử nào, như trong Thuyết Đường cho thấy, Tần Thúc Bảo không dám dạy La Thành cú Sát Thủ Giản, mà La Thành cũng giấu đòn Hồi Mã Thương...
Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới nơi, lạy lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai, trở về đời. Trong bữa ăn từ giã thiên thai, anh chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng tiền tính dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời, thần tiên đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là đi luôn!
Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn, không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại Người Tình Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn tới mức đó!
Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái "libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền. Lúc rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm Điêu Thuyền, bố, Lã Bố...
Võ Phiến còn một truyện ngắn, không hiểu sau khi ra hải ngoại, ông có cho in lại không, đó là truyện một anh CS về thành, được trao công việc đi giải độc. Giải độc mãi, tới một bữa, anh nhận ra là thiên hạ chỉ giả đò nghe anh lảm nhảm tố cộng, nhưng thật sự là đang lo làm việc khác... Tôi không hiểu có phải đây là một thứ tự truyện hay không.
Lần trở lại đất bắc, tôi
gặp một ông rất có
uy tín, cả trong giới văn lẫn giới Đảng, (đã về hưu). Ông cho biết, vụ
VP bị CS
bắt là hoàn toàn có thiệt. Nhưng chuyện ông được tha, không phải như Tô
Hoài
cho rằng mấy anh đưa người ra bắc trong chiến dịch tập kết năm 1954 đã
bỏ sót,
mà do một tay tỉnh ủy (?) có máu văn nghệ, đã ra lệnh tha, cho về
thành....
Bài viết của PLP, khi đọc
lại, thì Gấu nhớ là đọc rồi, nhờ chi tiết “Bắt Trẻ Đồng Xanh”. Nhưng
nhờ đọc lại, thì mới để ý đến những nhận xét của PLP, thí dụ:
Thế giới “hay” nhất của VP
là cái hốt hoảng, phân vân, bỡ ngỡ của 1 khung trời vừa mới thoát xác:
đang ở trong vùng Cộng Sản, trở thành vùng Quốc Gia….
Có hai định nghĩa về nhà
văn, tưởng choảng nhau, nhưng lại bổ túc cho nhau, thế mới kỳ. Nhận xét
trên, của PLP ứng với định nghĩa, nhà văn là kẻ đến sau biến động. Và
vế ngược của nó: Nhà văn là 1 nhà tiên tri.
Có thể nói, thế giới văn chương Võ Phiến, có được là nhờ [đến sau] hiệp định 1954.
Nhưng, bây giờ đọc câu trên, thì lại nhìn ra tính tiên tri của nó: Thế giới “thảm” nhất của, không phải VP mà là cả Miền Nam: đang ở trong vùng Quốc Gia, trở thành vùng Cộng Sản!
Có thể nói, thế giới văn chương Võ Phiến, có được là nhờ [đến sau] hiệp định 1954.
Nhưng, bây giờ đọc câu trên, thì lại nhìn ra tính tiên tri của nó: Thế giới “thảm” nhất của, không phải VP mà là cả Miền Nam: đang ở trong vùng Quốc Gia, trở thành vùng Cộng Sản!
Một bài viết hay như thế,
đầy tính văn, tính sử, tính định mệnh như thế, mà anh nhóc con hạ bút:
"đành rằng, với cách viết hờ hững…”, tôi đếch coi thằng nào ra thằng nào!
"đành rằng, với cách viết hờ hững…”, tôi đếch coi thằng nào ra thằng nào!
[Nguyên văn: "Ngoài ra,
còn mục 'Ðọc Võ Phiến', gồm những trích đoạn từ bài viết của các nhà
văn: Phan Lạc Phúc, Mai Thảo, Ðỗ Tấn, cô Phương Thảo, Huỳnh Phan Anh,
Viên Linh, Nguyễn Quốc Trụ, và Nguyễn Ðình Toàn về một tác phẩm nào đó
của Võ Phiến. Tất cả các bài viết này đều đã được đăng báo, đâu đó."
(tr. 205).
Ðã đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng] (1)
Một ông “ôn con” như thế, mà bây giờ được "lịch sử", qua băng đảng, bộ lạc Cờ Lăng, trao trách nhiệm viết về văn học Miền Nam trước 1975, một nền văn học bất hạnh!
Ðã đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng] (1)
Một ông “ôn con” như thế, mà bây giờ được "lịch sử", qua băng đảng, bộ lạc Cờ Lăng, trao trách nhiệm viết về văn học Miền Nam trước 1975, một nền văn học bất hạnh!
