Franz Kafka, The Vulture




Kafka, The Vulture
Borges và Tôi
Ainsi lisait Borges

Franz Kafka, The Vulture

Nhiều người biết chuyện, khi biết mình sắp sửa từ giã cõi đời, Virgil đã yêu cầu bạn bè, hãy biến Aeneid thành tro than. Đây là một bản thảo chưa hoàn tất mà ông đã dành cho nó mười một năm trời, nói là cực nhọc với nó thì cũng đúng thôi, nhưng đây là một thứ cần lao, nếu không vinh quang thì cũng thật là phong nhã, và tế nhị [eleven years of noble and delicate labor]. Thì cũng một thứ vượt cạn mà thôi, cả một nửa nhân loại tự hào về nó, thì tại làm sao mà dám nói... ngược lại, rằng không... vinh quang?
Cũng theo cùng một cung cách như vậy, Shakespeare chẳng bao giờ “băn khoăn” về chuyện thâu gom những kịch kiệc của ông vào thành một cuốn.
Kafka nhờ cậy bạn là Max Brod hãy phó thác những tác phẩm của mình cho bà hoả, bởi vì ông chắc chắn một điều, rằng, những cuốn tiểu thuyết, những truyện ngắn như thế tất sẽ đưa ông lên đài danh vọng, sau khi ông đã mất. Sống đã chẳng màng, thì tại sao chết rồi, mà còn... ham?
Sự giống giống của những mẩu đoạn, thời kỳ trên đây, nếu tôi không lầm, là do có cái gì mờ mờ ảo ảo như người đi đêm ở trong đó. Bạn bè với nhau, làm sao mà Virgil không biết, chớ có tin tụi nó, nghĩa là ông có thể tin cậy vào cái chuyện không tin cậy bạn bè, rằng tụi nó sẽ chẳng làm theo yêu cầu của mình đâu, y chang Kafka và bạn của ông là Max Brod. Trường hợp Shakespeare hoàn toàn khác hẳn. De Quincey khẳng định, trong trường hợp Shakespeare, là do, khán giả bỏ tiền ra mua vé đi xem kịch, xem trình diễn, chứ đâu phải mua sách để đọc, thành thử cái trò múa may quay cuồng trên sàn diễn mới quan trọng đối với Shakespeare. Nói gì thì nói, một khi bạn toàn tâm toàn ý, mớ sách mớ chữ mang nặng đẻ đau này, chúng mày hãy biến mất cho được việc, bạn sẽ chẳng giao cho ai, làm cái việc, giống như người Việt mình nói, mua pháo mượn người đốt. Kafka và Virgil thực sự không tìm người đốt pháo giùm, mà chỉ muốn rũ khỏi cái trách nhiệm mà một cuốn sách đè lên họ. Theo nghĩa này, người Trung Hoa đã từng nói, bút sa gà chết, hay, thầy thuốc hại một người, thầy dùi hại triệu người, và cũng một ông Trung Hoa, vì sợ như vậy, nên đã thẳng thừng tuyên bố, nếu mất một cái lông chưn mà thiên hạ thái bường, tớ cũng không chịu mất!
Đâu có phải thằng chả ích kỷ! Khi còn trẻ tuổi, hăng máu, Heidegger đã từng viết sách triết, đã từng phò Nazi, tới khi về già, mới vỗ bụng than: Suy tư lớn, lầm lớn. Suy tư nhỏ, lầm nhỏ:
He who thinks greatly must err greatly (1)
(1): The Thinker as Poet (trong Poetry, Language, Thought, bản tiếng Anh của Albert Hofstadter, nhà xb Harper & Row).
Tiếng Tây, erreur [lẫm lỗi], cùng âm với errer [lang thang]. Câu thơ của Heidegger, nghe cứ như: Kẻ nào suy tư nhiều lang thang nhiều. Như vậy, ở nhà là khỏi suy tư, khỏi lang thang!
Trường hợp Virgil, theo tôi [Borges], ông nhờ bạn đốt sách của mình, là do thẩm mỹ: ông muốn sửa lại giọng văn, hay câu chữ. Đây là quan điểm của nhà phê bình Pháp, Roland Barthes, theo đó, bởi vì bút sa gà chết, và bởi vì bút đã sa, gà đã chết, cho nên chỉ còn có mỗi một cách để làm sự tình đỡ bi thảm đi chút nào hay chút đó, là: viết tiếp! Theo nghĩa đó, ông cho rằng, viết có nghĩa là viết thêm (add), vào những gì đã lỡ viết ra rồi.
