Nakajima Atsushi – Đại cao thủ
Nakajima
Atsushi – Đại cao
thủ
Nguyễn Đình Đăng dịch
Truyện này làm nhớ một câu chuyện tiếu lâm, cũng về đại cao thủ.
Một ông bố tính đi mua một chú khỉ cho đứa con trai. Vô thấy, con thứ nhất đề giá một ngàn đô. Hỏi, người bán nói, nó biết làm những chuyện đó, chuyện đó. Tới con thứ hai, hai ngàn đô, biết làm chuyện đó chuyện đó, thêm chuyện đó đó.
Con khỉ thứ ba, 10 ngàn đô.
Hỏi, không biết làm gì cả!
Người bán giải thích:
Nó là vị chủ tịch nước!
Đó là đọc tiêu cực!
Tích cực, nó làm nhớ đến lý thuyết võ học của Kim Dung, về vô chiêu thắng hữu chiêu, hậu phát chế nhân, tĩnh thắng động… vv và vv
Nguyễn Đình Đăng dịch
Truyện này làm nhớ một câu chuyện tiếu lâm, cũng về đại cao thủ.
Một ông bố tính đi mua một chú khỉ cho đứa con trai. Vô thấy, con thứ nhất đề giá một ngàn đô. Hỏi, người bán nói, nó biết làm những chuyện đó, chuyện đó. Tới con thứ hai, hai ngàn đô, biết làm chuyện đó chuyện đó, thêm chuyện đó đó.
Con khỉ thứ ba, 10 ngàn đô.
Hỏi, không biết làm gì cả!
Người bán giải thích:
Nó là vị chủ tịch nước!
Đó là đọc tiêu cực!
Tích cực, nó làm nhớ đến lý thuyết võ học của Kim Dung, về vô chiêu thắng hữu chiêu, hậu phát chế nhân, tĩnh thắng động… vv và vv
Nakajima Atsushi – Đại cao thủ
11/09/2009 | 11:06 sáng | 6 phản hồi
Nguyễn Đình Đăng dịch[1]
Lời giới thiệu: Những bức tranh trắng (1951) của Robert Rauschenberg và tác phẩm 4’33’’ (1952) của John Cage được bàn luận trên talawas blog vừa qua khiến người dịch (N.D.) nhớ lại truyện ngắn “Đại cao thủ” (1942) của nhà văn Nhật Bản Nakajima Atsushi. Xin trân trọng giới thiệu bản dịch truyện ngắn này từ nguyên tác tiếng Nhật.
N.D.
______________________
Thành Hàm Đan kinh đô nước Triệu có một người đàn ông tên là Kỷ Xương[2] nuôi
chí trở thành tay cung đệ nhất thiên hạ. Trong khi tìm thầy, chàng được
biết rằng, về ngạch cung tên hiện nay, không ai sánh được với danh thủ
Phi Vệ[3]. Nghe đồn cao thủ này có thể bắn bách phát bách trúng[4] một cái lá liễu cách xa một trăm bước. Kỷ Xương lên đường tới yết kiến Phi Vệ, xin làm học trò của ông ta.
Phi Vệ bảo môn sinh mới của mình rằng
trước tiên phải học làm sao không chớp mắt. Kỷ Xương quay về nhà, chui
xuống nằm ngửa dưới khung cửi của vợ, mắt dán sát vào cái bàn đạp liên
tục nâng lên hạ xuống[5],
cố tập không chớp. Vợ chàng không hiểu nguyên do, rất đỗi ngạc nhiên.
Nàng bối rối khi thấy chồng nhìn mình trừng trừng từ một góc độ kỳ cục
như vậy. Nhưng Kỷ Xương mắng vợ, bắt nàng tiếp tục dệt. Ngày này qua
ngày khác, Kỷ Xương cứ nằm trong cái tư thế kỳ quái đó, tập không chớp
mắt. Sau hai năm, mặc cho cái bàn đạp chuyển động sát sạt, cạo đứt cả
lông mi[6], Kỷ Xương
đã luyện được nhìn mà không hề chớp mắt. Cuối cùng chàng bò ra khỏi
khung cửi. Từ đó, ngay cả nếu bị dùi nhọn chọc vào mí mắt[7],
chàng cũng không chớp mắt nữa. Chàng cũng không chớp mắt khi có tia lửa
bất ngờ loé vào mắt. Cả một đám tro thình lình bốc lên ngay trước mắt
cũng không làm chàng chớp mắt. Cứ như thể cơ mí mắt của chàng đã quên
mất phải chớp như thế nào[8].