Tôi vội lục lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May, tôi còn giữ....
Gấu đã từng,
sau khi xin lỗi ông nhóc con trên talawas, viết mail riêng, đề nghị ông
nhóc
chuyển cho coi lại viết cũ.
Ông đếch thèm trả lời.
Sở dĩ ông ta “đi 1 đường hờ hững”, là vì yên chí lớn, chẳng thằng nào con nào còn tờ Văn, số về VP.
Ông nhóc không ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá, còn hơn cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!
Ông đếch thèm trả lời.
Sở dĩ ông ta “đi 1 đường hờ hững”, là vì yên chí lớn, chẳng thằng nào con nào còn tờ Văn, số về VP.
Ông nhóc không ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá, còn hơn cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!
Nhờ
“Cơn Sốt Vàng”, Gấu có lại được những bài viết không bao giờ nghĩ lại
được nhìn
lại chúng.
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!
Tks. Many Tks. NQT
Trong bài “Now,
Voyager”, điểm cuốn “Lưu Vong Bất Khả: Stefan Zweig [ở tận cùng thế
giới], at
the End of the World", trên tờ Literary Review chúng
ta đang bàn tới, Evelyn
Juers cũng nhắc tới bài viết phạng Zweig tơi bời trên tờ LRB - nó khiến
tác giả
không dám đọc lại Zweig nữa, như chúng ta
vẫn thường sợ phải đọc lại 1 cuốn sách trước đó quá mê, nhưng cuốn "Lưu
Vong Bất
Khả" của Prochnik khiến ông an tâm, Zweig vẫn xứng đáng đọc.
Võ Phiến thì cũng thế!
Tin Văn sẽ dịch bài viết trên, và link bài viết trên LRB, ở đây:
Võ Phiến thì cũng thế!
Tin Văn sẽ dịch bài viết trên, và link bài viết trên LRB, ở đây:
Michael
Hofmann
The World of
Yesterday by Stefan Zweig, translated by Anthea Bell
Đọc bài điểm
cuốn tiểu sử của Zweig, “Lưu vong bất khả”, The Impossible Exile, thì Gấu hiểu
ra, tại làm sao mà tụi mũi lõ nói tiếng Anh chịu không nổi Zweig. Với
Zweig, Âu
Châu là nhà của ông. Gấu nhận ra điều này, khi viết về Võ Phiến, và gọi
ông là “nhà
văn Bình Định”, là theo nghĩa đó.
Với tôi, văn
chương Sài Gòn một thuở có một nhà văn bị thổi phồng về rất nhiều thứ:
tài
năng, tầm vóc, vân vân và vân vân.
Đó chính là Võ Phiến.
Đó chính là Võ Phiến.
Blog NL
Nhận xét trên,
theo Gấu không đúng. Trước 1975, Võ Phiến không được nhắc tới nhiều, so
với những
nhà văn ăn khách khác, thí dụ Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc của Nam Kỳ, hay
Thanh Tâm
Tuyền, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, của Bắc Kỳ di cư, thí dụ. Nhưng không
phải là ông không có độc
giả, nhất
là về mặt tiểu thuyết, truyện ngắn, theo GCC, rất giống Zweig, ở rất
nhiều điểm.
Những nhận xét của tác giả bài điểm cuốn tiểu sử “Lưu Vong Bất Khả” về Zweig, trên tờ Literary Review có thể áp dụng vô VP: "Thương hiệu" của Zweig là “amok”, 1 từ của chính ông [Amok là tên 1 tác phẩm của Zweig, được dịch ra tiếng Việt là Người Khùng Mã Lai]:
They run amok!... All too often, demonic rapture grabs his readers by the throat. Cái sướng khùng điên, man rợ tóm lấy cổ độc giả, và bóp chặt!
Nhân vật của VP cũng cho chúng ta cái sướng khùng điên man dại đó!
Những nhận xét của tác giả bài điểm cuốn tiểu sử “Lưu Vong Bất Khả” về Zweig, trên tờ Literary Review có thể áp dụng vô VP: "Thương hiệu" của Zweig là “amok”, 1 từ của chính ông [Amok là tên 1 tác phẩm của Zweig, được dịch ra tiếng Việt là Người Khùng Mã Lai]:
They run amok!... All too often, demonic rapture grabs his readers by the throat. Cái sướng khùng điên, man rợ tóm lấy cổ độc giả, và bóp chặt!
Nhân vật của VP cũng cho chúng ta cái sướng khùng điên man dại đó!
