Noel 2014



Noel 2014

*

26.12.2014 06:45 AM

Tin Văn thân chúc độc giả một mùa Giáng Sinh vui tươi và một Năm Mới hạnh phúc

Noel 2014

*



Kờ Phỏng Dái được đem ra treo!
OLD MARX
I try to envision his last winter,
London, cold and damp, the snow's curt kisses
on empty streets, the Thames' black water.
Chilled prostitutes lit bonfires in the park.
Vast locomotives sobbed somewhere in the night.
The workers spoke so quickly in the pub
that he couldn't catch a single word.
Perhaps Europe was richer and at peace,
but the Belgians still tormented the Congo.
And Russia? Its tyranny? Siberia? 
He spent evenings staring at the shutters.
He couldn't concentrate, rewrote old work,
reread young Marx for days on end,
and secretly admired that ambitious author.
He still had faith in his fantastic vision,
but in moments of doubt
he worried that he'd given the world only
a new version of despair;
then he'd close his eyes and see nothing
but the scarlet darkness of his lids.
-Adam Zagajewski
(Translated,from the Polish, by Clare Cavanagh.)
[The New Yorker, Jan 21, 2008]

Cụ Mác
Tôi cố tưỏng tượng ra mùa đông cuối cùng của ông,
Luân Đôn, lạnh, ẩm.
Tuyết đè ngửa, hôn tàn bạo lên phố vắng, lên mặt nước đen thui của dòng sông Thames.
Bướm co ro, run rẩy nhóm lửa nơi công viên.
Có tiếng sụt sùi của những đầu máy, ở đâu đó trong đêm.
Những người thợ nói quá nhanh trong tiệm rượu,
khiến ông không kịp bắt, chỉ một từ.
Có lẽ Âu Châu thì giầu có hơn, và thanh bình,
nhưng người Bỉ vẫn hành hạ xứ Congo.
Còn Nga xô thì sao? Bạo chúa của nó? Siberia, chốn lưu đầy ư? 
Ông trải qua những buổi tối mắt dán lên những tấm màn cửa.
Ông không thể nào tập trung, viết lại những tác phẩm đã xưa, cũ,
đọc lại Marx trẻ cho tới hết ngày,
và thầm lén ngưỡng mộ tay tác giả tham vọng này.
Ông vẫn còn niềm tin ở cái viễn ảnh thần kỷ, quái đản của mình,
nhưng vào những lúc hồ nghi,
ông đau lòng vì đã đem đến cho thế giới,
chỉ một viễn ảnh mới của sự thất vọng, chán chường;
rồi ông nhắm mắt và chẳng nhìn thấy gì nữa, ngoài bóng tối của mí mắt của mình.

Primo Levi knew the realities of winter. Many of the memoirs he wrote of his time as a prisoner at Auschwitz are coloured as much by biting cold and endless grey snow as by barbarism and industrial slaughter. This brief piece takes place in the final winter of the war, just before the events described in The Truce, the story of Levi’s long journey home. And it consists of little more than the arrival of a package of biscuits from his family – a dangerous offence in a concentration camp. This small gift, coming as it does after the harrowing things he has experienced, is transmuted into an almost miraculous event, and his giddiness at the prospect of satiety is palpable. But it’s the glints of an intrinsic decency Levi is able to locate in his fellow man, even under the shadow of the darkest evidence of his capacity for brutality, which form the heart of this tale.
Giáng Sinh chót của Cuộc Chiến. Primo Levi
Đọc 1 phát, thì bèn nhớ đến Giáng Sinh tưởng là "cuối cùng" của Trại Panat Nikhom của GCC!
Những người từng ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, chắc khó quên được Giáng Sinh 1991.
"Đây có thể sẽ là Giáng Sinh cuối cùng của các con tại Sikiew...", Cha người Thái cai quản địa phận nói với đám người tị nạn. Trại sẽ đóng cửa vào cuối năm tới theo như tin tức báo chí. Và ông cho tiền làm một lễ Giáng Sinh như ở ngoài đời tại nhà thờ ở khu C trong Trại.
"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em?"