Ban đêm, thậm chí khi Kỷ Xương ngủ say như chết, mắt chàng vẫn mở trừng
trừng. Cuối cùng, khi một con nhện nhỏ chăng tơ giữa hai hàng lông mi
mắt của chàng, chàng cảm thấy tự tin hoàn toàn để thông báo với Phi Vệ
sư phụ.
Sau khi nghe, Phi Vệ nói: “Chỉ biết
không chớp mắt thôi thì chưa đủ. Tiếp theo là phải học nhìn. Khi nào con
học được cách nhìn chăm chú sao cho các vật bé nhỏ thấy như vĩ đại, các
vật li ti trở thành rõ mồn một, thì hãy lại đến gặp ta.” Kỷ Xương lại
quay về nhà, bắt được trong đường chỉ khâu áo lót một con chấy[9],
buộc nó vào một sợi tóc, đem treo dưới cửa sổ hướng nam, rồi nhìn nó
suốt ngày. Chàng nhìn con chấy treo dưới cửa sổ ngày này qua ngày khác.
Lúc đầu, tất nhiên đó chỉ là con chấy. Hai ba ngày sau, nó vẫn là con
chấy. Tuy nhiên sau mười ngày, con chấy có vẻ như to ra. Hết tháng thứ
ba thì rõ ràng nó trông to như con tằm. Thời gian trôi qua, phong cảnh
ngoài cửa sổ treo con chấy cũng thay đổi. Ánh mặt trời dịu dàng của mùa
xuân đổi thành nắng hè oi bức, bầu trời mùa thu trong trẻo đầy ngỗng
trắng bay trên cao chuyển sang vòm trời mùa đông màu tro u ám, lốm đốm
tuyết ướt[10]. Kỷ
Xương vẫn kiên nhẫn nhìn con động vật chân đốt treo dưới cửa sổ. Con
chấy này chết, chàng thay bằng con khác, cứ thế hàng chục con. Thấm
thoắt ba năm trôi qua. Cho đến một hôm chàng bỗng nhận ra rằng con chấy
treo dưới cửa sổ trông đã to bằng con ngựa. Xong rồi! Chàng sung sướng
vỗ đầu gối, chạy ra ngoài đường. Chàng không tin vào mắt mình nữa: người
trông cao lớn như toà tháp, ngựa to tựa trái núi, lợn bằng quả đồi, gà
qué bằng cái chòi canh. Chàng nhảy cẫng lên, chạy lộn vào nhà, tới trước
con chấy treo dưới cửa sổ, lắp một mũi tên làm bằng cọng cỏ sóc bồng[11] vào một cây cung bằng sừng[12], nhằm con chấy và bắn. Lạ kỳ thay, mũi tên xuyên trúng tim[13] con chấy mà không làm đứt sợi tóc.
Kỷ Xương ngay lập tức đến gặp sư phụ để
báo tin. Phi Vệ đấm ngực, nhảy lên khen: “Thế là con đã làm được rồi!”
Ngay sau đó, Phi Vệ bắt đầu dẫn dắt Kỷ Xương khám phá mọi bí mật của
nghệ thuật nghề bắn cung. Kỷ Xương, đã trải qua năm năm rèn luyện cơ bản
về nhìn, tiến bộ nhanh chóng kỳ lạ. Sau mười ngày, chàng đã có thể bắn
bách phát bách trúng một cái lá liễu từ khoảng cách một trăm bước. Sau
hai mươi ngày, chàng đặt một li nước đầy đến mép lên khuỷu tay phải,
giương cung, bắn trúng đích mà nước trong li không nhểu ra ngoài một
giọt. Sau một tháng, chàng thử bắn thật nhanh một trăm mũi tên. Mũi tên
thứ nhất vừa cắm vào đích, mũi tên thứ hai đã bay tới cắm vào đuôi mũi
tên thứ nhất. Ngay lập tức mũi tên thứ ba cắm vào đuôi mũi thứ hai, và
cứ thế liên tục. Không mũi tên nào rơi xuống đất, vì mũi tên nào cũng
cắm trúng đuôi mũi tên trước nó. Khi chàng bắn xong phát cuối cùng, một
trăm mũi tên nối đuôi nhau như một chiếc tên duy nhất dài từ đích tới
chiếc cung, và đuôi của mũi tên cuối cùng trông như còn đang mắc vào dây
cung. Sư phụ Phi Vệ, đứng nhìn bên cạnh, thốt lên: “Được!”