On February
23, 1942, Stefan Zweig and his young wife committed suicide together in
Petrópolis, Brazil. The following day, the Brazilian government held a
state
funeral, attended by President Getulio Vargas. The news spread rapidly
around
the world, and the couple’s deaths were reported on the front page of
The New
York Times. Zweig had been one of the most renowned authors of his
time, and
his work had been translated into almost fifty languages. In the eyes
of one of
his friends, the novelist Irmgard Keun, “he belonged to those that
suffered but
who would not and could not hate. And he was one of those noble Jewish
types
who, thinskinned and open to harm, lives in an immaculate glass world
of the
spirit and lacks the capacity themselves to do harm.”
The suicide
set off a surge of emotion and a variety of reactions. Thomas Mann, the
unquestioned leader of German-language writers in exile, made no secret
of his
indignation at what he considered an act of cowardice. In a telegram to
the New
York daily PM, he certainly paid tribute to his fellow writer’s talent,
but he
underscored the “painful breach torn in the ranks of European literary
emigrants by so regrettable a weakness.” He made his point even clearer
in a
letter to a writer friend: “He should never have granted the Nazis this
triumph, and had he had a more powerful hatred and contempt for them,
he would
never have done it.” Why had Zweig been unable to rebuild his life? It
wasn’t
for lack of means, as Mann pointed out to his daughter Erika.
This is the
subject of Georges Prochnik’s The Impossible Exile, a gripping,
unusually
subtle, poignant, and honest study. Prochnik attempts, on the basis of
an
uncompromising investigation, to clarify the motives that might have
driven to
suicide an author who still enjoyed a rare popularity, an author who
had just
completed two major works, his memoir, The World of Yesterday, and
Brazil: Land
of the Future. He had also finished one of his most startling novellas,
Chess
Story, in which he finally addressed the horrors of his own time,
proving that
his creative verve hadn’t been in the least undermined by his ordeals.
Recently
he had married a loving woman, nearly thirty years his junior. And he
had
chosen of his own free will to leave the United States and take refuge
in
Brazil, a hospitable nation that had fired his imagination.
Cái sự biến
VP thành… thần, là ở hải ngoại, khi ông
nhận được tiền của… Xịa, viết văn học sử
Miền Nam. Đám nhà văn hải ngoại, tên nào mà chẳng thèm vô… văn học sử!
Và khi VC muốn mua ông, tái bản sách của ông, dưới cái tên Tràng Thiên.
Tạm thôi, chờ thời, dùng đúng tên VP!
Và khi VC muốn mua ông, tái bản sách của ông, dưới cái tên Tràng Thiên.
Tạm thôi, chờ thời, dùng đúng tên VP!
Nhưng đám VC
thì chỉ dám thổi ba cái nhảm nhất của VP, với Gấu, là Tuỳ Bút, Tạp Ghi.
Có tên
còn phán, hơn hẳn Nguyễn Tuân!
Quá bậy. Tuỳ bút, ăn thua ở cái tâm nhiều lắm, nếu muốn viết hay. Khi tới đỉnh, là nó trở thành thứ văn chương “viết như không viết”. Ở hải ngoại, có 1 đấng nổi danh lắm, được khen lắm, Gấu không nêu tên, vì lại thêm 1 kẻ thù, nhưng mỗi lần Gấu đọc, là thấy ông này đang bặm môi làm nhà đạo đức, nhà đắc đạo, sau khi đã kinh qua… Lò Cải Tạo! Ông ta đã đi tù VC rồi mà, được VC ban cho cái bằng đã kinh qua [tốt nghiệp] Lò Cải Tạo, đã đắc đạo, đã không thù, không oán….
Kít!
Đâu có khác gì mấy tên VC nằm vùng!
Quá bậy. Tuỳ bút, ăn thua ở cái tâm nhiều lắm, nếu muốn viết hay. Khi tới đỉnh, là nó trở thành thứ văn chương “viết như không viết”. Ở hải ngoại, có 1 đấng nổi danh lắm, được khen lắm, Gấu không nêu tên, vì lại thêm 1 kẻ thù, nhưng mỗi lần Gấu đọc, là thấy ông này đang bặm môi làm nhà đạo đức, nhà đắc đạo, sau khi đã kinh qua… Lò Cải Tạo! Ông ta đã đi tù VC rồi mà, được VC ban cho cái bằng đã kinh qua [tốt nghiệp] Lò Cải Tạo, đã đắc đạo, đã không thù, không oán….
Kít!
Đâu có khác gì mấy tên VC nằm vùng!
