Thơ Mỗi Ngày
Thơ
Mỗi Ngày
With your parents on it watching TV.
Nor did we notice the moving truck,
The driver waving to us as he drove away.
I like the new look of our lives, you said,
Dangling a beer bottle by the neck
And walking pleased from room to room,
Every one of which was now empty.
Stepping out at last to look for our car,
We found neighbors' homes trashed,
Their front lawns covered with weeds
A few of which had pretty blue flowers
That seemed pleased to be there,
As crows do finding a roadkill.
The interests of certain powerful parties
In this country were being met.
Would that include God? I wondered
While you lay next to me on the floor
Dead to the world. Still, you’d expect
Someone that big to lift a finger
Cái chuồng chim đã rời đi
Cái giường ông via bà via ngồi coi TV cũng đã rời đi.
Hai đứa chẳng để ý đến cái xe tải dọn đồ
Luôn cả anh tài xế đưa tay vẫy vẫy, khi xe chuyển bánh.
Em thích cái nhìn mới về cuộc sống của đôi ta, nàng nói
Cổ lủng lẳng chai bia
Nàng rảo bước, từ phòng này qua phòng khác, coi bộ hài lòng
Mọi thứ trong phòng, nay thì trống rỗng
Sau cùng, bước ra ngoài, coi cái xế nằm ở chỗ nào
Hai đứa thấy rác rưởi nhà hàng xóm
Lối đi, cỏ mọc đầy
Đây đó, những bông hoa màu xanh thật xinh
Có vẻ như sống ở đó cũng dễ chịu
Như lũ quạ, kiếm con vật bị xe cán
Những lợi lộc của một số đảng phái quyền lực cũng được thoả mãn
Trong xứ sở này
Nhưng không lẽ kể cả Chúa, cả Phật, cả Đảng VC?
Gấu lầu bầu
Trong lúc Gấu Cái nằm kế bên trên sàn nhà,
Dead to the world!
Tuy nhiên
Giá có 1 đứa, đủ to lớn, để nhấc 1 ngón tay!
That's what you always were, my friend.
Just the other day
A stuffed parrot perched
In splendor of an antiques store,
Gave you a dirty look
As you stuck your nose in.
Like running into a mirror
One night crossing a vast
And empty shopping mall
With an odd-looking stranger
Cooling his heels in it
Surprised to find you there.
Or driving past a scarecrow
Someone relocated
To a graveyard near your home
And hearing his laughter
Long after you went back the next day
And found him gone.
Mi lúc nào thì cũng thế, bồ tèo
Nhớ chưa, đúng bữa đó
Con vẹt nhồi bông
Trong 1 tiệm đồ cổ
Khiến mi tục tĩu nhìn
Cố nhét cái mũi của mi
Vô bên trong khung cửa kính.
Hay đâm sầm vào 1 cái gương
Bữa đêm mi rảo qua 1 thương xá rộng lớn, trống trơn
Có 1 kẻ lạ, coi thật kỳ kỳ
Hắn như làm mát cặp giò ở trỏng
Ngạc nhiên khi thấy mi cũng ráng mò tới.
Hay lái xe vượt qua 1 thằng bù nhìn
Ai mang dựng gần nhà mi
Và nghe nó cười ré lên
Mãi sau đó, ngày tới, mi trở lại
Thằng bù nhìn mất tiêu.
These rags the spirit borrows
To clothe itself
Against the chill of mortality.
O barbed wire of crossed-out words,
Crown of thorns,
Camp meeting of dead wall reveries,
Spilled worry beads,
Fortune-teller's coffee dregs,
My footholds in the abyss.
Mớ rẻ rách, cái gọi là ‘tinh thần”, mượn
Để đóng 1 bộ đồ vía cho chính nó
Chống lại cái ớn lạnh của tử sinh
Ôi, dây kẽm gai của những từ bị gạch bỏ
Vương miện gai
Trại gặp gỡ của "những cơn mơ mòng tường chết" (1)
Hột buồn phiền dâng trào
Cặn cà phê của thày bói
Chỗ đặt chân của tớ ở vực thẳm.
(1)
The phrase 'dead-wall reverie' was first coined by Herman Melville in his short story of 1853, Bartleby the Scrivener: A Story of Wall Street.
[net]
http://www.tanvien.net/Poesie/tho_ngay_14.html
Cafe Chez Rendez-Vous Hanoi
after he's left the stage, alone in a dressing room where
a yellow candle burns with its greasy, pitch-black flame?
What yearning will encourage you to push the heavy gate, to sense
once more the odor of that wood and the rusty taste of water from an
ancient well,
to see again the tall pear tree, the proud matron who presented us
aristocratically with its perfectly formed fruit each fall,
and then fell into mute anticipation of the winter's ills?
Next door a factory's stolid chimney smoked and the ugly town kept still,
but the indefatigable earth worked on beneath the bricks in gardens,
our black memory and the vast pantry of the dead, the good earth.
What courage does it take to budge the heavy gate,
what courage to catch sight of us again,
gathered in the little room beneath a Gothic lamp-
mother skims the paper, moths bump the windowpanes,
nothing happens, nothing, only evening, prayer; we wait.
We lived only once.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
Bạn mê những con chữ như ảo thuật gia bẽn lẽn
mê khoảnh khắc
anh ta rời sàn diễn
cô đơn trong căn phòng thay đồ
với cây đèn cầy
và ngọn lửa thì mỡ màng, và đầu ngọn lửa thì đen thui như hắc ín?
Khát khao nào xui khiến bạn đẩy cánh cổng nặng nề
để ngửi một lần nữa mùi gỗ, và cái vị gỉ sét của nước
từ 1 cái giếng xưa?
Để lại nhìn cây lê cao,
bà quản lý hãnh diện chỉ cho chúng ta,
một cách thật là quí tộc
trái cây của nó, với cái hình dáng thật là tuyệt hảo
vào mỗi mùa thu
Và rồi câm lặng nhập vào những cơn bịnh của mùa đông?
Cửa kế bên, ống khói của một nhà máy thản nhiên tỏa khói
Và cái thành phố xấu xí thì cứ thế im lặng
Nhưng trái đất không hề mệt mỏi vưỡn hì hục làm việc trên những viên gạch của những vườn tược
Hồi ức đen thui của chúng ta, và cái trạn để thức ăn rộng lớn của những người chết, trái đất tốt lành.
Can đảm nào khiến bạn đẩy cánh cửa nặng nề
Can đảm nào khiến bạn lại tóm bắt cái nhìn của chúng ta,
Tụ tập nơi căn phòng nhỏ bên dưới ngọn đèn Gothic
Mẹ đọc lướt tờ giấy
Thiêu thân đập vô ô cửa kính
Chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì, chỉ buổi chiều, kẻ cầu nguyện, chúng ta đợi
Chúng ta chỉ sống một lần
YOU MUST BE SOMEWHERE, RIGHT? -NICK FLYNN
Birds (sandpipers) hop on the beach at Galveston.
"La plupart des hommes meurent de chagrin" -says Buffon
(as quoted in Volume One of Claudel's diaries).
R. thinks American poets are unintelligent.
- Yet nobleness exists, if only in a painting:
Christ's face in the Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
(I couldn't tear myself away, I couldn't go).
It depends who, I answer: I defend American poets.
Summer, endless dusk, and then the stars like lanterns.
We discuss the emptiness of recent French poetry.
But "rien'' is such a lovely word! Better than nothing.
Even the ocean seems happy at noon.
Forests burn: resin has its brief moment of bliss.
We eat ice cream on the cafe terrace. The speakers are playing "Yesterday."
Notes from a civil war: truce or armistice?
Suddenly I move to Aix-en-Provence, I don't know how.
Evening crowds on the streets, anticipation.
I push through a dense thicket of onlookers and ask:
What's happening? God's coming back. But it's just a dream.
Chim nhảy lò cò ở bãi biển Galveston.
"Con người phần đông chết vì buồn". Buffon phán
(như được trích dẫn trong nhật ký của Paul Claudel, Tập I).
R nghĩ, lũ thi sỡi Mẽo hơi bị ngu, không thông minh
Tuy nhiên có cái gọi là phong nhã, nhưng chỉ ở trong họa:
Bộ mặt Chúa Ky Tô ở Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
(Tớ không cầm được nước mắt, cũng không làm sao mà bỏ đi được)
Cái đó còn tùy ai, tớ trả lời: Tớ bảo vệ những nhà thơ Mẽo
Mùa hè, bụi ngợp trời, và rồi những vì sao sáng lên như những ngọn đèn .
Chúng tớ lèm bèm về sự trống rỗng trong thơ Tẩy gần đây
Nhưng “chẳng” là 1 từ đáng yêu như thế đấy.
Có còn hơn không,
Như nhạc sến của lũ Ngụy phán
Ngay cả biển mà cũng có vẻ hạnh phúc vào lúc giữa trưa
Rừng cháy: nhựa thông mà cũng có được khoảnh khắc ngắn ngủi của cực khoái.
Chúng tớ ăn cà rem ở terrace tiệm cà phê
Mấy cái loa chơi “Yesterday.”
Ghi chú từ cuộc nội chiến: Hưu chiến hay là đình chiến?
Bất thình lình tớ dời đi Aix-en-Provence. Tớ chẳng hiểu sao
Đám đông chiều trên phố, một tiên liệu
Tớ xô người vô trong đám đông, và hỏi:
Chuyện gì xẩy ra?
Chúa trở lại.
Nhưng chỉ là một giấc mộng.
which reflect clouds
and a microscopic glider.
The fire will start up soon,
in an hour or so.
Beauty and fear are always paired-
like the time I learned
Marek had died and wandered
through a cold Paris, from which
summer was slowly departing.
Tớ tỉ mỉ nghiên cứu những cái nón của mấy người lính chữa lửa
Chúng phản chiếu mây
Và một cái tầu lượn vi ti,
Lửa sẽ bộc phát
Chừng tiếng đồng hồ, sau đó, cỡ đó
Cái đẹp và sự sợ hãi thì luôn luôn sóng đôi -
Như, vào thời gian mà tớ biết được
Marek chết và lang thang trong một Paris lạnh
Từ đó, mùa xuân bèn chậm rãi lên đường.
ADAM ZAGAJEWSKI: ETERNAL ENEMIES
Đọc lại thơ Adam Zagajewski
En Route
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.
Adam
Zagajewski: Mysticism
for Beginners (1)
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu.
There was a small room in the back
With a bed and a chair,
And a grim old woman
Who unlocked the door
And made herself scarce,
Leaving you there alone
With a thin ray of sunlight
You could imagine talking to
Every time it dropped in for a visit,
And falling quiet
As it got ready to leave.
Có cái giường và cái ghế
Và một mụ đờn bà già, khó đăm đăm
Mụ mở khóa phòng
Và, chuồn
Để mi một mình ở đó
Với tia mặt trời mỏng dính
Mi có thể lèm bèm với nó
Mỗi lần tia sáng chọt chẹt vô
Làm một cú hỏi thăm
Và trở nên tư lự
Như thể sẵn sàng rời bỏ mi.
IN THE GREEK CHURCH
The holy icon of the Mother of God
With moonlight at its feet
Like a saucer of milk
Set out for a cat to find
As it sneaks in at dawn.
The flames on her candles
Growing unsteady
As its steps draw close,
The saints over the altar
With their eyes open wide
Like children seeing a ghost.
Với ánh trăng ở nơi chân
Giống như dĩa sữa
Để dụ một con chuột
Khi nó bò ra vào lúc rạng đông
Ngọn đèn cầy nhún nhảy
Không chịu đứng im một chỗ
Khi những bước chân tới gần
Những vị thánh trên bàn thờ
Mắt mở lớn
Như những đứa trẻ
Nhìn thấy ma.
A bit of light from the setting sun,
Lingered on in your wineglass,
As you sat on your front steps
After the last guest had departed,
Watching the darkness come,
The first firefly set out tipsily
Over the lawn carrying a lantern
Like a player in a masque miming
Some scene of madness or despair,
The other players still in hiding,
The wind and the leaves providing
The sole musical accompaniment.
Bèn bám vào cái ly hồng đào
Khi bạn ngồi ở bậu thềm trước nhà
Sau khi người khách cuối cùng ra về
Ngắm bóng tối tới
Con đom đóm đầu tiên loạng choạng xuất hiện
Như 1 tên say rượu
Ở nơi lối đi lủng lẳng ngọn đèn lồng
Giống như 1 kịch sĩ
Trong vở kịch
Diễn một xen khùng điên hay chán chường
Những diễn viên khác thì vưỡn còn ẩn trốn
Gió và những chiếc lá
Cung cấp âm nhạc, thì chỉ có nó, làm nền cho vở kịch.
Wait for an Autumn day (Đợi một ngày thu)
after he's left the stage, alone in a dressing room where
a yellow candle burns with its greasy, pitch-black flame?
What yearning will encourage you to push the heavy gate, to sense
once more the odor of that wood and the rusty taste of water from an
ancient well,
to see again the tall pear tree, the proud matron who presented us
aristocratically with its perfectly formed fruit each fall,
and then fell into mute anticipation of the winter's ills?
Next door a factory's stolid chimney smoked and the ugly town kept still,
but the indefatigable earth worked on beneath the bricks in gardens,
our black memory and the vast pantry of the dead, the good earth.
What courage does it take to budge the heavy gate,
what courage to catch sight of us again,
gathered in the little room beneath a Gothic lamp-
mother skims the paper, moths bump the windowpanes,
nothing happens, nothing, only evening, prayer; we wait.
We lived only once.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
Simic:
Scribbled in the Dark
IN THE GREEK CHURCH
The holy icon of the Mother of God
With moonlight at its feet
Like a saucer of milk
Set out for a cat to find
As it sneaks in at dawn.
The flames on her candles
Growing unsteady
As its steps draw close,
The saints over the altar
With their eyes open wide
Like children seeing a ghost.
A bit of light from the setting sun,
Lingered on in your wineglass,
As you sat on your front steps
After the last guest had departed,
Watching the darkness come,
The first firefly set out tipsily
Over the lawn carrying a lantern
Like a player in a masque miming
Some scene of madness or despair,
The other players still in hiding,
The wind and the leaves providing
The sole musical accompaniment. Simic: Scribbled in the Dark
HAUNTED HOUSE
Gấu xuống phố, con phố của những vị thần dởm
Con phố của những tên “lên bộ đồ lớn” để giết người
Con phố của chuột bỏ chạy nơi trú ẩn
Con phố của những con thiêu thân tán tỉnh nhau và làm tình vào ban đêm
Con phố của những nàng dâu bỏ chạy
AT TENDER MERCY
Ôi ngọn đèn đường cô đơn cuối [cúi] đầu
Với thứ ánh sáng nào
Mi tỏa lên hồn Gấu
Đang tìm cách vá víu cuộc đời của nó
Đêm thu này
Hãy ở đây với nó
Khi nó cố tìm cách tiến sâu
Sâu thêm nữa
Vào bóng tối
NYRB May 9, 2013
Bài thơ có bề ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa”, ở đây, là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ cả…
Nói theo Kim Dung, thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau cùng, đòn chí tử, là khổ thơ chót.
Đọc, sao mà thê lương chi đâu:
When something tells the birds to hush,
And the one streetlight in the village
To keep a few moths company
And the large old house put up for sale
With some of its windows broken.
https://www.theguardian.com/books/2016/jun/06/frederick-seidel-interview-widening-income-inequality
GCC mới bê về nhà 1 cuốn thơ mới ra lò của Frederick Seidel, nhưng không làm sao khoe cái bìa. Tính copy & paste từ Facebook nhưng fb cứ phập phà phập phù.
GCC đọc thơ của tay này, loáng thoáng trên 1 số báo văn học. Có vẻ như rất mê Apollinaire. Trong cuốn thơ mới ra lò này, có mấy bài ông dịch thơ Apollinaire.
Post sau đây. Ông trả lời tờ Guardian, khi cuốn thơ mà Gấu mới tậu ra lò:
Another person who turns up in this book – quite a bit – is Apollinaire. There are translations and also a poem of your own that borrows his title “La Jolie Rousse”. Why has he been so much on your mind lately?
Apollinaire has always been with me, in his rhetoric, in his music, the vivacity and melancholy at the same time. “La Jolie Rousse” I think is just one of the great poems. Such a lovely, terrible thing.
Bài "Tù và săn", do ông dịch:
Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas de Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Anne and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze
http://tanvien.net/Dayly_Poems/Pont_Mirabeau.html
Gấu chơi xì ke,
Mơ màng nhớ BHD
Frederick Seidel còn dịch mấy bài thơ khác nữa, của Apollinaire. Từ từ Tin Văn đi tiếp.
Under Eads Bridge over the Mississippi at St. Louis
Flows the Seine
And our past loves.
Do I really have to remember all that again
And remember
Joy came only after so much pain?
Hand in hand, face to face,
Let the belfry softly bong the late hour.
Nights go by. Days go by.
I'm alive. I'm here. I'm in flower.
The days go by. But I'm still here. In full flower.
Let night come. Let the hour chime on the mantel.
Love goes away the way this river flows away.
How violently flowers fade. How awfully slow life is.
How violently a flower fades. How violent our hopes are.
The days pass and the weeks pass.
The past does not return, nor do past loves.
Under the Pont Mirabeau flows the Seine.
Hand in hand, standing face to face,
Under the arch of the bridge our outstretched arms make
Flows our appetite for life away from us downstream,
And our dream
Of getting back our love of life again.
Under the Pont Mirabeau flows the Seine.
Simic:
Scribbled in the Dark
A DAY CAME
The birdcage was gone and the couch With your parents on it watching TV.
Nor did we notice the moving truck,
The driver waving to us as he drove away.
I like the new look of our lives, you said,
Dangling a beer bottle by the neck
And walking pleased from room to room,
Every one of which was now empty.
Stepping out at last to look for our car,
We found neighbors' homes trashed,
Their front lawns covered with weeds
A few of which had pretty blue flowers
That seemed pleased to be there,
As crows do finding a roadkill.
The interests of certain powerful parties
In this country were being met.
Would that include God? I wondered
While you lay next to me on the floor
Dead to the world. Still, you’d expect
Someone that big to lift a finger
Rồi có một ngày (chinh
chiến tàn)
Cái chuồng chim đã rời đi
Cái giường ông via bà via ngồi coi TV cũng đã rời đi.
Hai đứa chẳng để ý đến cái xe tải dọn đồ
Luôn cả anh tài xế đưa tay vẫy vẫy, khi xe chuyển bánh.
Em thích cái nhìn mới về cuộc sống của đôi ta, nàng nói
Cổ lủng lẳng chai bia
Nàng rảo bước, từ phòng này qua phòng khác, coi bộ hài lòng
Mọi thứ trong phòng, nay thì trống rỗng
Sau cùng, bước ra ngoài, coi cái xế nằm ở chỗ nào
Hai đứa thấy rác rưởi nhà hàng xóm
Lối đi, cỏ mọc đầy
Đây đó, những bông hoa màu xanh thật xinh
Có vẻ như sống ở đó cũng dễ chịu
Như lũ quạ, kiếm con vật bị xe cán
Những lợi lộc của một số đảng phái quyền lực cũng được thoả mãn
Trong xứ sở này
Nhưng không lẽ kể cả Chúa, cả Phật, cả Đảng VC?
Gấu lầu bầu
Trong lúc Gấu Cái nằm kế bên trên sàn nhà,
Dead to the world!
Tuy nhiên
Giá có 1 đứa, đủ to lớn, để nhấc 1 ngón tay!
FISH OUT OF WATER
That's what you always were, my friend.
Just the other day
A stuffed parrot perched
In splendor of an antiques store,
Gave you a dirty look
As you stuck your nose in.
Like running into a mirror
One night crossing a vast
And empty shopping mall
With an odd-looking stranger
Cooling his heels in it
Surprised to find you there.
Or driving past a scarecrow
Someone relocated
To a graveyard near your home
And hearing his laughter
Long after you went back the next day
And found him gone.
Cá ra khỏi nước
Mi lúc nào thì cũng thế, bồ tèo
Nhớ chưa, đúng bữa đó
Con vẹt nhồi bông
Trong 1 tiệm đồ cổ
Khiến mi tục tĩu nhìn
Cố nhét cái mũi của mi
Vô bên trong khung cửa kính.
Hay đâm sầm vào 1 cái gương
Bữa đêm mi rảo qua 1 thương xá rộng lớn, trống trơn
Có 1 kẻ lạ, coi thật kỳ kỳ
Hắn như làm mát cặp giò ở trỏng
Ngạc nhiên khi thấy mi cũng ráng mò tới.
Hay lái xe vượt qua 1 thằng bù nhìn
Ai mang dựng gần nhà mi
Và nghe nó cười ré lên
Mãi sau đó, ngày tới, mi trở lại
Thằng bù nhìn mất tiêu.
ILLEGIBLE SCRIBBLE
These rags the spirit borrows
To clothe itself
Against the chill of mortality.
O barbed wire of crossed-out words,
Crown of thorns,
Camp meeting of dead wall reveries,
Spilled worry beads,
Fortune-teller's coffee dregs,
My footholds in the abyss.
Nguệch ngoạc đếch đọc được
Mớ rẻ rách, cái gọi là ‘tinh thần”, mượn
Để đóng 1 bộ đồ vía cho chính nó
Chống lại cái ớn lạnh của tử sinh
Ôi, dây kẽm gai của những từ bị gạch bỏ
Vương miện gai
Trại gặp gỡ của "những cơn mơ mòng tường chết" (1)
Hột buồn phiền dâng trào
Cặn cà phê của thày bói
Chỗ đặt chân của tớ ở vực thẳm.
(1)
The phrase 'dead-wall reverie' was first coined by Herman Melville in his short story of 1853, Bartleby the Scrivener: A Story of Wall Street.
[net]
Winter Poem
The valley resounds
With the sound of the stars
With the vast stillness
Over snow and forest.
With the sound of the stars
With the vast stillness
Over snow and forest.
The cows are in their byre.
God is in his heaven.
Child Jesus in Flanders.
Believe and be saved.
The Three Wise Men
Are walking the earth.
God is in his heaven.
Child Jesus in Flanders.
Believe and be saved.
The Three Wise Men
Are walking the earth.
W.G. Sebald: Across
the Land and the Water
Thơ Mùa Đông
Thung lũng dội,
Bằng âm thanh của những vì sao
Bằng sự tĩnh lặng bao lao
Lên tuyết và rừng.
Bằng âm thanh của những vì sao
Bằng sự tĩnh lặng bao lao
Lên tuyết và rừng.
Bò thì về chuồng
rồi
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng ở Flanders
Tin và Được Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền Giả
Đang lang thang trên mặt đất.
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng ở Flanders
Tin và Được Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền Giả
Đang lang thang trên mặt đất.
https://www.theguardian.com/books/2002/jul/07/poetry.highereducation
Sunday 7 July 2002 10.40 BST
First published on Sunday 7 July 2002 10.40 BST
After Nature
WG Sebald
Hamish Hamilton £12.99, pp112
After Nature is a long 'prose poem'. Three poetic narratives from three time periods, connected through dislocated ideas of nation and cultural belonging, spiritual searching, ways of seeing nature, levels of participation and exclusion. A dialogue of conscience. A belonging that is never realisable, but that creates a need for searching.
The language is easy and rich. In the Sebald approach to the unredemptive construct we call 'nature', both sympathetic and antagonistic interactions carry the same rules: it's how they are interpreted that comes into focus. Nature itself becomes no more pliable to the sympathetic eye. The scientist sees as the artist sees - or might see.
Sign up for the Bookmarks email
Read more
The first of the narratives, 'As the Snow on the Alps', involves the artist Mathias Grünewald in the early 1500s. The central telling, 'And if I Remained by the Outermost Sea', is based on the eighteenth-century botanist GW Steller and his part in Bering's Alaskan expedition. And the final recounting is based on the author's persona of a contemporary self. This last section, 'Dark Night Sallies Forth', sees a fusion of the themes of migrations, departures, arrivals and 'revisitings' of histories: '...after leaving my remote home,/ I arrived there and took lodgings/ among the previous century's/ ruins.'
Grünewald's seeing as an artist is marred by a vision of loss, an 'asphyxiation', in a similar way to Steller's realisation in failure and disaster of '...the difference/ between nature and society.' The 'self' finale fuses portent and prophecy, confronts the fatalism of cultural and social inheritance, the ease with which things are forgotten, or are displaced from memory because they are associated with a shadow that knows no limits:
'...From there she
saw Nürnberg in flames,
but cannot recall now
what the burning town looked like
or what her feelings were
at this sight.'
The Michael Hamburger translation of After Nature has been eagerly awaited since Sebald's death in a car accident in 2001. There is a combination of metrical and non-metrical lines, with sections working effectively as free verse, others coming close to blank verse, and yet others clearly prose. The question of lineation becomes one of 'relief' as much as a denotation of units of meaning. It slows the reading down, even creates a sense of breath and rhythm.
Throughout, the process in which the voice 'describes, classifies, draws' is in and out of tune with the aspect of self that is overwhelmed by lyrical circumstance - 'Like starlings the wind drives us' - and the philosophical and spiritual questioning that surrounds such disjunction. A poem of fate and fatalism, it analyses and engages strangely and consistently.
After Nature is a finely tuned piece of writing that deals with how history is interpreted, with art, memory and the tension between the machine of the human construct and 'nature' in a way that is intertextual and familiar with Sebald's prose work. In fact, the poem, originally published in 1988, predates the publication of the prose work in its original German.
Sebald and, through him, Hamburger, has an knack of incorporating the real, the non-exclusionary aesthetic, the parlance of the ordinary person, into an environment of learning and 'high art'. Identity is formed by the unsaid as much as the said. This is not surprising given Sebald's confrontations with the silences across German society that followed the Second World War. Sebald's work is about freedoms of observation, of decoding and deciphering what constitutes the individual, family, society, as well as ideas of nation.
This book raises questions: how much insight have our explorations actually brought 'us'? How much can they bring us? Sebald was known for his intense dislike of commercialisations of the Holocaust, and After Nature clearly indicates that the crimes of history can't be silenced or made into something else. Questions of the 'we', the 'us' and 'they', beg questions of responsibility, of distancing, but are honestly confronted. The balance between the poetry and the prose of this work is sensitive, and more complex and highly realised than even the author might have realised.
Tờ Guardian đọc After Nature của W.G. Sebald.
"Before the four incomparable novels that made him a world figure in literature, W. G. Sebald wrote the free verse triptych After Nature, now fluently translated by Michael Hamburger. Afier Nature sets the pattern of the novels: reveries on distant lives alongside something like autobiography. This and the later books sustain a search for threads along which conscious and lost memories in private life connect with surviving and lost evidence about lives and worlds long gone .... As in Sebald's novels, images and echoes link narrative meditations in this work."
-The San Francisco Chronicle "
[There are] three poems in Afier Nature. The first is about the sixteenth-century painter Matthias Grunewald, the second about the nineteenth-century botanist Georg Steller, [and the third] is an autobiographical prose poem. The scientist, the artist, and the writer all trying to make sense of life and death, pulled between images of white snow in the Alps and green forests and pastures. The late W. G. Sebald is a writer who often stops, in his quest for meaning, with the unexplained coincidence. [Sebald] will not translate coincidence for his readers, and this is the secret of his perfect timing. Here is the other secret: We are willing to be carried along in a haze of not quite understanding because Sebald also revels in the pure music of words .... Only by suspending readerly willfulness will you be able to float weightless through his writing."
-Los Angeles Times
"Europe ... is a continent soaked in bloody history; its every street corner, its every green and lovely field has likely borne witness to some episode of war or religious terror or plague. W. G. Sebald ... was a master at evoking this haunted Europe ....
-Time Out New York
Silences that speak a thousand words
WG Sebald's finely-tuned prose poem, After
Nature, raises questions of responsibility through what is not said
John Kinsella
Tập thơ xuôi của Sebald dấy lên những câu hỏi về trách nhiệm, qua cái không nói
John Kinsella
Tập thơ xuôi của Sebald dấy lên những câu hỏi về trách nhiệm, qua cái không nói
Sunday 7 July 2002 10.40 BST
First published on Sunday 7 July 2002 10.40 BST
After Nature
WG Sebald
Hamish Hamilton £12.99, pp112
After Nature is a long 'prose poem'. Three poetic narratives from three time periods, connected through dislocated ideas of nation and cultural belonging, spiritual searching, ways of seeing nature, levels of participation and exclusion. A dialogue of conscience. A belonging that is never realisable, but that creates a need for searching.
The language is easy and rich. In the Sebald approach to the unredemptive construct we call 'nature', both sympathetic and antagonistic interactions carry the same rules: it's how they are interpreted that comes into focus. Nature itself becomes no more pliable to the sympathetic eye. The scientist sees as the artist sees - or might see.
Sign up for the Bookmarks email
Read more
The first of the narratives, 'As the Snow on the Alps', involves the artist Mathias Grünewald in the early 1500s. The central telling, 'And if I Remained by the Outermost Sea', is based on the eighteenth-century botanist GW Steller and his part in Bering's Alaskan expedition. And the final recounting is based on the author's persona of a contemporary self. This last section, 'Dark Night Sallies Forth', sees a fusion of the themes of migrations, departures, arrivals and 'revisitings' of histories: '...after leaving my remote home,/ I arrived there and took lodgings/ among the previous century's/ ruins.'
Grünewald's seeing as an artist is marred by a vision of loss, an 'asphyxiation', in a similar way to Steller's realisation in failure and disaster of '...the difference/ between nature and society.' The 'self' finale fuses portent and prophecy, confronts the fatalism of cultural and social inheritance, the ease with which things are forgotten, or are displaced from memory because they are associated with a shadow that knows no limits:
'...From there she
saw Nürnberg in flames,
but cannot recall now
what the burning town looked like
or what her feelings were
at this sight.'
The Michael Hamburger translation of After Nature has been eagerly awaited since Sebald's death in a car accident in 2001. There is a combination of metrical and non-metrical lines, with sections working effectively as free verse, others coming close to blank verse, and yet others clearly prose. The question of lineation becomes one of 'relief' as much as a denotation of units of meaning. It slows the reading down, even creates a sense of breath and rhythm.
Throughout, the process in which the voice 'describes, classifies, draws' is in and out of tune with the aspect of self that is overwhelmed by lyrical circumstance - 'Like starlings the wind drives us' - and the philosophical and spiritual questioning that surrounds such disjunction. A poem of fate and fatalism, it analyses and engages strangely and consistently.
After Nature is a finely tuned piece of writing that deals with how history is interpreted, with art, memory and the tension between the machine of the human construct and 'nature' in a way that is intertextual and familiar with Sebald's prose work. In fact, the poem, originally published in 1988, predates the publication of the prose work in its original German.
Sebald and, through him, Hamburger, has an knack of incorporating the real, the non-exclusionary aesthetic, the parlance of the ordinary person, into an environment of learning and 'high art'. Identity is formed by the unsaid as much as the said. This is not surprising given Sebald's confrontations with the silences across German society that followed the Second World War. Sebald's work is about freedoms of observation, of decoding and deciphering what constitutes the individual, family, society, as well as ideas of nation.
This book raises questions: how much insight have our explorations actually brought 'us'? How much can they bring us? Sebald was known for his intense dislike of commercialisations of the Holocaust, and After Nature clearly indicates that the crimes of history can't be silenced or made into something else. Questions of the 'we', the 'us' and 'they', beg questions of responsibility, of distancing, but are honestly confronted. The balance between the poetry and the prose of this work is sensitive, and more complex and highly realised than even the author might have realised.
Tờ Guardian đọc After Nature của W.G. Sebald.
PRAISE FOR AFTER NATURE
"Before the four incomparable novels that made him a world figure in literature, W. G. Sebald wrote the free verse triptych After Nature, now fluently translated by Michael Hamburger. Afier Nature sets the pattern of the novels: reveries on distant lives alongside something like autobiography. This and the later books sustain a search for threads along which conscious and lost memories in private life connect with surviving and lost evidence about lives and worlds long gone .... As in Sebald's novels, images and echoes link narrative meditations in this work."
-The San Francisco Chronicle "
[There are] three poems in Afier Nature. The first is about the sixteenth-century painter Matthias Grunewald, the second about the nineteenth-century botanist Georg Steller, [and the third] is an autobiographical prose poem. The scientist, the artist, and the writer all trying to make sense of life and death, pulled between images of white snow in the Alps and green forests and pastures. The late W. G. Sebald is a writer who often stops, in his quest for meaning, with the unexplained coincidence. [Sebald] will not translate coincidence for his readers, and this is the secret of his perfect timing. Here is the other secret: We are willing to be carried along in a haze of not quite understanding because Sebald also revels in the pure music of words .... Only by suspending readerly willfulness will you be able to float weightless through his writing."
-Los Angeles Times
"Europe ... is a continent soaked in bloody history; its every street corner, its every green and lovely field has likely borne witness to some episode of war or religious terror or plague. W. G. Sebald ... was a master at evoking this haunted Europe ....
-Time Out New York
http://www.tanvien.net/Poesie/tho_ngay_14.html
Cafe Chez Rendez-Vous Hanoi
No Childhood
And what was your childhood like?
a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers
Adam Zagajewski
Tuổi thơ ư, No!
Và tuổi
thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.
GATE
TO BARBARA TORUNCZYK
Do you love words as a shy magician loves the moment
of quiet after he's left the stage, alone in a dressing room where
a yellow candle burns with its greasy, pitch-black flame?
What yearning will encourage you to push the heavy gate, to sense
once more the odor of that wood and the rusty taste of water from an
ancient well,
to see again the tall pear tree, the proud matron who presented us
aristocratically with its perfectly formed fruit each fall,
and then fell into mute anticipation of the winter's ills?
Next door a factory's stolid chimney smoked and the ugly town kept still,
but the indefatigable earth worked on beneath the bricks in gardens,
our black memory and the vast pantry of the dead, the good earth.
What courage does it take to budge the heavy gate,
what courage to catch sight of us again,
gathered in the little room beneath a Gothic lamp-
mother skims the paper, moths bump the windowpanes,
nothing happens, nothing, only evening, prayer; we wait.
We lived only once.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
Cổng
Bạn mê những con chữ như ảo thuật gia bẽn lẽn
mê khoảnh khắc
anh ta rời sàn diễn
cô đơn trong căn phòng thay đồ
với cây đèn cầy
và ngọn lửa thì mỡ màng, và đầu ngọn lửa thì đen thui như hắc ín?
Khát khao nào xui khiến bạn đẩy cánh cổng nặng nề
để ngửi một lần nữa mùi gỗ, và cái vị gỉ sét của nước
từ 1 cái giếng xưa?
Để lại nhìn cây lê cao,
bà quản lý hãnh diện chỉ cho chúng ta,
một cách thật là quí tộc
trái cây của nó, với cái hình dáng thật là tuyệt hảo
vào mỗi mùa thu
Và rồi câm lặng nhập vào những cơn bịnh của mùa đông?
Cửa kế bên, ống khói của một nhà máy thản nhiên tỏa khói
Và cái thành phố xấu xí thì cứ thế im lặng
Nhưng trái đất không hề mệt mỏi vưỡn hì hục làm việc trên những viên gạch của những vườn tược
Hồi ức đen thui của chúng ta, và cái trạn để thức ăn rộng lớn của những người chết, trái đất tốt lành.
Can đảm nào khiến bạn đẩy cánh cửa nặng nề
Can đảm nào khiến bạn lại tóm bắt cái nhìn của chúng ta,
Tụ tập nơi căn phòng nhỏ bên dưới ngọn đèn Gothic
Mẹ đọc lướt tờ giấy
Thiêu thân đập vô ô cửa kính
Chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì, chỉ buổi chiều, kẻ cầu nguyện, chúng ta đợi
Chúng ta chỉ sống một lần
IT DEPENDS
Birds (sandpipers) hop on the beach at Galveston.
"La plupart des hommes meurent de chagrin" -says Buffon
(as quoted in Volume One of Claudel's diaries).
R. thinks American poets are unintelligent.
- Yet nobleness exists, if only in a painting:
Christ's face in the Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
(I couldn't tear myself away, I couldn't go).
It depends who, I answer: I defend American poets.
Summer, endless dusk, and then the stars like lanterns.
We discuss the emptiness of recent French poetry.
But "rien'' is such a lovely word! Better than nothing.
Even the ocean seems happy at noon.
Forests burn: resin has its brief moment of bliss.
We eat ice cream on the cafe terrace. The speakers are playing "Yesterday."
Notes from a civil war: truce or armistice?
Suddenly I move to Aix-en-Provence, I don't know how.
Evening crowds on the streets, anticipation.
I push through a dense thicket of onlookers and ask:
What's happening? God's coming back. But it's just a dream.
Tuỳ
Bạn phải ở đâu đó, đúng
không? Nick Flynn
Chim nhảy lò cò ở bãi biển Galveston.
"Con người phần đông chết vì buồn". Buffon phán
(như được trích dẫn trong nhật ký của Paul Claudel, Tập I).
R nghĩ, lũ thi sỡi Mẽo hơi bị ngu, không thông minh
Tuy nhiên có cái gọi là phong nhã, nhưng chỉ ở trong họa:
Bộ mặt Chúa Ky Tô ở Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
(Tớ không cầm được nước mắt, cũng không làm sao mà bỏ đi được)
Cái đó còn tùy ai, tớ trả lời: Tớ bảo vệ những nhà thơ Mẽo
Mùa hè, bụi ngợp trời, và rồi những vì sao sáng lên như những ngọn đèn .
Chúng tớ lèm bèm về sự trống rỗng trong thơ Tẩy gần đây
Nhưng “chẳng” là 1 từ đáng yêu như thế đấy.
Có còn hơn không,
Như nhạc sến của lũ Ngụy phán
Ngay cả biển mà cũng có vẻ hạnh phúc vào lúc giữa trưa
Rừng cháy: nhựa thông mà cũng có được khoảnh khắc ngắn ngủi của cực khoái.
Chúng tớ ăn cà rem ở terrace tiệm cà phê
Mấy cái loa chơi “Yesterday.”
Ghi chú từ cuộc nội chiến: Hưu chiến hay là đình chiến?
Bất thình lình tớ dời đi Aix-en-Provence. Tớ chẳng hiểu sao
Đám đông chiều trên phố, một tiên liệu
Tớ xô người vô trong đám đông, và hỏi:
Chuyện gì xẩy ra?
Chúa trở lại.
Nhưng chỉ là một giấc mộng.
FIREMEN'S HELMETS
I scrutinize firemen's helmets which reflect clouds
and a microscopic glider.
The fire will start up soon,
in an hour or so.
Beauty and fear are always paired-
like the time I learned
Marek had died and wandered
through a cold Paris, from which
summer was slowly departing.
Những cái nón của những người
lính chữa lửa
Tớ tỉ mỉ nghiên cứu những cái nón của mấy người lính chữa lửa
Chúng phản chiếu mây
Và một cái tầu lượn vi ti,
Lửa sẽ bộc phát
Chừng tiếng đồng hồ, sau đó, cỡ đó
Cái đẹp và sự sợ hãi thì luôn luôn sóng đôi -
Như, vào thời gian mà tớ biết được
Marek chết và lang thang trong một Paris lạnh
Từ đó, mùa xuân bèn chậm rãi lên đường.
ADAM ZAGAJEWSKI: ETERNAL ENEMIES
A HISTORY OF SOLITUDE
Birdsong diminishes.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
The moon sits for a photo.
The wet cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
Adam Zagajewski
Chuyện
Tình Buồn
Tiếng chim loãng dần.
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo. (a)
Mặt trăng ngồi vào một bức hình
Má phố ướt, ánh lên ánh trăng.
Gió mang mùi lúa đang độ chín
Mãi tít phía bên trên, một cái máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá heo. (a)
Cái tít Chuyện Tình Buồn này, thay
vì Một chuyện về nỗi cô
đơn, là do Gấu nhớ đến cô bạn, và những ngày
Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình Buồn, là ở Ðỗ Hòa, 1 buổi tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội, và khi 1 anh tù hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái muỗng đánh nhịp, Gấu bèn nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên ngoài, trong bóng tối nhìn vô căn nhà cũ, em thì đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình Buồn, là ở Ðỗ Hòa, 1 buổi tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội, và khi 1 anh tù hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái muỗng đánh nhịp, Gấu bèn nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên ngoài, trong bóng tối nhìn vô căn nhà cũ, em thì đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Em tay bế tay bồng
Bèn lủi thủi ra về. Trưa
hôm sau, bị tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô
trường Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình Triệu, vừa hết cữ vã,
là xin đi lao động Ðỗ Hòa liền, hy vọng trốn
Trại, kịp chuyến vượt biên đường Kampuchia.
Đọc lại thơ Adam Zagajewski
En Route
GULLS
Eternity doesn't travel,
eternity waits.
In a fishing port
only the gulls are chatty.
eternity waits.
In a fishing port
only the gulls are chatty.
Hải Âu
Vĩnh cửu không du lịch,
Vĩnh cửu đợi
Tại một cảng đánh cá
Chỉ hải âu thích tán gẫu.
Vĩnh cửu đợi
Tại một cảng đánh cá
Chỉ hải âu thích tán gẫu.
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
Cô bé của Vermeer
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.
Whatever Happened
Whatever happened had already
happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish.
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish.
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.
Adam Zagajewski
Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái chó
gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng
chúng ta phải sống,Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu.
AT THE VACANCY SIGN
There was a small room in the back
With a bed and a chair,
And a grim old woman
Who unlocked the door
And made herself scarce,
Leaving you there alone
With a thin ray of sunlight
You could imagine talking to
Every time it dropped in for a visit,
And falling quiet
As it got ready to leave.
Ở nơi có phòng trống
Căn phòng nhỏ ở phía sauCó cái giường và cái ghế
Và một mụ đờn bà già, khó đăm đăm
Mụ mở khóa phòng
Và, chuồn
Để mi một mình ở đó
Với tia mặt trời mỏng dính
Mi có thể lèm bèm với nó
Mỗi lần tia sáng chọt chẹt vô
Làm một cú hỏi thăm
Và trở nên tư lự
Như thể sẵn sàng rời bỏ mi.
The holy icon of the Mother of God
With moonlight at its feet
Like a saucer of milk
Set out for a cat to find
As it sneaks in at dawn.
The flames on her candles
Growing unsteady
As its steps draw close,
The saints over the altar
With their eyes open wide
Like children seeing a ghost.
Trong ngôi nhà thờ Hy Lạp
Bức tượng Đức MẹVới ánh trăng ở nơi chân
Giống như dĩa sữa
Để dụ một con chuột
Khi nó bò ra vào lúc rạng đông
Ngọn đèn cầy nhún nhảy
Không chịu đứng im một chỗ
Khi những bước chân tới gần
Những vị thánh trên bàn thờ
Mắt mở lớn
Như những đứa trẻ
Nhìn thấy ma.
THE MASQUE
A bit of light from the setting sun,
Lingered on in your wineglass,
As you sat on your front steps
After the last guest had departed,
Watching the darkness come,
The first firefly set out tipsily
Over the lawn carrying a lantern
Like a player in a masque miming
Some scene of madness or despair,
The other players still in hiding,
The wind and the leaves providing
The sole musical accompaniment.
Kịch Cọt
Tí ánh sáng mặt trời lặnBèn bám vào cái ly hồng đào
Khi bạn ngồi ở bậu thềm trước nhà
Sau khi người khách cuối cùng ra về
Ngắm bóng tối tới
Con đom đóm đầu tiên loạng choạng xuất hiện
Như 1 tên say rượu
Ở nơi lối đi lủng lẳng ngọn đèn lồng
Giống như 1 kịch sĩ
Trong vở kịch
Diễn một xen khùng điên hay chán chường
Những diễn viên khác thì vưỡn còn ẩn trốn
Gió và những chiếc lá
Cung cấp âm nhạc, thì chỉ có nó, làm nền cho vở kịch.
|
||||||||||||
|
Wait for an Autumn day (Đợi một ngày thu)
WAIT FOR AN AUTUMN
DAY
(FROM EKELOF)
Wait for an autumn day, for a slightly
weary sun, for dusty air,
a pale day's weather.
Wait for the maple's rough, brown leaves,
etched like an old man's hands,
for chestnuts and acorns,
for an evening when you sit in the garden
with a notebook and the bonfire's smoke contains
the heady taste of ungettable wisdom.
Wait for afternoons shorter than an athlete's breath,
for a truce among the clouds,
for the silence of trees,
for the moment when you reach absolute peace
and accept the thought that what you've lost
is gone for good.
Wait for the moment when you might not
even miss those you loved
who are no more.
Wait for a bright, high day,
for an hour without doubt or pain.
Wait for an autumn day.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
Wait for an autumn day, for a slightly
weary sun, for dusty air,
a pale day's weather.
Wait for the maple's rough, brown leaves,
etched like an old man's hands,
for chestnuts and acorns,
for an evening when you sit in the garden
with a notebook and the bonfire's smoke contains
the heady taste of ungettable wisdom.
Wait for afternoons shorter than an athlete's breath,
for a truce among the clouds,
for the silence of trees,
for the moment when you reach absolute peace
and accept the thought that what you've lost
is gone for good.
Wait for the moment when you might not
even miss those you loved
who are no more.
Wait for a bright, high day,
for an hour without doubt or pain.
Wait for an autumn day.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
ĐỢI MỘT NGÀY
THU
(TỪ EKELOF)
Đợi một ngày thu, trời mền mệt, oai oải,
không gian có tí bụi và tiết trời thì nhợt nhạt
Đợi những chiếc lá phong mầu nâu, cộc cằn, khắc khổ,
giống như những bàn tay của một người già,
đợi hạt rẻ, hạt sồi, quả đấu
ngóng một buổi chiều, bạn ngồi ngoài vuờn
với một cuốn sổ tay và khói từ đống lửa bay lên
chứa trong nó những lời thánh hiền bạn không thể nào với lại kịp.
Đợi những buổi chiều cụt thun lủn,
cụt hơn cả hơi thở của một gã điền kinh,
đợi tí hưu chiến giữa những đám mây,
sự im lặng của cây cối,
đợi khoảnh khắc khi bạn đạt tới sự bình an tuyệt tối,
và khi đó, bạn đành chấp nhận,
điều bạn mất đi thì đã mất, một cách tốt đẹp.
Đợi giây phút một khi mà bạn chẳng thèm nhớ nhung
ngay cả những người thân yêu ,
đã chẳng còn nữa.
Đợi một ngày sáng, cao
đợi một giờ đồng hồ chẳng hồ nghi, chẳng đau đớn.
Đợi một ngày thu
Đợi một ngày thu, trời mền mệt, oai oải,
không gian có tí bụi và tiết trời thì nhợt nhạt
Đợi những chiếc lá phong mầu nâu, cộc cằn, khắc khổ,
giống như những bàn tay của một người già,
đợi hạt rẻ, hạt sồi, quả đấu
ngóng một buổi chiều, bạn ngồi ngoài vuờn
với một cuốn sổ tay và khói từ đống lửa bay lên
chứa trong nó những lời thánh hiền bạn không thể nào với lại kịp.
Đợi những buổi chiều cụt thun lủn,
cụt hơn cả hơi thở của một gã điền kinh,
đợi tí hưu chiến giữa những đám mây,
sự im lặng của cây cối,
đợi khoảnh khắc khi bạn đạt tới sự bình an tuyệt tối,
và khi đó, bạn đành chấp nhận,
điều bạn mất đi thì đã mất, một cách tốt đẹp.
Đợi giây phút một khi mà bạn chẳng thèm nhớ nhung
ngay cả những người thân yêu ,
đã chẳng còn nữa.
Đợi một ngày sáng, cao
đợi một giờ đồng hồ chẳng hồ nghi, chẳng đau đớn.
Đợi một ngày thu
Nguyễn Quốc Trụ dịch
GATE
TO BARBARA TORUNCZYK
Do you love words as a shy magician loves the moment of quiet
after he's left the stage, alone in a dressing room where
a yellow candle burns with its greasy, pitch-black flame?
What yearning will encourage you to push the heavy gate, to sense
once more the odor of that wood and the rusty taste of water from an
ancient well,
to see again the tall pear tree, the proud matron who presented us
aristocratically with its perfectly formed fruit each fall,
and then fell into mute anticipation of the winter's ills?
Next door a factory's stolid chimney smoked and the ugly town kept still,
but the indefatigable earth worked on beneath the bricks in gardens,
our black memory and the vast pantry of the dead, the good earth.
What courage does it take to budge the heavy gate,
what courage to catch sight of us again,
gathered in the little room beneath a Gothic lamp-
mother skims the paper, moths bump the windowpanes,
nothing happens, nothing, only evening, prayer; we wait.
We lived only once.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
Rade
Drainac: Leaf ( Lá )
Drainac was a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the city, often playing the violin. He served in the Serbian army in the First World War. His first book, Purple Laughter, was published in 1920. He wrote three more collections of poetry, plus a novel and a war diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He died of consumption.
LEAF
I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good Sign.
The first autumn leaf falls on my hat.
Charles Simic: The Horse has six legs
Serbian Poetry ed by Simic
LÁ
Tôi đổi ga, mùa thu ở lại cùng hành lý
Bầu trời hồ nghi như lời dối trá vụng về
Trong quán hầm thứ nhất tôi sẽ cần quên đi
Lá thư buồn đánh thức tôi khỏi giấc ngủ
Lừ đừ xuống phố, qua những văn phòng
Chim sẻ bay đi, cái máy chữ ở lại
Ở nơi chân trời 1 cột khói khổng lồ giống như cái kèn đồng
Một cái máy bay vừa được phát minh, nhỏ như 1 con bướm
Bravo! Một dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên rớt xuống nón tôi.
Quả có cái air Apollinaire, sư phụ của nhà thơ bô hê miêng, nổi tiếng, trải đời mình trong những quán hầm với cây vĩ cầm.
Đã từng là sĩ quan Ngụy trong Đệ Nhị Chiến!
RADE DRAINAC
[1899-1943]
Drainac was a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the city, often playing the violin. He served in the Serbian army in the First World War. His first book, Purple Laughter, was published in 1920. He wrote three more collections of poetry, plus a novel and a war diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He died of consumption.
LEAF
I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good Sign.
The first autumn leaf falls on my hat.
Charles Simic: The Horse has six legs
Serbian Poetry ed by Simic
LÁ
Tôi đổi ga, mùa thu ở lại cùng hành lý
Bầu trời hồ nghi như lời dối trá vụng về
Trong quán hầm thứ nhất tôi sẽ cần quên đi
Lá thư buồn đánh thức tôi khỏi giấc ngủ
Lừ đừ xuống phố, qua những văn phòng
Chim sẻ bay đi, cái máy chữ ở lại
Ở nơi chân trời 1 cột khói khổng lồ giống như cái kèn đồng
Một cái máy bay vừa được phát minh, nhỏ như 1 con bướm
Bravo! Một dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên rớt xuống nón tôi.
Poems
June 22, 2015 Issue
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Quả có cái air Apollinaire, sư phụ của nhà thơ bô hê miêng, nổi tiếng, trải đời mình trong những quán hầm với cây vĩ cầm.
Đã từng là sĩ quan Ngụy trong Đệ Nhị Chiến!
IN THE GREEK CHURCH
The holy icon of the Mother of God
With moonlight at its feet
Like a saucer of milk
Set out for a cat to find
As it sneaks in at dawn.
The flames on her candles
Growing unsteady
As its steps draw close,
The saints over the altar
With their eyes open wide
Like children seeing a ghost.
THE MASQUE
A bit of light from the setting sun,
Lingered on in your wineglass,
As you sat on your front steps
After the last guest had departed,
Watching the darkness come,
The first firefly set out tipsily
Over the lawn carrying a lantern
Like a player in a masque miming
Some scene of madness or despair,
The other players still in hiding,
The wind and the leaves providing
The sole musical accompaniment. Simic: Scribbled in the Dark
HAUNTED HOUSE
When the evening silence that lingered
Under a tree listening to a bird,
Strolls over to the village church
And then waits on its stone steps
For the minister to come and let it in-
Under a tree listening to a bird,
Strolls over to the village church
And then waits on its stone steps
For the minister to come and let it in-
But no one's about, either in the church
Or in the row of stately homes,
Each one of them long unoccupied
And kept in good order by their ghosts,
Like the one that struck a match,
Or in the row of stately homes,
Each one of them long unoccupied
And kept in good order by their ghosts,
Like the one that struck a match,
When the power went out last night
And a woman as nature made her
Could be seen descending the stairs
Carrying one lit candle and climbing
Afterwards with a slice of watermelon.
And a woman as nature made her
Could be seen descending the stairs
Carrying one lit candle and climbing
Afterwards with a slice of watermelon.
Nhà ma
Khi cái im lặng của buổi chiều
Nấn ná dưới một thân cây
Lắng nghe một con chim,
Đi một đường tản bộ tới nhà thờ làng
Rồi ngồi đợi ở bực đá
Vị mục sư tới, và cho phép vô –
Nấn ná dưới một thân cây
Lắng nghe một con chim,
Đi một đường tản bộ tới nhà thờ làng
Rồi ngồi đợi ở bực đá
Vị mục sư tới, và cho phép vô –
Nhưng mà nào có ai ở
đó,
Nhà thờ, không
Và dẫy nhà nghiêm trang, cũng không
Từng căn đã lâu không có ai ở
Và chúng giữ được sự ngăn nắp, trật tự
Là nhờ những hồn ma
Như cái căn bật cây quẹt đánh xoẹt 1 phát
Nhà thờ, không
Và dẫy nhà nghiêm trang, cũng không
Từng căn đã lâu không có ai ở
Và chúng giữ được sự ngăn nắp, trật tự
Là nhờ những hồn ma
Như cái căn bật cây quẹt đánh xoẹt 1 phát
Khi mất điện, đêm rồi
Và một người đàn bà, như bản tính của họ là như thế
Có thể được nhìn thấy,
Khi xuống cầu thang
Cầm cây đèn cầy thắp sáng
Và sau đó leo lên, với một miếng dưa hấu.
Và một người đàn bà, như bản tính của họ là như thế
Có thể được nhìn thấy,
Khi xuống cầu thang
Cầm cây đèn cầy thắp sáng
Và sau đó leo lên, với một miếng dưa hấu.
THE BLIZZARD
O to be inside a mailbox
On a snow-piled street corner
Snuggled against a letter
Sending love and hot kisses
To some lucky fellow out there.
On a snow-piled street corner
Snuggled against a letter
Sending love and hot kisses
To some lucky fellow out there.
Bão tuyết
Ôi giá như mà được ở trong
cái hộp thư
Ở góc một con phố chật cứng tuyết
Ôm ấp một tờ thư
Gửi tình yêu và những nụ hôn nóng bỏng
Tới một tên may mắn nào ở ngoài đó
Ở góc một con phố chật cứng tuyết
Ôm ấp một tờ thư
Gửi tình yêu và những nụ hôn nóng bỏng
Tới một tên may mắn nào ở ngoài đó
LOOKING FOR A PLACE TO HIDE
I went down the street of false gods
The street of men dressed to kill
The street of a rat breaking cover
The street of moths courting and mating at night
The street of runaway brides
The street of men dressed to kill
The street of a rat breaking cover
The street of moths courting and mating at night
The street of runaway brides
The street of the grand hotel on the skids
The street of painted smiles
The street of the sorcerer's apprentice
The street of smoke and mirrors
The street of shadow puppets
The street of painted smiles
The street of the sorcerer's apprentice
The street of smoke and mirrors
The street of shadow puppets
The street of bloody wars and revolutions
The street of the pacing tiger
The street of a policeman on his horse
The street of a sleepwalking child
The street of the illegible address
The street of the pacing tiger
The street of a policeman on his horse
The street of a sleepwalking child
The street of the illegible address
Kiếm chỗ để trốn
Gấu xuống phố, con phố của những vị thần dởm
Con phố của những tên “lên bộ đồ lớn” để giết người
Con phố của chuột bỏ chạy nơi trú ẩn
Con phố của những con thiêu thân tán tỉnh nhau và làm tình vào ban đêm
Con phố của những nàng dâu bỏ chạy
Con phố của khách sạn lớn xuống chó
Con phố của những nụ cười sơn phết
Con phố của tên học làm phù thủy
Con phố của khói và gương
Con phố của những múa rối bóng
Con phố của những nụ cười sơn phết
Con phố của tên học làm phù thủy
Con phố của khói và gương
Con phố của những múa rối bóng
Con phố của những cuộc chiến và cách
mạng đẫm máu
Con phố của hổ gậm 1 chút căm hờn trong cũi sắt
Con phố của tên cảnh sát và con ngựa của anh ta
Con phố của đứa bé mộng du
Con phố với cái địa chỉ không làm sao đọc được.
Con phố của hổ gậm 1 chút căm hờn trong cũi sắt
Con phố của tên cảnh sát và con ngựa của anh ta
Con phố của đứa bé mộng du
Con phố với cái địa chỉ không làm sao đọc được.
AT TENDER MERCY
O lone streetlight,
Trying to shed
What light you can
On a spider repairing his web
This autumn night,
Stay with me,
As I push further and further
Into the dark.
Trying to shed
What light you can
On a spider repairing his web
This autumn night,
Stay with me,
As I push further and further
Into the dark.
Khoan dung dịu dàng
Ôi ngọn đèn đường cô đơn cuối [cúi] đầu
Với thứ ánh sáng nào
Mi tỏa lên hồn Gấu
Đang tìm cách vá víu cuộc đời của nó
Đêm thu này
Hãy ở đây với nó
Khi nó cố tìm cách tiến sâu
Sâu thêm nữa
Vào bóng tối
THE LIFEBOAT
That cow left alone tonight
Out in the fields
Does it look up at the stars?
How about the cricket
That has just gone silent?
Was it in awe of what it saw?
Out in the fields
Does it look up at the stars?
How about the cricket
That has just gone silent?
Was it in awe of what it saw?
The night sky loves
Men and women who climb mountains
To confide in its ear.
o the things I'd say to it
If I were to find myself
Alone in a lifeboat at sea.
Men and women who climb mountains
To confide in its ear.
o the things I'd say to it
If I were to find myself
Alone in a lifeboat at sea.
Phao cứu hộ
Con bò bỏ lại một mình trong
đêm
Ở giữa cánh đồng
Liệu nó có bắt chước Mai Thảo ngắm sao đầy trời
Đọc ra số phận của ổng?
Thế còn con dế của bạn Du Tử Cà
Thay vì khóc, buồn, tự tử đêm nào
Bèn đếch thèm gáy nữa?
Liệu nó quá sợ, khi đọc thơ tán gái của Cà?
Hà, hà!
Ở giữa cánh đồng
Liệu nó có bắt chước Mai Thảo ngắm sao đầy trời
Đọc ra số phận của ổng?
Thế còn con dế của bạn Du Tử Cà
Thay vì khóc, buồn, tự tử đêm nào
Bèn đếch thèm gáy nữa?
Liệu nó quá sợ, khi đọc thơ tán gái của Cà?
Hà, hà!
Bầu trời đêm thì mê
Đờn ông và đờn bà trèo núi
Để thì thầm vô tai nó
Nào tâm sự, nào phó thác
Ôi những điều mà Gấu cũng sẽ thì thầm với nó
Nếu Gấu tự mình tìm ra cho mình,
Một mình, trên cái phao cứu hộ, giữa biển cả.
Đờn ông và đờn bà trèo núi
Để thì thầm vô tai nó
Nào tâm sự, nào phó thác
Ôi những điều mà Gấu cũng sẽ thì thầm với nó
Nếu Gấu tự mình tìm ra cho mình,
Một mình, trên cái phao cứu hộ, giữa biển cả.
Hầu như “tất cả” những bài
thơ trong “The Lunatic” đã được Tin Văn dịch, lai rai trước
đó, chôm từ những tạp chí, và, khi cuốn
thơ được xb, làm trọn cả ổ.
Bài nào cũng thần sầu.
Bài nào cũng thần sầu.
Thảm nhất, là bài
trên, với riêng GCC.
Ôi chao, lại nhớ đến vị bằng hữu K.
Bà phán, mi chết vì sự liên tưởng quái đản của mi.
Tất nhiên bà nói lịch sự hơn, nhưng sự thực tàn nhẫn, thì đúng là như thế.
Bà phán, mi chết vì sự liên tưởng quái đản của mi.
Tất nhiên bà nói lịch sự hơn, nhưng sự thực tàn nhẫn, thì đúng là như thế.
Bạn sẽ thấy bò gặm cỏ
trên đồng
Và có lẽ, một chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ, nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của mình xuống đó
Cô gái, tất nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!
Và rất nhiều cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên đó
Còn những cành cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả như bạn đang thèm
Một buổi xế trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.
Khi một điều gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa sổ bể, gãy, tan hoang.
Và có lẽ, một chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ, nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của mình xuống đó
Cô gái, tất nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!
Và rất nhiều cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên đó
Còn những cành cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả như bạn đang thèm
Một buổi xế trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.
Khi một điều gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa sổ bể, gãy, tan hoang.
Bài thơ có bề ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa”, ở đây, là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ cả…
Nói theo Kim Dung, thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau cùng, đòn chí tử, là khổ thơ chót.
Đọc, sao mà thê lương chi đâu:
When something tells the birds to hush,
And the one streetlight in the village
To keep a few moths company
And the large old house put up for sale
With some of its windows broken.
Quái làm sao,
câu thơ đầu, “khi một điều gì đó nói lũ chim câm
đi”, làm Gấu nhớ đến cái mail chót, của 1 nữ thi sĩ,
“mi làm phiền ta quá”… “kiếp trưóc mi đúng là
con đỉa”….
Hà hà!
Nhưng cái mail kế chót thì thật là tuyệt vời.
Em quả có tí thương [hại] Gấu!
Nhớ, 1 lần, Gấu nằm mơ, sống lại những ngày Mậu Thân, cực kỳ thê thảm, và hình như khóc khủng khiếp lắm.
Bất chợt thức giấc, thấy 1 em ngồi bên giường, dáng ảo não.
Em nói, con ta khóc, ta dậy lấy sữa cho nó, mà không làm sao bỏ mặc mi. Thôi, tỉnh rồi, hãy lo thân mi, đừng làm phiền ta quá như thế.
Giấc mơ thì có thật, mơ đúng cái cảnh trên đây.
Hà hà!
Nhưng cái mail kế chót thì thật là tuyệt vời.
Em quả có tí thương [hại] Gấu!
Nhớ, 1 lần, Gấu nằm mơ, sống lại những ngày Mậu Thân, cực kỳ thê thảm, và hình như khóc khủng khiếp lắm.
Bất chợt thức giấc, thấy 1 em ngồi bên giường, dáng ảo não.
Em nói, con ta khóc, ta dậy lấy sữa cho nó, mà không làm sao bỏ mặc mi. Thôi, tỉnh rồi, hãy lo thân mi, đừng làm phiền ta quá như thế.
Giấc mơ thì có thật, mơ đúng cái cảnh trên đây.
Phải mãi sau này,
khi nghĩ lại cái lần Gấu xin gặp mặt, nhân cả hai cùng
ghé Tiểu Sài Gòn, và nghe trả lời, mi muốn
gặp ta ư, thì đến dự bữa tiệc ra mắt sách của nhà
văn gì gì đó, nhà xb Cờ Lăng, ta làm
MC, ở…. Gấu mới té ngửa, tại làm sao mà lại có
sự lầm lẫn lớn lao như thế này.
Hoá ra cuộc tình
"giả" như thế - thì có gì thực đâu – mà
cực kỳ thê lương, đó là vì nó được
cuộc chiến, trong có hai tên sĩ quan Ngụy, một, là
thằng em trai, một, là người chồng, làm nền cho nó.
Giấc mơ quả có thực, vì cuộc chiến quả có thực, những người đã chết đều có thực, như ông anh có lần viết, và “được” tên thi sĩ Trùm băng đảng Cờ Lăng chôm.
Giấc mơ quả có thực, vì cuộc chiến quả có thực, những người đã chết đều có thực, như ông anh có lần viết, và “được” tên thi sĩ Trùm băng đảng Cờ Lăng chôm.
https://www.theguardian.com/books/2016/jun/06/frederick-seidel-interview-widening-income-inequality
GCC mới bê về nhà 1 cuốn thơ mới ra lò của Frederick Seidel, nhưng không làm sao khoe cái bìa. Tính copy & paste từ Facebook nhưng fb cứ phập phà phập phù.
GCC đọc thơ của tay này, loáng thoáng trên 1 số báo văn học. Có vẻ như rất mê Apollinaire. Trong cuốn thơ mới ra lò này, có mấy bài ông dịch thơ Apollinaire.
Post sau đây. Ông trả lời tờ Guardian, khi cuốn thơ mà Gấu mới tậu ra lò:
Another person who turns up in this book – quite a bit – is Apollinaire. There are translations and also a poem of your own that borrows his title “La Jolie Rousse”. Why has he been so much on your mind lately?
Apollinaire has always been with me, in his rhetoric, in his music, the vivacity and melancholy at the same time. “La Jolie Rousse” I think is just one of the great poems. Such a lovely, terrible thing.
Bài "Tù và săn", do ông dịch:
CORS DE CHASSE
(Apollinaire)
(Apollinaire)
Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas de Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Anne and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze
http://tanvien.net/Dayly_Poems/Pont_Mirabeau.html
Notre histoire est noble et tragique
Comme le masque d'un tyran
Nul drame hasardeux ou magique
Aucun detail indifferent
Ne rend notre amour pathétique
Et Thomas de Quincey buvant
L'opium poison doux et chaste
A sa pauvre Anne allait revant
Passons passons puisque tout passe
Je me retournerai souvent
Les souvenirs sont cors de chasse
Dont meurt le bruit parmi le vent
Apollinaire: Alcools
Comme le masque d'un tyran
Nul drame hasardeux ou magique
Aucun detail indifferent
Ne rend notre amour pathétique
Et Thomas de Quincey buvant
L'opium poison doux et chaste
A sa pauvre Anne allait revant
Passons passons puisque tout passe
Je me retournerai souvent
Les souvenirs sont cors de chasse
Dont meurt le bruit parmi le vent
Apollinaire: Alcools
CORS
DE CHASSE
Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas De Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Ann and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas De Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Ann and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze
Ban biên tập The Paris Review
dịch, số Mùa Thu 2012.
HUNTING
HORNS
Cors
de chasse
Our history is exalted tragic
Like the masque of some despot
No drama of high exploit or magic
No detail that matters or does not
Can make this love of ours pathetic
Thomas De Quincey drinking down
His opium sweet poison demure
Went in a dream to his poor Anne
Pass by pass by since nothing's sure
Often I'll come back again
Memory is a hunting horn
Its tone dies out along the wind
Like the masque of some despot
No drama of high exploit or magic
No detail that matters or does not
Can make this love of ours pathetic
Thomas De Quincey drinking down
His opium sweet poison demure
Went in a dream to his poor Anne
Pass by pass by since nothing's sure
Often I'll come back again
Memory is a hunting horn
Its tone dies out along the wind
DUDLEY FITTS
[trong French Poetry,
edited by Angel Flores, Anchor
Books]
Tù và
săn
Chuyện chúng mình thì
phong nhã và bi thương
Như cái mặt nạ của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch, phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết, dửng dưng
Có thể làm cho cuộc tình của chúng ta thống thiết
Gấu chơi xì ke,
Dịu dàng và trong trắng
Mơ màng nhớ BHD
Như cái mặt nạ của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch, phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết, dửng dưng
Có thể làm cho cuộc tình của chúng ta thống thiết
Gấu chơi xì ke,
Dịu dàng và trong trắng
Mơ màng nhớ BHD
Thôi bỏ đi, bỏ đi Tám
Mọi chuyện đều qua đi
Gấu sẽ thường quay trở lại
Mọi chuyện đều qua đi
Gấu sẽ thường quay trở lại
Kỷ niệm
thì giống như tiếng tù và săn
Lặng dần trong gió
Bản tiếng Mít của GCC quá bảnh, hà, hà:thì giống như tiếng tù và săn
Lặng dần trong gió
Gấu chơi xì ke,
Mơ màng nhớ BHD
Frederick Seidel còn dịch mấy bài thơ khác nữa, của Apollinaire. Từ từ Tin Văn đi tiếp.
LE PONT MIRABEAU
(Apollinaire)
(Apollinaire)
Under Eads Bridge over the Mississippi at St. Louis
Flows the Seine
And our past loves.
Do I really have to remember all that again
And remember
Joy came only after so much pain?
Hand in hand, face to face,
Let the belfry softly bong the late hour.
Nights go by. Days go by.
I'm alive. I'm here. I'm in flower.
The days go by. But I'm still here. In full flower.
Let night come. Let the hour chime on the mantel.
Love goes away the way this river flows away.
How violently flowers fade. How awfully slow life is.
How violently a flower fades. How violent our hopes are.
The days pass and the weeks pass.
The past does not return, nor do past loves.
Under the Pont Mirabeau flows the Seine.
Hand in hand, standing face to face,
Under the arch of the bridge our outstretched arms make
Flows our appetite for life away from us downstream,
And our dream
Of getting back our love of life again.
Under the Pont Mirabeau flows the Seine.
ROADHOUSE
And the bartender
refills our drinks,
His left hand clasped behind
His arching back, either maimed
By a dog or wielding a blackjack.
His left hand clasped behind
His arching back, either maimed
By a dog or wielding a blackjack.
Our wars, it seems,
are not going well.
A senator got caught soliciting sex
In a public bathroom at an airport,
And rain and snow are on the way.
A senator got caught soliciting sex
In a public bathroom at an airport,
And rain and snow are on the way.
Đường về xứ Mít
Tin nhà,
tức xứ Mít, thì luôn luôn vũ như cẩn
Chẳng hề có gì mới vừa mới xẩy ra
Người dân vô tội thì vưỡn bị tàn sát
Trong khi một gã nào đó trên VTV lắp ba lắp bắp
Tha lỗi cho VC chúng tôi!
Chẳng hề có gì mới vừa mới xẩy ra
Người dân vô tội thì vưỡn bị tàn sát
Trong khi một gã nào đó trên VTV lắp ba lắp bắp
Tha lỗi cho VC chúng tôi!
Và tên
phục vụ ở quầy rượu thì bèn lại châm đầy ly của chúng
tôi
Tay trái anh ta
Quặt về phía lưng cong vòng của mình
Hoặc là bị chó đợp
Hoặc là cầm 1 con bài blackjack
Tay trái anh ta
Quặt về phía lưng cong vòng của mình
Hoặc là bị chó đợp
Hoặc là cầm 1 con bài blackjack
Những cuộc chiến
của chúng ta
Nào chống Tẩy, thực dân cũ
Hay thực dân mới, hay Yankee mũi lõ
Và bè lũ Ngụy bán nước
Là cả 1 Miền Nam
Coi bộ không được khá
Một tên nghị sĩ Vẹm bị tóm
Khi đang làm thịt 1 em nhí
Ngay tại nhà đái ở phi trường Nội Bài!
Và mưa thì vẫn như trút nước xuống thủ đô Hà Lội của Bắc Kít chúng ta!
Nào chống Tẩy, thực dân cũ
Hay thực dân mới, hay Yankee mũi lõ
Và bè lũ Ngụy bán nước
Là cả 1 Miền Nam
Coi bộ không được khá
Một tên nghị sĩ Vẹm bị tóm
Khi đang làm thịt 1 em nhí
Ngay tại nhà đái ở phi trường Nội Bài!
Và mưa thì vẫn như trút nước xuống thủ đô Hà Lội của Bắc Kít chúng ta!
[Hà, hà,
dịch nhảm quá, thằng cha Gấu Cà Chớn!]
BARE TREES
They are fans of horror
film
In the fading light of a November day,
The gray surface of the pond
Is a movie screen they are watching.
In the fading light of a November day,
The gray surface of the pond
Is a movie screen they are watching.
The bare branches
moving in it,
Are like the fingers of the blind
Reaching to touch the face of someone
Who'd been calling out to them
In the voice of geese flying over,
The shots of a hunting rifle,
And a dog barking outside a trailer
For someone to hurry and let him in.
Are like the fingers of the blind
Reaching to touch the face of someone
Who'd been calling out to them
In the voice of geese flying over,
The shots of a hunting rifle,
And a dog barking outside a trailer
For someone to hurry and let him in.
Cây trụi lá
Họ là fans
của phim kinh dị
Trong ánh sáng nhạt dần, của một ngày Tháng Một
Mặt nước xám của cái ao
Là màn hình phim mà họ theo dõi
Trong ánh sáng nhạt dần, của một ngày Tháng Một
Mặt nước xám của cái ao
Là màn hình phim mà họ theo dõi
Những cành
cây trụi lá bèn mò vô phim
Như những ngón tay của 1 tên mù
Mò mò, tính rờ mặt một ai đó
Cái kẻ la ỏm tỏi, nè, nè, dzô đi, dzô đi!
Như những ngón tay của 1 tên mù
Mò mò, tính rờ mặt một ai đó
Cái kẻ la ỏm tỏi, nè, nè, dzô đi, dzô đi!
Có tiếng
đàn vịt trời bay qua
Tiếng súng săn
Và tiếng chó sủa một cái rờ-moọc ở bên ngoài
Nè lẹ lên, cho tớ vô trỏng!
Tiếng súng săn
Và tiếng chó sủa một cái rờ-moọc ở bên ngoài
Nè lẹ lên, cho tớ vô trỏng!
THE NIGHT AND THE COLD
Torturers with happy faces,
You've made a prisoner strip naked
And stand strung with electric wires
Like a Christmas tree
In a department store window
Next to a smiling family gathered
Around a fake brick fireplace.
And as for you, men and women
Sprawled in dark doorways,
Along this street I'm walking,
Stuff your clothes with more newspaper,
The night will be long and cold.
Đêm và Lạnh
Những tên Cớm VC, chuyên tra tấn ngườiVới những bộ mặt hạnh phước, vui vẻ
Tụi mi bắt tù nhân Ngụy cởi trần cởi truồng
Treo tòng teng bằng những sợi dây điện
Nơi kính cửa sổ của một gian hàng
Như cây Giáng Sinh
Kế bên nụ cười tươi cười của một gia đình
Bên cái lò sưởi giả bằng gạch, tất nhiên, cũng giả!
Còn các người, các người, đờn ông và đờn bà
Nằm la liệt ở những hành lang tối thui
Dọc con phố Gấu bèn đang lang thang tản bộ,
Nhồi nhét quần áo, với đủ thứ giấy báo, nhựt trình
Đêm VC thì sẽ dài và sẽ lạnh lắm đấy!
Note: Bài thơ trên phải đi cùng với bài thơ sau đây, cũng có trong tập thơ mới mua, thì mới đã!
Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.
Tháng Giêng
Vân tay con nít
trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi trường nhỏ
Của một ngôi trường nhỏ
Một đế quốc, Gấu Cà Chớn
đọc đâu đó
Tự gìn giữ, chính nó
Bằng sự độc ác của những nhà tù của nó
[Ui chao, đọc bài
thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng,
nhờ cái thứ giáo dục, ngày hôm nay, em bắn rớt
ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên Ngụy,
mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó,
mà còn đánh thắng được cả hai tên thực dân
đầu sỏ, cũ và mới]Tự gìn giữ, chính nó
Bằng sự độc ác của những nhà tù của nó
THE MESSAGE
Take a message, crow, as the day breaks.
And find the one I hold dear,
Tell her the trees are almost bare
And the nights here are dark and cold.
Learn if she lights the stove already,
Goes to bed naked or fully dressed,
Sips hot tea in the morning, watching
Neighbors' children wait for a school bus.
Tell her nothing fills me with more sorrow,
Than the memory of seeing her
Covering her face with her hands
When she thought she was alone.
Help me, bird, flapping from tree to tree
And calling in a voice full of distress,
To some fond companion of yours
You'd like to see flying by your side.
Thông điệp
Này, quạ, mang giùm Gấu bức thông điệp này
Khi ngày ló dạng
Tới người Gấu thươn ơi là thươn.
Nói với nàng, cây gần như trụi sạch lá
Và đêm ở đây, tối, lạnh làm sao
Coi coi nàng đã đốt lò chưa
Nàng lên giường khỏa thân, hay là với áo ngủ
Buổi sáng, nhâm nhi trà,
Ngắm trẻ hàng xóm lên xe buýt tới trường
Nói với nàng, Gấu buồn ơi là buồn
Vì nhớ
Nàng đã từng lấy tay ôm mặt
Khi nghĩ rằng nàng cô đơn
Hãy giúp ta
Bay, từ cây này qua cây khác
Gọi, thật là thê lương
Một bạn đường
Sóng đôi bay cùng.
BIRDS KNOW
There's a pond, a man said, Far back in these woods,
Birds and deer know about
And slake their thirst there
In a water so cold and clear,
It's like a brand-new mirror
No one had a chance to look at,
Save, perhaps, that little boy,
Who went missing years ago,
And may've drowned in it,
Or left some trace of himself
Playing along its rocky edges.
I better go and find out,
This very night, I said to myself,
With my mind running wild,
And the moon out there so bright.
Chim biết
Có cái ao, một người đàn ông nói
Ở mãi tít bìa rừng
Chim và hươu nai biết
Và vẫn thường tới đó thoả cơn khát
Nước mới lạnh mới trong làm sao
Giống như là cái gương mới tinh
Chẳng ai có cơ may soi mình
Ngoại trừ chú bé đó
Chú bé mất tích nhiều năm trước đây
Chắc là chết đuối ở trong ao
Hay, để lại vài dấu vết
Khi chơi đùa với mấy bờ đá.
Tớ có lẽ nên đến đó coi sao
Trong cái đêm thật là đêm như đêm nay
Tớ bảo mình như vậy
Với cái đầu hoang dại
Và trăng đêm nay thì mới sáng làm sao!
STRAY HEN
The hounds of hell are barking again,
Better look for a tree to climb,
Befriend a rat slipping into a sewer,
The kite someone set free in the sky.
The watermelons we saw last summer
Falling out of a truck and breaking
Into bloody chunks on the highway,
May have already foretold our story.
Stray hen, is what they call our neighbor,
The one always looking lost,
Always clucking about something
And crossing herself as if she were in church.
I fear she hears those hounds barking,
And so does that man I see every night
In the picture window of his home
Sitting with a lit candle at a long table.
Gà mái lạc
Chó địa ngục lại sủaTìm cái cây để mà trèo lên thôi
Làm bạn với con chuột lọt vô cống
Cái diều ai đó thả rông lên trời
Những trái dưa hấu chúng ta nhìn thấy mùa hè năm rồi
Rớt ra khỏi cái xe tải
Bể ra làm đôi làm ba
Máu me tung toé trên xa lộ
Chúng, chính chúng
Có thể đã tiên tri câu chuyện xứ Mít của chúng ta
Gà mái lạc
Đó là cái “mĩ từ” mà lũ đàn ông Bắc Kít
Gọi một cái hĩm của xứ của chúng
Cô hàng xóm lúc nào cũng như là thất lạc
Luôn luôn cục ta cục tác một điều gì đó
Làm dấu thánh giá
Như thể đang ở trong nhà thờ
Gấu nghi cô nghe tiếng chó địa ngục sủa
Cũng nghe, là cái gã đờn ông Gấu nhìn thấy hàng đêm
Từ bức hình cửa sổ căn nhà của người đó
Ngồi, với cây đèn cầy thắp sáng
Nơi một cái bàn dài.
Note: Nhân nói chuyện facebook, hĩm Bắc Kít, mời độc giả Tin Văn đọc Blog NL viết về Cung Oán
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/05/tro-ve-co-dien-cung-oan.html?showComment=1497981833317
Bài viết này quá thần
sầu. Lâu lắm mới được đọc 1 bài viết như vầy
NQT
NQT
AnonymousJun
21, 2017, 1:03:00 AM
Đọc lại bài
này sởn cả gai ốc. Rùng mình vì những đoạn trích
thơ, rùng mình cả vì cái kết luận cuối bài.
Với GCC, đoạn viết về
Nguyễn Du quá tới:
Đạm Tiên nàng
ấy xưa là... gà mái lạc!
The Sparrow
Regarding the current wars, I heard them say on TV
That they will last forever
Since our enemies are many.
There'll be plenty of business
For those making bombs,
Uniforms and hospital beds,
And, of course, coffins.
Sparrow, hopping in the yard,
If our president is right,
You and I may be on crutches
Next time you pay us a visit.
Charles Simic: Master of Disguises
Sẻ
Nhìn những cuộc chiến hiện thờiGCC nghe Vẹm phán trên VTV 1, 2, 4 vân vân và vân vân
Chúng sẽ kéo dài tới vô tận
Bởi là vì kẻ thù của nhà nước VC của chúng ta thì cũng vô tận!
Hà, hà!
Sẽ có cơ man nào là việc làm
Cho những kẻ mần ra bom
Quân phục, giường bịnh viện
Và, tất nhiên, hòm, tức quan tài!
Sẻ, nhảy lò lò ngoài sân,
Nếu tông tông Fuck của chúng ta đúng
Mi và ta có thể sẽ chơi cặp nạng
Lần tới chúng ta gặp nhau
OK?
ALL THINGS IN PRECIPITOUS
DECLINE
DECLINE
Like a pickup with its wheels gone,
And some rusty and disassembled
Antique stoves and refrigerators
In a front yard choked with weeds,
Outside a shack with a plastic sheet
Draped over one of its windows,
Where a beer bottle went through
One star-studded night in June-
Or was it a shotgun we heard?
The police inquiry, if there is one,
Is proceeding at a snail's pace,
In the meantime, the old recluse
Got himself a bad-tempered mutt
To keep his junk company and bark
At all comers, including the mailman
Leaving a rare letter in the mailbox.
Cứ thế dốc ngược
mà thoái
Như cái pickup bốn bánh mỗi cái
mỗi nơiMấy cái lò, tủ lạnh từ thời ông bành tổ ở sân trước nhà
Tắc nghẹn cỏ
Bên ngoài cái lán với cái khăn trải giường bằng nilông
Phủ lên một cái cửa sổ của nó
Nơi một cái vỏ chai bia bèn đi hoang
Cho hết một mùa hoang vu trên mặt đất -thuổng PCT -
Simic khiêm tốn hơn,
Đi hết 1 đêm tháng Sáu, trời vãi sao –
Nghe có tiếng shotgun?
Ôi dào rách việc, kệ mẹ mấy tên cớm VC!
Chúng vốn chậm như sên, nếu không được bôi trơn mõm
Cùng lúc này, cái anh già sống ẩn dật
Kiếm một con chó lai giống tính nóng nảy
để làm bạn với đống đồng nát (phế liệu) và để sủa
bất cứ ai đi tới đó, ngay cả với ông bưu tá
họa hoằn lắm mới bỏ một cái thư vào trong thùng thư.
ANCIENT COMBATANT
Veteran of foreign wars,
Stiff in arm and leg,
His baggy pants billowing in the wind
Salutes a crow in a tree,
And resumes his stroll
Past a small graveyard,
Swerving and waving his arms
As if besieged by ghosts
Lurking among headstones,
Waiting to accost him
And make a clean breast
,Before he slips out of sight.
The tiger lilies bemused.
The curving dirt road in his wake
Deep in silence
And prey to lengthening shadows.
Cựu chiến hữu
Cựu chiến hữu của những cuộc chiến ngoại bang giật dây
Chân tay cứng đơ
Ống quần rộng thùng thình như hai cánh buồm lộng gió
"Chàng" cúi chào một con quạ ở trên cây
Và bèn tiếp tục cuộc dạo
Qua một nghĩa địa nhỏ
Chàng loạng quạng, ve vảy tay
Như bị bủa vây bởi những hồn ma
Lấp ló, rình mò giữa đám bia mộ
Đợi bắt chuyện
Và làm 1 cú thú tội, sám hối, tự vấn... hay cái con mẹ gì đó
Một điều mà tên già NN và đồng bọn,
Không thể làm được,
Trước khi biến khỏi tầm nhìn.
Những bông hoa kèn bèn sững người.
Con đường đất bụi cong queo bèn tỉnh giấc
Chúi sâu mãi vào im lặng
Và bèn sửa soạn săn mồi
Là những cái bóng dài loằng ngoằng.
Note:
Ôi chao, lâu lắm mới có được 1 "bi khúc" - thuổng NL - dành cho lũ Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước!
NQT
In Wonder
By Charles Simic
I cursed someone or something
Tossing and turning all night—
Or so I was told, though I had no memory
Who it could be, so I stared
At the world out there in wonder.
The frost on the bushes lay pretty
Like tinsel over a Christmas tree
When a limo as black as a hearse
Crept into view, stopping at each
Mailbox as if in search of a name,
And not finding it sped away,
Its tires squealing like a piglet
Lifted into the air by a butcher.
Ngạc nhiên
Tớ trù ẻo, một tên nào đó, hay một điều gì đó
Trằn trọc suốt đêm –
Tớ nghe kể lại.
Tuy nhiên tớ không nhớ
Tên đó là tên nào
Thế là tớ bèn nhìn ra bên ngoài
Ngạc nhiên
Băng giá phủ lên bụi cây mới đẹp làm sao
Như kim tuyến trên cây Giáng Sinh
Một chiếc xế hộp, đen như cái xe tang
Bò vô tầm nhìn
Chiếc xế ngưng
Ở từng hộp thư
Như kiếm 1 cái tên
Chẳng thấy
Bèn tếch
Bánh xe ré
Như con heo con
Bị tên đồ tể nhấc bổng lên trời
Một góc của Nina …
https://ninablog2008.wordpress.com/category/van-hoa/thi-ca-nga/akhmatova-anna/
Anna Akhmatova
Giờ em đã không còn cười nữa
Gió lạnh làm buốt giá đôi môi,
Một hy vọng giờ không còn nữa,
Một bài ca thêm với cuộc đời.
Giờ em đã không còn cười nữa
Gió lạnh làm buốt giá đôi môi,
Một hy vọng giờ không còn nữa,
Một bài ca thêm với cuộc đời.
Em vô tình đem bài hát
ấy
Cho cuộc đời chửi rủa, nhạo cười,
Bởi tâm hồn đau không chịu nổi
Khi tình yêu chỉ im lặng mà thôi.
Cho cuộc đời chửi rủa, nhạo cười,
Bởi tâm hồn đau không chịu nổi
Khi tình yêu chỉ im lặng mà thôi.
Poèmes inédits
'J' AI RÊVÉ QUE J'ALLAIS.... '
J'ai rêvé que j'allais à mon enterrement
Tu n'étais pas venue et j'entendais ton rire
Mais ta bouche était là ses sucons de vampire
Cerceaux rouges roulaient sous mon regard dément
Et je mourais encore en entendant ton rire
Unpublished Poems
'I DREAMT I WAS GOING ... '
I dreamt I was going to my funeral
You hadn't come I heard you laugh
But your mouth was there its vampire suck
Rolled red hoops beneath my wild gaze
And when you laughed I died again
Apollinaire
Gấu mơ thấy mình đi đám tang của mình
Em chưa tới nhưng Gấu đã nghe tiếng cười của em
Cái miệng của em thì đã có ở đó rồi
Những cú hôn của em thì chẳng khác gì của ma cà rồng
Dưới cái nhìn hoang dại của GCC
Và thế là GCC chết thêm một lần nữa!
'J' AI RÊVÉ QUE J'ALLAIS.... '
J'ai rêvé que j'allais à mon enterrement
Tu n'étais pas venue et j'entendais ton rire
Mais ta bouche était là ses sucons de vampire
Cerceaux rouges roulaient sous mon regard dément
Et je mourais encore en entendant ton rire
Unpublished Poems
'I DREAMT I WAS GOING ... '
I dreamt I was going to my funeral
You hadn't come I heard you laugh
But your mouth was there its vampire suck
Rolled red hoops beneath my wild gaze
And when you laughed I died again
Apollinaire
Gấu mơ thấy mình đi đám tang của mình
Em chưa tới nhưng Gấu đã nghe tiếng cười của em
Cái miệng của em thì đã có ở đó rồi
Những cú hôn của em thì chẳng khác gì của ma cà rồng
Dưới cái nhìn hoang dại của GCC
Và thế là GCC chết thêm một lần nữa!
THE MIRABEAU BRIDGE
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Pont_Mirabeau.html
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Pont_Mirabeau.html
Under the Mirabeau Bridge flows the Seine
And our loves
Must I recall
Joy ever followed pain
Come night strike the hour
Days go I remain
Face to face hands entwined let's stay
While under our arch
Of arms there pass
Tides of slow eternal faces
Come night strike the hour
Days go I remain
Love leaves like those waters moving
Love leaves
How slow life is
How violent Hope
Come night strike the hour
Days go I remain
Days pass and weeks
Time past
Nor love return
Under the Mirabeau Bridge flows the Seine
Come night strike the hour
Days go I remain
Dưới cầu Mirabeau, sông Seine chảy
Và tình đôi ta
Liệu anh phải nhớ
Niềm vui luôn tới, sau nỗi đau
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tay trong tay mặt nhìn mặt
Dưới cầu đôi tay
Sóng uể oải lập đi lập lại
Nhân lên mãi mãi
Ánh mắt thiên thu hoài hoài của đôi ta
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tình đi, như nước chảy
Tình đi
Ôi, đời sao chậm lụt
Hy vọng sao hung bạo đến như vầy
Đêm tới giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Ngày đi, tháng đi
Thời gian đi
Tình không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
GCC dịch
Nothing new ever happens,
The innocent get slaughtered
While some guy on TV makes excuses,