Hai tháng sau, Kỷ Xương tình cờ về thăm nhà, và cãi lộn với vợ. Để dọa vợ, chàng giương chiếc cung bằng gỗ dâu[14] nhằm vào mắt nàng, bắn một mũi tên bằng trúc[15].
Mũi tên bay lướt sát mắt, cắt đứt ba sợi lông mi, song vợ chàng không
hay biết gì, không hề chớp mắt, và vẫn tiếp tục nhiếc móc chồng. Tài
nghệ và tốc độ bắn cung của chàng đã đạt tới mức tinh diệu.
Không còn gì để học từ sư phụ nữa, Kỷ
Xương đột nhiên le lói có tư tưởng xấu. Suy đi tính lại, chàng thấy giờ
đây về môn bắn cung chàng không còn địch thủ nào khác ngoài chính Phi Vệ
sư phụ. Để trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ chàng phải tìm cách loại
Phi Vệ. Thế là chàng bắt đầu bí mật tìm cơ hội. Cho đến một hôm, trong
khi đang đi dạo ngoài đồng, bất chợt chàng thấy Phi Vệ một mình từ xa
tiến lại. Sau một thoáng quyết định, Kỷ Xương rút tên, lắp vào cung,
nhằm vào sư phụ. Phi Vệ, đoán được ác ý của học trò, cũng ngay lập tức
lắp tên, giương cung nhằm vào Kỷ Xương. Cả hai thày trò cùng bắn một
lúc. Hai mũi tên đâm vào nhau ở giữa đường, rơi xuống đất mà không có tí
bụi nào bay lên. Tài nghệ của cả hai đều đạt tới mức siêu phàm. Họ cứ
bắn nhau như thế liên tiếp hết phát này đến phát khác cho đến lúc Phi Vệ
hết tên, Kỷ Xương vẫn còn một mũi. Lợi dụng dịp may, Kỷ Xương bắn ngay
phát tên cuối cùng. Nhanh như chớp, Phi Vệ nhổ một cành hồng dại bên vệ
đường, bắn rụng mũi tên xuống đất[16].
Hy vọng thực hiện mưu đồ đen tối của mình đã tiêu tan, Kỷ Xương bỗng
dưng thấy lòng tràn đầy hối hận. Về phía mình, Phi Vệ thở phào vì đã
thoát khỏi hiểm nghèo, đồng thời thấy thoả mãn về tài nghệ của chính
mình đến quên cả tức giận. Cả hai thày trò lao vào ôm chầm lấy nhau giữa
cánh đồng và cùng rơi lệ (Chuyện này xem ra có vẻ kỳ cục theo đạo đức
ngày nay. Khi Tề Hoàn Công muốn thưởng thức món mỹ vị mà chưa ai từng
nếm thử, quan đầu bếp đã nướng luôn con trai mình đem dâng vua. Cậu
thiếu niên 16 tuổi, Tần Thủy Hoàng Đế, ngay trong đêm vua cha mất, đã
cưỡng hiếp[17] ái thiếp[18] của vua cha ba lần. Câu chuyện này cũng đã xảy ra trong thời đại như vậy.)
Mặc dù vừa ôm Kỷ Xương vừa khóc, Phi Vệ
rất lo ngại học trò sẽ lại tấn công mình lần nữa. Vì thế ông ta tìm cách
hướng Kỷ Xương tới một mục đích mới để phấn đấu. Ông nói với gã đệ tử
nguy hiểm của mình rằng ông không còn gì để dạy cho chàng nữa. Ông còn
nói nếu chàng muốn đạt tới bí mật sâu xa của cung thuật thì hãy đi về
phía Tây, vượt qua vách núi Đại Hành, leo lên đỉnh ngọn Hoắc Sơn[19], nơi ẩn dật của Cam Dăng lão sư[20]
– đại cao thủ cung thuật của mọi thời đại. “So với tài nghệ của lão sư,
cung thuật của chúng ta chỉ là trò chơi của trẻ con,” Phi Vệ nói. “Giờ
đây, ngoài Cam Dăng sư phụ ra, không ai có thể làm thầy con được nữa.”