Gấu nhớ hoài,
lần gặp lại 1 người bạn, khi mới ra được ngoài này. Anh thật mừng rỡ,
cho biết,
ông được vô văn học sử rồi! Gấu ngạc nhiên quá, tính hỏi, anh giúi cuốn
“Văn Học
Tổng Quan” của Võ Phiến vô tay, biểu, đọc đi.
Số này, có mấy
bài viết OK. Cái tiệm sách báo Tẩy dẹp luôn rồi. Gấu, theo lời chỉ dẫn
của bà
chủ tiệm, tới 1 tiệm có bán báo Tẩy. Lèo tèo một hai tờ. Hỏi sách Tẩy
lắc đầu,
làm gì có thứ đó ở đây!
Đọc bài điểm
cuốn tiểu sử của Zweig, “Lưu vong bất khả”, The Impossible Exile, thì Gấu hiểu
ra, tại làm sao mà tụi mũi lõ nói tiếng Anh chịu không nổi Zweig. Với
Zweig, Âu
Châu là nhà của ông. Gấu nhận ra điều này, khi viết về Võ Phiến, và gọi
ông là “nhà
văn Bình Định”, là theo nghĩa đó.
Tàn nhẫn, xấc xược, cực kỳ trịch thượng, giấu kín vết thương không thể nào lành, là 1 tuổi thơ khốn khổ của mình
Cái sự lưu vong của ông ta
thì đếch làm sao chịu nổi
Tờ Books,
Avril 2013, có 1 bài phạng Zweig
tơi bời xí oắt, và tự hỏi, hà cớ làm sao 1 mà ông văn chương dở như
hạch, lại
được ca thấu trời.
ZWEIG, CE PEPSI
DE LA LITTERATURE
A quoi est
due l'immense popularité dont continue de jouir Stefan Zweig? A une
sorte de talent
hollywoodien fait pour plaire à la bourgeoisie inculte. Les Mann, Musil
et
autres Canetti ne s'y trompaient pas, qui le couvraient de leur mépris.
Un poète
anglais d' origine allemande enfonce le clou dans cet article d'une
rare méchanceté
qui fracasse aussi la statue morale de l'humaniste.
MICHAEL
HOFMANN. London Review of Books.
His Exile
Was Intolerable
Anka
Muhlstein
May 8, 2014
Issue The Impossible Exile: Stefan Zweig at the End of the World
by George
Prochnik
Other Press,
390 pp., $27.95
The Grand
Budapest Hotel
a film
directed by Wes Anderson
Imagno/Hulton
Archive/Getty Images
Stefan Zweig
and Joseph Roth, Ostende, Belgium, 1936
On February
23, 1942, Stefan Zweig and his young wife committed suicide together in
Petrópolis, Brazil. The following day, the Brazilian government held a
state
funeral, attended by President Getulio Vargas. The news spread rapidly
around
the world, and the couple’s deaths were reported on the front page of
The New
York Times. Zweig had been one of the most renowned authors of his
time, and
his work had been translated into almost fifty languages. In the eyes
of one of
his friends, the novelist Irmgard Keun, “he belonged to those that
suffered but
who would not and could not hate. And he was one of those noble Jewish
types
who, thinskinned and open to harm, lives in an immaculate glass world
of the
spirit and lacks the capacity themselves to do harm.”1
The suicide
set off a surge of emotion and a variety of reactions. Thomas Mann, the
unquestioned leader of German-language writers in exile, made no secret
of his
indignation at what he considered an act of cowardice. In a telegram to
the New
York daily PM, he certainly paid tribute to his fellow writer’s talent,
but he
underscored the “painful breach torn in the ranks of European literary
emigrants by so regrettable a weakness.” He made his point even clearer
in a
letter to a writer friend: “He should never have granted the Nazis this
triumph, and had he had a more powerful hatred and contempt for them,
he would
never have done it.” Why had Zweig been unable to rebuild his life? It
wasn’t
for lack of means, as Mann pointed out to his daughter Erika.
This is the
subject of Georges Prochnik’s The Impossible Exile, a gripping,
unusually
subtle, poignant, and honest study. Prochnik attempts, on the basis of
an
uncompromising investigation, to clarify the motives that might have
driven to
suicide an author who still enjoyed a rare popularity, an author who
had just
completed two major works, his memoir, The World of Yesterday, and
Brazil: Land
of the Future. He had also finished one of his most startling novellas,
Chess
Story, in which he finally addressed the horrors of his own time,
proving that
his creative verve hadn’t been in the least undermined by his ordeals.
Recently
he had married a loving woman, nearly thirty years his junior. And he
had
chosen of his own free will to leave the United States and take refuge
in
Brazil, a hospitable nation that had fired his imagination.
Why had
exile proved so intolerable to Stefan Zweig when other artists drew a
new vigor
and inspiration from it? Prochnik notes that Claude Levi-Strauss,
walking New
York’s streets for the first time in 1941, described the city as a
place where
anything seemed possible…. What made [its charm], he wrote, was the way
the
city was at once “charged with the stale odors of Central Europe”—the
residue
of a world that was already finished—and injected with the new American
dynamism.
Zweig never
experienced moments of terror or the life-and-death decisions to be
made in the
course of a few hours, nor was he forced to slog through the long and
challenging reconstruction of a professional career. He always seemed
to get
out well before the wave broke, with plenty of time to pack his bags,
sort
through his possessions, and, most important of all, pick his
destination. He
left Austria and his beautiful home in Salzburg as early as 1933. A
police
search on the false pretext of unearthing a cache of illegal weapons
led him to
depart for Great Britain, leaving his wife, Friderike, and his two
stepdaughters behind. Unlike his German colleagues, including Thomas
Mann, who
had left Germany upon Hitler’s rise to power in January 1933 with no
hope of
returning home until there was a change of regime, Zweig was able to
travel
freely between London, Vienna, and Salzburg for another five years. An
Austrian
passport, valid until the Anschluss in March 1938, allowed him to make
trips to
the United States and South America.
But Hitler’s
rise to power had serious and immediate consequences for Zweig, in
particular
the loss of his German publisher, Insel Verlag. Still, at the start of
the Nazi
era, Zweig’s books continued to be available in Germany. Even though it
was
forbidden to display them or allude to them in the press, his sales
figures
remained virtually unchanged in 1933 and 1934. More surprising still,
Richard
Strauss—who had asked Zweig to write the libretto of his opera The
Silent
Woman—fought against the suppression of Zweig’s name on the program of
the
work, at a time when mentioning Jewish artists was prohibited. The
opera had
its premiere in June 1935, but only two performances followed. Strauss
was
nevertheless very anxious to continue working with Zweig. He even
suggested
they keep the collaboration secret until better times, but Zweig’s
sense of
solidarity with his fellow Jewish artists forbade him to accept.
Those first
years of what we can call a comfortable exile were punctuated not by
drama—because Zweig was a master at the art of avoiding drama in his
personal
life—but by a number of conjugal adjustments. Stefan and his wife were
on very
good terms, and he’d asked her to hire him a secretary when he moved to
London.
She selected a German refugee, Lotte Altman, a serious young woman,
delicate
and discreet, who suited Zweig perfectly. Lotte traveled with him
frequently,
and went with him to meet Friderike in Nice, before he was to take the
ship for
New York.
The stay in
Nice was proceeding harmoniously, at least until Zweig asked Friderike
to stop
by the British consulate to iron out a problem. When she got to the
consulate,
she realized that she’d forgotten an important document and went back
to the
hotel to retrieve it. She walked into the room and found Stefan and
Lotte fast
asleep. They had a rude awakening but Friderike kept her sang-froid,
found the
document, and headed back to the consulate; upon her return, however,
she
demanded not that Lotte be fired, but that she immediately take some
time off.
A few days later, Zweig boarded his ship. Friderike accompanied him to
his
stateroom. A letter was waiting for him on the dresser. Both of them
recognized
Lotte’s handwriting, and Zweig made the surprising gesture of handing
it to
Friderike without opening it. The entire incident strikes me as
indicative of
his gift for evasiveness and his loathing of conflict.
Zweig
arrived in New York in January 1935: he was fifty-four years old and at
the
height of his career. He wasn’t a novelist of Thomas Mann’s caliber,
and he
knew that. He was sufficiently self-effacing to take pride in the fact
that the
Nazis had burned his books along with those of Freud, Einstein, and the
brothers Mann. But his sales beat all records. “Shortening and
lightening seem
to me a boon to the work of art,” he had written to Richard Strauss and
quite
naturally he chose as his favorite literary form the novella, a quick
and
concentrated format that lent itself to splashy, racy subjects; it won
him
plenty of readers who were tired of “nineteenth-century
triple-deckers.” His
biographies, which smacked more of novelized history than exhaustive
scholarship, sold well for the same reasons. He’d recently published
his
biography of Erasmus, which he considered a veiled self-portrait:
Erasmus, the
humanist, represented his own values while his antagonist, Martin
Luther, was
emblematic of the man of action.
The book was
an immediate success, even in Germany. His reputation, his self-imposed
exile,
his friendship with Joseph Roth and other artists destroyed by
political
developments, his network of contacts with refugees in Switzerland,
Great
Britain, and France, all prompted the intense curiosity of journalists.
Everyone wanted to hear him condemn the Nazi regime. A press conference
was
held in the offices of his publisher, Viking. But in response to the
precise
and pointed questions from reporters who wanted to know what he thought
of
Hitler, what was going on in Germany, the state of mind among the
German
populace and the refugees, Zweig was evasive, regarding the press with
“his
typical ‘languid composure’” and concluding with the statement, “I
would never
speak against Germany. I would never speak against any country.”
Prochnik,
well aware that the biographer’s job is not to judge but rather to try
to
understand, instead of taking a simplistic approach and condemning
Zweig’s
passive stance, chooses to view it as a manifestation of his hope that
the
German people might still come to their senses—perhaps influenced by
the fact
that his books were still selling so strongly in Germany. Thus “the
best
response to Hitler’s election was not to demonize his supporters, Zweig
believed, but to communicate to them the value of the rich German
cultural
legacy that was being jeopardized by Nazi politics.” Zweig envisioned
the
publication of a monthly literary review that would feature articles in
different languages, so as
to cement,
by its high ethical and literary standards, an aristocratic European
brotherhood that eventually would be able to counteract the demagogic
propaganda unleashed by those forces that were trying to bring about
the moral
destruction of Europe.
Nothing came
of the project and a disappointed Zweig returned to Great Britain,
convinced
that he’d lost all real influence. He felt certain that it was
impossible to
beat the Nazis on their own terms, and he chose to believe that his
silence
would be taken as condemnation. That was an attitude far too subtle and
circumspect to be grasped by political refugees and the American public.
His refusal
to come out openly against Hitler weighed even more heavily as Thomas
Mann
became more and more politically active. When the University of Bonn
revoked
Mann’s honorary degree, in 1936, he wrote an emphatic diatribe,
underscoring
his “immeasurable revulsion against the wretched events at home.” It
was read
in Germany in the form of a clandestine pamphlet, attaining a
circulation of
20,000 copies, after which it was translated and distributed in the
United
States and worldwide. Mann thus became the unrivaled spokesman for all
artists
in exile, as acknowledged by Toscanini, who praised the text as
“magnifico,
commovente, profondo, umano.”
Nonetheless,
Zweig remained silent: “One would like to crawl into a mouse-hole…. I
am a man
who prizes nothing more highly than peace and quiet.” He took advantage
of the
next two years of respite—Austria remained an independent democracy
until
1938—to sell his house in Salzburg and especially his extraordinary
collection
of manuscripts, keeping only a few particularly choice rarities and
Beethoven’s
desk. He also put an end to his marriage, while successfully remaining
good
friends with Friderike. He seemed to be girding himself to deal calmly
with an
enormous upheaval:
Our
generation has gradually learned the great art of living without
security. We
are prepared for anything…. There is a mysterious pleasure in retaining
one’s
reason and spiritual independence particularly in a period where
confusion and
madness are rampant.
But he was
deceiving himself.
Fox
Searchlight Pictures
Ralph
Fiennes in The Grand Budapest Hotel
Things
changed radically on September 3, 1939, when, in the aftermath of the
invasion
of Poland, Great Britain declared war on Germany. From one day to the
next,
Zweig became an enemy alien in the eyes of Great Britain.
Psychologically, it
came as a rude shock. “I believe that the new Ministry for Information
should be
informed a little at least about German Literature and know that I am
not an
‘enemy alien’ but perhaps the man who (with Thomas Mann) could be more
useful
than any others,” he wrote to his publisher.
Of course,
the British weren’t about to take the ridiculous step of putting a
renowned
author in an internment camp, but Zweig was forced to go through the
extensive
process of requesting identity papers, and while waiting for them was
forbidden
to travel more than five miles from his place of residence unless
specifically
authorized, which in turn required hours of his time and lengthy
discussions
with functionaries who’d never heard of him. His exasperation was bound
up with
his despair at finding himself deprived of his native language. Not
only was it
now impossible for him to publish anything in Germany, refugees were
strongly
advised against speaking German in public. “[Our] language…has been
taken away
from us, [and we are] living in a country…in which we are only
tolerated.” In
his journal he wrote, “I am so imprisoned in a language, which I cannot
use.”
In spite of
his indignation, he did everything necessary to apply to be a
naturalized
subject, and completed the process in March 1940, for himself and for
Lotte,
whom he’d married a few months earlier. At the same time, he purchased
a number
of US Savings Bonds and asked his American publisher, Ben Huebsch, to
hold onto
them for him. Events continued to rush headlong. The fall of France
shook him
up. The threat of an invasion of England terrified him. Finally,
faithful to
his habit of seeking exile in advance, he left for New York with Lotte
in July
1940.
It was a
changed man who set foot in America. Disheartened, embittered, and
irritated by
New York’s luxury, magnificence, and glamour, disgusted by his own
aging to the
point that he tried a rejuvenating cure of hormone injections that left
him
just as weary and upset as before, he was miserable. The only bright
spot in
this period was the arrival of Friderike, for whom he had obtained one
of the
special visas that had been set aside for a thousand or so endangered
intellectuals.
One way to
understand Zweig is in contrast to Thomas Mann, who came to the United
States
around the same time, forcefully declaring that he represented the best
of
Germany: “Where I am, there is Germany…. I carry my German culture
within me. I
have contact with the world and I do not consider myself fallen.” Zweig
lacked
such self-confidence, and bemoaned the fact that “emigration implies a
shifting
of one’s center of gravity.” The chief difference between the two men
was that
Mann was a member of the German high bourgeoisie, with roots sinking
many
generations deep in his country’s past, while Zweig, a Jew who rejected
Zionism, appreciated above all else “the value of absolute freedom to
choose
among nations, to feel oneself a guest everywhere.”
Prochnik,
who is well aware of the painful shift in self-perception that can
afflict
those in exile, clearly shows how the elegant Viennese
author—acclaimed, free
to go wherever he liked, so unobservant a Jew that his mother wrongly
suspected
him of having converted, who had been married to a Catholic2—despaired
when he
found himself suddenly plunged into the ranks of the wandering Jews.
“His sense
of being forced to identify with people who bore no relation with him
had come
to seem—along with nomadism—the defining experience of exile.”
Zweig
suffered all the more because, in spite of his pleasant life as a rich
and
assimilated Jew, he was always aware of how precarious matters could be
for his
coreligionists. Here Prochnik recounts a significant anecdote:
One day in
the 1920s when Zweig happened to be traveling in Germany with [the
playwright]
Otto Zarek, the two men stopped off to visit an exhibition of antique
furniture
at a museum in Munich…. Zweig stopped short before a display of
enormous
medieval wooden chests.
“Can you
tell me,” he abruptly asked, “which of these chests belonged to Jews?”
Zarek
stared uncertainly—they all looked of equally high quality and bore no
apparent
marks of ownership.
Zweig
smiled. “Do you see these two here? They are mounted on wheels. They
belonged
to Jews. In those days—as indeed always!—the Jewish people were never
sure when
the whistle would blow, when the rattles of pogrom would creak. They
had to be
ready to flee at a moment’s notice.”
We have the
impression that he was suddenly gripped by an ancestral fear and that
the
nightmare embedded deep in his subconscious had suddenly become real.
Another
change came in his attitude toward those who came to him for help. He’d
always
shown an easy generosity in the past, but the supplicants multiplied in
number
and he realized he was unable to keep up: “[I am] the victim of an
avalanche of
refugees…. And how to help these writers who even in their own country
were
only small fry?”
Still
paralyzed by his stubborn refusal to take a clear political position,
he
couldn’t follow the example set by Mann, equally beset by those in
search of
help, and support the aid organizations. Asked to deliver a ten-minute
talk at
a fund-raiser for the Emergency Rescue Committee, he spent hours
perfecting an
anodyne speech: “I do not want to say a word that could be interpreted
as
encouragement for America’s entry into the war, no word that announces
victory,
nothing that justifies or glorifies war, and yet the thing must have an
optimistic ring.”
The only
solution he could find was to plunge headlong into his work. He left
New York
and took refuge in Ossining where he’d be able to finish his
autobiography, now
that he was done with his book about Brazil. That town was an odd
choice,
devoid of all charm and interest, lying in the shadow of Sing Sing
prison, but
still it was justified by the presence there of Friderike, an
indispensable
assistant in checking certain details of his text. He worked feverishly
and, at
the end of the summer of 1941, exhausted, yearning for a life that
might afford
him a certain degree of stability, he decided to go back to Brazil,
which had
offered him a permanent residence permit.
This
decision failed to bring him the calm that he expected. Though his book
on
Brazil had acceptable sales, it was not given a favorable reception by
Brazilian critics annoyed at Zweig’s vision of an exotic and
picturesque
paradise. Still in search of more tranquility, he left Rio for the
small town
of Petrópolis where, as he wrote to Friderike, “One lives here nearer
to
oneself and in the heart of nature, one hears nothing of politics…. We
cannot
pay our whole life long for the stupidities of politics, which have
never given
us a thing but only always taken.” Once again, he was deceiving himself.
On December
7, the Japanese attacked the American fleet at Pearl Harbor. The next
day, the
United States declared war. Zweig was once again seized by a wave of
irrational
panic. He feared a German invasion of South America. Every possible way
out
seemed to be sealed off, one after the other. He despaired at being
“miles and
miles away from all that was formerly my life, books, concerts, friends
and
conversation.” But there was one constant in Zweig’s life, the urge to
write.
He set to work on his last novella, Chess Story, and for the first time
he
brought Nazis in action into the plot. In his story, an Austrian lawyer
is
arrested in Vienna. The Gestapo subjects him to an intolerable form of
mental
torture. The man is confined to a hotel room, cut off from all human
interaction, deprived of books, pen, paper, and cigarettes, and
sentenced to
spend weeks staring at four bare walls: “There was nothing to do,
nothing to
hear, nothing to see, nothingness was everywhere…a completely
dimensionless and
timeless void.” He finished writing on February 22. The next day, he
and Lotte
drank a fatal dose of Veronal.
The photo
taken by the police shows him stretched out on his back, his hands
crossed;
she’s lying beside him, her head on his shoulder, one hand on his.
Prochnik
concludes: “He looks dead. She looks in love.”
“Mort à
jamais?” (Dead forever?) asks Proust’s narrator when the writer
Bergotte dies.
To Proust, an artist could never die if his works outlive him. In 1942,
Zweig
certainly looked dead. No one read his books anymore. But he was only
in
purgatory. His books were rapidly reissued after the end of the war, in
Austria, Germany, Italy, and France—the most popular title being The
World of
Yesterday—and later in Great Britain and the United States. More
recently,
thanks to New York Review Books and Pushkin Press, a substantial
portion of his
oeuvre has been republished in new translations, and there is clearly a
Zweig
revival underway.
Even more
surprising, the revival extends to the movies. In his newest film, The
Grand
Budapest Hotel, Wes Anderson takes his inspiration not from a specific
novella
but from the entire body of Zweig’s work and his life. The film is set
in the
imaginary republic of Zubrowka (the irresistibly droll name is
evocative of a
Polish bison grass–scented vodka) and tells of the difficulties faced
by
Monsieur Gustave, the concierge of the Grand Budapest Hotel. The
film—zany,
fast-moving, punctuated by a chase scene with a villain on skis pursued
by a
duo riding a luge, a prison escape involving tiny metal files concealed
in
pastries, an elderly countess’s idyll with the concierge, a murder, and
a
venomous heir—would simply echo the madcap comedies of the 1930s if
Anderson
hadn’t so deftly given his story a background set in a Europe where any
sense
of security is rapidly slipping away. That is where the film’s debt to
Zweig
lies.
Of all the
characters in the film, it is unexpectedly the concierge—played by
Ralph
Fiennes in rare form, with a trim little paintbrush mustache, shifty
eyes and a
supple grace to his movements, comfortable mastery of all languages, a
certain
latitude in his sexual tastes, and an overall sense of calm broken here
and
there by glimmers of disquiet—who best evokes Zweig. And precisely like
Zweig,
who could reach out at any time to his friends, relations, and
publishers
around the world, Monsieur Gustave, a member of the all-powerful
society of
hotel concierges, can draw upon a network of infallible efficiency.
But all
these contacts prove useless in the face of an increasingly brutal
political
reality. In his memoirs, Zweig laments the end of a world where you
could
travel without passports, without being called upon to justify your
existence,
and in the film it is the arrival of the border guards that spells the
doom of
the fictional concierge. The first time they appear, he’s saved by the
intervention of an officer who recognizes in him an indulgent witness
of his
childhood holidays, but the second time he falls victim to the
gratuitous
violence of the henchmen of a terrifying power. It’s Zweig’s influence
that
tinges the film with nostalgia and gives it its depth.
—Translated
from the French by Antony Shugaar
1 Quoted by
Leon Botstein in “Stefan Zweig and the Illusion of the Jewish
European,” Jewish
Social Studies, Vol. 44, No. 1 (Winter 1982). ↩
2 Friderike
Zweig, née Burger, had a Jewish father but converted at a young age. ↩
1
Quoted by
Leon Botstein in “Stefan Zweig and the Illusion of the Jewish
European,” Jewish
Social Studies, Vol. 44, No. 1 (Winter 1982). ↩
2
Friderike
Zweig, née Burger, had a Jewish father but converted at a young age. ↩
Comments
Post a Comment