*
*
  *

Tin Văn thân chúc độc giả một mùa Giáng Sinh vui tươi và một Năm Mới hạnh phúc

Khi bạn nói, hãy mân mê cái ý tưởng, về sự bí mật của giọng và của từ, và nói, trong lo sợ và trong tình yêu, và hãy nhớ rằng thì là, thế giới của từ tìm ra được cú phát ngôn của nó, qua cái mõm của bạn!
Câu trên là của Martin Buber, trong Ten Rungs, Collected Hasidic Sayings (1947), đoạn “Về Quyền Năng Của Từ”. Sau đó, trong “Làm sao…  Horah”, tay biên soạn cảnh cáo: “Bạn phải ngưng ‘âu lo, thắc mắc, nhận thức…’ về chính bạn. Bạn phải cố mà ngộ ra rằng thì là, mi chẳng là cái chó gì hết, mà chỉ là 1 cái tai nghe thế giới của từ, nói trong mi. Vào khoảnh khắc bạn bắt đầu nghe mình đang lèm bèm, là phải ngưng ngay lập tức.” Và xa hơn tí nữa: “[Sự kiêu ngạo] được tái sinh như là ong…. Chúng ‘hum’ chúng ‘buzz’: ‘Tớ hiện hữu, tớ đang iêu em của tớ….’”!
Nếu Joseph không dám để lòng mình trực tiếp bị trù ếm, bị quyến rũ, bởi cái cụm từ “Lời Của Chúa”, nếu ông không dám dâng hết mình cho ngôn ngữ, nhất là thứ ngôn ngữ nằm trong nội dung Do Thái Ky Tô giáo, thì có lẽ bởi là vì ông cảm thấy, rằng, “thế kỷ 20 đã kiệt quệ đếch còn khả thể, cho cái gọi là cứu chuộc, và bắt đầu hục hặc với Tân Thánh Kinh”.
Chúa Ky Tô chưa đủ, Freud đếch đủ, Marx lại càng đếch đủ, hiện sinh, Đức Phật thì cũng đếch đủ"
Và ông kết luận rất ư là bảnh tỏng:
"Tất cả ba cái nhảm nhí đó chỉ là để xác minh Lò Thiêu, đếch phải để ngoảnh đi với nó.
Muốn vờ nó, nhân loại vô phương, ngoại trừ điều này: Mười Điều Răn, dù muốn dù không.”
*
Quả này thì quả là gian nan: Nhà.
Bài viết nằm trong loạt bài Thế Giới Nội, Inner Worlds, của tờ The New Yorker. Noel, Gấu đi bài này. Cũng là 1 cách về nhà, dù chẳng còn. Teju Cole viết về 1 cuốn phim mà ông cực mê, với câu phán tuyệt cú mèo: Có lẽ phim cực mê là phim nó cực mê bạn, thay vì bạn cực mê nó. Tôi học điều này ở tay làm phim “Red”, như thế nào, làm sao, những cuộc gặp gỡ chẳng tính đếm được, chẳng luờng trước được, chất lên thành 1 cục, và chi li vẽ ra đường đời của bạn.
Ông là Distinguished Writer in Residence, [nhà văn cực bảnh thường trú?] ở Bard College. Cuốn mới nhất của ông, Every Day is for the Thief.
Khi TTT đọc truyện đầu tay của Gấu, Những con dã tràng, gửi thẳng xuống tòa soạn Sáng Tạo, ông về nói với bà cụ, thằng Trụ nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói Gấu viết hay hơn DNM. Điều gì làm ông phán như thế. Hẳn là ông tin vào cái sự biết tí ti ngoại ngữ, cái sự học xong Trung Học…
Nói rõ hơn, với ông, không có thứ nhà văn tự phát hoài hoài, cái mầm văn học ở trong bạn phải được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm sống, bằng sức đọc, sức xâm nhập vào thời của bạn.
Truyện ngắn không được đăng, vì Sáng Tạo chết liền sau đó. Sau Gấu thấy tên của Gấu, khi đó ký Sơ Dạ Hương, ở trong mục hộp thư của tờ Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, và "băng" của ông. Không đăng. Tuy nhiên, Gấu chẳng hề để ý đến nữa. vì còn lo học. Chỉ mãi đến khi ăn mìn VC, nằm nhà thương Grall, đọc 1 bài thơ của CTC đăng trên báo Nghệ Thuật, thì Gấu mới có lại cái hứng viết. Và đó là cái truyện ngắn Những ngày ở Sài Gòn.
Khi viết “Những con dã tràng”, truyện ngắn hay nhất của Gấu, đúng theo nghĩa truyện ngắn, tuy được TTT khen, nhưng bản thân, Gấu biết, đây không phải là dòng văn chương của mình! Cái thứ nhân vật hục hặc với đời sống, không phải týp của Gấu. Chỉ đến khi nhận ra điều này, thì Gấu mới hiểu “sẽ đi xa hơn DNM”, có nghĩa là gì.
Chỉ đến khi viết được “Những ngày ở Sài Gòn”, thì Gấu mới tin được, mình sẽ trở thành nhà văn!
Gấu kiếm ra Thầy của mình. Kiếm ra dòng văn chương của mình
Một cách nào đó, đoạn văn trên đây “chú giải” câu của Teju Cole.
Thư tín,

Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.
Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.

Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.


*

22 Dec 2014

*

*

Anh Cu An, Vientiane
Tuesday, December 23, 2014 5:44 AM
Mùa Giáng sinh & Năm mới lại đến, kính chúc bác Gấu và gia đình bác nhiều niềm vui, đầm ấm, hạnh phúc.
Chúc trang Tin văn, cùng với cõi văn của bác trẻ mãi,
Kính!
D.V
Tkank you
Merry Christmas and Happy New Year to you & family
Best Wishes
Best Regards
Take Care
NQT
Thư Texas
Monday, December 22, 2014 8:44 AM
Kính gửi ông Gấu,
Dám nói thẳng, rõ và chỉ đích danh, cái ung nhọt của chế độ Cộng sản Việt chỉ có ông Gấu !
Chúc ông cùng gia đình bình an, hạnh phúc trong mùa lễ Giáng Sinh.
Độc giả TV
Trích Tin Văn:
“Những tên chóp bu của chế độ VC đều vô văn hóa cả thì làm sao mà khá cho được!
Chế độ Ngụy làm gì có 1 thằng ăn mày về văn hóa, bằng cấp, học vấn, kỹ năng làm bộ trưởng, thí dụ?”
Phúc đáp:
Đa tạ
Chúc bạn và gia đình một mùa Giáng Sinh, một mùa Xuân mới, một năm mới an khang hạnh phúc
Best Regards
NQT
Nhân tiện, xin chúc mừng Noel và Năm Mới tới tất cả độc giả TV, kèm tin vui:
Trang Tin Văn, vừa rồi, có tí trục trặc với server, với Nestcape composer, Gấu đã tính đóng cửa tiệm, nhưng nay OK tất cả rồi, bèn renew domain name thêm 3 niên nữa, chắc là vừa. Nếu tới lúc đó, vưỡn chưa chịu đi xa, tính tiếp.
Trân trọng
NQT
The truth is dark under your eyelids.
What are you going to do about it?
The birds are silent; there's no one to ask.
All day long you'll squint at the gray sky.
When the wind blows you'll shiver like straw.
A meek little lamb you grew your wool
Till they came after you with huge shears.
Flies hovered over your open mouth,
Then they, too, flew off like the leaves,
The bare branches reached after them in vain.
Winter coming. Like the last heroic soldier
Of a defeated army, you'll stay at your post,
Head bared to the first snowflake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You're crazier than the weather, Charlie.
Charles Simic: The Paris Review Winter 1995
Note: 1995. Đây chắc là số The Paris Review đầu tiên của Gấu!
Mua vì bài phỏng vấn Steiner.
Chống Đông 
Sự thực thì xám xịt dưới mi mắt của mi
Mi sẽ làm gì với nó?
Chim chóc nín thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày dài mi, lé xệch, ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió thổi, mi run như cọng rơm. 
Con cừu nhỏ, mi vỗ béo bộ lông của mi
Cho tới bữa họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ trên cái miệng há hốc
Rồi chúng cũng tơi tả như những chiếc lá
Những cành cây trơ trụi, cố níu kéo, vô phương
Mùa Đông tới. Như tên lính anh dũng cuối cùng
Của một đạo quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng hơn cả thời tiết, Charlie. (2)

Note: Bài thơ này, sau, in trong tuyển tập Walking the Black Cat, và mới nhất, trong New and Selected Poems.


Tết 2014
MR COGITO CONSIDERS A RETURN
TO HIS NATIVE TOWN
If I went back there
I would probably not find
a single shadow of my old home
nor the trees of childhood
nor a cross with an iron plaque
a bench on which I murmured incantations
nor a single thing that belongs to us
all that survived
is a flagstone
with a chalk circle
I stand in the middle
on one leg
the moment before jumping
I cannot grow up
though years pass
and planets and wars
clamor overhead
I stand in the middle
still as a monument
on one leg
before a jump into finality
the chalk circle rusts
like old blood
around it grow mounds
of ash
up to the arms
up to the mouth
Zbigniew Herbert: The Collected Poems 1956-1998