Kỷ Xương lập tức lên đường đi về phía
Tây. Lòng tự ái của chàng bị tổn thương khi thấy cung thuật của mình bị
coi là “trò trẻ con”. Nếu thực sự như vậy, mục đích trở thành tay cung
đệ nhất thiên hạ vẫn còn là một tương lai xa vời. Nôn nóng so tài với
người đó để xem cung thuật của mình có đúng chỉ là trò trẻ con không,
chàng rảo bước đi thật nhanh. Thủng giầy rách chân trèo lên các vách đá
treo leo, băng qua những chiếc cầu khỉ bắc ngang hẻm núi, Kỷ Xương lên
tới đỉnh núi sau một tháng.
Ra đón chàng trai hăng hái là một cụ già
có đôi mắt hiền như mắt cừu, bước đi lẩy bẩy như sắp ngã. Cụ có lẽ đã
ngoại trăm tuổi. Lưng cụ còng thấp khiến chòm râu bạc kéo lê trên mặt
đất theo bước đi của cụ[21].
Thấy cụ có vẻ như bị điếc, Kỷ Xương vội cất cao giọng nói mục đích vì
sao chàng tới đây. Nôn nóng phô diễn tài bắn cung của mình, Kỷ Xương
không đợi cụ trả lời, rút ngay cây cung làm bằng gốc liễu có dây bện
bằng sợi gai đang đeo trên lưng ra. Chàng lắp một chiếc tên có mũi làm
bằng đá, giương cung, ngắm vào một đàn chim di trú đúng lúc đó đang bay
qua trên trời cao. Chàng buông dây, một phát tên phóng lên, ngay lập tức
năm con chim to từ trên trời xanh rơi xuống.
“Giỏi theo cách thông thường,” cụ già mỉm cười hiền từ nói. “Nhưng đó chẳng qua vẫn chỉ là xạ chi xạ (bắn bằng bắn)[22] thôi. Hảo hán[23] xem ra vẫn chưa biết thế nào là bất xạ chi xạ (bắn không cần bắn)[24].”
Cụ già dẫn Kỷ Xương đang đầy tức tối tới một bờ vực cách đó chừng hai
trăm bước. Dưới chân Kỷ Xương mở ra một quang cảnh giống y chang một bức
bình phong dựng đứng cao bốn ngàn thước[25],
ở xa tít bên dưới chàng thấy một con suối trông nhỏ như sợi chỉ, một độ
cao khiến chàng đột nhiên hoa mày chóng mặt. Cụ già chạy lên một phiến
đá chênh vênh nhô ra trên bờ vực, rồi quay lại bảo Kỷ Xương: “Nào, có
giỏi thì hãy đứng trên tảng đá này trổ tài cho ta xem.” Đã quá muộn để
rút lui! Khi Kỷ Xương leo lên, tảng đá lắc lư. Kỷ Xương cố giữ bình tĩnh
lắp tên vào cung. Đúng lúc đó một viên sỏi lăn ra, rơi xuống vực. Nhìn
theo viên sỏi rơi, Kỷ Xương nằm bò lên tảng đá lúc nào không hay. Chân
chàng run bần bật, mồ hôi tuôn ra chảy tới gót chân. Cụ già cả cười, đưa
tay đỡ Kỷ Xương bước khỏi tảng đá, rồi tự mình leo lên, nói: “Bây giờ
hãy xem cái gọi là bắn đây này.” Vẫn chưa hết run, mặt tái nhợt, song Kỷ
Xương chợt nhận ra và hỏi: “Nhưng, còn cái cung? Lão nhân không có gì
trong tay cả.” “Cung à?” Cụ già cười lớn, “Bắn mà vẫn phải cần đến cung
tên thì chỉ là xạ chi xạ. Còn bất xạ chi xạ là bắn nhưng không cần cả cung lẫn tên.”