Cũng có thể, Virgil biết chuyện một nhà thơ Trung Hoa, suốt năm, cứ ranh rảnh được chút thì giờ nào không phải lo chuyện cơm áo, là “bèn” cúng cho thơ, tới đêm 30 Tết, “bèn” uống rượu cùng với bà Táo và hai ông Táo, và nướng hết thơ cho bà Hoả! Vừa khóc, vừa uống rượu, vừa nướng thơ, theo như giai thoại kể lại.
Hay câu chuyện về một nhà văn tỉnh lẻ Nga [Gogol] bán heo, bán gà, gom hết tiền bạc đem, cùng với tác phẩm, và mình, lên tỉnh, in, và sau đó, đi thâu gom những cuốn sách đã in ra đó, mang cúng cho thần hỏa.
Trường hợp Kafka phức tạp hơn. Người ta có thể coi tác phẩm của ông là một ngụ ngôn, hay một chuỗi những ngụ ngôn - tức là những ngón tay chỉ mặt trăng - tức là đề tài -  tức liên hệ đạo đức giữa cá nhân với Thượng Đế, và cái vũ trụ “cà chớn”, tức không làm sao hiểu nổi, của Người. Mặc dù tính chất thời sự [hay nói theo Camus, suy nghĩ xem cuộc đời đáng sống hay là không – đời mà chưa đáng, thì sách làm sao đáng – là trả lời câu hỏi chẳng chút cà chớn của triết học], nhưng Kafka gần gụi với “Sách của Job” hơn là cái mà người ta gọi là “văn chương hiện đại”. Tác phẩm của ông dựa trên một ý thức tông giáo, đặc biệt tông giáo Do Thái. Kafka coi tác phẩm của ông là một hành động của niềm tin, và ông không muốn tác phẩm của mình khiến cho nhân loại trở nên chán đời, [Borges viết: ông không muốn nhân loại, do đọc những gì ông viết ra, mà trở nên nản lòng], chính vì vậy mà ông yêu cầu bạn đốt.
Nhưng chúng ta có thể nghi ngờ, có thể còn có những động cơ khác. Kafka chỉ có thể mơ những ác mơ, ác mộng; mơ hoài còn hoài, bởi vì mơ tới đâu, thực tại cung ứng tới đó. Cùng lúc đó, ông thực hiện ở trong tất cả những cuốn sách của ông, những hậu quả, tạm gọi là, của “việc hôm nay hãy để ngày mai”, [procrastination: trần trừ, trì hoãn, nước đến chân chưa chịu... tẩu...]. Không nghi ngờ chi: cả hai, buồn bã và trần trừ, đã vắt kiệt ông.
Có thể, ông cũng muốn viết ra một vài trang cuối có tí vui vui ở trong đó, nhưng, cà cuống chết đến đít vẫn còn cay: danh dự, phẩm giá của ông, không cho phép ông bịa đặt ra những trang cà chớn như vậy.
Tôi sẽ chẳng bao giờ quên lần đầu đọc Kafka, trong một ấn bản hiện đại có tính nghề nghiệp, năm 1917. Những người biên tập - chẳng thể nói họ thiếu tài năng, dân nhà nghề mà, và bởi vì là dân nhà nghề, nên đã hiện đại, hậu hiện đại, tân hậu hiện đại hóa... tác phẩm của Kafka bằng cách - dâng tặng nó cho “cái gọi là” sự bãi bỏ chấm câu, chữ viết hoa, nhịp điệu câu văn; vô tư tái tạo ẩn dụ, lạm dụng từ kép, ấy là chưa kể những chức năng khác mà họ tự khoác cho họ, với một thiện ý làm sao cho tác phẩm của Kafka thích hợp với tuổi trẻ thời của họ, và có lẽ, của mọi thời. Trong cái mớ [tu từ] loảng soảng đó, một lời xin lỗi được ký bởi một tay Franz Kafka nào đó, nếu có, thì thật là quá vô nghĩa, nếu không nói, tầm phào, nhạt nhẽo, so với sự ngoan ngoãn dễ bảo của anh chàng độc giả trẻ tuổi là tôi ngày nào. Sau tất cả những năm tháng đó, tôi dám làm cái chuyện, là thú tội, đối với sự ngu si, vô cảm không thể tha thứ được về mặt văn học, của mình: Tôi đã nhìn thấy một mặc khải văn chương, vậy mà không nhận ra.
Mọi người đều biết, Kafka luôn cảm thấy mình là một đứa con tội lỗi, đối với ông già của mình. Theo cái kiểu của dân Do Thái đối với Thượng Đế. Cái tông giáo Do Thái của ông - nó làm ông tách biệt ra khỏi phần nhân loại còn lại – đã tác động tới ông theo một đường hướng thật là đa đoan rắc rối. Ý thức về một cái chết đang thập thò ở ngoài cửa, đang rình rập ngay bên giường, cộng thêm căn bệnh lao lúc nào cũng đẩy ông lên đỉnh cao chót vót của “sự nóng bỏng của một nỗi chết lạnh lẽo không rời”.... càng làm nhọn hoắt những mũi nhọn kể trên. Những nhận xét này, nói cho cùng, cũng chỉ là để thêm mắm thêm muối cho câu chuyện về một thiên tài Franz Kafka. Thực tại bảnh hơn thế nhiều, như Whistler nói: “Nghệ Thuật Xẩy Ra Như Thế Đó” [Art Happens].
Hai tư tưởng – đúng hơn, hai ám ảnh – đã “cai trị” [rule] thế giới - hay là tác phẩm - của Kafka: tùy thuộc và vô cùng. Trong hầu như tất cả những giả tưởng của ông, có những đẳng cấp, những tôn ti trật tự [hierarchies] và chúng thì vô cùng. Karl Rossmann, nhân vật trong tiểu thuyết đầu tiên của ông, là một đứa con trai Đức tìm con đường của nó, xuyên qua một đại lục không thể nào xuyên qua được; vào lúc chót, nó được chấp nhận vô nhà hát The Great Nature Theater of Oklahoma; cái nhà hát vô cùng tận [infinite theater] này thì cũng đông đúc chẳng thua gì thế giới, và là tiền thân [prefigure] của Thiên Đàng. [Một chi tiết rất ư là riêng tư: ngay cả ở trong hình ảnh một thiên đàng như thế đó, con người cũng chẳng thể trở nên hạnh phúc, và đâu có dễ, được chấp nhận vào thiên đàng: còn khối những trì hoãn, những “trở ngại”, ở dọc đường. Làng kế bên, nhưng đâu dễ gì, đến.
Nhân vật của cuốn tiểu thuyết thứ nhì của ông, Joseph K. bị “em” cho ăn “trái cuội” [“mặc khải” từ chữ “trái sầu” của Huy Cận], theo kiểu “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”, “em” ở đây, là “vụ án”. Một vụ án mà chẳng bao giờ Joseph K. được nói cho biết, bị can, tức là anh, phạm tội gì. Cũng chẳng bao giờ anh có được cái hân hạnh giáp mặt “người yêu”, tức cái pháp đình vô hình kết án anh, và, không án iếc gì hết, đẩy anh tới máy chém. K, nhân vật của cuốn tiểu thuyết thứ ba, và cũng là cuốn cuối, là một trác địa viên [a surveyor], bị gọi tới một tòa lâu đài, mà chẳng bao giờ anh ta [được] vào, và anh ta chết không được nhìn nhận [recognized] bởi những nhà chức trách cai trị [tòa lâu đài]. Cái mô típ về một sự trì hoãn cho tới vô cùng như vậy đó, cũng  là những luật lệ cai trị những câu chuyện ngắn của Kafka. Một trong những câu chuyện như thế, là về một thông điệp viên của hoàng gia chẳng bao giờ có thể tới, do cả lố người làm chậm trễ hành trình [trajectoire: đường biểu diễn, đường bay...] của thông điệp, của anh ta. Trong một chuyện khác, là một người, chết, không tới thăm được làng kế bên; một chuyện khác, hai người láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, vậy mà chẳng bao giờ có thể gặp nhau. Một trong những câu chuyện đáng ghi nhớ nhất, trong số những chuyện đó, là “Vạn Lý Trường Thành Trung Hoa” [The Great Wall of China, 1919], sự vô cùng ở trong đó có nhiều tầng, nhiều mặt: Để ngăn chặn sự tiến triển của những đoàn quân ở xa ơi là xa, một vị hoàng đế từ đời nảo đời nào về nơi chốn và thời gian, ra lệnh, rằng, những thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những con dân của ông, hãy miệt mải miệt mài, nghĩa là chẳng bao ngưng, cái việc xây cất một bức tường chẳng biết đâu là đầu đâu là cuối, chung quan cái đế quốc vô cùng tận của vị hoàng đế.
Một trong những “đức hạnh” - hiển nhiên, đừng bao giờ tra hỏi, hoặc nghi ngờ - của Kafka, là, sự phát minh, sáng chế (invention), hay bịa đặt ra thì cũng rứa, những tình huống không thể nào chịu nổi (intolerable situations). Chỉ cần vài hàng là đủ để minh chứng cái điều rõ như ban ngày đó. Thí dụ: “Con vật tóm lấy cây roi của chủ, và quất chủ để trở thành chủ, và không nhận ra là, ích chi đâu, chỉ là huyễn ảo, do cái nút thắt mới [có], ở trên cây roi, gây ra.” Hay là: “Những con báo xâm nhập những ngôi đền và uống rượu vang trong những chiếc ly thánh; chuyện này xẩy ra bất thình lình, và sau cùng, đây là tiên tri, nghĩa là sẽ phải xẩy ra như thế, và sẽ được đưa vào nghi thức tế lễ.”
Gọi quỉ, quỉ tới liền: Tính viện dẫn, gọi lên, cầu khấn (invocation) ở Kafka thì thật là đáng nể, so với tính chi ly về từng chi tiết (elaboration). Chỉ có một con người trơ ra (a single man) ở trong tác phẩm của ông: the homo domesticus. Con người này, rất ư Đức và cũng rất ư Do Thái, thèm muốn một nơi chốn, một ao nhà, bất kể “dù trong dù đục” như thế nào, một Trật Tự nào đó - ở trong vũ trụ, trong một bộ, trong nhà thương điên, hay trong nhà tù. Cái gọi là cốt truyện (plot), và không khí truyện (atmosphere) là thiết yếu, chứ không phải sự phát triển, nảy nở mãi ra của một ngụ ngôn, hay của chiều sâu tâm lý. Đây là thế mạnh của những câu chuyện ngắn của Kafka so với tiểu thuyết của ông; và một toàn tập những truyện ngắn của ông càng dễ cho chúng ta nhìn ra tầm vóc đồ sộ của một nhà văn khác thường như thế đó: Franz Kafka.
[Mô phỏng  bài viết cùng tên của J. L. Borges. Vulture: Chim kên kên. Tên một truyện ngắn của Kafka. Bài viết của Bogres, viết năm 1979, in trong Selected Non-Fictions, nhà xb Penguin. Trong Cuốn Sách của những Bài Tựa, cũng của Borges, có một bài viết về Kafka, Hoá Thân. Bài này gần như tương tự bài Kafka, Kên Kên trên. Về cuốn Aeneid, tiểu chú của Borges ghi: Vào lúc sắp mất, Virgile yêu cầu bạn bè huỷ bỏ bản thảo chưa hoàn tất, là cuốn Enéide. Bản thảo này, một cách thật là bí ẩn, đã chấm dứt bằng những từ: Fugit indignata sub umbras. Bạn bè không làm theo, y như Max Brod sau này, với Kafka. Cả hai trường hợp, bạn bè đã hoàn tất cái ước muốn thầm kín của tác giả. Bởi vì nếu muốn đốt bỏ, họ sẽ tự mình làm, và họ muốn tránh trách nhiệm nên mới làm vậy. Vả chăng, Kafka chỉ muốn viết một tác phẩm hạnh phúc và thanh thản (sereine), không phải một mầu ác mộng mà sự chân thành của ông đã đọc cho ông nghe.]
Jennifer Tran
THE VULTURE
A vulture was hacking at my feet. It had already torn my boots and stockings to shreds, now it was hacking at the feet themselves. Again and again it struck at them, then circled several times restlessly round me, then returned to continue its work. A gentleman passed by, looked on for a while, then asked me why I suffered the vulture. "I'm helpless," I said. "When it came and began to attack me, I of course tried to drive it away, even to strangle it, but these animals are very strong, it was about to spring at my face, but I preferred to sacrifice my feet. Now they are almost torn to bits." "Fancy letting yourself be tortured like this!" said the gentleman. "One shot and that's the end of the vulture." "Really?" I said. "With pleasure," said the gentleman, "I've only got to go home and get my gun. Could you wait another half hour?" "I'm not sure about that," said I, and stood for a moment rigid with pain. Then I said: "Do try it in any case, please." "Very well," said the gentleman, "I'll be as quick as I can." During this conversation the vulture had been calmly listening, letting its eye rove between me and the gentleman. Now I realized that it had understood everything; it took wing, leaned far back to gain impetus, and then, like a javelin thrower, thrust its beak through my mouth, deep into me. Falling back, I was relieved to feel him drowning irretrievably in my blood, which was filling every depth, flooding every shore.
Kafka



Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư