Tưởng Niệm TTT 2006-2019
TTT & Duy Thanh
bố và. tháng ba
năm thứ 13
mùa đông năm nay. khắc nghiệt
những ngày. lạnh. kéo dài
tháng ba về. bằng hơi thở. khói
giấc ngủ. đầy mộng. dữ
những dấu chấm. cứ nhân đôi
rồi đặc. kín
tháng ba về
giỗ bố. lần thứ. mười ba
tết đã. qua
mùa xuân ở đây. vẫn chưa về
người ta. trượt băng. trên dòng sông. đông đặc
quần áo. sặc sỡ
dự đoán. những ngày có. tuyết
trong tháng ba. sẽ không nhiều
nhớ bố. ngồi đọc sách. và
hút píp. bên khung cửa sổ. lớn
tràn nắng
hình như. ổ bánh mì. nóng hơn
trong ngày. cóng lạnh
hôm nay. trời trong và. nhiều nắng
ba độ F. bên ngoài
bố. thường ngồi
đọc sách. như vậy. cả ngày
ấm trà thơm. đầy. vơi
những cuốn sách. lềnh khênh. trên mặt bàn
rồi phải. làm gì?
khi ngồi. chờ đợi. trong xe
người đàn bà. chạy bộ. trên lề đường
tháng ba. người ta nói. gì
về. những người đàn ông. đã không còn
về. một tạp chí. đã không còn
tháng ba về. nhớ bố
quần áo. thật kín
khi. ra đường mùa. lạnh
bạn bè. bố không nhiều
và ở. thật xa
chỉ nói chuyện. với nhau. qua phone
cùng những. tiếng cười trống. vắng
tháng ba. tuyết sẽ. rơi
tháng ba. vẫn lạnh
tháng ba. có nắng. và
tháng ba về. để nhớ. Bố
Đài Sử
năm thứ 13
mùa đông năm nay. khắc nghiệt
những ngày. lạnh. kéo dài
tháng ba về. bằng hơi thở. khói
giấc ngủ. đầy mộng. dữ
những dấu chấm. cứ nhân đôi
rồi đặc. kín
tháng ba về
giỗ bố. lần thứ. mười ba
tết đã. qua
mùa xuân ở đây. vẫn chưa về
người ta. trượt băng. trên dòng sông. đông đặc
quần áo. sặc sỡ
dự đoán. những ngày có. tuyết
trong tháng ba. sẽ không nhiều
nhớ bố. ngồi đọc sách. và
hút píp. bên khung cửa sổ. lớn
tràn nắng
hình như. ổ bánh mì. nóng hơn
trong ngày. cóng lạnh
hôm nay. trời trong và. nhiều nắng
ba độ F. bên ngoài
bố. thường ngồi
đọc sách. như vậy. cả ngày
ấm trà thơm. đầy. vơi
những cuốn sách. lềnh khênh. trên mặt bàn
rồi phải. làm gì?
khi ngồi. chờ đợi. trong xe
người đàn bà. chạy bộ. trên lề đường
tháng ba. người ta nói. gì
về. những người đàn ông. đã không còn
về. một tạp chí. đã không còn
tháng ba về. nhớ bố
quần áo. thật kín
khi. ra đường mùa. lạnh
bạn bè. bố không nhiều
và ở. thật xa
chỉ nói chuyện. với nhau. qua phone
cùng những. tiếng cười trống. vắng
tháng ba. tuyết sẽ. rơi
tháng ba. vẫn lạnh
tháng ba. có nắng. và
tháng ba về. để nhớ. Bố
Đài Sử
Note: Nhân giỗ TTT
At the Grave
of Wallace Stevens
(Section I4,
Cedar Hill Cemetery, Hartford, Connecticut)
1
One thinks
of the gods dissolving in mid-air
And the
towering stillness of a cathedral at dawn.
One thinks
of a solitary reader closing his book
In a ring of
lamplight puddled on the desk
Wind ruffles
the curtains all night long
And the
music of the spheres is silence.
Raindrops
break the watery skin of ponds
And ponds
are shattered mirrors of the absolute.
Stars are
the white tears of nothingness.
Nothingness
grieves over the disintegrating gods.
2
One imagines
him as a prodigious morning walker
And a lonely
metaphysician pausing in the park,
A rose
rabbi, a sturdy man on a wide path
Dreaming of
a sky washed clean by doubt.
One pictures
him strolling under the umbrella
Pines and
buttonwoods on the way to work,
Imagination's
largest thinker conjuring up
Songs of
human radiance twanging in the mist.
One thinks
of him by the lake in a hard rain:
Mirrors on
mirrors mirroring the emptiness.
3
We have
stepped out into a summer storm:
Mute thunder
and luminescent air, a wishbone
Of lightning
turned upside down in the clouds,
A crescent
of light poised on a dark steeple.
We have
scattered sprigs of holly on the grave
And noticed
the rosebushes blooming in shadows.
But we have
not knelt at the heavy slab
Of Rhode
Island granite carved with dates.
The
ambassador of imagination is dead
And the
guitars are silent. So farewell
4
To the maker
of mournful summer melodies,
The
connoisseur of moonlight, improvisation's king.
Farewell to
the laudator of imperfection,
Grandeur in
a business suit, the stylist
Of the void.
Farewell to dried fruit
From
California, tea imported from Ceylon,
And fresh
ideas sailing in from anywhere.
Farewell to
fidelity bonds and surety claims.
All those
worldly realms of reflection
Have been
traded in for a slope of trees.
5
The
graveyard is carved into separate parts:
Streams and
ponds, muddy paths, curving lanes.
You taught
us to imagine the sublime
In a bare
place, filling in the spaces.
Thus the sky
is a lake brimming with tears,
The lake is
a cloudy mirror. All morning
The wind
rises and falls on transparent wings
And the
traffic winding along Asylum Avenue
Is like a
ghostly procession, a cortege!
The domes of
skyscrapers gleam in the distance.
1
Người ta nghĩ về những vị thần tan vào thinh không
Và thánh đường sừng sững lúc rạng đông
Người ta nghĩ về 1 độc giả cô đơn
Đóng cuốn sách của mình lại
Trong vùng ánh sáng đùng đục trên mặt bàn
Gió xôn xao bàng hoàng trên những tấm màn cửa suốt đêm
Và âm nhạc của những trái cầu là im lặng
Mưa gãi sồn sột da mặt những ao hồ:
Chúng là những tấm gương bể nát bởi cái tuyệt đối
Những vì sao là những giọt nước mắt trắng của hư vô
Hư vô trầm tư, âu sầu, trên cái hoang phế của những vị thần
2
Người ta nghĩ về ông, như 1 kẻ tản bộ phi thường vào lúc buổi
sáng
Và một siêu hình gia cô đơn ngừng nghỉ nơi công viên
Một giáo sĩ Do Thái trong tấm áo choàng màu hồng,
Một người đàn ông vạm vỡ trên lối đi rộng
Mơ một bầu trời rửa sạch hồ nghi
Người ta hình dung ra ông, như 1 kẻ nhàn nhã tản bộ dưới chiếc
dù
Thông và buttonwoods trên con đường tới nơi làm việc
Người suy tư rộng lớn nhất, của sự tưởng tượng
Đánh thức, vời tới, tạo ra, gọi dậy… những bài ca sáng ngời của 1 cõi người
Lung linh trong sương mù
Người ta nghĩ về ông, bên hồ, dưới trận mưa tầm tã
Những tấm gương của những tấm gương phản chiếu cõi trống không
3
Chúng ta bước ra ngoài trời, vào cơn bão mùa hè
Sấm câm nín, không khí phát sáng như lân tinh, và sét như 1
vầng tam giác, lảo đảo trong mây
Một vùng ánh sáng như lưỡi liềm lơ lửng trên lối đi u tối
Chúng ta trải những nhánh cây holly lên nấm mồ
Và nhận ra những bụi hồng nở rộ trong những bóng dâm
Nhưng chúng ta không quỳ gối
Trên phiến đá cẩm thạch nặng nề ở Rhode Island
Trên khắc tên người với ngày tháng
Vị đại sứ của những người chết, đã chết
Và những cây đàn ghi ta đã im tiếng. Xin vĩnh biệt
4
Gửi tới người làm ra những bia mộ, ngiai điệu, bi khúc mùa hè
Kẻ sành điệu về ánh trăng, vì vua của những ứng tác, gia giảm,
“khởi từ ca dao qua tự do”.
Vĩnh biệt chủ soái thơ tự do, kẻ hoành dương cái hoàn hảo, cái
bảnh thật bảnh, cái bảnh nhất
Lớn lao, hoành tráng, huy hoàng trong bộ đồ đơn sơ, kẻ tạo
ra văn phong của cái trống không, cõi vắng ngắt
Vĩnh biệt
Trái cây khô từ California
Trà nhập cảng từ Ceylon
Và tư tưởng tươi rói rong buồm tới, từ bất cứ nơi nào
Vĩnh biệt những trái phiếu trung thực và những yêu sách an
toàn, bảo đảm
Tất cả những vuơng quốc thế gian của sự phản chiếu, nhìn lại
Được mua bán trao đổi, với, chỉ một ven đồi cây
5
Nghĩa địa được khảm, khắc, chạm, đục…
Thành những khu vực tách biệt:
Những con suối và hồ
Những con đường bùn lầy lội
Những lối đi cong cong, vòng vòng
Bạn dậy chúng tớ tưởng tượng cái khinh khoái/khoát - từ này
chôm của Khanh Huynh – cái thăng hoa, the sublime
Ở 1 nơi chốn trần trụi, nhập/lấp đầy những không gian
Như thế đó, không gian, bầu trời là 1 con hồ “mù mù sương mù”
– không, không phải sương mù, mà là nước mắt –
Con hồ thì là 1 tấm gương mây mù chín cõi, tới tận cõi trời!
Tất cả những buổi sáng
Gió lên, và xuống, trong những cái cánh trong suốt
Và xe cộ luân lưu, vận hành dọc theo Đại Lộ Tạm Cư,
Giống như 1 đám ma đang diễn tiến, a cortege!
Những vòm cong của những căn nhà chọc trời lấp lánh, từ xa
On the Anniversary of Joseph Brodsky’s Death
(January 2001)
Archangelsk,
the briny cold,
the frigid Baltics,
Children throwing snowballs at Soviet statues.
Children throwing snowballs at Soviet statues.
The
Arctic chill of the moon
at midday,
The trees wrapped, the pedestrians bundled.
The trees wrapped, the pedestrians bundled.
How the
sun shivered behind
the smokestacks
Like a soldier frozen in place.
Like a soldier frozen in place.
At the
dimly lit Museum of
the Far North
The subject was the poet’s internal exile,
The subject was the poet’s internal exile,
Metaphysics
versus History,
and the fateful
Struggle between Poetry and Time,
Struggle between Poetry and Time,
A Cold
War that will never
end.
Also, his love for watery ports
Also, his love for watery ports
And
stubborn cats, especially
the Russian
Blue that hailed from the White Sea.
Blue that hailed from the White Sea.
Afterwards,
a slushy walk,
salty air,
Sleep in an overcoat in a converted barracks.
Sleep in an overcoat in a converted barracks.
All
night I heard the muffled
boots
Of an army marching through the streets
Of an army marching through the streets
Under
the thick cover of
darkness.
But in the morning, anniversary mourning,
But in the morning, anniversary mourning,
I woke
to a magisterial
silence.
Snow occupied the city.
Snow occupied the city.
-Edward
Hirsch.
NYRB, Feb 11, 2010
Tưởng niệm
Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk,
cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc
Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt trời rùng
mình sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng
Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu
với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến
Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con
mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau đó, là một
cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi
nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ
thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc,
bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.
Tuyết chiếm cứ thành phố.
https://www.economist.com/ obituary/2019/03/09/ obituary-andre-previn-died- on-february-28th
Đọc, thì bỗng nhớ tới MCNK và bản hòa tấu Số 5 La Symphonie du Destin của Beethoven, bản nhạc nền của cuốn tiểu thuyết.
