Imre Kertesz

Imre Kertesz par ML 
 
Ông có nhận được cú đọc nào đáng kể, tôi muốn nói, đam mê đọc, từ một sư phụ nào không?
Vous n’avez recu la passion de la lecture de personne?
Đam mê đọc, đọc phát khùng, phát điên lên, là do những tác phẩm của Thomas Mann, và của Camus đem đến cho tôi [gợi lên ở nơi tôi]. Họ là những ông bố văn học của tôi, hay, như người ta nói, hai ngôi sao Berger của tôi.
Kafka nữa chứ, phải không?
[Kafka aussi?]
Tôi khám phá ra Kafka hơi muộn, Phải đến năm 1964, như tôi còn nhớ được, tác phẩm của Kafka lần đầu tiên ra mắt tại Hung, và là Mẽo, America, Vụ Án, Le Procès. Dịch được lắm, mãi sau đó, tôi mới được đọc. Thần sầu, thiên tài, génial. Không chỉ trong tính đề tài, luận đề, mà còn trong cách miêu tả một xen, une scène… Phải can đảm đến khùng điên thì mới dám thuổng Kafka, il faut un grand courage pour oser écrire après Kafka, en tout cas.
Trong 1 cuộc phỏng vấn mới đây, ông [thuổng Sến], phán, tớ rất mừng vì đếch có tí vay muợn nào tiền chiến, đúng không?
[Cái này dịch bậy. Nguyên văn: Ông rất mừng vì đếch thuộc về, hay liên hệ. Thời của những đại ý thức hệ đã qua rồi. Ông có tiếc nuối điều này? Vous avez déclaré dans un récent entretien que vous vous réjouissez d’être sans appartenance. L’époque des grandes idéologies est arrivée à son terme. Le regrettez-vous?]
Phải lại bắt đầu từ khá xa. Trước tiên, phải biết là, sau Auschwitz, thế giới trở nên khác, le monde est devenu autre, những bảng luật bị gẫy vụn, les tables de la loi se sont brisées. Ông biết câu chuyện 1 thuỷ thủ Hy Lạp, trong lúc loay hoay cập 1 hòn đảo thì nghe la: Thượng Đế đã chết [On crie que le grand Pan est mort]. Thế đó: một nền văn hóa đã chết. Sau Lò Thiêu, không 1 ý thức hệ nào còn có giá nữa [valable].
Sau Lò Thiêu, là phải suy nghĩ khác đi.
Một trong những cuốn tiểu thuyết của ông có tên là Những kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces. Liệu bây giờ còn những người tìm dấu vết, so, comparable, với những nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn chứ, chắc chắn [Il y en a, sans doute]
Ông khuyên họ, sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn tiểu thuyết mà nữ tác giả sống ở Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà chính trị được nhiều người biết, connu. Trong bốn chục năm, bà ta không biết gốc mình là Do Thái, tuy ngửi ra có 1 cái gì đó bị giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose clochait]. Thế rồi 1 bữa có người bất thình lình hỏi bà, "Thế nào sống sót có cực không?"
[Et comment vous avez survécu?: Bà sống sót như thế nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ lời trách móc, tại sao giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc đầu, nói, bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì đó, liên quan tới cái vụ Bắc Kít rất thèm được là…  Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người như vậy, và đã từng viết ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại, trình cho bà con cùng đọc.
Hà, hà! 
 "Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.