Lúc đó trên trời rất cao ngay phía trên
đầu họ một con diều hâu đang dang cánh lặng lẽ lượn vòng. Cụ già Cam
Dăng nhìn theo con diều hâu trông nhỏ xíu chỉ bằng một hạt vừng, rồi
nhanh như cắt, lắp một mũi tên tưởng tượng vào một cây cung vô hình,
giương tròn như trăng rằm và buông tay, nhìn kìa, con diều hâu ngừng vỗ
cánh, rơi xuống chẳng khác gì một hòn đá. Kỷ Xương kinh hoàng. Lần đầu
tiên chàng được chứng kiến bí mật uyên thâm nhất của nghệ thuật bắn
cung.
Kỷ Xương ở lại học lão cao thủ trong
suốt chín năm trời. Không ai biết chàng đã tu nghiệp như thế nào trong
quãng thời gian đó. Sau chín năm, khi chàng xuống núi trở về, mọi người
thảy đều ngạc nhiên thấy vẻ mặt chàng đã biến đổi nhiều. Không còn tí
bóng dáng nào của vẻ hiếu thắng hung hăng trước kia. Thay vào đó là dung
mạo ngây ngô như tượng gỗ của một người ngu độn. Tuy nhiên, khi Kỷ
Xương đến thăm thầy cũ, sau bao năm không gặp, thoạt nhìn thấy vẻ mặt Kỷ
Xương, Phi Vệ đã cảm thán kêu lên: “Đây chính là đại cao thủ đệ nhất
thiên hạ! Chúng ta sẽ không bao giờ có thể bì kịp anh ta.[26]”
Dân thành Hàm Đan nô nức chào đón cao
thủ đệ nhất thiên hạ trở về. Họ chờ đợi một cuộc trình diễn tài nghệ bắn
cung của chàng. Nhưng Kỷ Xương không đáp ứng nguyện vọng của họ. Ngay
cái cung chàng cũng không sờ đến. Có vẻ như chàng đã quăng đi đâu mất cả
chiếc cung làm bằng gốc liễu có dây bện bằng sợi gai mà khi xưa chàng
từng đem theo lên núi. Khi có người tới chơi hỏi lý do, Kỷ Xương uể oải
trả lời: “Tột đỉnh của hành động là không làm gi hết. Tột đỉnh của lời nói là im lặng. Tột đỉnh của bắn là không bắn.”
À ra thế! Những người dân vốn rất thông thái của thành Hàm Đan hiểu
ngay lập tức. Nhà đại cao thủ không cần sờ đến cây cung đã trở thành
niềm tự hào của họ. Kỷ Xương càng không động đến cung tên, danh tiếng về
sự vô địch của chàng lại càng được bàn tán ầm ĩ.
Nhiều lời đồn được truyền miệng từ người
này sang người khác. Người ta nói rằng ban đêm, cứ đến canh ba, có ai
đó luyện cung trên mái nhà Kỷ Xương, nghe rõ cả tiếng dây cung bật. Có
người quả quyết đó là vị thần hộ mệnh ẩn náu trong mình nhà đại cao thủ,
ban đêm thoát ra khi chàng ngủ để triệt mọi yêu ma định hãm hại chàng.
Một thương nhân sống gần nhà chàng nói rằng có đêm đã thấy chàng, rõ
ràng cầm cung trong tay, cưỡi mây bay trên mái nhà, đọ tài với hai bậc
đại cao thủ xạ thuật đời xưa là Hậu Nghệ và Dưỡng Do Cơ. Những mũi tên
ba vị này phóng ra vạch những tia sáng xanh sắc nhọn trên nền trời đêm
trước khi biến mất giữa sao Sâm và sao Thiên Lang[27]. Một tên đạo tặc thú nhận có lần định lẻn vào nhà Kỷ Xương, song khi hắn vừa trèo lên bờ tường thì bỗng một luồng sát khí[28]
từ trong nhà phóng ra, trúng vào giữa trán, làm hắn ta ngã lăn từ trên
tường xuống đất bất tỉnh. Từ đó, bọn tâm địa gian tà đều tránh xa vùng
quanh nhà Kỷ Xương, và những bầy chim di trú thông minh cũng không dám
bay trên mái nhà chàng nữa.
Danh tiếng lan truyền tận mây xanh, song
Kỷ Xương ngày một già đi. Tâm trí đã từ lâu không còn vương vấn tới
cung tên của ông có vẻ như ngày càng nhập vào cõi thanh khô, đạm bạc, hư
ảo và yên tĩnh[29].
Vẻ mặt vốn đã như tượng gỗ của ông nay lại mất cả mọi biểu hiện. Ông
hầu như không cất tiếng. Cuối cùng, người ta không chắc ông còn thở hay
không. Những năm cuối đời, lão cao thủ còn nói ông không phân biệt được
đâu là mình đâu là người khác, không biết đâu là đúng đâu là sai[30]. Đối với ông mắt cũng như tai, tai cũng như mũi, mũi cũng như mồm.
Bốn mươi năm sau khi từ biệt Cam Dăng sư
phụ xuống núi, Kỷ Xương từ giã cõi đời, lặng lẽ như một làn khói. Trong
bốn mươi năm cuối cùng ấy, ông không hề nhắc tới xạ thuật, nói chi sờ
đến cung tên. Lẽ dĩ nhiên, là một người viết truyện, tôi muốn ông sắm
một vai quan trọng trong một sự kiện kích động nào đó để chứng minh cho
tài dụng cung siêu phàm của ông. Song, tôi không muốn bóp méo các sự
thật đã được ghi trong sử sách. Thực sự là người ta không biết gì về
những năm cuối đời ông, ngoài câu chuyện được lưu truyền sau đây[31].
Chuyện xảy ra khoảng một hai năm trước
khi ông qua đời. Một hôm, Kỷ Xương đến chơi nhà một người bạn. Tại đây
ông nhìn thấy một vật, mà ông nhớ đó là một dụng cụ song không thể nhớ
nổi tên và công dụng của nó. Ông bèn hỏi chủ nhà tên dụng cụ đó là gì và
nó được dùng để làm gì. Cho rằng khách hỏi đùa, chủ nhà cười to, làm ra
vẻ không biết. Ông lão Kỷ Xương nghiêm nghị nhắc lại câu hỏi. Song chủ
nhà không hiểu ý khách, vẫn bối rối cười trừ. Khi Kỷ Xương làm nghiêm
nét mặt hỏi lại lần thứ ba thì vẻ kinh ngạc bắt đầu hiện ra trên mặt chủ
nhà. Ông ta nhìn trân trân vào mắt Kỷ Xương. Sau khi tin chắc rằng
khách không đùa, không điên, và tai mình nghe không nhầm, chủ nhà kinh
hãi lắp bắp kêu lên: “Trời đất, thưa phu tử[32] – cao thủ xạ thuật kim cổ vô song[33], ngài thật sự quên cả cái cung rồi sao? Quên cả tên gọi lẫn công dụng của nó?”
Sau đó ít lâu, tại thành Hàm Đan, hoạ sĩ giấu bút vẽ, nhạc công dứt đứt dây đàn, thợ mộc coi dùng thước[34] là một sự sỉ nhục.
Dịch xong tại Tokyo ngày 9/9/2009
Bản tiếng Việt © 2009 Nguyễn Đình Đăng
Bản tiếng Việt © 2009 talawas blog
[1]
Khi được đọc truyện ngắn này lần đầu tiên qua một bản dịch tiếng Việt
hơn hai chục năm về trước, N.D. tưởng đó là tác phẩm của một nhà văn
Trung Hoa. Nhà văn Nhật Bản Nakajima Atsushi (中島 敦) (1909 – 1942), nổi
tiếng vì cách hành văn ngắn gọn nhưng giầu hình ảnh và biểu cảm đến kỳ
lạ, đã viết xong truyện ngắn này đúng vào tháng ông mất (tháng 12 năm
1942). Tên gốc tiếng Nhật của truyện là “Meijinden” (名人伝) có nghĩa là “Truyện về một cao thủ”. “Meijinden” đã được dịch ra vài thứ tiếng và được dựng phim hoạt hình nhan đề “Fu sha no sha” (Bất xạ chi xạ = Bắn không cần bắn) (1988). Hai bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp
N.D. tìm thấy trên internet, tuy không sai nội dung, song một số chi
tiết bị bỏ sót, cách hành văn nhiều chỗ được các dịch giả diễn tả lại,
không đúng với nguyên tác tiếng Nhật. Bản dịch tiếng Việt của Dương Tường
được thực hiện dựa vào hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp nói trên. Trong
bản dịch lần này, N.D. cố gắng dịch sát với bản gốc tiếng Nhật nhằm giữ
được tối đa văn phong của tác giả. Một số chi tiết dịch thuật được liệt
kê dưới đây để độc giả nào quan tâm có thể tiện so sánh sự giống và khác
nhau giữa các bản dịch. Các từ gốc Hán được đọc theo phiên âm Hán
Việt.
[2] Kỷ Xương (紀昌). Bản dịch của Dương Tường phiên âm là Ngật Trường (từ Chi Chang trong bản tiếng Pháp).
[3] Phi Vệ (飛衛). Bản dịch của Dương Tường phiên âm là Ủy Phi (từ Wei Fei trong bản tiếng Pháp).
[4] Nguyên tác: 百発百中 (Bách phát bách trúng). Bản tiếng Anh: “…hit a willow leaf without fail from a distance of a hundred paces.” Bản tiếng Pháp diễn tả lại: “… lancer à cent pas tout un carquois de flèches dans une seule feuille de saule choisie comme cible.” Un carquois de fleches là cái bao đựng tên. Dương Tườn dịch thành “…cách trăm bước, phóng cả bó tên trúng một cái lá liễu.” Tài bắn này còn được gọi là “bách bộ xuyên dương” (bắn xuyên lá liễu cách xa trăm bước).
[5] Trong phim, bàn đạp được thay bằng con thoi.
[6] Dương Tường dịch: vướng vào lông mi.
[7] Bản tiếng Anh: “…even if an irritating bit of debris got into his eye.” Bản tiếng Pháp: “…ni coup sur la paupière,…” Bản dịch của Dương Tường: “…một đòn đánh vào mi mắt,…”
[8] Bản tiếng Pháp: “Il avait exercé ses muscles oculaires à une inertie tellement parfaite que…” Bản dịch của Dương Tường: “Anh ta đã luyện cho cơ mắt bất động triệt để đến nỗi…”
[9] Bản tiếng Pháp thay bằng “un insecte minuscule au jardin”. Dương Tường dịch: “một con sâu bé tí tẹo” (tìm được ở ngoài vườn).
[10]
Đoạn này tác giả tả cảnh chuyển mùa rất ngắn gọn nhưng đầy hình tượng,
như các hình ảnh trong một đoạn phim vậy. Cả 3 bản dịch tiếng Anh, Pháp,
và bản tiếng Việt của Dương Tường đều không truyền lại được văn phong
này.
[11] Nguyên tác: 朔蓬 (sóc bồng): cỏ bồng (cỏ tranh) mọc ở phương bắc.
[12] Nguyên tác: 燕角の弧 (Yên giác cung): cái cung có cánh được ghép bằng sừng (角) và một số vật liệu khác như tre, gân, v.v. có xuất xứ từ nước Yên (燕国). Chữ 燕 ở
đây là tên nước Yên – chư hầu của nhà Chu (thế kỷ 11 TCN – thế kỷ 3
TCN), chứ không phải là con chim nhạn (yến hay én) như trong bản tiếng
Pháp: un arc Hirondelle. Dương Tường, dựa theo bản tiếng Pháp, phiên âm là cây nhạn cung. Bản tiếng Anh dịch là bow of Yan horn (cung sừng Yan).
[13] Bản tiếng Anh: “The arrow cut through the center of the louse,”
[14] Nguyên tác: 烏号の弓 (ô hiệu cung = cung tiếng quạ kêu).
Cây dâu có cành dẻo, khi con quạ đậu lên, nhún mình định bay, cành dâu
cong xuống khiến con quạ sợ hãi cất tiếng kêu. Vì thế cung làm bằng gỗ
dâu còn có tên “cung tiếng quạ kêu.” Dương Tường phiên âm là ô cung, theo bản tiếng Pháp (un arc Corbeau) và tiếng Anh (a raven bow).
[15] Nguyên tác: 綦衛の矢 (tên Kỳ Vệ): một loại tên làm từ cây trúc mọc ở đất Kỳ (Trung Hoa cổ đại).
[16] Trong phim, Phi Vệ dùng răng cắn chặt lấy mũi tên của Kỷ Xương.
[17] Chỉ có bản tiếng Anh: “raped” là theo đúng nguyên tác 襲うた: tấn công, hãm hiếp (phụ nữ), trong khi bản tiếng Pháp đổi thành “faire l’amour” và Dương Tường dịch thành “làm tình”.
[18] Nguyên tác: 愛妾 (ái thiếp). Bản tiếng Anh dịch thành lover, bản tiếng Pháp: la concubine favorite, Dương Tường dịch thành cung phi sủng ái nhất.
[19] Nguyên tác: 霍山 (Hoắc Sơn). Bản tiếng Anh: mount Huo, bản tiếng Pháp: la montagne Ho, Dương Tường: núi Hồ.
[20] 甘蠅老師 (Cam Dăng lão sư). Bản tiếng Anh: Gan Yin, bản tiếng Pháp: Le maître Kan Ying, Dương Tường: lão sư phụ Khán Ảnh.
[21] Bản tiếng Pháp nhầm râu thành tóc: Il avait le dos tout voûté et quand il marchait, ses cheveux blancs traînaient sur le sol. Dương Tường: Lưng cụ còng và khi bước đi, mái tóc bạc kéo lê sát đất.
[22] Nguyên tác: 射之射 (xạ chi xạ)
[23] Nguyên tác: 好漢 (hảo hán):
người tốt. Chữ 漢 khi có một chữ làm vị ngữ đứng trước thì không có
nghĩa là người Hán nữa, không như một số ý kiến kỳ thị đã hiểu lầm. Ví
dụ: 巨漢 (cự hán) người khổng lồ, 悪漢 (ác hán) tên vô lại, 痴漢 (si hán) kẻ
dâm đãng, người Nhật đọc là chikang, và dùng để chỉ những kẻ (hoặc hành động) sờ soạng phụ nữ.
[24] Nguyên tác: 不射之射 (bất xạ chi xạ)
[25] Nguyên tác: 千仭 (một ngàn nhận).
Nhận: đơn vị đo độ dài thời nhà Chu, bằng khoảng 1 – 3 m. N.D. dịch
thành 4 ngàn thước tức khoảng 1600 m (một thước ta bằng 0.4 m)
[26] Nguyên tác: 我儕のごとき、足下にも及ぶものでないとcó nghĩa là “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể bì kịp (anh ta)”. Bản tiếng Pháp: “Je ne suis même pas digne de dénouer tes sandales.” (Ta không xứng đáng cởi giép cho con). Bản dịch của Dương Tường: “Đến mức thậm chí ta không đáng chạm vào chân con nữa.”
[27] Chỉ có bản tiếng Pháp: “Les
flèches lancées par les trois maîtres disparurent dans le ciel sombre
entre Orion et Sirius, laissant derrière elles un sillage bleu comme un
éclair.” là gần với nguyên tác. Bản tiếng Anh bỏ sao Sâm (参宿星) và sao Thiên Lang (天狼星): “The arrows shot by the three masters made three bluish threads of light, and disappeared in space”, còn bản dịch của DươngTường bỏ hẳn câu này.
[28] Nguyên tác: 殺気 (sát khí). Bản tiếng Anh: a stream of spirit. Bản tiếng Pháp: une masse d’air. Dương Tường: một luồng không khí.
[29] Nguyên tác: 枯淡虚静 (khô đạm hư tĩnh). Bản tiếng Anh dịch thành spiritual mysteries, trong khi bản tiếng Pháp và
bản dịch của Dương Tường dùng tới 4 dòng để diễn tả trạng thái này.
[30] Nguyên tác: 是と非 (đúng với sai). Bản tiếng Anh: good and evil. Bản tiếng Pháp: ceci et cela. Dương Tường:“cái này” với “cái kia”.
[31] Bản tiếng Pháp và bản dịch của Dương Tường bỏ 3 câu cuối trong đoạn này.
[32] Nguyên tác: 夫子 (phu tử): danh hiệu dùng để gọi người đàn ông có đức hạnh và học vấn, ví dụ Khổng phu tử (孔夫子). Dương Tường dịch thành tôn sư có nghĩa là thày tôn kính.
[33] Nguyên tác:古今無双 (cổ kim vô song = xưa nay không có người thứ hai). Bản tiếng Anh: the greatest (archer) of all time. Bản tiếng Pháp: le plus grand de tous les temps. Dương Tường: lớn nhất của mọi thời đại.
[34] Nguyên tác: 規矩 (quy củ). Quy là cái khuôn tròn dùng để vẽ các đường tròn tương tự như cái compass, củ là cái khuôn vuông hay thước thợ.
Comments
Post a Comment