Tết này Gấu tính về Xề Gòn
Nếu Gấu về
Hẳn là chẳng thể nào thấy lại được
Dù chỉ một cái bóng của căn nhà xưa
Không, những cái cây của thời mới nhớn
Cây thánh giá với tấm biển bằng sắt cũng không
Cái ghế dài nơi Gấu lầm bầm những câu thần chú lại càng không
Chẳng còn bất cứ chi thuộc về Gấu
Tất cả những gì sống sót
Là một phiến đá lát đường
Với cái vòng tròn phấn
Gấu đứng vô giữa vòng tròn
Lò cò một chân
Như tính nhẩy 1 phát
Gấu không làm sao trưởng thành
Dù bao nhiêu năm tháng đã trôi qua
Dù cuộc chiến khốn kiếp
[Bà DTH sửa lưng Gấu, ngu xuẩn mới đúng]
Gấu đứng giữa vòng tròn
Đứng sững, như tượng đài
Một chân
Trước khi làm 1 phát nhẩy vô vô cùng
Cái vòng phấn gỉ
Như máu cũ
Chung quanh nó mọc lên
Những đồi tro cốt
Ngập tới tay,
Tới mõm Gấu.
..... 
Hay là Gấu có thể làm như Brodsky làm, theo lời dụ khị của Tolstaya, tuồn về xứ Mít, incognito:
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái như vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông sẽ dạo chơi giữa phố, giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú, ông có thể gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm công cộng, như thể ông từ Mỹ gọi về. Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"
Giấu mặt, tuyệt vời thật!
Tuyệt vời thật! Nhưng quá trễ mất rồi!
Nói cho cùng, một trong những thành tựu lớn lao của Brodsky, như George Kline chỉ ra, là ông lao mình vào ngôn ngữ và văn chương của xứ sở chấp nhận ông. Ông đá đít, như VC đá đít tên K, con đường của hoài nhớ, ân hận, khóc lóc nỉ nôi, tự thương thân, cái gì gì bầy ngựa hoang bơ vơ, đây là cái chọn lựa chết người của đa số những nhà văn di dân, đặc biệt là những nhà thơ:

 Perhaps he could have slipped into Russia unannounced, as the fiction writer Tatyana Tolstaya suggests, in a novelistically transcribed interview:
"Do you know, Joseph, if you don't want to come back with a lot of fanfare, no white horses and excited crowds, why don't you just go to Petersburg incognito?" [. . .] Here I was talking, joking, and suddenly I noticed that he wasn't laughing [. .. ] He sat quietly, and I felt awkward, as if I were barging in where I wasn't invited. To dispel the feeling, I said in a pathetically hearty voice: "It's a wonderful idea, isn't it?" He looked through me and murmured: "Wonderful. . . Wonderful ... "

Wonderful, but too late. After all, one of Joseph's great achievements, as George Kline has pointed out, had been to throw himself into the language and literature of his adopted country. He rejected the path of nostalgia, regret, self-pity,lamentation, the fatal choice (if one can call it that) of so many émigré writers, especially poets. And what now, when he was no longer technically an involuntary exile? He had refused to complain about it, just as he refused to complain about his treatment in Russia, or his lack of a formal education. On the contrary, he had valued exile to the arctic region as liberating. And the education in question was a Soviet one, though when he said that the "earlier you get off track the better", he may not have been referring exclusively to the Soviet system.
Furthermore, his own generation, as he acknowledged, was what mattered to him. He kept up, to a remarkable extent, with what was being written by his younger contemporaries, but his real sympathies were with those of his own generation. Although, with the unanticipated collapse or abdication of the Soviet imperial power, he came to see many of his friends again, he had both intellectually and emotionally bade them" farewell" (proshchaite), not "good-bye" (do svidanie, "see you again "). In a sense, the reunions must have been posthumous affairs. So, when he was shown photos, taken shortly before his departure from the Soviet Union, he suddenly became serious, solemn, grim: "One's affinity is for the generation to which one belongs ... Theirs is the tragedy ... " Not of those who emigrated or, like himself, were given little choice other than to leave. And as for himself, well, he had exchanged oppression for freedom and all kinds of material advantage. He had no patience with talk of exile. Perhaps the dissolution of the Soviet State, its transformation, rather than opening the way for his return, simply confirmed his Americanness ...
Or rather, his New- Yorkerness. New York, as he put it, "reduces you to a size". It is a gigantic impediment to gigantism. And yet, at the same time, it is human. The scale of its monumentality is human. It was also a "Mondrian city". Who, familiar or besotted with New York, does not know what he meant by that? The perpendicularity and horizontality; windows, facades, facets ...
Anyway, it was his city; that is, he made it his. And he was right about it. In this place, you were not greater than yourself; you were "reduced to a size" (curious that use of the indefinite article), the right size, your own human size. It's not true that you were dwarfed by those canyons; they are clearly the product of human labour, an index to human industry. And strangely heartening, too, even now, nearly a century on ...
But now I am waxing sentimental. Thinking about the city now, at age sixty-one, it seems to me not a bad place to die in. I remember being told by Ted Hughes, ten or twenty years ago already, that we had reached the age when the Indian princes abandoned their worldly concerns and retired to the forests. Perhaps New York is the equivalent for urban man? As if one’s death there would be less unbearably personal, with that crush of people which somehow leaves you uncrushed, so you feel, even in your isolation, part of a far greater organism, an organism in that it doesn't (quite) self-destruct. There's one positive effect being "reduced to a size". Joseph, having been deprived of what, as a Jew, he possibly never quite possessed, Russia, having "quit the country that bore and nursed him" and having been forgot - ten by so many - first you have to be known by so many -, having suffered catastrophic loss, however much he insisted that he had left the worse for the better, was now threatened with the early loss of his life. Under these circumstances, New York, perhaps, fitted the bill.
I am waiting for Joseph in Washington Square. It looked like rain before, but it hasn't rained yet. I am watching the skateboarders, the jugglers, the children, the clochards, the mothers, the gangs of youths. Nobody pays any attention to me, and I suddenly feel blissfully unselfconscious. Joseph arrives late. He shuffles over, grinning wryly. He seems in no hurry and doesn't apologize. There is a stillness about him. Suddenly I feel, by contrast, tense, anxious.
We stroll into the Village, towards one of his favourite restaurants. And now it is raining or drizzling. He has to call Maria. He uses a street phone. At the same time, he conveys to me that nothing has changed ...


  Thơ Mỗi Ngày
I'm just a storefront dentist
Extracting a blackened tooth at midnight.
I chewed on many bitter truths, Doc,
My patient says after he spits the blood out
Still slumped over, gray-haired
And smelling of carrion like me.
Of course, I may be the only one here,
And this is a mirror trick I'm performing.
Even the few small crumpled bills
He leaves on the way out, I don't believe in.
I may pluck them with a pair of wet pincers
And count them, and then I may not.
Charles Simic: New and selected poems
Và rồi thì Gấu suy tư
Gấu chỉ là 1 tên thợ nhổ răng ở 1 lề đường Xề Gòn
Nhổ 1 cái răng đen thui vào lúc nửa đêm
“Tui nhai quá nhiều sự thực cay đắng, thưa Ngài Tu Bíp”
Người bịnh nói, sau khi khạc ra 1 đống máu
Thì cũng vưỡn cái tay tóc xám ngồi xụ một đống
Và ngửi có mùi xác chết, như…. Gấu
Lẽ dĩ nhiên, làm đếch gì có bịnh nhân nào
Chỉ mình Gấu, diễn trò, trước tấm gương
Ngay cả mớ tiền lẻ ông ta để lại
Gấu cũng đếch có tin
Gấu có thể lấy cái kẹp khều khều
Và đếm
Và rồi, Gấu có thể đếch làm như thế! 

ROBERT HASS
Robert Hass, like Jeffers, is a California poet. In this poem, an object (clay figurine) and a typical California landscape are given simultaneously.
Robert Hass, như Jeffers, là một nhà thơ Cali. Trong bài thơ dưới đây, pho tượng vì phu nhân, và phong cảnh Cali, thì cùng lúc, được trình ra, với độc giả Tin Văn.
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things
[Note: To U, the figure of the lady, an California image, in this poem. GNV]
THE IMAGE
The child brought blue clay from the creek
and the woman made two figures: a lady and a deer.
At that season deer came down from the mountain
and fed quietly in the redwood canyons.
The woman and the child regarded the figure of the lady,
the crude roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were not sure where she came from,
except the child's fetching and the woman's hands
and the lead-blue clay of the creek
where the deer sometimes showed themselves at sundown.
 
Ảnh Tượng
Đứa bé mang đất sét màu xanh từ thung lũng về
Và người đàn bà nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này, nai thường từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng lẽ trong những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà và đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc, vì phu nhân tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ say mê của đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét xanh màu chì của thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong mù hoàng hôn”.

In the Distance
Farewell, you little street,
Good-bye, you tranquil roof!
Father, mother looked sadly as I left,
And my beloved too.
Here, far, far in the distance,
It's for my home I long!
My companions sing merrily,
But it is a hollow song.
There will be different cities
And different girls to see!
Although there are different girls,
There is none for me.
Different cities, different girls,
And I right there without a sound!
Different cities, different girls,
Oh how I'd love to turn around.
Two weeks later, he [Brod] received a piece of poetry from Jungborn. It was just as "pure," but in a very different way. It was a popular song that Kafka had sung along to a few times without being able to get the melody quite right. It was called "In the Distance" and was about as old as Kafka himself. This song, by Albert Graf von Schlippenbach, was folksy, which is a euphemism for trivial. Yet it cut Kafka to the quick. Just a few months later, he confessed to a woman that he was "in love" with this song. He sent her a copy of the text but asked to have it back because he could not do without it; "pure emotion" had been rendered in perfect form in this text. Without further elaboration, he added, "And I can swear that the poem's sorrow is genuine."


EPISODE IN A LIBRARY
A blond girl is bent over a poem. With a pencil sharp as a lance she transfers words onto a white sheet of paper and translates them into lines, accents, caesuras. The fallen poet's lament now looks like a salamander gnawed by ants.
    When we carried him off under fire, I believed his still warm body would be resurrected in the word. Now I see words dying, I know that there is no limit to decay. What will remain after us are fragments of words scattered on the black earth. Accent signs over nothingness and ash.
Zbigniew Herbert: Prose Poems [The Collected Poems 1956-1998]
Thời kỳ ở thư viện
Một nường tóc vàng hoe cúi xuống một bài thơ. Với cây viết chì nhọn hoắt như cây thương, em chuyển chữ lên tờ giấy trắng, và dịch thành dòng, âm tiết, ngưng nghỉ. Tiếng than van của nhà thơ nằm xuống như con kỳ nhông bị đàn kiến làm thịt.
    Khi khiêng được nhà thơ ra khỏi lửa đạn, tớ nghĩ cái thân thể còn âm ấm của ông có thể tái sinh trong chữ. Bây giờ, tớ thấy chữ đang chết. Tớ biết cái sự phân rã thì làm sao biết ngưng nghỉ là gì. Cái còn lại là mảnh miểng tản mác trên mặt đất đen thui.
    Âm tiết thánh thót trên hư vô và tro tàn.
They laughed at me wanting you,
Said I was reaching for the moon;
But oh, you came through-
Now they'll have to change their tune.
Lũ bạn học ngày nào, chúng cười về cái chuyện anh thương em
Mi đúng là khùng, mi muốn khều mặt trăng
Nhưng bi giờ chúng ngỡ ngàng, và đổi giọng
It's the wrong time and the wrong place,
Though your face is charming, it's the wrong face
Không đúng thời và không đúng chỗ
Mặc dù em tuyệt vời, nhưng bộ mặt này không dành cho mi.
Robert Hass: Now & Then

*
NEW YEAR’S EVE, 2004
You're at home listening
to recordings of Billie Holiday,
who sings on, melancholy, drowsy.
You count the hours still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing peacefully?
while the living can't free themselves from fear?

Adam Zagajewski
Đêm Giao Thừa

Bạn ở nhà nghe Duy Khánh ca
Xuân này con không về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật hiền hòa?
Trong khi người sống không thể nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?
*
ANECDOTE OF RAIN
I was strolling under the tents of trees
and raindrops occasionally reached me
as though asking:
Is your desire to suffer,
to sob?
Soft air, wet leaves;
-the scent was spring, the scent sorrow.
Giai thoại mưa
Anh lang thang dưới tàng cây
và những hạt mưa thỉnh thoảng lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá ướt;
-Mùi xuân, mùi buồn

&

Dec 14, 2014

*

&

Dec 14, 2014

&

Dec 14, 2014

Noel 2014

  *
LUKE XXIII
Gentile or Jew or simply a man
Whose face has been lost in time,
We shall not save the silent
Letters of his name from oblivion.
What could he know of forgiveness,
A thief whom Judea nailed to a cross?
For us those days are lost.
During his last undertaking,
Death by crucifixion,
e learned from the taunts of the crowd
That the man who was dying beside him
Was God. And blindly he said:
Remember me when thou eomest
Into thy kingdom, and from the terrible cross
The unimaginable voice
Which one day will judge us all
Promised him Paradise. Nothing more was said
Between them before the end came,
But history will not let the memory
Of their last afternoon die.
O friends, the innocence of this friend
Of Jesus! That simplicity which made him,
From the disgrace of punishment, ask for
And be granted Paradise
Was what drove him time
And again to sin and to bloody crime.
                                [Mark Strand]
J.L. Borges
Luke XXIII
Không phải Do Thái, hay Do Thái, hay giản dị một người đàn ông
Mặt, thời gian bào mòn
Chúng ta cũng không thể nào
Giành lại được từ quên lãng
Những con chữ câm lặng
Là cái tên của anh ta
Anh ta biết gì về tha thứ
Tên trộm từ Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú cuối cùng của anh ta
Chết bằng đóng đinh thập tự
Anh ta biết, từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang chết kế bên anh ta,
Là Chúa. Và mù lòa, anh nói:
Xin hãy nhớ đến tôi khi Người vô
Nước Thiên Đường
Và từ cây thập tự khủng khiếp
Một giọng nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào sẽ phán xét tất cả chúng ta
Hãy hứa với anh ta Thiên Đàng.
Chẳng lời nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ không để cho hồi ức của buổi chiều cuối cùng này chết.
Ôi bạn bè, sự ngây thơ vô tội của người bạn của Giê Su.
Khiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn cầu
Và được ban cho Thiên Đàng
Cho anh ta thời gian
Và nữa, nữa, tội lỗi, và tội ác
Noel 2014

*

Sweet Xmas Home with Snow

&
Noel 2014

*

Hà Nội & Cúc Họa Mi


*

&

Tuyết đầy trời Toronto,  sáng Dec, 11, 2014

&

*

Jennifer @ Phuoc Loc Tho, Little Saigon, 2004

*

Richie & Jennifer & Jenny

*


*

Giỗ thằng em trai của GCC, @ Vientiane. Khi bà cụ còn sống, luôn có món chả giò.
Em tôi nằm xuống với một viên đạn ở trong đầu. Mấy người lính kể lại, chuẩn uý không kịp đau đớn. Lời trối trăng nghe như gió thoảng lại: "Chắc tao chết mất..." Trung đội vi hành tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng. Khi nghe tiếng súng, theo phản xạ, em tôi chúi đầu về phía trước. Chiếc nón sắt quên không buộc rớt xuống và một viên đạn trong tràng AK từ bên sông bắn hú họa xuống mặt sông, dội lên, xớt qua vai rồi hết đà nằm luôn trong ót. Viên bác sĩ quân y nói với tôi, ông đã không lấy viên đạn ra vì sợ làm nát khuôn mặt. "Chuẩn ý Sĩ không kịp ghi địa chỉ cấp báo. Chúng tôi phải nhờ Bưu Điện liên lạc với Sài-gòn. Ngoài mấy bức hình chụp lúc tẩm niệm, chuẩn uý không để lại gì cả. Quần áo, đồ dùng cá nhân, poncho... đều đi theo với chuẩn uý."
Có, có , chuẩn uý Sĩ có để lại một bà mẹ đau khổ như bất cứ một bà mẹ nào có con trai tử trận, một người anh trai để mang xác em về nghĩa trang quân đội Gò Vấp mai táng, một đứa cháu còn nằm trong viện bảo sanh, người chú vô thăm lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, như để tìm dấu vết thân thương, ruột thịt, trước đi vĩnh viễn bỏ đi...
Em tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn Chuối, ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent, miệng còn dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con tầu, chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào dài. Hai anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những đống rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa trên mặt sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh Hội, và đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của bà mẹ, từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt thất vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng không nuôi nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít, chằng chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con với anh Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung với Doãn Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác thành tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.
Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"
Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."

*

Noel 2014

&

*

Noel 2014

*
A Joseph Brodsky poem from 1964 (three translations) (1)
In Villages God Does Not Live
by Joseph Brodsky
In villages God does not live only in icon corners as the scoffers claim, but plainly everywhere. He sanctifies each roof and pan, divides each double door. In villages God acts abundantly– cooks lentils in iron pots on Saturdays, dances a lazy jig in flickering flame, and winks at me, witness to all of this. He plants a hedge, and gives away a bride (the groom’s a forester), and, for a joke, he makes it certain that the game warden will never hit the duck he’s shooting at. The chance to know and witness all of this, amidst the whistling of the autumn mist, is, I would say, the only touch of bliss that’s open to the village atheist.
1964 From “Selected Poems” (Harper & Row, 1973), translated from the Russian by George L. Kline.
In Villages God Does Not Live in Corners
God does not only live in the corners of the ceiling,
as many scoffers like to say,
but everywhere. He sanctifies roofs and plates,
bowls and cooking pans,
and honestly divides every double door
into halves.
In the village,
God is found in great overabundance.
On Saturday, he cooks lentils in the
big iron pot. He dances sleepily over the fire
and waves at me, as to a witness.
He sets up the fences and gives the
son of the forest warden a nice young
woman for a wife.
And for sure playful fun he lets the
game warden miss the duck he tries to
shoot about one thousand times.
The openness to recognize all these things,
by listening to the sounds of the heart,
is by the way,
the only grace,
which is open to the
atheist in the village.
–Joseph Brodsky, Collected Poems in English
IN VILLAGES GOD DOES NOT LIVE IN CORNERS
In villages God does not live in corners
as skeptics think. He’s everywhere.
He blesses the roof, he blesses the dishes,
he holds his half of the double doors.
He’s plentiful. In the iron pot there.
Cooking the lentils on Saturday.
He sleepily jigs and bops in the fire,
he winks at me, his witness. He
assembeles a fence, he marries some sweetheart
off to the woodsman. Then for a joke
he makes the warden’s every potshot
fall just short of a passing duck.
The chance to watch all this up close,
while autumn’s whistling in the mist,
is the only blessed gift there is
in villages, for the atheist.
— Joseph Brodsky
(1940-1996)
(Translated from the Russian, by Glyn Maxwell and Catherine Ciepiela.)

Note GCC đọc bài thơ trên, trong số báo The New Yorker, Feb 25, 2013. Bản dịch của Glyn Maxwell và Catherine Ciepiela. Tò mò, gõ Google, ra thêm 1 số bản dịch khác nữa.
By Joseph Brodsky (1940-1996)
Số báo này, còn bài thơ sau đây, chỉ có đúng 1 câu, tả đúng cái tình trạng của GCC bữa đó đó, hà, hà!
H/A viết, Cali chẳng có gì lạ, Noel năm nay, ngoài tí flu vương vất trong gió.
Christmas and New Year in California is always with flu in the air, so don't feel miss it.

Thành ra đừng tiếc, đã lỡ hẹn!
I'm sorry. Please take care. GNV
*

Bài thơ [câu thơ đúng hơn] ly kỳ ở cái cụm từ "Tôi không thể không", I cannot not...
ADVICE
Someone dancing inside us
learned only a few steps:
the "Do-Your-Work" in 4/4 time,
the "What-Do-You-Expect" waltz.
He hasn't noticed yet the woman
standing away from the lamp,
the one with black eyes
who knows the rhumba,
and strange steps in jumpy rhythms
from the mountains in Bulgaria.
If they dance together,
something unexpected will happen.
If they don't, the next world
will be a lot like this one.
                            BILL HOLM
The Rag and the Bone Shop of the Heart: A Poetry Anthology
[Ed by Robert Bly, James Hillman and Michael Meade]
Khuyến cáo
Một người nào đó bên trong chúng ta
Chỉ biết lèo tèo vài đường “nhót”
Boléro thì như đạp xế đạp,
“Son mì son” thì như “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”
Thẳng chả không để ý đến một em
Đứng xa xa ngọn đèn
Người phụ nữ với đôi mắt đen
Dáng thấp - nhớ đại khái - hà, hà -
Rất rành Rumba
Với những bước đi hoang dại của dân miền núi Bún Gà Ri
Nếu hai đứa mà cùng khiêu vũ
Ui chao sẽ là một phép lạ
Nếu không, thế giới tiếp theo, sẽ tới
Sẽ “vũ như cẩn”.
Noel 2014


*


*

*

Quan Chua in Irvine CA
Dear GNV,
Christmas and New Year in California is always with flu in the air, so don't feel miss it.
Please take care.

Seagull

*

AUDIENCE: You mentioned Don Quixote before in passing and I wanted to ask you if you would care to comment on Don Quixote?
BORGES: Don Quixote is perhaps one of the finest books ever written. Not because of the plot-the plot is flimsy, the episodes go nowhere- but the man, Alonso Quijano, who dreamt himself into Don Quixote is perhaps one of our best friends. At least he is my best friend. Creating a friend for the many generations to come is a feat which could hardly be equaled. And Cervantes has done that.
Borges @ 80: A WRITER IS WAITING FOR HIS OWN WORK
[To U, “at least U R my best friend”. Plse take care. GNV]
BORGES: Don Quixote có lẽ là một trong những cuốn sách tuyệt nhất được viết ra. Chẳng phải vì cốt truyện của nó - cốt truyện thì tầm thường, tình tiết chẳng đâu vào đâu - nhưng nhân vật Alonso Quijano, người mơ thấy mình là Don Quixote, có lẽ là một trong số những người bạn quý nhất của chúng ta. Hoặc ít nhất, ông là người bạn quý nhất của chính tôi . Tạo được một người bạn cho biết bao nhiêu thế hệ về sau như thế là một tuyệt kỹ khó bì . Và Cervantes đã làm được như thế .
Noel 2014

&

*

*

Noel 2014

Ljubomir Simovic
1935- 
Simonic sinh tại Uzice, học văn và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết kịch và làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic Elegies, xb năm 1958, ông có thêm một số tuyển tập và 1 cuốn thơ tuyển. 

Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng tay
Như chơi đàn accordion. 
Người nghiêng tai xuống gần nhạc cụ
Như để nghe rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây đàn. 
Chúng bỏ rơi Người, lũ người ngạo mạn
Lũ ham vui, đám nhảy nhót
Chỉ có chim sẻ, dế, và những bông tuyết
Vẫn khiêu vũ quanh Người. 
Cây thập tự thì ở ngã tư,
Khi đường làng gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe âm nhạc
Hãy ngưng lại, và lắng nghe
Thực đấy, bạn có thể nghe âm nhạc!

*

*

*

Gấu đã tính vẫy cái máy bay, qua....  Chợ Lớn, rung răng rung rẻ Noel với...  Seagull, nhưng phút chót, bận.
Sorry. Take Care. GNV

*

Noel this year @ Regent Street, London
[from CM FB]












Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’