Buổi sáng cuối cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền... Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng cay, tủi nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong mắt kẻ thắng trận nỗi thèm khát, mong sao được là Nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con ngựa thành Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước về. Nàng Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương Chi suốt đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một người...
Và tôi bỗng thấy bớt nhớ Sài-gòn.
*
V/v Lần Cuối Sài Gòn.
Đây là cái truyện ngắn đầu tay, của đời thứ nhì, viết ở Trại Tị Nạn Thái Lan, cùng với Bụi.
Đời thứ nhì, là từ cái message, trong cuốn video, một cái movie của Nhựt, đúng hơn, khi đi trên xe đò từ thành phố biên giới Thái Lan, sau khi vượt sông Mekong, lên Bangkok, GCC đã từng lèm bèm rồi.
Câu chuyện 1 vệ sĩ, của 1 hoàng hậu hay công chúa, yêu "Người Đẹp", mà đâu dám nói ra. Một lần nàng tắm, đứng hầu từ xa, nàng cởi đôi hài, ném về phía anh vệ sĩ, trước khi bước vô bồn tắm.
Thế là nhớ hoài, nhớ hoài.
Sau vỡ lở, tuy chẳng được sơ múi gì, thế là bị chét bùn đầy người, thành 1 pho tượng, đứng gác nơi vườn vua.
Vưỡn sống nhăn, dưới lớp bùn!
Thế rồi qua kiếp thứ nhì, lớp bùn vỡ ra, thành quái nhân, sống giữa thành phố Tokyo, thời hiện đại, và trong kiếp mới này, gặp lại 1 em, là công chúa ngày nào, đầu thai vào kiếp khác, và cuộc tình chấm dứt đúng lúc cô gái cầm đôi hài, hàng hiệu Vulton, ném về phía quái nhân.
Cũng chẳng sơ múi gì, chẳng biết "hàng có gân" mùi vị ra sao!

Đời Gấu y chang! 
"Tiền kiếp của Gấu" thì cũng thê thảm chẳng khác gì Gấu!
Gấu gặp lại BHD, của đời sau, ở hải ngoại!
Vưỡn cái cảnh ở bên ngoài trường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn, được lập lại!
Khủng nhất là lần xém chết ở bên ngoài khu PLT, Quận Cam, Tiểu Sài Gòn.
Hà, hà!
Đây cũng là ý mẩu thơ ở trên:
All night by the rose, the rose,
All night by the rose I lay.
Though I dare not steal the rose,
I bore the flower away-
Suốt đời bên bông hồng
Đếch dám chôm
Tôi mang nó theo tôi
Đến cõi khác, đời khác.
Cô Sáu cười khẽ nói, "Người khinh bạc như y làm sao gần gũi được?"
 


  


**

Imre Kertesz: U mặc của tôi là của hình giảo đài.
Tôi là “tên hề của Lò Thiêu”.
[Trả lời phỏng vấn, tờ ML, số Tháng Chạp, 2013) (1)

Survivant d'Auschwitz, «point zéro» de notre civilisation occidentale, où il est de porté à l'age de 15 ans, Imre Kertesz a tenté d'en écrire l'experience en refusant à tout prix de s'enfermer dans une industrialisation mémorielle de la Shoah. Dans Être sans destin, l'écrivain hongrois invente une forme de récit autobiographique distancié, empreint d'un troublant mélange d'analyse lucide et d'ironie, qui le rendra célèbre en 1985, dix ans après sa première parution, et lui vaudra le prix Nobel de littérature en 2002. Après la chute du régime communiste hongrois, qui censura son oeuvre, il poursuivra, dans son travail de traducteur de l'allemand comme dans d'autres méditations sur la déshumanisation concen- trationnaire sous la forme d'essais, de témoignages ou de romans (citons le magnifique Kaddish pour l'enjant qui ne naitra pas, 1990, ou le Journal de galère, 1992), une interrogation exigeante sur l'ethique de l'ecriture apres la Shoah, différente mais sans doute complémentaire de celle de Perec ou de Primo Levi, qui voudra en penser la portée culturelle en prenant acte de la survie de la littérature dans un monde où les utopies comme les interlocuteurs manquent. Produisant une catharsis morale à la fois personnelle et collective, l'invention de formes littéraires originales est pour Imre Kertesz une exigence éthique capable de transcender les catégories traditionnelles de roman ou de témoignage, fiction et essai philosophique, histoire et mémoire pour réactualiser sans sombrer dans la naivete ou les poncifs les interrogations fondamentales de l'humanisme européen. C'est cette quête, indissociable de celle d'un style bouleversant dans sa sincèrité souvent faussement désinvolte et humoristique, qui fait la profondeur de celui qui s'est baptisé lui-même “le clown de l'Holocauste”.
Alexandre Gefen
Sống sót Auschwitz, ”điểm không”, “point zéro”, của văn hóa Tây Phương của chúng ta, nơi bị tống tới đó, khi 15 tuổi, Imre Kertész đã toan tính viết lại kinh nghiệm trên, trong khi từ chối, bằng mọi giá, bị nhốt vô nền kỹ nghệ hóa hồi tưởng có tên là Lò Thiêu, Shoah.
Trong “Không Số Kiếp”, ông phát minh ra 1 cách viết “ký, tự thuật từ xa, tạo khoảng cách”, trộn trạo giữa nghiên cứu sáng suốt, với chất hề, diễu, khiến ông trở thành nổi tiếng vào năm 1985, mười năm sau khi xuất hiện, ông được Nobel văn chương năm 2002.
Sau khi chế độ CS Hung, đã từng kiểm duyệt tác phẩm của ông, sụp đổ, ông tiếp tục công việc dịch thuật, như 1dịch giả tiếng Đức, và tiếp tục suy nghĩ về sự huỷ hoại, thoái hóa của con người trong chế độ toàn trị, dưới dạng tiểu luận, chứng thực, hay tiểu thuyết thí dụ, “Kinh Cầu cho đứa trẻ đếch thèm bò ra đời”, 1990, hay “Journal de galère”, 1992, một tra hỏi rất đòi hỏi, exigeante, về “đạo hạnh của cách viết”, l’éthique de l’écriture, sau Lò Thiêu, khác, và tất nhiên, bổ túc cho cái nhìn của Perec, hay của Primo Levi, khi cả hai suy nghĩ về tầm vóc văn hóa, và, liệu có chăng sự sống sót của văn chương, trong 1 thế giới không còn không tưởng, và luôn cả, người đối thoại?
Tạo ra 1 thanh tẩy đạo đức, cùng lúc, vừa có tính cá nhân, vừa có tính tập thể, sự phát minh những thể dạng có tính uyên nguyên, cội nguồn, đối với Imre Kertsz, đây là 1 đòi hỏi đạo hạnh, nhờ đó, có thể vượt được những phạm trù truyền thống của tiểu thuyết và chứng thực, giả tưởng và tiểu luận triết học, sự học và hồi ức, để tái nhập [réactualiser], mà không tiêu trầm, sombrer, vào trong sự ngây ngô, ngu ngốc, giả đò, la naiveté.....
Alexandre Gefen:
Nếu ông cho phép, tôi sẽ bắt đầu bài phỏng vấn bằng 1 giai thoại nhỏ. Cách đây chừng chục năm, tôi ngồi quán cà phê nơi nhà ga, chờ tàu, và đọc 1 cuốn sách tôi bắt đầu từ hôm trước, "Kinh cầu cho một đứa trẻ chẳng bao giờ ra đời, Kaddish pour l’enfant qui ne naitra pas." Cuốn sách khủng đến nỗi tôi quên luôn chuyến tàu!
Tôi không biết có phải đó là ý định của ông, khi viết nó? Và đây là câu hỏi của tôi: Ông tưởng tượng như thế nào, về 1 tên độc giả của ông. Tên đó, hình dung ra sao?
Kertész:
Đây là 1 câu hỏi thường gặp. Sartre cũng đã từng nói tới, trong “Viết cho ai?" Thì lẽ dĩ nhiên, viết cho chính mình. Tôi cũng nói như thế, trong bài diễn văn Nobel. Người ta viết cho chính mình.
Note: Câu trả lời của Nabokov thú vị hơn nhiều. (2)
Nhớ đại khái, buổi sáng, bạn cạo râu, soi gương, nhìn thằng khốn trong gương, đó là độc giả, chính hắn đó, của bạn!
NMG có lần rất bực, khi nghe ai đó phán, viết cho mình chứ viết cho ai. Ông vặc lại, viết cho mình, thì cần gì in ấn, xuất bản cho tốn giấy mực!
Ông chủ chi địa ngày nào của Gấu không hiểu ra vấn đề, là, cái tên độc giả mua sách của ông, chính là… ông!
Kertesz phán, bởi là vì nếu bạn muốn làm hài lòng 1 tên độc giả tưởng tượng, thì phải tạo ra hắn, trong chính bạn, il faudrait l’avoir créé en nous-mêmes.
Một cách nào đó, những độc giả của TV, thì đều là… Gấu Cà Chớn! 
Có cuốn nào cũng tạo 1 ép phê khủng khiếp như thế chăng, theo ông?
Có đấy. Người Xa Lạ, của Camus. Kozony, L’Étranger. Tiếng Hung, nó có nghĩa “dửng dưng” [indifférent]. 
Note: Bởi thế mà Dương Tường mới dịch "L'Étranger" là "Người Dưng". Tuy nhiên, tiếng Việt, người dưng không có nghĩa dửng dưng, mà là người không cùng máu mủ với mình, như trong ca dao vẫn thường dùng. 
Nabokov chẳng đã từng bị hỏi, ông nghĩ sao về độc giả của mình, và đã trả lời, đại khái, ông chỉ có mỗi một độc giả, là cái thằng khốn nạn, buổi sáng sớm nào cũng đụng nó, khi soi gương, cạo râu.
Bởi vì bạn viết, thực sự mà nói, cho chính bạn, đọc. Những độc giả khác, nếu có, cũng chính là bạn!
Bởi thế, Nabokov nói tiếp, độc giả của ông, ngồi đầy phòng, người nào cũng đeo mặt nạ, là ông.
*

Sauvegarde
Alexandre Gefen:

Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu, tôi nghĩ, nguồn của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe au-dessus des nuages”], chẳng hề biết là tôi trích dẫn thơ Celan. (2)
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en exergue]….
Ông cảm thấy ra sao, lần đầu đọc bài thơ?

Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1 dịch giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức qua, trao tay cho tôi bài thơ, tại nhà xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được in, nhưng 1 băng audio cassette.
Ghi âm bài thơ của Celan?

Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật là đẹp…
Về vụ này, xin hỏi ông thêm, về cái tương quan, le rapport, của ông với tiếng Đức?

Một tương quan tốt đẹp, un bon rapport. Đó là ngoại ngữ độc nhất mà tôi biết.
Nhưng có tí chết ở trong đó, đúng không [như tiếng Bắc Kít, hà, hà!]?
[Mais n’est-ce-pas un peu la langue de la mort?]
Note:
Hồi mới lớn, nhớ xứ Bắc Kít, có thể, Gấu mê nghe Thái Thanh ca, nhất là “tôi yêu tiếng nước tôi”, sau sợ quá, không dám nghe Bắc Kít hát nữa.
Nghe the thé! Thái Thanh mà ca “Bà Mẹ Gio Linh”, khủng lắm!
Gấu nghi, cái lần trở về lại Đất Bắc, đi thăm bướm Bắc, bị 1 em chửi, mi là 1 tên Nam Kít, bày đặt học tiếng Bắc Kít, tởm lắm, có liên can tới vụ này, hà hà!
Em đó, chắc cũng quá tởm tiếng Bắc!
Nên nhớ, tiếng Nam, cũng là tiếng Bắc, nhưng được đọc làm sao cho bớt the thé, bớt chát chúa đi.
Đây là do thổ ngơi, ảnh hưởng vô tiếng nói, giọng nói.

Ray rứt trời mưa bỗng nghe mặn môi!
Giăng mắc trời mưa, phố xưa buồn tên
Phải buồn tên mới được!
Mấy em Nam Kỳ, nửa khuya mà rên bài này, là chỉ có từ chết đến bị thương!
Ngọn đèn đêm đứng yên cúi đầu

Nghe, thì nó ra như thế này:
Ngọn đèn đêm đứng yên cuối đầu.
(1)

Trong “Tẩu Khúc”, có hình ảnh "mồ đi trên mây":
Your ashen hair Shulamith we shovel a grave in the air there you won't lie too
cramped...
Mẹ có đau khổ không mẹ ơi
Nhảm quá [C’est une idiotie]. Khi bạn nói chuyện với 1 người Đức có học thức, văn hóa, cultivé, thì đâu có phải là giọng nói của 1 tên SS mà bạn đang nghe. Tôi theo, đây là 1 thứ bịnh hoạn, một trường hợp hận thù nặng nề [Ce serait de ma part quelque chose de l’ordre du machoisme forcé, d’un ressentiment grave]. Khi tôi dịch Nietzsche, tôi nhìn thấy thi sĩ trong ông, và tôi dịch ông, như khi tôi dịch Sự ra đời của bi kịch, La naissance de la tragédie.
Có thể so sánh, như với trường hợp tiếng Hung?
Tiếng Hung thì thân hơn, intime. Thì đương nhiên, nó phải như thế, logique.
Trở lại 1 tí với Kaddish: đâu là mối nối giữa việc từ bỏ quan hệ cha con và số mệnh, hay sự thiếu vắng số mệnh?
[Quel est le lien entre le rejet de la parternité et le destin, ou l’absence de destin?]
Eh bien, trong Không Số Mệnh, Être sans destin, điều tôi cực quan tâm, là chủ nghĩa toàn trị, và đó là vấn đề mà tôi nghiên cứu. Tôi cho chủ nghĩa toàn trị đóng vai ông bố, và đó là lý do tại sao tôi đặt để ở trung tâm câu chuyện 1 đứa con trai – không phải để cho độc giả vãi linh hồn, non pas pour faire pleurer le lecteur – mà là, theo tôi, à mon avis, chủ nghĩa toàn trị đẩy con người tới trạng thái con nít, la dictature totale réduit l’homme au state de l’enfant, hay nói đúng hơn, tới mức suy nghĩ, hành động y chang 1 đứa bé. Chính vì lý do đó, mà nhân vật của tôi là 1 đứa trẻ. Nhìn theo quan điểm này thì Kaddish là 1 kéo dài, nó làm bùng nổ vấn đề theo 1 chiều hướng khác.
Note: Gấu đả sử dụng đúng cái nhìn trên, để đọc Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu của Nguyễn Huy Thiệp.
Hà, hà!
Thằng nhóc của NHT, ghiền, và chỉ hết ghiền, khi nghe tin ông bố ngỏm.
"Tôi đã sững sờ vì một lần lên bờ cắt tóc, soi trong gương tôi nhận ra đầu mình bạc trắng! Tôi không tin được là tôi có thể biến đổi đến như ngần ấy. Trong tiệm cắt tóc có một tập báo cũ, vô tình tôi vớ lên xem. Tôi lặng người đi khi đọc báo thấy tin bố tôi vừa mất! Nước mắt tôi trào ra. Những dòng chữ nhảy nhót, nhòa đi trước mắt tôi. Tôi gục xuống như bị một đòn trời giáng, run rẩy hết cả chân tay. Mọi người chạy lại đỡ tôi nhưng tôi gạt đi rồi chạy ra ngoài, vừa chạy vừa khóc nức nở. Trời đất như sụp đổ trước mặt tôi. Bố!"
[Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu. Chương chót. NHT]
Hoặc nói một cách khác, Tuổi Bụi chính là ouverture, cho một xứ sở không còn tuổi bụi nữa, một khi mà Ông Bố ngỏm củ tỏi.