Rồi “nhớ gợi nhớ”, những dòng viết cho cô con gái, trong Thơ Ở Đâu Xa, và…
Tất cả chỉ để nhớ bản After the Sunrise, của Yanni, lần đầu được nghe, khi ra được hải ngoại, và, 1 cách nào đó, với riêng Gấu, nó chính là 1 bản nhạc sến nghe trong tù VC, nhung được rũ sạch tất cả những đau khổ, mất mát… Và liệu ông anh, khi nghe nhạc cổ điển như thế, thì cũng giống như thằng em của ông, khi nghe Yanni.
Và đó là ý nghĩa của câu của Weil.
Ðiều mà tôi mong được trình ra trong những truyện kể của tôi, là, nếu bạn ao uớc chi đó thì phải trải qua ác mộng dài. Muốn kiếm ánh sáng, thì phải bị bủa vây bởi bóng tối sâu thẳm. Muốn hòa bình, thì phải qua cuộc bạo tàn bạo ác vuột khỏi chúng ta. Nếu có những người cảm nhận những gì tôi viết, thì có thể họ cảm nhận ra ở tận sâu thẳm trong trái tim của tôi, có niềm tin rằng, người ta luôn thấy ra được một dấu hiệu nhỏ của ánh sáng, ngay cả trong đêm cực kỳ đen tối.
Murakami
Ðiều Murakami phát biểu, trên đây, Gấu, qua kinh nghiệm cá nhân, có 1 cách phát biểu khác, "cứ mỗi nỗi đau của bạn, là được đền bù bằng 1 nốt nhạc".
Nhưng chỉ đến khi đọc câu của Simone Weil, thì mới hoàn toàn vỡ ra:
Cái "Distance is the soul of beauty", “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, chính là cái khoảng cách giữa 1 bản nhạc sến bạn nghe trước 1975, và cũng nó, khi bạn nghe ở trong tù VC!
Trong bài viết “Ðọc cọp Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn”, Gấu có nhắc tới Yanni, và những lời ông phát biểu về ông bố của mình.
Vào năm Yanni được 9 tuổi, mê âm thanh quá, mê nhạc quá, quá thèm cây đàn piano, ông bố hiểu thấu lòng dạ con, đã cầm căn nhà đang ở, lấy tiền mua cây đàn.
Yanni nói, nếu mua chậm, là hỏng, vì những cái mầm âm thanh ở trong tôi sẽ chết đi, và sẽ chẳng có dịp chào đời.
Ðó cũng là kinh nghiệm đọc Bếp Lủa của Gấu: Ðọc chậm là... hỏng!
Nhưng kỷ niệm “Gấu biết tới Yanni”, mới đẹp làm sao, và mới đúng cái ý của Murakami: Bạn phải đi hết cuộc chiến đó, thì bạn mới nhìn ra cái tia sáng nhỏ nhoi của hy vọng trong đêm đen sâu thẳm được.
Note: Gấu quen cô bạn Huế, là qua câu của Weil.
Tếu thế.
Thú thế.
Gấu thú thực, không làm sao thưởng thức được nhạc cổ điển. Và để bù lại, nhân đọc bài ai điếu trên Người Kinh Tế, Gấu kể hầu quí độc giả kỷ niệm lần đầu nghe Yanni, New Age – không phải Cổ Điển - khi gặp lại cô bạn – trong Kiếp Khác, Cõi Khác, Đời Khác, Người Khác – khác Gấu Cái – và mới nhất, kỷ niệm với cô bạn Huế, qua Weil.
Đọc, thì bỗng nhớ tới MCNK và bản hòa tấu Số 5 La Symphonie du Destin của Beethoven, bản nhạc nền của cuốn tiểu thuyết.
Rồi “nhớ gợi nhớ”, những dòng viết cho cô con gái, trong Thơ Ở Đâu Xa, và…
Tất cả chỉ để nhớ bản After the Sunrise, của Yanni, lần đầu được nghe, khi ra được hải ngoại, và, 1 cách nào đó, với riêng Gấu, nó chính là 1 bản nhạc sến nghe trong tù VC, nhung được rũ sạch tất cả những đau khổ, mất mát… Và liệu ông anh, khi nghe nhạc cổ điển như thế, thì cũng giống như thằng em của ông, khi nghe Yanni.
Và đó là ý nghĩa của câu của Weil.
Ðiều mà tôi mong được trình ra trong những truyện kể của tôi, là, nếu bạn ao uớc chi đó thì phải trải qua ác mộng dài. Muốn kiếm ánh sáng, thì phải bị bủa vây bởi bóng tối sâu thẳm. Muốn hòa bình, thì phải qua cuộc bạo tàn bạo ác vuột khỏi chúng ta. Nếu có những người cảm nhận những gì tôi viết, thì có thể họ cảm nhận ra ở tận sâu thẳm trong trái tim của tôi, có niềm tin rằng, người ta luôn thấy ra được một dấu hiệu nhỏ của ánh sáng, ngay cả trong đêm cực kỳ đen tối.
Murakami
Ðiều Murakami phát biểu, trên đây, Gấu, qua kinh nghiệm cá nhân, có 1 cách phát biểu khác, "cứ mỗi nỗi đau của bạn, là được đền bù bằng 1 nốt nhạc".
Nhưng chỉ đến khi đọc câu của Simone Weil, thì mới hoàn toàn vỡ ra:
Cái "Distance is the soul of beauty", “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, chính là cái khoảng cách giữa 1 bản nhạc sến bạn nghe trước 1975, và cũng nó, khi bạn nghe ở trong tù VC!
Trong bài viết “Ðọc cọp Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn”, Gấu có nhắc tới Yanni, và những lời ông phát biểu về ông bố của mình.
Vào năm Yanni được 9 tuổi, mê âm thanh quá, mê nhạc quá, quá thèm cây đàn piano, ông bố hiểu thấu lòng dạ con, đã cầm căn nhà đang ở, lấy tiền mua cây đàn.
Yanni nói, nếu mua chậm, là hỏng, vì những cái mầm âm thanh ở trong tôi sẽ chết đi, và sẽ chẳng có dịp chào đời.
Ðó cũng là kinh nghiệm đọc Bếp Lủa của Gấu: Ðọc chậm là... hỏng!
Nhưng kỷ niệm “Gấu biết tới Yanni”, mới đẹp làm sao, và mới đúng cái ý của Murakami: Bạn phải đi hết cuộc chiến đó, thì bạn mới nhìn ra cái tia sáng nhỏ nhoi của hy vọng trong đêm đen sâu thẳm được.
Note: Gấu quen cô bạn Huế, là qua câu của Weil.
Tếu thế.
Thú thế.
Gấu thú thực, không làm sao thưởng thức được nhạc cổ điển. Và để bù lại, nhân đọc bài ai điếu trên Người Kinh Tế, Gấu kể hầu quí độc giả kỷ niệm lần đầu nghe Yanni, New Age – không phải Cổ Điển - khi gặp lại cô bạn – trong Kiếp Khác, Cõi Khác, Đời Khác, Người Khác – khác Gấu Cái – và mới nhất, kỷ niệm với cô bạn Huế, qua Weil.
Nguyễn Quốc Trụ
THƠ MỖI NGÀY
EDWARD HIRSCH
Note: Bài thơ sau đây, đã post trên Tin Văn, lấy từ
tập thơ “The Living Fire”. Gốc của nó, là ở trong Earthly Measures,
tập thơ mới order.
Trong phần ghi chú, tác giả cho biết, cấu trúc của
bài thơ, là từ “In Memoriam Paul Eluard”.
"In Memoriam Paul Celan" is structured after Celan's elegy "In Memoriam Paul Eluard"
"In Memoriam Paul Celan" is structured after Celan's elegy "In Memoriam Paul Eluard"
In Memoriam Paul Celan
Lay these words into the dead man's grave
next to the almonds and black cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops, eyes,
and Thou, O bitterness that pillows his head.
Lay these words on the dead man's eyelids
like eyebrights, like medieval trumpet flowers
that will flourish, this time, in the shade.
Let the beheaded tulips glisten with rain.
Lay these words on his drowned eyelids
like coins or stars, ancillary eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.
Syllable by syllable, clawed and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and absolute.
Lay these words on the dead man's lips
like burning tongs, a tongue of flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.
Lay these words into the dead man's grave
next to the almonds and black cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops, eyes,
and Thou, O bitterness that pillows his head.
Lay these words on the dead man's eyelids
like eyebrights, like medieval trumpet flowers
that will flourish, this time, in the shade.
Let the beheaded tulips glisten with rain.
Lay these words on his drowned eyelids
like coins or stars, ancillary eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.
Syllable by syllable, clawed and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and absolute.
Lay these words on the dead man's lips
like burning tongs, a tongue of flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.
In memoriam Paul Celan
Déposez ces mots dans la tombe du mort
à côté des amandes et des cerises noires-
crânes minuscules et gouttes de sang en fleurs, yeux,
et toi, ô amertume qui couche sa tête.
Posez ces mots sur les paupières du mort
comme les sourcils, comme les fleurs de trompette médiévales
cela fleurira cette fois-ci à l'ombre.
Laissez les tulipes décapitées luisantes de pluie.
Posez ces mots sur ses paupières noyées
comme des pièces de monnaie ou des étoiles, des yeux auxiliaires.
Canopy le ciel gonflé avec des taches solaires
tandis que le tonnerre aborde le sol.
Syllabe de syllabe, griffée et manipulée,
les mots se sont unis dans le chagrin.
C'est l'heure fantomatique de la lamentation,
le vide à son tour, triste et absolu.
Posez ces mots sur les lèvres du mort
comme des pinces brûlantes, une langue de flamme.
Un aigle à récurer roule et hurle.
Que Dieu nous prie pour cet homme.
Tưởng niệm Paul Celan
Hãy để những từ này trong mồ của người đã chết
Bên cạnh những trái hạnh, và anh đào đen –
Những cái sọ nhỏ xíu, những hoa máu, mắt,
và, mi, ôi cay đắng, làm cái gối đầu
Hãy để những từ này lên mi mắt người chết
Như những sợi lông mi, như những bông hoa kèn trung cổ
Và lần này, sẽ nở rộ trong bóng râm.
Hãy để những bông tulips cụt đầu lấp lánh với mưa
Hãy để những từ này trên mi mắt kẻ chết đuối
Như những đồng tiền, hay ngôi sao, mắt phụ.
Hãy che bầu trời sưng phồng với những lấm tấm mặt trời
Khi sấm dội ầm ầm lên mặt đất
Từng con chữ, từng con chữ, cấu xé, thao túng
Những từ được tạo thành, hợp nhất, trong thống khổ
Đó là giờ giấc ma mị của nỗi than van
Cõi trống rỗng, tới phiên, bèn nức nở, vô cùng, tuyệt đối.
Hãy để những từ này lên môi người chết
Như những chiếc kẹp nóng bỏng, cái lưỡi cháy phừng phực,
Một con chim ưng bay vòng vòng, bay lui, bay tới, và hú lên từng hồi
Cầu Chúa cầu nguyện, cho chúng ta,
Người đàn ông này.
Hãy để những từ này lên mi mắt người chết
Như những sợi lông mi, như những bông hoa kèn trung cổ
Và lần này, sẽ nở rộ trong bóng râm.
Hãy để những bông tulips cụt đầu lấp lánh với mưa
Hãy để những từ này trên mi mắt kẻ chết đuối
Như những đồng tiền, hay ngôi sao, mắt phụ.
Hãy che bầu trời sưng phồng với những lấm tấm mặt trời
Khi sấm dội ầm ầm lên mặt đất
Từng con chữ, từng con chữ, cấu xé, thao túng
Những từ được tạo thành, hợp nhất, trong thống khổ
Đó là giờ giấc ma mị của nỗi than van
Cõi trống rỗng, tới phiên, bèn nức nở, vô cùng, tuyệt đối.
Hãy để những từ này lên môi người chết
Như những chiếc kẹp nóng bỏng, cái lưỡi cháy phừng phực,
Một con chim ưng bay vòng vòng, bay lui, bay tới, và hú lên từng hồi
Cầu Chúa cầu nguyện, cho chúng ta,
Người đàn ông này.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
(Nguồn : Tin Văn
Comments
Post a Comment