Hai Cu



*
Gói quà thì mình ên
“Đại lượng” đếch đụng được vô nó
“Biết ơn” cái con mẹ gì lại càng không
Cái gọi là linh hồn không làm nhiễm nó.
So
The haiku's task is to achieve exemption from meaning within a perfectly readerly discourse (a contradiction denied to Western art, which can contest meaning only by rendering its discourse incomprehensible), so that to our eyes the haiku is neither eccentric nor familiar: it resembles nothing at all: readerly, it seems to us simple, close, known, delectable, delicate, "poetic"-in a word, offered to a whole range of reassuring predicates; insignificant nonetheless, it resists us, finally loses the adjectives which a moment before we had bestowed upon it, and enters into that suspension of meaning which to us is the strangest thing of all, since it makes impossible the most ordinary exercise of our language, which is commentary. What are we to say of this:
Spring breeze:
The boatman chews his grass stem.
or this:
Full moon
And on the matting
The shadow of a pine tree.
or of this:
In the fisherman's house
The smell of dried fish
And heat.
or again (but not finally, for the examples are countless) of this:
The winter wind blows.
The cats' eyes
Blink.
Such traces (the word suits the haiku, a kind of faint gash inscribed upon time) establish what we have been able to call "the vision without commentary." This vision (the word is still too Western) is in fact entirely privative; what is abolished is not meaning but any notion of finality: the haiku serves none of the purposes (though they themselves are quite gratuitous) conceded to literature: insignificant (by a technique of meaning-arrest), how could it instruct, express, divert? In the same way, whereas certain Zen schools conceive of seated meditation as a practice intended for the obtaining of Buddha-hood, others reject even this (apparently essential) finality: one must remain seated "just to remain seated." Is not the haiku (like the countless graphic gestures which mark modern and social Japanese life) also written "just to write"?
    What disappears in the haiku are the two basic functions of our (age-old) classical writing: on the one hand, description (the boatman's grass stem, the pine tree's shadow, the smell of fish, the winter wind are not described, i.e., embellished with significations, with moralities, committed as indices to the revelation of a truth or of a sentiment: meaning is denied to reality; furthermore, reality no longer commands even the meaning of reality); and on the other, definition; not only is definition transferred to gesture, if only a graphic gesture, but it is also shunted toward a kind of inessential-eccentric-efflorescence of the object, as one Zen anecdote puts it nicely, in which the master awards the prize for definition (what is a fan?) not even to the silent, purely gestural illustration of function (to wave the fan), but to the invention of a chain of aberrant actions (to close the fan and scratch one's neck with it, to reopen it, put a cookie on it and offer it to the master). Neither describing nor defining, the haiku (as I shall finally name any discontinuous feature, any event of Japanese life as it offers itself to my reading), the haiku diminishes to the point of pure and sole designation. It's that, it's thus, says the haiku, it's so. Or better still:   so! it says, with a touch so instantaneous and so brief (without vibration or recurrence) that even the copula would seem excessive, a kind of remorse for a forbidden, permanently alienated definition. Here meaning is only a flash, a slash of light: When the light of sense goes out, but with a flash that has revealed the invisible world, Shakespeare wrote; but the haiku's flash illumines, reveals nothing; it is the flash of a photograph one takes very carefully (in the Japanese manner) but having neglected to load the camera with film. Or again: haiku reproduces the designating gesture of the child pointing at whatever it is (the haiku shows no partiality for the subject), merely saying: that! with a movement so immediate (so stripped of any mediation: that of knowledge, of nomination, or even of possession) that what is designated is the very inanity of any classification of the object: nothing special, says the haiku, in accordance with the spirit of Zen: the event is not namable according to any species, its specialty short circuits: like a decorative loop, the haiku coils back on itself, the wake of the sign which seems to have been traced is erased: nothing has been acquired, the word's stone has been cast for nothing: neither waves nor flow of meaning.
Roland Barthes: Empire of Signs
[Translated by Richard Howard]
Bài tuy ngắn, nhưng thật khó dịch, và thật là tuyệt vời về Hai Cu. GCC đọc, cũng lâu rồi, hăm he dịch hoài, nhưng thấy căng quá. Khó, 1 phần phải biết 1 tí về ký hiệu, theo kiểu của Barthes, và môn "ký hiệu học" mà ông có thể được coi là một trong những người sáng lập.
Mở ra 1 phát, là Barthes đã phán, Đông là Đông, Tây là Tây rồi. Một bên, thì cố lấy hết mẹ cái nghĩa ra khỏi bản văn, một bên thì cố làm cho nó rối tung lên, đếch làm sao đọc được nữa, the haiku's task is to achieve exemption from meaning within a perfectly readerly discourse (a contradiction denied to Western art, which can contest meaning only by rendering its discourse incomprehensible),

**
Khúc tiếng Tây, là từ bài “avant-propos” của Roger Munier, người biên tập & chuyển qua tiếng Tẩy những bài Hai Cu do ông tuyển chọn. Bài Hai Cu, trong yếu tính của nó, thì quá cả 1 bài thơ, cả theo cái nghĩa cực mạnh mà người ta đem đến cho từ này. So với những nghệ thuật khác ở Nhựt, như tuồng Nô, bắn cung, vẽ chữ, tranh họa, nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật làm vườn, tất cả đều thấm đẫm cái gọi là Thiền. Cái thực tập, cái/cách viết/đọc của nó thì trong chính nó, là một bài tập tinh thần/ linh thần. Chẳng có khiên cưỡng khi phán, cái mà Hai Cu hoàn tất đề nghị, là 1 kinh nghiệm đồng nhất với cái gọi là satori, về mặc khải, đốn ngộ, [tâm hồn] sáng chưng lên.
*

Đế Quốc Ký Hiệu, tên của Barthes phịa ra, để chỉ Đế Quốc Mặt Trời, nhưng với ông, đế quốc “của” ký hiệu, trong những ký hiệu của nó, có thơ Hai Cu. Bài viết về Hai Cu tuyệt lắm, TV sẽ đi liền, cũng 1 cách để thêm 1 tiếng nói của hải ngoại cho tuyệt tác về thơ Hai Cu của 1 đấng ở trong nước!
Bài Haiku sau đây, của Basho, ở trang bìa sau, của cuốn anthologie mà chẳng thú sao:
“Lâu lâu, mây, bèn thương hại, ngưng một phát, cho người ngắm trăng.”
“De temps à autre
Les nuages accordent une pause
À ceux qui contemplent la lune.”
Câu tiếng Mít, "phóng bút", từ "accorder", cho thấy, dịch thơ khó vô cùng, và càng khó càng cần dịch

"If Japan did not exist, Barthes would have had to invent it - not that Japan does exist in Empire of Signs, for Barthes is careful to point out that he is not analyzing the real Japan but rather one of his own devising. In this fictive Japan, there is no terrible innerness as in the West, no soul, no God, no fate, no ego, no grandeur, no metaphysics, no 'promotional fever' and finally no meaning ... For Barthes Japan is a test, a challenge to think the unthinkable, a place where meaning is finally banished. Paradise, indeed, for the great student of signs."
-Edmund White
The New York Times Book Review

Nếu không có Nhật Bản, thì Barthes sẽ phịa ra nó. Nhưng nước Nhật ở trong Đế Quốc Ký Hiệu cũng không thực, như Barthes cẩn trọng nói với chúng ta là, ông không nghiên cứu nước Nhật thực, mà là một nước Nhựt của riêng ông, do ông ‘chế’ ra. Trong cái nước Nhựt giả tưởng này, thì không hề có cái "bên trong" khủng khiếp như là ở Tây phương. Không linh hồn, tâm hồn, không Thượng Đế, không số mệnh, không cái tôi, không vinh quang, không đỉnh cao, không siêu hình, không “cơn sốt lên lương, lên chức, vô Đảng, vô BCT” và sau cùng, không có cái gọi là ý nghĩa.

Với Barthes, Nhật Bản là một thí nghiệm, một thách đố để suy nghĩ về cái không thể suy nghĩ, một nơi chốn mà ý nghĩa thì sau cùng bị loại trừ. Thiên đường, thực sự là vậy, cho một tay sinh viên lớn, về ký hiệu.




*

Gói quà thì mình ên
“Đại lượng” đếch đụng được vô nó
“Biết ơn” cái con mẹ gì lại càng không
Cái gọi là linh hồn không làm nhiễm nó.
So
The haiku's task is to achieve exemption from meaning within a perfectly readerly discourse (a contradiction denied to Western art, which can contest meaning only by rendering its discourse incomprehensible), so that to our eyes the haiku is neither eccentric nor familiar: it resembles nothing at all: readerly, it seems to us simple, close, known, delectable, delicate, "poetic"-in a word, offered to a whole range of reassuring predicates; insignificant nonetheless, it resists us, finally loses the adjectives which a moment before we had bestowed upon it, and enters into that suspension of meaning which to us is the strangest thing of all, since it makes impossible the most ordinary exercise of our language, which is commentary. What are we to say of this:
Spring breeze:
The boatman chews his grass stem.
or this:
Full moon
And on the matting
The shadow of a pine tree.
or of this:
In the fisherman's house
The smell of dried fish
And heat.
or again (but not finally, for the examples are countless) of this:
The winter wind blows.
The cats' eyes
Blink.
Such traces (the word suits the haiku, a kind of faint gash inscribed upon time) establish what we have been able to call "the vision without commentary." This vision (the word is still too Western) is in fact entirely privative; what is abolished is not meaning but any notion of finality: the haiku serves none of the purposes (though they themselves are quite gratuitous) conceded to literature: insignificant (by a technique of meaning-arrest), how could it instruct, express, divert? In the same way, whereas certain Zen schools conceive of seated meditation as a practice intended for the obtaining of Buddha-hood, others reject even this (apparently essential) finality: one must remain seated "just to remain seated." Is not the haiku (like the countless graphic gestures which mark modern and social Japanese life) also written "just to write"?
    What disappears in the haiku are the two basic functions of our (age-old) classical writing: on the one hand, description (the boatman's grass stem, the pine tree's shadow, the smell of fish, the winter wind are not described, i.e., embellished with significations, with moralities, committed as indices to the revelation of a truth or of a sentiment: meaning is denied to reality; furthermore, reality no longer commands even the meaning of reality); and on the other, definition; not only is definition transferred to gesture, if only a graphic gesture, but it is also shunted toward a kind of inessential-eccentric-efflorescence of the object, as one Zen anecdote puts it nicely, in which the master awards the prize for definition (what is a fan?) not even to the silent, purely gestural illustration of function (to wave the fan), but to the invention of a chain of aberrant actions (to close the fan and scratch one's neck with it, to reopen it, put a cookie on it and offer it to the master). Neither describing nor defining, the haiku (as I shall finally name any discontinuous feature, any event of Japanese life as it offers itself to my reading), the haiku diminishes to the point of pure and sole designation. It's that, it's thus, says the haiku, it's so. Or better still:   so! it says, with a touch so instantaneous and so brief (without vibration or recurrence) that even the copula would seem excessive, a kind of remorse for a forbidden, permanently alienated definition. Here meaning is only a flash, a slash of light: When the light of sense goes out, but with a flash that has revealed the invisible world, Shakespeare wrote; but the haiku's flash illumines, reveals nothing; it is the flash of a photograph one takes very carefully (in the Japanese manner) but having neglected to load the camera with film. Or again: haiku reproduces the designating gesture of the child pointing at whatever it is (the haiku shows no partiality for the subject), merely saying: that! with a movement so immediate (so stripped of any mediation: that of knowledge, of nomination, or even of possession) that what is designated is the very inanity of any classification of the object: nothing special, says the haiku, in accordance with the spirit of Zen: the event is not namable according to any species, its specialty short circuits: like a decorative loop, the haiku coils back on itself, the wake of the sign which seems to have been traced is erased: nothing has been acquired, the word's stone has been cast for nothing: neither waves nor flow of meaning.
Roland Barthes: Empire of Signs
[Translated by Richard Howard]
Bài tuy ngắn, nhưng thật khó dịch, và thật là tuyệt vời về Hai Cu. GCC đọc, cũng lâu rồi, hăm he dịch hoài, nhưng thấy căng quá. Khó, 1 phần phải biết 1 tí về ký hiệu, theo kiểu của Barthes, và môn "ký hiệu học" mà ông có thể được coi là một trong những người sáng lập.
Mở ra 1 phát, là Barthes đã phán, Đông là Đông, Tây là Tây rồi. Một bên, thì cố lấy hết mẹ cái nghĩa ra khỏi bản văn, một bên thì cố làm cho nó rối tung lên, đếch làm sao đọc được nữa, the haiku's task is to achieve exemption from meaning within a perfectly readerly discourse (a contradiction denied to Western art, which can contest meaning only by rendering its discourse incomprehensible),





Thứ sáu, 24/1/2014 15:15 GMT+7

Thái Bá Tân bị phát hiện dịch sai 'Thơ Haiku Nhật Bản'

Cách dịch sai hoặc chuyển ngữ thô vụng của Thái Bá Tân khiến rất nhiều bài thơ của Basho, Chiyo… trong ấn phẩm dày 600 trang bị phá hỏng.
Cuốn Thơ Haiku Nhật Bản của dịch giả Thái Bá Tân được phát hành tháng 11/2013 (Nhà sách Đông Tây liên kết với NXB Lao Động ấn hành, Hoàng Thanh Dung - Hồng Nga biên tập). Sách nằm trong biên mục xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam. Với số lượng hàng nghìn bài Haiku của nhiều tác giả nổi tiếng như: Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi, Issa... có thể nói, đây là tuyển tập thơ Nhật Bản có khối lượng đồ sộ, dày dặn nhất từ trước đến nay.
Trong lời nói đầu chia sẻ về cuốn sách, dịch giả Thái Bá Tân cho biết, bản thân ông phải trải qua một thời gian khá dài mới làm quen được với thơ Haiku - một thể thơ ngắn độc đáo, tinh tế. Hơn 30 năm ông đã tò mò tìm hiểu về thơ cổ Nhật Bản và dịch dần các tác phẩm. "Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập thơ Haiku Nhật Bản lần này", Thái Bá Tân chia sẻ.
Bìa sách "Thơ Haiku Nhật Bản".
Bìa sách "Thơ Haiku Nhật Bản".
Tuy vậy, sau khi đọc những bài thơ dịch trong sách, độc giả có thể phát hiện nhiều lỗi sai trong dịch thuật. Sau đây là một vài ví dụ điển hình trong sách:
Ở phần nhắc đến nữ tác giả Chiyo-Ni, một nữ thi sĩ Nhật Bản nổi tiếng về thơ Haiku, thời kỳ Edo, sách của Thái Bá Tân in sai tên bà thành Chivo-Ni. Chưa hết, dịch giả còn chuyển sai hoàn toàn một bài thơ nổi tiếng của bà:
Từ rạng sáng,
Tôi cầm chiếc xô như cầm con tin,
Xin nước
Nguyên tác bài thơ tiếng Nhật là:
Asagao

Asagao m
Tsurube torare-te
Morai mizu
Bản dịch tiếng Anh
The Morning - Glory
A morning - glory having taken
The well-bucket, I begged for water
(Trích An Anthology of Haiku - Ancient and Modern by A.Miyamori)
Trong bản nguyên gốc tiếng Nhật lẫn tiếng Anh đều cho thấy: từ "Asagao" hay "morning glory" là một tên một loài hoa. Nhưng Thái Bá Tân chuyển thành "từ rạng sáng". Đây là một cách dịch chữ sang chữ làm sai lệch hoàn toàn nghĩa tác phẩm, theo kiểu tách rời danh từ morning glory thành "morning" là "buổi sáng", còn "glory" là "rạng ". Thực ra, một vài trong số các nghĩa của từ glory là vẻ huy hoàng, rực rỡ, lộng lẫy... chứ không hẳn là "rạng" - một từ đi kèm trạng từ về thời gian như trong tiếng Việt.
Trước đây, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu từng chuyển ngữ bài thơ này:
Hoa triêu nhan 

Hoa triêu nhan
dây gầu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên
Cách dịch của Nhật Chiêu chuyển được ý tứ trong bài thơ thể hiện tâm trạng của Chiyo khi rung động trước cái đẹp. Một buổi sáng, nhà thơ Chiyo định thả gầu xuống giếng lấy nước thì thấy đóa hoa triêu nhan vương bên dây gầu. Nuối tiếc, trân trọng vẻ đẹp mong manh, thuần khiết của đóa hoa ban mai, bà đành sang xin nước nhà bên. Với một ý tứ như thế thì việc dùng từ "chiếc xô", "con tin" của Thái Bá Tân không chỉ thô vụng mà còn cho thấy ông không hiểu ý nghĩa của bài thơ này.
Trong một bài thơ khác của Basho, một thi sĩ và cũng là một thiền sư lỗi lạc thời kỳ Edo, Thái Bá Tân dịch:
Im lặng mênh mông
Càng im lặng bởi tiếng dế
Tắt dần phía đền Núi Đá
Nguyên tác tiếng Nhật
Semi no Koe

Shizukasa ya
Iwa ni shimi-iru
Semi no koe
Bản tiếng Anh
Cicadas' Voice 

What stillness! The cicadas' voice
Penetrate the rocks
Trong bài này, tác giả dịch sai con ve thành ra con dế. Vin vào thi cảnh của tác phẩm này, từ "penetrate" trong tiếng Anh có nghĩa là "đâm thủng, xuyên qua", nhưng lại được dịch thành "tắt dần". Basho muốn khắc họa sức mạnh đến kinh người của tiếng đàn ve kêu trong khu núi tĩnh mịch. Tiếng ve mạnh như thể thấu xuyên vào đá chứ không phải tắt dần đi.
Nhật Chiêu từng dịch bài thơ này:
Tịch liêu
Thấu xuyên núi đá
Tiếng ve kêu
Trong một bài thơ khác của Basho, Thái Bá Tân dịch:
Cỏ ba lá và trăng
Ngủ chung nhà
Cùng gái điếm
Nguyên tác tiếng Nhật:
Hagi to Tsuki

Hitotsu-ya ni
Yujo ino netari
Hagi to tsuki
Bản tiếng Anh
Lespedeza Flowers and the Moon
Courtezans and I lodged in the same inn -
Lespedeza flowers and the bright moon
Bài thơ này từng được nhà nghiên cứu Nhật Chiêu chuyển ngữ:
Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương
Việc dùng chữ "gái điếm" phá hỏng nét thanh thoát trong bài thơ đầy tính nhân văn của Basho.
Bên cạnh các lỗi dịch sai, rất nhiều bài thơ trong cuốn sách là thứ tiếng Việt trúc trắc, tối nghĩa, gây khó hiểu cho người đọc, như:
Con quạ
Ngồi trên cành cây khô
Chiều thu
Nhật Chiêu từng dịch:
Trên cành khô
quạ đậu
Chiều thu
Hầu như không ai nói một con chim lại "ngồi" trên cây như cách dịch của Thái Bá Tân.
Trang 14 cuốn "Thơ Haiku Nhật Bản".
Trang 14 cuốn "Thơ Haiku Nhật Bản".
Trong cuốn Thơ Haiku Nhật Bản, với những bài nếu không dịch sai thì lại đánh mất đi vẻ tinh tế, thanh thoát, du dương của Haiku, như:
Con ếch nhảy xuống ao tù
Tiếng nước té
Trong khi đó, Nhật Chiêu từng nổi tiếng với bản chuyển ngữ tác phẩm của Basho:
Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
Xem qua tập thơ dày 600 trang, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu chia sẻ: "Thơ Haiku không ngớ ngẩn mà thâm sâu, tinh tế về ý tứ, câu chữ. Để dịch thơ Haiku nói riêng và thơ văn nước ngoài nói chung, người dịch không chỉ cần am hiểu ngôn ngữ mà còn phải hiểu về văn hóa, lịch sử của đất nước và cả bối cảnh của bài thơ, tác phẩm, tiểu sử tác giả. Ngoài ra, dịch giả cần nắm vững ngôn ngữ mẹ đẻ của mình".
Nhật Chiêu cho biết, khi dịch thơ, không phải bài nào ông cũng có thể dịch sang tiếng Việt được. "Với những bài quá khó, nếu nghiền ngẫm mà vẫn chưa hiểu, chưa cảm được, tôi thường bỏ qua hoặc không dịch. Tôi chỉ dịch khi tôi hiểu", ông nói.
Trao đổi với VnExpress, dịch giả Thái Bá Tân cho biết, các bài trong cuốn “Thơ Haiku Nhật Bản” được ông dịch từ sách tiếng Nga và một số cuốn tiếng Anh. Ông đã biết tới bài báo chê mình dịch sai. Thái Bá Tân bày tỏ quan điểm một cách ngắn gọn: "Tôi dịch từ nhiều cuốn sách khác nhau, vậy người ta đối chiếu với bản nào để nói tôi sai? Người chê tìm ra một vài từ, bới móc như thế để đánh giá, kết luận thì có được coi là hành động tử tế?".
Thoại Hà - Đỗ Hiền






























Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’