Nhân đây, Gấu xin tặng "bạn ta, người ở Thọ Xuân" một nhận xét  - của ông vua tiểu thuyết gián điệp, ngưòi Anh, John Le Carré, trong lời tựa cuốn tiểu thuyết của ông - áp dụng cho Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu sao lại quá hợp:
"Nhưng ở đây, qua cuốn tiểu thuyết, giai đoạn Lịch Sử chỉ là cái nền, cho câu chuyện một đấng con trai, bị ám ảnh bởi một ông bố, và khi thấy mình đủ sức dám đối diện với cái bóng của ông ta, bèn khám phá ra rằng, cái con quỉ hành hạ anh ta suốt đời đó, sau cùng hoá ra là một người đàn ông nhỏ thó, buồn bã, và trống rỗng."
Lời Tựa cuốn Single & Single [ở đây, Gấu sử dụng bản dịch tiếng Tây, tủ sách Points, loại bỏ túi]
Gấu bỗng nhớ lần gặp thứ nhì, do một tay xe ôm, đi theo lời chỉ dẫn của Thiệp, vậy mà cũng ba trật bốn vuột mới tới được "ngoại vi". Chỉ cần tới ngoại vi, nghĩa là khu phố, hoặc đầu ngõ, hỏi, là ai cũng gật đầu, biết, làm sao không biết... Anh xe ôm đã đi theo một người lối xóm như vậy, tới tận cổng nhà Thiệp.
Sau khi chào hỏi, mời anh xe ôm vô nhà, uống một ly bia, rồi nói, ông để ông bạn của tôi ở đây, về trước mà đón khách tiếp, lát nữa, có ông xe ôm cây nhà lá vườn, sẽ đưa ông tới tận nhà [ở khu Phố Cổ Hà Nội] đàng hoàng.
Bữa hôm sau, gặp lại anh xe ôm, anh ta vẫn chưa hết nét sửng sốt. Vậy là ông quen cái ông Thiệp đó hả? Ối giời ơi là giời, nhờ ông mà tôi được bắt tay ông ta, được uống với ông ta một ly bia. Đúng là ngàn năm một thuở, mà phải nhờ một ông ở tận nước người, mới có được!
Chính cái chi tiết người nhỏ thó, ở trên, làm tôi nhớ lại lần gặp Thiệp, và cái cảm giác sững sờ của anh chàng xe ôm. Nó còn làm cho tôi nhớ lại, cũng một nhận xét của ông vua tiểu thuyết điệp viên người Anh nói trên, trong cuốn Tay Điệp Viên Tuyệt Hảo, The Perfect Spy, bản tiếng Tây dịch là Tay Điệp Viên Nhà Nòi, hoặc Ròng, Un Pur Espion, ông đưa ra nhận xét sau đây:
Như rất nhiều những tay độc tài, Miss D. thì thật là nhỏ thó!
Một kaddish không Thượng Đế?
Không: Một kaddish không ông bố. Đó là kinh cầu [kaddidh] mà khởi thuỷ, những đứa trẻ đọc, dành cho những ông bố đã chết. Trong cuốn sách của tôi, ngược hẳn lại: không có ông bố. Không có cả cái tay để mà cầu kinh cho xừ luý nữa.
Nhưng mà rồi cũng có ngày ông trở thành 1 ông bố cho những nhà văn trẻ, đúng không?
[Mais entre-temps n’êtes-vous pas devenu une figure paternelle pour de plus jeunes auteurs?]
Ông tin vậy ư? Tôi đếch có tin. Vả như có trường hợp đó, thì tôi cũng đếch thành 1 thứ Thầy như Thầy Kuốc chẳng hạn, hà, hà!
[Je ne suis pas de l’espèce des éducateurs]
Ai là những tác giả mà ông sẽ kể tên trong những người đại diện cho văn học Hung đương đại?
Với thế hệ trẻ, tôi có thể kể ra Szilard Norbély, một nhà thơ bảnh, excellent. Anh vừa cho in một cuốn tiểu thuyết, nhan là Nincstelenek, “Les Indigents”. Nghe nói khủng lắm, tôi rất muốn tin là như thế. Một tài năng lớn, thí dụ, theo tôi. 

Những kẻ rành số phận của tôi thì thường là tự tử!

"U mặc" của tôi, là của hình giảo đài!
*Kertesz:
Những kẻ rành số phận của tôi thì thường là tự tử!
"U mặc" của tôi, là của hình giảo đài!
Trên tờ The Paris Review số 205 có bài phỏng vấn Kertesz, cũng thú lắm. Bài mới này, là nhân Nhật Ký, “Sauvegarde [Cứu Hộ] 2001-2003” mới ra lò [bản tiếng Pháp, nhà xb Actes Sud]. TV sẽ đi liền, như món quà đầu năm, thay cho lời chúc thường lệ.
Hà, hà!

*

*
Đạp thuyền trên hồ Xuân Hương, Đà Lạt, 1955, Gấu thực sự ngạc nhiên, mình đang sống trong một thế giới khủng khiếp.
INTERVIEWER
Trong Hồ Sơ K. ông phán, chỗ của tớ không phải ở trong lịch sử, mà ở bàn viết.
Kertesz: Tớ đếch viết ở bàn viết. Nhưng thôi, bỏ ba chuyện lẻ tẻ đi vô đời tư, nhảm lắm!
[Rarely ever did I write at a desk! But let’s not talk about personal things]
Interviewed by Luisa Zielinski
INTERVIEWER
In your Nobel Lecture you said, “The nausea and depression to which I awoke each morning led me at once into the world I intended to describe.” Did writing subdue this condition?
IMRE KERTÉSZ
I was suspended in a world that was forever foreign to me, one I had to reenter each day with no hope of relief. That was true of Stalinist Hungary, but even more so under National Socialism. The latter inspired that feeling even more intensely. In Stalinism, you simply had to keep going, if you could. The Nazi regime, on the other hand, was a mechanism that worked with such brutal speed that “going on” meant bare survival. The Nazi system swallowed everything. It was a machine working so efficiently that most people did not even have the chance to understand the events they lived through. 
To me, there were three phases, in a literary sense. The first phase is the one just before the Holocaust. Times were tough, but you could get through somehow. The second phase, described by writers like Primo Levi, takes place in medias res, as though voiced from the inside, with all the astonishment and dismay of witnessing such events. These writers described what happened as something that would drive any man to madness—at least any man who continued to cling to old values. And what happened was beyond the witnesses’ capacity for coping. They tried to resist it as much as they could, but it left a mark on the rest of their lives. The third phase concerns literary works that came into existence after National Socialism and which examine the loss of old values. Writers such as Jean Améry or Tadeusz Borowski conceived their works for people who were already familiar with history and were aware that old values had lost their meaning. What was at stake was the creation of new values from such immense suffering, but most of those writers perished in the attempt. However, what they did bequeath to us is a radical tradition in literature.
INTERVIEWER
Do you consider your own works part of this radical tradition?
KERTÉSZ
Yes, I do, except I’m not sure whether it is my work or my illness that’s going to kill me now. Well, at least I tried to go on for as long as I could. So obviously I haven’t yet died in the attempt to come to terms with history, and indeed it looks as though I will be dying of a bourgeois disease instead—I am about to die of a very bourgeois Parkinson’s.
INTERVIEWER
Is writing a means of survival?
KERTÉSZ
I was able use my own life to study how somebody can survive this particularly cruel brand of totalitarianism. I didn’t want to commit suicide, but then I didn’t want to become a writer either—at least not initially. I rejected that idea for a long time, but then I realized that I would have to write, write about the astonishment and the dismay of the witness—Is that what you are going to do to us? How could we survive something like this, and understand it, too?
Look, I don’t want to deny that I was a prisoner at Auschwitz and that I now have a Nobel Prize. What should I make of that? And what should I make of the fact that I survived, and continue to survive? At least I feel that I experienced something extraordinary, because not only did I live through those horrors, but I also managed to describe them, in a way that is bearable, acceptable, and nonetheless part of this radical tradition. Those of us who were brave enough to stare down this abyss—Borowski, Shalamov, Améry—well, there aren’t too many of us. For these writers, writing was always a prelude to suicide. Jean Améry’s gun was always present, in both his articles and his life, always by his side.
I am somebody who survived all of it, somebody who saw the Gorgon’s head and still retained enough strength to finish a work that reaches out to people in a language that is humane. The purpose of literature is for people to become educated, to be entertained, so we can’t ask them to deal with such gruesome visions. I created a work representing the Holocaust as such, but without this being an ugly literature of horrors.
Perhaps I’m being impertinent, but I feel that my work has a rare quality—I tried to depict the human face of this history, I wanted to write a book that people would actually want to read.
To read the rest of this piece, purchase the issue.
Note: Bài phỏng vấn này, đọc thú lắm, và nó liên quan đến "nhà văn sống sót" mà TTT viện ra khi ông trả lời Le Huu Khoa, trong bài viết bằng tiếng Tây, trong Mảng Lưu Vong, La Part d’Exile:
Kinh nghiệm văn chương của ông trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 tới 1975?
Ngoài thơ ra, tôi trải qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót. (1)
INTERVIEWER

Liệu có phẩm chất cứu chuộc trong “viết”, chính nó?
Is there perhaps a redemptive quality to writing itself?
Kertesz: Có đấy, nhưng không phải cho mọi người
Not for everybody.

INTERVIEWER
Nhưng cho ông?
[GCC sẽ chuyển dịch bài viết này hầu độc giả Tin Văn]
Le Magazine Littéraire:
Nếu ông cho phép, tôi sẽ bắt đầu bài phỏng vấn bằng 1 giai thoại nhỏ. Cách đây chừng chục năm, tôi ngồi quán cà phê nơi nhà ga, chờ tàu, và đọc 1 cuốn sách tôi bắt đầu từ hôm trước, "Kinh cầu cho một đứa trẻ chẳng bao giờ ra đời, Kaddish pour l’enfant qui ne naitra pas." Cuốn sách khủng đến nỗi tôi quên luôn chuyến tàu!
Tôi không biết có phải đó là ý định của ông, khi viết nó? Và đây là câu hỏi của tôi: Ông tưởng tượng như thế nào, về 1 tên độc giả của ông. Tên đó, hình dung ra sao?
Đây là 1 câu hỏi thường gặp. Sartre cũng đã từng nói tới, trong “Viết cho ai?" Thì lẽ dĩ nhiên, viết cho chính mình. Tôi cũng nói như thế, trong bài diễn văn Nobel. Người ta viết cho chính mình.
Note: Câu trả lời của Nabokov thú vị hơn nhiều. Nhớ đại khái, buổi sáng, bạn cạo râu, soi gương, nhìn thằng khốn trong gương, đó là độc giả, chính hắn đó, của bạn!
NMG có lần rất bực, khi nghe ai đó phán, viết cho mình chứ viết cho ai. Ông vặc lại, viết cho mình, thì cần gì in ấn, xuất bản cho tốn giấy mực!
Ông chủ chi địa ngày nào của Gấu không hiểu ra vấn đề, là, cái tên độc giả mua sách của ông, chính là… ông!
Kertesz phán, bởi là vì nếu bạn muốn làm hài lòng 1 tên độc giả tưởng tượng, thì phải tạo ra hắn, trong chính bạn, il faudrait l’avoir créé en nous-mêmes.
Một cách nào đó, những độc giả của TV, thì đều là… Gấu Cà Chớn!
Có cuốn nào cũng tạo 1 ép phê khủng khiếp như thế chăng, theo ông?
Có đấy. Người Xa Lạ, của Camus. Kozony, L’Étranger. Tiếng Hung, nó có nghĩa “dửng dưng” [indifférent].
Note: Bởi thế mà Dương Tường mới dịch là "Người Dưng". Tuy nhiên, tiếng Việt, người dưng không có nghĩa dửng dưng, mà là người không cùng máu mủ với mình, như trong ca dao vẫn thường dùng. 

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư