Nguyễn Hữu Liêm
Tác giả: Nguyễn Hữu Liêm
Note: Đúng là một thằng khốn nạn! Một tên
khốn kiếp! (1)
Hết thuốc chữa!
Nguyễn Quốc Trụ
Hết thuốc chữa!
Nguyễn Quốc Trụ
(1)
Ngày thứ ba của Đại hội, ở cuối phần bế mạc, tôi cùng đứng dậy chào cờ. Bài “Tiến quân ca” được vang cao trong cả hội trường. Lạ thật. Tôi chưa hề từng nghe Quốc ca Việt Nam (này) trong khung cảnh thể thức như thế. Từ ấu thơ đến bây giờ, tôi từng hát Quốc ca của miền Nam, trước năm 1963 thì cùng với bài hát buồn cười “Suy tôn Ngô Tổng thống.” Ba mươi bốn năm qua là Quốc ca Hoa Kỳ xa lạ, Star Spangled Banner. Nay thì tôi lại nghe và chào Quốc ca Việt Nam và lá cờ đỏ sao vàng. Con người là con vật của biểu tượng. Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Tôi cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực Kundalini. Tôi nhìn lên phía trước, khi vừa hết bài Quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam! Hồ Chí Minh! Cả hội trường, và tôi, cùng hân hoan trong tất cả (vẫn là) cái hồn nhiên mà dân tộc ta đã bước vào từ hồi thế kỷ trước.
NHL
Và tụi Chống Cộng điên cuồng, có thể cũng nghĩ y chang!
Thế là bỏ mẹ thằng khùng!
Đành phải 'viết trắng' ra như vậy, cũng là một cách báo động cho tên khùng!
Nguyễn Hữu Liêm – Nơi giữa Đại hội Việt kiều: Một nỗi bình an
27/11/2009 | 6:02 chiều | 71 phản hồi
The State is the march of God on earth (Hegel)
Hà Nội – Như rứa mà đã
qua ba mươi lăm năm, ngày tôi rời Việt Nam. Trưa ngày 30 tháng 4, 1975,
đeo đu đưa trên chân đáp của chiếc trực thăng cuối cùng rời phi trường
Cần Thơ, trên vai vẫn đeo súng, và vai kia mang túi xách, tôi đã thoát
đi trong tiếng la hét hoảng sợ và cuồng nộ, bắn giết của đoàn quân đang
tan vỡ. Trong hai mươi năm qua, tôi đã bao nhiêu lần về lại Việt Nam.
Lần nào bước vào phi trường Tân Sơn Nhất, tôi cũng vẫn luôn mang một nỗi
sợ hãi thầm kín. Không biết là lần này mình có bị trục xuất hay không?
Những ngày còn ở trong nước thì vẫn nghĩ đến chuyện công an “mời lên làm
việc”. Tôi đã như là một đứa con ghẻ trên chính quê hương mình. Nhưng
lần này, tôi về lại quê nhà với một tâm trạng khác. Tôi được chính thức
mời trở lại Việt Nam.
Tôi vẫn phân vân suốt cả tháng trời là
có nên đi dự “Đại hội người Việt ở nước ngoài” hay “Đại hội Việt kiều”
(Đại hội). Với tư cách là chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Việt – Mỹ, tôi có
nhiều lý do để tham dự. Cùng về với tôi trên các đường bay khác là một
phái đoàn gồm những thương gia và chuyên gia. Trên chuyến tàu từ San
Francisco về đến phi trường Nội Bài ngày thứ Sáu 20 tháng 11, tôi chỉ đi
một mình. Tôi để ý đến các cô tiếp viên Việt Nam cố gắng cười trên môi
trong nỗi bực mình thể hiện qua lông mày vì những yêu cầu của khách
hàng đi từ Đài Loan.
Vừa bước tới quầy thủ tục nhập cảnh ở
Nội Bài, tôi đã được hướng dẫn vào lối đi dành cho đại biểu kiều bào về
tham dự Đại hội. Một sĩ quan cấp tá đón tiếp tôi thân mật, vui vẻ. Viên
sĩ quan đóng dấu ngay lập tức vào tờ khai nhập cảnh và chào tôi nghiêm
chỉnh với nụ cười. Tôi được hướng dẫn bởi hai nhân viên khác đến một
quầy tiếp đón. Xong rồi tôi ra xe đang chờ về khách sạn cùng với một số
đại biểu từ châu Âu. Đến khách sạn chúng tôi cũng được chào đón thân
mật. Ở đâu, ở trên khuôn mặt nào, tôi cũng chỉ thấy những nụ cười, những
lời chào hỏi trân trọng. Phòng trọ của tôi ở khách sạn Thắng Lợi, xây
dựng bởi kỹ sư Cuba, nằm ngay trên mặt nước Hồ Tây. Tôi bước ra ban
công, nhìn ra xa bên kia bờ là đường Thanh Niên và phố Thuỵ Khuê. Tôi
chợt nhận ra một Hà Nội mà chưa bao giờ mình biết đến – dù rằng tôi đã
đến xứ Thăng Long này biết bao lần.
Sau khi tắm rửa, thay quần áo, tôi đi
xuống phòng ăn. Được gặp nhiều anh chị em, có người tôi từng quen biết,
có người không. Những khuôn mặt tươi vui, bắt tay nhau, như cùng hát
vang bài của chàng Sơn thuở nọ, “Mặt đất bao la, anh em ta về, gặp nhau,
mừng như bão táp quay cuồng. Trời rộng. Bàn tay ta nắm nối liền một
vòng Việt Nam.” Ở trong khung cảnh này, tôi đọc được những tâm trạng
không cô đơn của những con người nặng lòng với đất nước.
Tôi cảm ra rằng mình vui lên như đứa trẻ
thơ – dù rằng trong ý thức tôi muốn chăm nhìn chính mình và các đại
biểu Việt kiều từ một góc độ khác. Tôi muốn bắt chước Edmund Husserl đi
soi tìm một tinh hoa, về cái thực chất của tình yêu nước, trên cơ sở của
hiện tượng học, một thể dạng tình cảm quê hương thuần chất trong con
người Việt Nam – cái dân tộc tính đặc thù, sau khi đã loại trừ đi những
yếu tố kinh nghiệm cá nhân và lịch sử. Ở trong và kinh qua tất cả những
vọng động từ sử tính, trong khổ đau, qua thể chế, với đầy cực đoan và
ngu muội, thì cái thực chất tinh thần yêu nước của con người Việt Nam,
như là một thực tại thuần trừu tượng của khái niệm, qua biện chứng cuộc
đời, có được nâng cao lên tới một thời quán tiến hóa mới? Hay là những
người “phía tả” như chúng tôi vẫn là những đứa con trẻ đang lớn lên của
thời tiền cách mạng khao khát một nguyên cớ lịch sử để hy sinh chính
mình nhằm tìm ra chính mình?
Chuyến đi Đại hội này – tôi an ủi và tự
đánh lừa chính mình – như là một dự án về biện chứng sử tính trong hiện
tượng luận của Husserl. Triết học ở đây như là một chiếc áo còn quá rộng
cho một chàng quê vừa lên tỉnh, hăm hở lý thuyết như con trâu đói ngấu
nghiến nhai đám cỏ vàng úa giữa đồng hoang.
Tôi tìm đến Husserl trong đoạn văn này.
“Cuộc đời của con người, trên cơ bản tinh hoa phổ quát của nhân loại và
văn hóa bản địa, nhất thiết phải mang yếu tính lịch sử. Nhưng đối với
một con người khoa học, cuộc đời như là cuộc sống của khoa học, trên
chân trời của cộng đồng những khoa học gia, thì nó đã đánh dấu một sử
tính mới. Nó đòi hỏi một cuộc cách mạng cơ bản về ý thức sử tính. Đó là
cuộc cách mạng về trái tim lịch sử trong ý thức sử tính của con người.”
Husserl, theo ngôn ngữ phiên giải của
Derrida, viết tiếp, “Thứ nhất, đó là một sử tính tổng quan trong sinh
mệnh con người khi nhân loại hiện thân và sống trong bối cảnh tinh thần
và văn hóa của truyền thống. Cái tiếp theo và cao hơn là sự thức dậy từ
tính kích động của văn hóa châu Âu, để tìm đến một dự án lý thuyết và
triết học. Cuối cùng là sự chuyển hóa từ triết học đến hiện tượng học.
Từ đó, mỗi chặng đường chuyển hóa, được đánh dấu bởi một cuộc cách mạng
nhằm phá bỏ dự án cũ, thực ra chỉ là một tổng dự án, qua khả thể vô hạn
hóa sử kiện, sử dụng giác quan để điều tra đến tận cùng cái chủ ý ẩn
giấu của tập thể dưới tất cả những chuyển động lịch sử.” À ha!
Đây chính đã là dự án của Lý Đông A cho
con người Việt Nam. Tôi xin mượn Đại hội Việt kiều, qua tinh thần Lý
Đông A và phương pháp luận của Husserl, để suy tìm cho chính tôi, một
nhận thức mới về “trái tim sử tính” của dân tộc Việt từ một trăm năm nay
– từ khi truyền thống sử tính dân tộc Việt Nam bị kích động thức dậy
bởi văn minh lý thuyết Tây Âu. Cái tôi muốn bước tới là cái mà Trần Đức
Thảo, từ năm 1955, khi tôi vừa mới ra đời, đã về từ Paris đến Hà Nội cố
gắng khơi mào một cách tế nhị và gián tiếp: Một cuộc chuyển hóa về sử
tính từ ý thức ôm chặt bởi văn hóa truyền thống và bản địa hạn hẹp sang
đến cõi sống thuần tinh hoa lý thuyết và triết học phổ quan. Ảo tưởng
trí thức – dĩ nhiên. Nhưng đây là niềm vui tự tách rời của tôi. Nhưng
tôi phải tự hỏi như Lý Đông A đã từng hỏi cả gần thế kỷ trước: Tất cả
những khổ đau – và nỗi nực cười bi đát – mà cả dân tộc Việt Nam kinh
qua đã phải cho một mục đích – tức là chủ ý tinh thần và tinh hoa cho sử
tính Việt. Nó là gì?
Nó có phải là tinh thần dân tộc độc lập –
một tinh thần tự do tập thể cổ điển – đang được chuyển hóa sang ý thức
tự do – một tinh thần giải phóng cá nhân? Hay rằng: Nó vẫn chỉ là một
tinh thần thuần phản ứng, trên cơ sở dân tộc chủ nghĩa, được vẽ vời thêm
bằng giáo điều vọng tưởng, cộng thêm một võng lưới vướng mắc từ quyền
lực và quyền lợi, mà Đảng Cộng sản là hiện thân, đối với tính hiện đại
từ Tây Âu đem đến?
Tôi muốn dựa vào phép biện chứng quốc
thể (state), tức là các hình thái tổ chức, mà Đại hội Việt kiều này là
một, và chính tôi, cùng các đại biểu Việt kiều, những người mang tinh
thần dân tộc trong lưu vong, tương tác – như là một tiến trình đối ứng
và thông hiểu, để chuyển hóa lẫn nhau – từ các nội dung đầy kịch tính
chính trị đến những nỗi hồn nhiên mang nặng tính bi hài trong những con
người đại biểu như chúng tôi. Tôi biết rằng không một ai đã bước vào
lịch sử mà không làm một thánh tử đạo sẽ là – và khi chết không phải làm
một tên hài kịch đã là.
Sáng sớm ngày hôm sau, thứ Bảy, 21 tháng
11, phái đoàn chúng tôi lên xe buýt – có xe cảnh sát hú còi mở đường –
đi về Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình. Hà Nội, khi đi ra khỏi khu Ba
Đình, là cả một công trường xây dựng. Các cao ốc thi nhau vươn lên. Có
một cái gì đó mang ít nhiều tính bất cập, bất tương xứng giữa những con
người và chế độ chính trị, và cả con người tôi thấy trên đường phố, đối
với các cao ốc hiện đại đang được dựng cao. Tôi hình dung ra một tập thể
nông dân thích ngắm tập tranh vẽ mây nước của Tàu đang tham dự một cuộc
triển lãm hội họa đương đại. Ngôn ngữ khẩu hiệu cũng nhẹ nhàng đi.
“Người Việt ở nước ngoài” thay cho “Việt kiều”. Chữ “Đảng” cũng thấy và
được nghe rất ít. Những anh công an chính trị cũng luôn nở nụ cười, bắt
tay. Cái biện chứng tương tác của ý chí thể thức đang lôi kéo các tâm
hồn thượng cổ, làng mạc ra với không gian mới của thời đại – như các cô
chiêu đãi viên hàng không Việt Nam vẫn cố cười dù rất là không muốn.
Hay quá! Chủ nghĩa “chủ quan duy ý chí”
của một đế chế chính trị khắt khe và nhiều sai lầm – như là ý chí lịch
sử Việt Nam – đang đòi hỏi các con người mang sử tính liên hệ phải thay
đổi. Hôm nay, cái bụng dạ thuần phản ứng phải uốn nắn theo thể thái ngôn
ngữ và khuôn mặt chính mình theo “kinh tế thị trường”. Cái đang là của
thực tế cuộc đời đang uốn nắn bởi cái phải là của thời thế. Tôi nhìn rõ
được một dạng thức tương tác giữa ý chí và ý thức đầy mâu thuẫn này vốn
đang đưa con người Việt Nam đi đúng đường, đúng hướng.
Qua đến ngày thứ hai của Đại hội. Trong
các khóa hội thảo chuyên ngành, tôi tham dự phiên “Trí thức và chuyên
gia”. Có một giáo sư kiến trúc, về từ Pháp, tôi chỉ nhớ tên là Trường,
khoảng 65 – 70 tuổi, đã tâm sự chuyện về Việt Nam giảng dạy suốt nhiều
năm qua. Không lương bổng, và không được trả bất cứ chi phí nào, giáo sư
Trường đã kèm dạy nhiều lớp sinh viên trong ngành xây dựng và kiến
trúc, cũng như khiêm tốn làm việc với các ban ngành của chính phủ về các
vấn đề xây dựng và quy hoạch thành phố. Tôi tự hỏi mình có làm được
như thế không? Có làm như vậy mới xứng đáng với vai trò trí thức của
mình. Tôi thầm vui mừng – và hãnh diện – vì trong hàng lớp nhà giáo gốc
Việt ở hải ngoại đang có nhiều anh chị em về Việt Nam âm thầm làm việc,
đóng góp như vậy. Không có chức năng lịch sử nào trọng yếu và tích cực
hơn là vai trò khai sáng và chuyển giao ý thức. Dĩ nhiên, ý thức – mà
tất cả chỉ là ý thức tự do – phải nằm trên cơ sở khoa học thực nghiệm,
như Trần Đức Thảo đã dầy công phân tích.
Ngày thứ ba của Đại hội, ở cuối phần bế
mạc, tôi cùng đứng dậy chào cờ. Bài “Tiến quân ca” được vang cao trong
cả hội trường. Lạ thật. Tôi chưa hề từng nghe Quốc ca Việt Nam (này)
trong khung cảnh thể thức như thế. Từ ấu thơ đến bây giờ, tôi từng hát
Quốc ca của miền Nam, trước năm 1963 thì cùng với bài hát buồn cười “Suy tôn Ngô Tổng thống.” Ba mươi bốn năm qua là Quốc ca Hoa Kỳ xa lạ, Star Spangled Banner. Nay thì tôi lại nghe và chào Quốc ca Việt Nam và lá cờ đỏ sao vàng. Con người là con vật của biểu tượng. Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước.
Tôi cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên
trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực
Kundalini. Tôi nhìn lên phía trước, khi vừa hết bài Quốc ca, mấy chục
cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài
“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi nhìn qua các thân
hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người
mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam! Hồ Chí Minh! Cả hội trường, và tôi, cùng hân hoan trong tất cả (vẫn là) cái hồn nhiên mà dân tộc ta đã bước vào từ hồi thế kỷ trước.
Trong không khí vang ầm của lời ca, tôi
lại lắng nghe từ Paul Ricoeur, “Đây là ý chí hồn nhiên thứ hai, khi con
người đã bước ra khỏi hồn nhiên thứ nhất, trở về lại để tìm ra nó như là
một niềm hạnh phúc nguyên sơ.” Tôi thầm cảm thấy mình thật sự bình an
khi đất nước này đã mở rộng vòng tay đón tôi trở về – dù tôi đã ý thức
rõ ràng về sự khác biệt nhiều tương phản giữa quê hương và thể chế chính
trị. Tôi biết và cảm thông được nỗi buồn vô hạn của những người trí
thức đã từng bị trục xuất khỏi quê nhà khi về đến sân bay. Ôi tổ quốc
ơi! Sao mà ngươi khó khăn và khắc nghiệt thế? Cho dù tôi có cố gắng
khách quan hóa ý thức đầy sử tính của mình, cái tinh chất thuần ý thức
mà hiện tượng luận muốn đi tìm vẫn chỉ còn là một ẩn số lớn.
Ngày hôm sau, thứ Ba, 24 tháng 11, trên
suốt chuyến bay để “đi” California – không phải là “về” như bao lần –
tôi thấy chính mình đang mang tiếp được một nỗi bình an ngày hôm trước.
Quê nhà đã đón mừng và nhận lại mình. Tôi không còn sợ tổ quốc, sợ chế
độ, sợ công an, sợ cộng sản. Bạn thấy không? Con người tôi vẫn là của
thời quán thứ nhất – một anh nông dân trong làng chưa bước qua được giai
thoại của một thứ dân tộc chủ nghĩa thô sơ và đầy uẩn khúc. Tôi chưa
phải là con người tự do.
Xin chân thành cảm ơn tất cả. Ôi hỡi quê hương Việt Nam. Lần này, tôi đã thực sự trở về!
© 2009 Nguyễn Hữu Liêm
© 2009 talawas blog
Phản hồi
71 phản hồi (bài “Nguyễn Hữu Liêm – Nơi giữa Đại hội Việt kiều: Một nỗi bình an”)
« Trang trước
1
…
3
4
5
Nếu muốn chẳng ai cấm ông về sống tại làng xưa quê cũ, tại sao ông sống tại San Jose làm chi?
Hay tại cả hai nơi ông đều có bổng lộc như nhau.
Biện dẫn triết học có lẽ không hợp lý trong bài ông vừa viết.
Điều ấy tôi nghĩ là một phán xét công bằng về NHL của “tiền Đại Hội Việt Kiều”, chính tôi trong một phát biểu trước cũng có một nhận xét gần gần như vậy, rằng tôi khi trước đọc anh đây đó cũng không thể nghĩ rằng anh “đổ đốn” quá đến như vậy trong “…Một nỗi bình an”; tôi vẫn mong anh – giữa bao ồn ào, đôi khi quá độ của những “bảng hiệu” chống cộng, giữ được sự tỉnh táo, điềm tĩnh, có ta có người, bởi vì không có sự điềm tĩnh bao dung, bao dung đến một mức chịu đựng phần nào sự bất bao dung của người khác… thì những gì người ta hy vọng ở “một ngày vui” của dân tộc sẽ cứ mãi mãi là một bào ảnh.
Những gì cần phải nói thêm thì bạn KM đã nói giùm ở phần dưới của trích dẫn trên.
Nhưng đọc bài này của NHL thì tôi quá chán ngán, không hiểu con người thật của NHL thế nào? Anh đóng kịch, diễn trò hay đang bị thoái hoá về nhân cách? Anh đã từng học triết rồi học luật tất nhiên anh cũng khá thông minh, sao anh lại có vẻ khoái trá cái màn được đưa đón bằng xe bus có cảnh sát hú còi dẹp đường, được ở khách sạn Thắng Lợi, tiếc là anh chưa kể lể được ăn những món gì, chắc không phải mắm tôm cà pháo? Sao anh lại hồn nhiên ấu trĩ đến thế, dễ bị mua, bị dụ khị như thế? Giá mà anh được xe hơi đưa đón riêng, nói chuyện riêng với TT Nguyễn Tấn Dũng thì anh còn xúc-động-đậy như có “dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu” cỡ nào nữa.
Tự dưng tôi liên tưởng đến nhân vật Trần Trường (có người nhại là trần truồng) đã gây sóng gió trong cộng đồng người Việt năm nào, qua đó Trần Trường nổi tiếng một thời, về sau Trần Trường đưa cả gia đình về quê sống, đầu tư làm ăn bị chính quyền hạch sách, điêu đứng đến gần phá sản toàn bộ, vợ sinh bệnh nặng, hắn muốn phát điên.
NHL cũng tương tự, hình như anh khoái chọc tức thiên hạ, làm khác đời để nổi danh (ở đây có người đưa ý kiến là anh muốn được chú ý) có khác gì nhân vật đốt đền để kiếm danh tiếng. Khác chăng, tên ngu xuẩn kia chỉ đốt đền, còn NHL đốt chính mình, để kiếm chút hư danh, kiếm chút của ngon dư thừa mà nhà nước bố thí cho. Đọc bài viết của NHL thấy trơ trẽn quá, không còn chút liêm sỉ.
Biết đâu nhờ bài viết tâng bốc tràn trề xúc động thế này NHL sẽ được đảng CSVN chú ý hơn, được rước về nhận chức vụ nào đó. Mong lắm, để NHL có được kinh nghiệm bản thân, vì chưa thấy quan tài thì chưa đổ lệ!
Dù vậy, tôi không đồng ý với chị Tôn Vân Anh là: “Talawas cho đăng bài viết của NHL là một thất bại thảm hại”. Trái lại tôi thấy talawas đưa lên là đúng, cần có những tiếng nói, những ý kiến khác nhau để chúng ta hiểu thêm con người, xã hội, cộng đồng hơn. Có bài viết của NHL chúng ta mới thấy trong cộng đồng người Việt vẫn có những người mê muội đến như thế, dù biết bao người đã bỏ tất cả công danh ở xứ người, về nước làm việc, đầu tư, để rồi phải bỏ của chạy lấy người. Tôi ủng hộ phương thức làm việc của talawas.
Tất cả cho tới đoạn “…như một cơ hội tuyên truyền” bác nói đúng của BH.
lại còn là đào sâu, khơi rộng thêm hố phân ly, làm loét lở thêm vết thương chia rẽ.”
BH không cho rằng nó khoét thêm sâu vào nỗi đau chia rẽ dân tộc, mà nó làm cho khoảng cách giữa hai bên càng xa thêm.
BH có hỏi chuyện những người Nam từng vượt biên đến nước thứ 3, phần lớn thì họ đều bỏ qua quá khứ, bỏ qua tội lỗi của ĐCSVN và hàng năm thường về VN du lịch, thăm gia đình. Chỉ còn những người tham gia chính trị vẫn chưa thể bỏ qua thôi (bao gồm Cộng sản và Chống cộng).
Nếu hiểu theo hướng ấy thì câu sau đây :
“Đại hội Việt Kiều đáng lẽ phải nằm trong phạm trù dân tộc, đáng lẽ không nên chính trị hoá.” (DDH)
phải chăng người viết muốn nói: ” Đại hội Việt Kiều đáng lẽ phải là một vận hội nhằm hàn gắn những vết thương chia rẽ trong cộng đồng dân tộc hơn là dùng nó như một cơ hội tuyên truyền, dùng nó như một cơ hội tuyên truyền lại thêm những “vĩ thanh” nhảm nhí như Nguyễn Hữu Liêm, hàm hồ như Trần Thanh Vân thì chẳng những đã chẳng được tích sự gì mà lại còn là đào sâu, khơi rộng thêm hố phân ly, làm loét lở thêm vết thương chia rẽ.”
Chẳng hiểu tôi “diễn giải” như vậy có được chính xác không ?
VD: Không nên nói rằng “Cộng sản bán nước”; “Dân chủ và Chống cộng là phản động, là các thế lực thù địch”, một khi cả 3 nói về hoà giải, muốn xí bun bun cho nhau.
Tóm lại, đối với người Việt Nam hiện nay thì hãy tránh để sự khác nhau trong quan điểm chính trị làm phân hoá tình dân tộc.
Cộng sản đã nắm quyền thì sẽ khó mà muốn hoà giải, Chống cộng thì vốn dĩ xưa nay “không đội trời chung” với Cộng sản. Dân chủ thì bị kẹt ở giữa.
“À, Cháu mà như NHL thì sẽ ráng tậu một lô đất quanh đấy để được chôn gần “Bác”, thế mới thỏa cái dòng điện chạy dọc xương sống NHL nhỉ!” (qngo)
Này, anh bạn trẻ, ông này về từ Mỹ, nghe “réo” như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng và những thứ hổ lốn khác mà cảm thấy “như có một dòng điện chạy dọc xương sống” , chắc anh bạn cũng có biết một cái cảm giác khác của một nhà thơ, khi ông viết :
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Nhờ bạn hỏi dùm ông NHL, hẳn ông ấy biết “cõi ấy” là cõi nào chứ nhỉ ?
Nếu một chính quyền không làm tròn vai trò của nó trong việc bảo vệ đất nước, ví dụ thỏa hiệp với kẻ thù, thì người dân có quyền chỉ trích, đòi hỏi thay đổi, thậm chí lật đổ chính quyền đó, để họ làm tròn bổn phận dân tộc.
Một vấn đề khác là vấn đề… dân tộc. Nếu những người đại diện dân tộc, lãnh đạo dân tộc, mà không làm tròn vai trò của họ, khiến dân tộc bị thụt lùi, bị chậm tiến, thì người dân đất nước có quyền đấu tranh nhằm thay đổi chính quyền hiện tại, để dân tộc họ được hưởng những giá trị làm người thực sự.
Tôi thực tình không hiểu câu trên.
“Đại hội Việt Kiều đáng lẽ phải nằm trong phạm trù dân tộc, đáng lẽ không nên chính trị hoá.” (DDH)
Câu này cũng khiến tôi khá phân vân nhất là khái niệm chính trị và chính trị hóa mà tác giả muốn nói.
Nhưng tôi nhiệt liệt hoan nghênh và thưởng thức hết mình cái “minh họa” của câu dưới :
“Như vậy hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” thì hơi kỳ. Giống như một người mời anh chị em về ăn giỗ cha mẹ xong rồi để hình người yêu của mình lên bàn thờ.” (DDH)
Đại hội Việt Kiều đáng lẽ phải nằm trong phạm trù dân tộc, đáng lẽ không nên chính trị hoá.
Như vậy hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” thì hơi kỳ. Giống như một người mời anh chị em về ăn giỗ cha mẹ xong rồi để hình người yêu của mình lên bàn thờ.