Skip to main content

Viết Mỗi Ngày



Viết Mỗi Ngày

Lê Thị Thấm Vân shared a memory.
18 mins


Tôi đưa Nguyễn Huy Thiệp đến nói chuyện ở trường Berkeley. Đến trước cổng sân trường tôi thấy hàng người đứng cầm cờ vàng ba sọc đỏ hô khẩu hiệu biểu tình chống...
Note: Gấu là thằng đầu tiên dám về trong nước, nhưng vấn đề là, NHT, khi “nói” như thế, là với tư cách như thế nào?
Một cá nhân đại diện cho 1 chế độ?

PS: Bài của BVP


https://buivanphu.wordpress.com/1998/10/03/nguy%E1%BB%85n-huy-thi%E1%BB%87p-vi%E1%BA%BFt-la-d%E1%BB%A9ng-trong-s%E1%BB%B1-nguy-hi%E1%BB%83m-v%E1%BB%81-tinh-c%E1%BA%A3m-tai-chanh-va-chinh-tr%E1%BB%8B/
Anh qua đây với tính cách cá nhân hay chính phủ Việt Nam đưa đi?
Cá nhân chứ.
Ông không coi truyện “Tướng về hưu” là tác phẩm xuất sắc nhất trong số 40 truyện ngắn và kịch mà ông đã viết về tình yêu, nỗi buồn, khao khát tự do và về bất lực của con người trước sự ngu dốt. Nhà văn là kẻ mơ mộng giữa thế gian phàm tục và thời thế phàm tục. Ông lập lại lời một nhà thơ: “Vấp phải đời phàm tục, chiếc thuyền tình vỡ tan”. Như trong Titanic.

Cái chuyện, NHT không khoái “Tướng Về Hưu”, thì cũng thường tình thôi, nhưng truyện ngắn này, vô hình trung, lọt đúng vào cái lỗ đen dành cho nó, như Trước Pháp Luật, của Kafka, (có thể kể thêm, Làng Kế Bên, cũng của ông), Eveline, của Joyce, hay Người Đàn Bà Ngoại Tình, của Camus, Biển của Miêng, thứ truyện ngắn “nói lên” tâm trạng “lưu đầy và quê nhà”, sống đời này, mà thèm đời kia - cái gì gì, mi làm phiền ta quá, kiếp trước mi đúng là con điả, ta bận chồng bận con bận công việc nhà thờ, bận viết nữa, có thân thì lo, hay là chờ…  kiếp khác, hà, hà - (Truyện ngắn Phì Lũ của Carver, Tin Văn mới giới thiệu, cũng nằm vào trong hố đen này).
Truyện ngắn Tướng Về Hưu lọt vào cõi mà Lukacs gọi là “Not Yet, No Longer”, Gấu đã lèm bèm rất nhiều lần. Cái dạng “tướng về hưu”, “tướng âm binh” [của Kadaré), “tướng chờ thư” (Garcia Marquez)… đầy rẫy, và chúng đều chỉ ra viên….  “y sỹ đồng quê” của Kafka, và hình ảnh của một DHT ngồi khóc bên lề đường Sài Gòn đúng vào ngày 30 Tháng Tư 1975, vừa khóc vừa chửi: Chúng ta đã bị lừa, không chỉ 1 mà vài thế hệ, và sợ, hoài hoài thế hệ!
Khủng khiếp thực. Thiệp “ít học, ít đọc” như Dương Tường phán, không hiểu nổi những chuyện ghê gớm như vầy đâu.
Gấu sở dĩ vỡ ra được là nhờ đọc Tolstaya, Những Thời Ăn Thịt Người.


http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/last_salvation_1.html

Để trả lời 'giùm' DTH, khi có người hỏi bà, về những đóng góp của chính bà cho cái chế độ VC, có thể mượn Jaspers, trong lời Tựa cho Cầm Tưởng:
Thường thường, người ta có thói quen áp dụng những bản kẽm cũ mòn, về những chuyện đang xẩy ra ở đó: dối trá/sự thực; phản động/phản kháng… Với cuốn sách, không giản dị như vậy, mà là hoàn cảnh, thực tại ‘thực’. Bằng cách nào, những con người thay đổi, một khi không ngừng cảm thấy, đè nặng lên họ, là một hiểm họa hủy diệt, và cùng lúc, họ còng lưng gánh vác lịch sử, theo nghĩa, đây là niềm tin, đây là chân lý: lịch sử cần thiết như thế đó. Và đó là Niềm Tin Mới.
Milosz nhớ lại thời kỳ 1945, mốt thời thượng trong những câu lạc bộ trí thức ở Varsovie, là so sánh chủ nghĩa cộng sản với sự ra đời của thiên chúa giáo. [Người viết còn nhớ, một ký giả đã từng hỏi Stalin, bao giờ thì đảng cộng sản có một Đức Giáo Hoàng.]

Milosz nhờ đọc Weil mà ngộ, tuy nhiên, trong một bài viết, ông không nghĩ, ông là một 'fan' của bà.
Gấu, khi ra hải ngoại đã tự nhủ, chẳng viết nữa, nhưng đọc Steiner, và nhờ Steiner, được đọc Weil.
Và lại viết! NQT

Chắc chắn, ở đây Milosz tự biện minh, về quyết định “chạy làng” (to defect) của ông. Chính cái hành động chạy làng đó đẩy ông vào một vị trí đạo đức cao hơn người khác, một khi biết rõ mọi mũi dùi sẽ chĩa vào ông, chưa kể thái độ khinh khi, rè bỉu của những người cộng sản mà ông bỏ lại sau lưng. Nhưng điều mà những người chỉ trích không nhận ra, đó là, bằng cách nào, ông tin rằng cái đầu của ông hết còn bị vây khổn. Và đây chính là một “hạnh ngộ”, nếu coi tầm quan trọng của Weil trên tư tưởng của ông, những ngày ở Paris.
Liệu, quyết định ở lại Paris của DTH, là cũng tương tự Milosz?
Và, biết đâu đấy, do thương hại, sau khi đã giận dữ ban cho mảnh đất đó, một Con Bọ, Ông Trời bèn bù trừ, và thế là có một.... DTH?
Và liệu câu này, của một nhà phê bình, về W. Faulkner, 'but Mr. Faulkner's work has seemed to be of a man who has, at some time, been desperately hurt' cũng có thể áp dụng cho... DTH?
Tác phẩm của DTH có vẻ như của một người đàn bà bị đau đớn, bị thương tổn đến cùng cực, ở một lúc nào đó.
Luật bù trừ, như 'quà tặng' của Thượng Đế, theo cái kiểu tán phó mát của Gấu, với Kim Dung, là luật của thiên nhiên. Ông kể, về một miền đất lạnh tàn nhẫn lạnh khốc liệt, và để bù trừ, thiên nhiên ban cho người dân ở đó, một thứ cỏ, bện làm giầy đi ấm chân vô cùng. Đọc, Gấu như cảm thấy cái ấm áp của những ổ rơm, ngày nào, ngày nào....
Kim Dung còn phán, một khi thiên nhiên sản sinh ra một thứ độc dược, độc vật, một cái ác, thì quanh quẩn kế đó, nó gài sẵn thuốc giải trừ.
Liệu DTH sẽ là thuốc giải độc CS? Có thể, do đó bọ VC sợ bà.

Nhân nhắc tới Weil, có lẽ cũng nên nhắc tới một 'xác tín' [certirude] của bà, "Ainsi se grave en elle pour toujours cette certitude que 'n'importe quel être humain, même si ses facultés naturelles sont presque nulles, pénètre dans ce royaume de la vérité réservé au génie, si seulement il  désire la vérité et fait perpétuellement un effort d'attention pour l'atteindre'."Simone Weil, Oeuvres, Introduction.
Tạm dịch: Bất cứ một cá nhân, cho dù ngu đần đến cỡ nào, cũng vào được vương quốc của sự thật, vốn dành riêng cho bậc thiên tài, nếu, và chỉ nếu, cá nhân đó sấn hết mình vào đó.
Hay câu này:
Giả sử như bạn 'ngu đần', không thể nào với tới thiên tài, bạn vưỡn cứ OK như thường, ấy là nói về chuyện bạn thèm biết chân lý!
[Elle - Simone Weil - puise dans sa doctrine l'idée qu'à défaut d'atteindre au génie, tout le monde peut connaitre la vérité].

Hay câu này:
Người tự hào thông minh thì cũng giống như tù tự hào phòng giam rộng rãi.
*
Tại sao Con Bọ VC?

Câu trả lời, mượn đỡ của Kertesz.
La mythologie moderne commence par une constatation négative : Dieu a créé le monde, l'homme a créé Auschwitz. Auschwitz était possible puisque nous l'avons rendu possible. C'est le reflet de notre vie. Nous pouvons le considérer comme le résultat de notre négligence existentielle.
Huyền thoại hiện đại bắt đầu bằng một khúc xương thật khó gặm: Thượng Đế sáng tạo ra con người. Con người sáng tạo ra Lò Thiêu. Lò Thiêu khả hữu bởi vì chúng ta làm cho nó khả hữu. Nó là phản ảnh đời chúng ta. Chúng ta có thể coi nó như kết quả của sự lơ là trong cuộc sống của chúng ta.
Nhưng Edmund Wilson, một phê bình gia Mẽo, trong tiểu luận The Wound and The Bow, đã giải thích, theo kiểu của Kim Dung, ở đâu có cái ác, ở đó có thuốc trị, nhưng hơi khác một chút: Ở đâu có sức mạnh ở đó có cơn dịch.
Ông coi đây là ý niệm về sức mạnh vô địch không thể tách rời một căn bệnh hiểm nghèo vô phương chữa trị.
[The conception of superior strength as inseparable from disability].
Nói rõ hơn, con bọ VC  là do sức mạnh 'kẻ thù nào cũng đánh thắng' mà ra.



Mit Critic


http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/07/vai-dat-su-ve-nhuong-tong.html?showComment=1481188185941


Vài dật sự về Nhượng Tống

Nếu trước 1945 ở Việt Nam có một thiên tài văn chương đích thực, đúng nghĩa và trọn vẹn nhất, thì thiên tài ấy là Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân.

Không có đâu như ở Việt Nam, một thiên tài văn chương đã hoàn toàn vắng bóng khỏi văn học sử chính thống. Sau rất nhiều thập kỷ, Nhượng Tống đã gần như bị quên hẳn, một số người có nhắc đến thì hầu như xuất phát từ một sở thích đối với những thứ mờ ảo mà bản thân họ cũng chỉ biết lờ mờ, để tỏ vẻ lập dị, đặc biệt. Phê bình (critique) văn học của Việt Nam vô cùng gần với tội ác (crime) chính ở những trường hợp như thế này. Thật ra suốt gần một thế kỷ qua, các nhà phê bình đã làm gì?


*
Cuốn của Tolstaya, order, bữa nay về. Trong có tất cả những bài đã giới thiệu trên TV, đã từng đăng trên NYRB. Cố tìm bài “Những thời ăn thịt người”, Gấu đã từng đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, bản dịch, đăng trên tờ Thế Kỷ 21, nhưng không thấy. (1)
(1) Kiếm ra rồi: Bài điểm cuốn của Robert Conquest: The Great Terror (Oxford University Press, 1990): “The Great Terror and the Little Terror”: Khủng Lớn & Khủng Nhỏ. Bài viết này, đọc ở Trại Tị Nạn Thái  Lan, mở ra cho Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc Kít.
Cuốn hồi ký của Pico Iyer cũng tuyệt lắm. Viết về sư phụ của ông, là Graham Greene, và nhân vật ông thật mê, là Người Mẽo Trầm Lặng, Pyle.
TTT biểu thằng em, trong 1 lần ngồi Quán Chùa, nhà văn An Nam chết non, cứ viết hết thời thanh xuân, là ngỏm. Về già Gấu nhận ra, nhà văn Mít chết non vì “đéo” có Thầy.
Thầy mũi lõ, không thể có, vì dốt quá, không đọc được chữ mũi lõ, Thầy mũi tẹt thì lại càng không có, vì, có thằng nào hơn tao đâu, mà Thầy mới lại chẳng Thầy!
Nên nhớ, nếu bạn thực tình mê văn chương, thực tình muốn có ngày trở thành nhà văn: Phải có Thầy!
Nguyễn Tuân mà chẳng xứng đáng là Thầy ư. Vậy mà Gấu đọc lũ nhà văn Mít, tên nào cũng chê ông!
Hẳn là có nhiều người bực mình, nhất là mấy đấng nhà văn cũng có tí tên tuổi, cũng có 1, hoặc 2 cái truyện ngắn được đời biết tới, chúng ông cũng nổi tiếng vậy, mà đâu cần Thầy.
Đúng như thế, và đây chính là cõi văn Mít, làng nhàng 1 lũ, áo thụng vái nhau, "đ
ế
ch" cần Thầy!

Cu
ốn trên, cũng đi làm từ thiện mất rồi!



Robert Conquest



Đời người thì ngắn ngủi. Với nhiều người, cái việc đào bới quá khứ thì chán ngấy, chưa kể đáng sợ, và họ chẳng có thì giờ. Vả chăng, ở 1 xã hội Tây Phương, ý niệm lịch sử yếu dần nếu không muốn nói, biến mất theo với năm tháng: Tây phương không sống với lịch sử, nó sống với văn minh (qua cái từ này, tôi muốn nói 1 thứ tự quan hoài, của 1 nền văn hóa liên quốc gia, mang tính kỹ thuật, đối nghịch với dòng tiềm thức, không tra hỏi của lịch sử). Nhưng ở Nga, gần như không có cái gọi là văn minh, và lịch sử thì nằm trong những tầng sâu, chưa ai mó tới, trên những làng xóm, thành phố nhỏ mấp mé bờ tiền sử, thời hoang sơ, trên những thành phố lớn ở những khu vực rộng, không biết đến cái gọi là có văn hóa, nơi ngăn cấm những người nước ngoài, và chính họ cũng chẳng dám mò tới. Ngay cả ở trung tâm thành phố Moscow, vẫn có những khu vực mà đời sống ở đó, thì “huy hoàng thế kỷ” 15, hay 11; thế kỷ 11 thì dễ hiểu, dễ thông cảm hơn, vì vào thời kỳ này, nước Nga phát triển nhiều về mặt văn hóa, văn minh, so với thế kỷ 15)

Tây Phương sống bằng văn minh, Mít sống bằng lịch sử. GCC thuổng ý này, khi viết về Bác Hồ, giống như cái xác ướp của Đức Thánh Trần, thí dụ, từ quá khứ bốn ngàn năm bèn sống lại, hoặc, buồn quá, bèn vỗ vai Hùng Vương, “toa” có công dựng nước, còn “moa”, giữ nước!



Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử, cho nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già dân tộc.
Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ.
Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn chương sử nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra, và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".




During Stalin's time, as I see it, Russian society, brutalized by centuries of violence, intoxicated by the feeling that everything was allowed, destroyed everything "alien": "the enemy," "minorities"-any and everything the least bit different from the "average." At first this was simple and exhilarating: the aristocracy, foreigners, ladies in hats, gentlemen in ties, everyone who wore eyeglasses, everyone who read books, everyone who spoke a literary language and showed some signs of education; then it became more and more difficult, the material for destruction began to run out, and society turned inward and began to destroy itself. Without popular support Stalin and his cannibals wouldn't have lasted for long. The executioner's genius expressed itself in his ability to feel and direct the evil forces slumbering in the people; he deftly manipulated the choice of courses, knew who should be the hors d' oeuvres, who the main course, and who should be left for dessert; he knew what honorific toasts to pronounce and what inebriating ideological cocktails to offer (now's the time to serve subtle wines to this group; later that one will get strong liquor).
    It is this hellish cuisine that Robert Conquest examines. And the leading character of this fundamental work, whether the author intends it or not, is not just the butcher, but all the sheep that collaborated with him, slicing and seasoning their own meat for a monstrous shish kebab.

Tatyana Tolstaya

Lần trở lại xứ Bắc, về lại làng cũ, hỏi bà chị ruột về Cô Hồng Con, bà cho biết, con địa chỉ, bố mẹ bị bắt, nhà phong tỏa, cấm không được quan hệ, và cũng chẳng ai dám quan hệ. Bị thương hàn, đói, và khát, và do nóng sốt quá, khát nước quá, cô gái bò ra cái ao ở truớc nhà, tới bờ ao thì gục xuống chết.
Có thể cảm thấy đứa em quá đau khổ, bà an ủi, hồi đó “phong trào”.

Tolstaya viết:

Trong thời Stalin, như tôi biết, xã hội Nga, qua bao thế kỷ sống dưới cái tàn bạo, bèn trở thành tàn bạo, bị cái độc, cái ác ăn tới xương tới tuỷ, và bèn sướng điên lên, bởi tình cảm, ý nghĩ, rằng, mọi chuyện đều được phép, và bèn hủy diệt mọi thứ mà nó coi là “ngoại nhập”: kẻ thù, nhóm, dân tộc thiểu số, mọi thứ có tí ti khác biệt với nhân dân chúng ta, cái thường ngày ở xứ Bắc Kít. Lúc đầu thì thấy đơn giản, và có tí tếu, hài: lũ trưởng giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà vạt, đeo kiếng, đọc sách, có vẻ có tí học vấn…. nhưng dần dần của khôn người khó, kẻ thù cạn dần, thế là xã hội quay cái ác vào chính nó, tự huỷ diệt chính nó. Nếu không có sự trợ giúp phổ thông, đại trà của nhân dân, Stalin và những tên ăn thịt người đệ tử lâu la không thể sống dai đến như thế. Thiên tài của tên đao phủ, vỗ ngực xưng tên, phô trương chính nó, bằng khả năng cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ đám đông, khôn khéo thao túng đường đi nước bước, biết, ai sẽ là món hors d’oeuvre, ai là món chính, ai sẽ để lại làm món tráng miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục mà Conquest săm soi. Và nhân vật dẫn đầu thì không phải chỉ là tên đao phủ, nhưng mà là tất cả bầy cừu cùng cộng tác với hắn, đứa thêm mắm, đứa thêm muối, thêm tí bột ngọt, cho món thịt của cả lũ.

Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest, bản nhìn lại, a reassessment, do Oxford University Press xb, 1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya, 1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan, cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực hãn hữu, được đọc nó, khi vừa mới Trại, qua tờ Thế Kỷ 21, với cái tên “Những Thời Ăn Thịt Người”. Không có nó, là không có Gấu Cà Chớn. Không có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu, như 1 tên Bắc Kít, nhà quê, may mắn được ra Hà Nội học, nhờ 1 bà cô là Me Tây, rồi được di cư vào Nam, rồi được đi tù VC, rồi được qua Thái Lan... là để được đọc bài viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn bài điểm sách, đọc những đoạn mặc khải, mới cảm khái chi đâu. Có thể nói, cả cái quá khứ của Gấu ở Miền Bắc, và Miền Bắc - không phải Liên Xô - xuất hiện, qua bài viết.
Khủng khiếp thật!



Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. ["We Russians don't need to eat; we eat one another and this satisfies us."].
Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga! "God forbid we should ever witness a Russian revolt, senseless and merciless," our brilliant poet Pushkin remarked as early as the first quarter of the nineteenth century.

Trong bài viết, Tolstaya kể, khi cuốn của Conquest, được tái bản ở Liên Xô, lần thứ nhất, trên tờ Neva, “last year” [1990, chắc hẳn], bằng tiếng Nga, tất nhiên, độc giả Nga, đọc, sửng sốt la lên, cái gì, những chuyện này, chúng tớ biết hết rồi!
Bà giải thích, họ biết rồi, là do đọc Conquest, đọc lén, qua những ấn bản chui, từ hải ngoại tuồn về!
Bản đầu tiên của nó, xb truớc đó 20 năm, bằng tiếng Anh, đã được tuồn vô Liên Xô, như 1 thứ sách “dưới hầm”, underground, best seller.
Cuốn sách đạt thế giá folklore, độc giả Nga đo lường lịch sử Nga, qua Conquest,"according to Conquest,"


Review of “The Great Terror: A Reassessment, by Robert Conquest” (Oxford University Press, 1990)

LAST YEAR Robert Conquest's The Great Terror was translated into Russian and published in the USSR in the journal Neva. (Unfortunately, only the first edition was published. I hope that the second, revised and enlarged edition will be published as well, if it is not suppressed by the censorship so recently revived in the Soviet Union.) The fate of this book in the USSR is truly remarkable. Many of those who opened Neva in 1989-90 exclaimed: "But I know all this stuff already!" How did they know it? From Conquest himself. The first edition appeared twenty years ago in English, was translated into Russian, and infiltrated what was then a closed country. It quickly became an underground best seller, and there's not a thinking person who isn't acquainted with the book in one form or another: those who knew English read it in the original, while others got hold of the Russian text, made photocopies at night, and passed them on. The book gave birth to much historical (underground and emigre) research, the facts were assimilated, reanalyzed, argued, confirmed, elaborated. In short, the book almost achieved the status of folklore, and many Soviet people measure their own history "according to Conquest," sometimes without realizing that he actually exists. This is why many readers, especially the younger ones, thought of Conquest's book as a compilation of "commonly known facts" when they read it for the first time. The author should be both offended and flattered.


He [Conquest] later called Marxism a “misleading mental addiction”. Ông sau đó gọi chủ nghĩa Mác là thứ “say mê, nghiện ngập về mặt tâm thần lầm lạc”.


  Ai Điếu Robert Conquest

Tay này, khui ra sự thực về Stalin: Một Con Quỉ



Ngày “Một ngày trong đời Ivan Denisovich” của Solzhenitsyn chính thức ra lò, Thứ Bẩy, 17 Tháng 11, 1962.
Cứ như ở trong nhà thờ, ông chủ báo Novy Mir kể lại cho tác giả, tình hình tòa soạn, độc giả lặng lẽ vô, lặng lẽ đưa ra 70 kopeck, lặng lẽ lấy một số báo, và lặng lẽ ra ngoài, nhường chỗ cho độc giả khác!
Nhưng, nếu như thế, liệu “Một ngày trong đời Ivan” có thể dài quá một số báo Novy Mir?
Không thể, theo Gấu.
Đúng như Lukacs, khi nhận định, vào thời điểm Cái Ác lên ngôi, cả văn chương và đời sống bỏ chạy có cờ, thì truyện ngắn đúng là cái anh chàng cảm tử đóng vai hậu vệ, cản đường tiến của nó. (1)
“Bếp Lửa, Kẻ Xa Lạ, Một ngày, Tướng về hưu”…  bắt buộc phải là truyện ngắn, không thể khác.
Hơn thế nữa, chưa cần đọc, chỉ đọc mỗi cái tên truyện không thôi, là đã đủ ngộ ra chân lý.
Nhân đang ồn ào về Dương Nghiễm Mậu, lịch sử không thể lập lờ, thế thì, tại nàm sao, trong danh sách trên, lại thiếu, những Rượu Chưa Đủ, Cũng Đành, Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi, Con Thú Tật Nguyền, Trăng Huyết, Trái Khổ Qua, Dọc Đường, Tư, và, lẽ dĩ nhiên: “Tứ tấu khúc” viết về Lan Hương và Sài Gòn!
Ôi chao, hoá ra Lukacs mới kỳ tài làm sao: ông biết trước, Cái Ác sẽ lên ngôi, và thiên tài của nơi chốn [ông thần đất, ông thành hoàng, ông địa...] sẽ ban cho miền đất bị trù ẻo này hơn một truyện ngắn, trong khi chờ, được chúc phúc trở lại.
*
(1) G. Lukacs, phê bình gia Mác xít, đọc Một ngày, và đưa ra nhận định như trên, về thể loại truyện ngắn.
Trớ trêu là, Robert Conquest, và tiếp theo, Martin Amis, cũng dựa trên kinh nghiệm của Solz, của trại tù Stalin, để giải thích sự dài ngắn của một cuốn sách.

Amis mở ra cuốn “Koba The Dread” của ông, bằng câu văn thứ nhì của Robert Conquest, trong cuốn “Mùa Gặt Buồn: Tập thể hóa Xô viết và Trận Đói-Kinh Hoàng: The Harvest of Sorrow: Soviet Collectivization and the Terror-Famine”:
Nếu lấy chữ mà so với mạng người, thì những chuyện gì xẩy ra ở trong cuốn sách của tôi, cứ hai mươi mạng người thì tương đương với, không phải một từ, mà một con chữ.
Câu tiếng Anh của Conquest, “We may perhaps put this in perspective in the present case by saying that in the actions here recorded about twenty human lives were lost for, not every word, but every letter, in this book”, tương đương với 3,040 mạng người. Cuốn sách của ông dài 411 trang.

Conquest trích một câu của Grossman, câu này tương đương với 3.880 mạng trẻ em:

"And the children's faces were aged, tormented, just as if they were seventy years old. And by spring they no longer had faces. Instead, they had birdlike heads with beaks, or frog heads-thin, wide lips-and some of them resembled fish, mouths open"
[Mặt trẻ em thì già cằn, tả tơi, cứ như thể chúng 70 tuổi đầu. Tới mùa xuân chẳng em nào còn có mặt, thay vì mặt thì là những cái đầu giống như đầu chim...]


*


Ai Điếu Robert Conquest
Tay này, khui ra sự thực về Stalin: Một Con Quỉ

Robert Conquest obituary
Historian and poet who exposed the full extent of Stalin’s terror during the Soviet era
http://www.theguardian.com/books/2015/aug/05/robert-conquest


Trong những sử gia Tây Phương về Liên Xô, Robert Conquest, mất 3/8/2015, 98 tuổi có 1 vị trí độc nhất. Ông không chỉ là người thứ nhất viết về khủng bố Stalin, mà còn là người chi tiết nhất, chính xác nhất về nó: Người nói sự thực về khủng bố Xì, và về tên bạo chúa sát nhân, the man who told the truth about the terror, and Stalin’s murderous tyranny.
Thay vì đi 1 đường tưởng niệm, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Tolstaya, khi điểm cuốn của Conquest. Nhờ bài viết này, đọc bản dịch, hay tóm tắt chẳng biết nữa, “Những Thời Ăn Thịt Người”, trên tờ Thế Kỷ 21, tại Trại tạm cư Panat Nikhom, cc 1989, Gấu mới ngộ ra Cái Ác Bắc Kít


My Old Saigon


Cám ơn ông, Mr. Grass


Và, xin vĩnh biệt, và cầu mong linh hồn ông sớm siêu thoát.
NQT
The Turkish Nobel laureate Orhan Pamuk had warm personal memories: “Grass learned a lot from Rabelais and Celine and was influential in development of ‘magic realism’ and Marquez. He taught us to base the story on the inventiveness of the writer no matter how cruel, harsh and political the story is,” he said.
Ông học nhiều từ Rabelais và Céline, và ảnh hưởng bởi hiện thực thần kỳ và Garcia Marquez. Ông ta dạy chúng ta, hãy viết, bằng phát kiến của nhà văn, đếch thèm để ý đến câu chuyện, cho dù nó độc địa, dữ dằn hay bị chính trị cấu xé, tới cỡ nào.
By Salman Rushdie
He danced across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because of his personal grace.
Sự vĩ đại của GG.
Ông khiêu vũ qua những ghê tởm, gớm ghiếc của lịch sử, tới cái đẹp của văn chuơng, sống sót cái ác, nhờ ân sủng cá nhân của mình.
Ui chao, thèm câu phán quá, đeo ở cổ...  Gấu Cà Chớn, như cái tai người, của 1 nhân vật, của NMG trong Mùa Biển Động.
Hà, hà!
[Note: Bạn chỉ cần dịch, từ "ân sủng", là "nhân hậu và cảm động", là ra GCC, thay vì GG!]
Noel coming I MISS U SO MUCH

*

Grass cực bảnh, theo GCC. Cái cú thú tội của ông thần sầu, khó có ai bắt chước được.
Chỉ cần 1 tên nhà văn Bắc Kít làm được như ông, là lịch sử xứ Mít đổi khác.
Lũ tinh anh của chúng, tên nào, não cũng bị thiến 1 mẩu, là thế!

Trong tập tiểu luận Quê Hương Tưởng Tượng, (Patries imaginaires), Salman Rushdie có nhắc tới một hình ảnh theo ông thật là tuyệt vời trong tác phẩm "Mùa Đông của ông Khoa trưởng" của nhà văn Mỹ, Saul Bellow, Nobel văn chương. Nhân vật chính, ông khoa trưởng, Corde, nghe tiếng chó sủa một cách man rợ ở đâu đó. Và ông ta tưởng tượng ra được rằng, tiếng sủa đó là sự nổi loạn của con chó chống lại sự hữu hạn của kinh nghiệm loài chó. "Thượng Đế hỡi, con chó nói, xin làm ơn mở rộng thế giới ra một chút xíu nữa". Rồi Rushdie kết luận: Bởi vì Bellow thực sự không nói chuyện mấy con chó, hoặc không phải chỉ nói chuyện về chúng mà thôi, tôi có cảm tưởng cơn cuồng nộ, và khát vọng của con chó cũng là của chúng tôi, của chúng ta, những người ở trên thế gian này.
Không hiểu sao, khi đọc bài phỏng vấn nhà văn Thảo Trường trên Văn, số tháng Chạp, 1996, tôi bỗng nhớ đến S. Rushdie, cùng cơn cuồng nộ, và khát vọng của ông. Nhà văn Thảo Trường khẳng định một điều: "Văn Học Việt Nam thì phải viết bằng Quốc Ngữ. Viết bằng chữ khác thì không nên gọi là văn học Việt Nam." Không ai có thể phủ nhận điều này. Và bởi vì ngay cả khi khẳng định, chúng ta vẫn còn tra hỏi, bởi vì câu hỏi nhiều khi cần thiết hơn là câu trả lời; cho nên ở đây, người viết chỉ xin đưa ra một đề nghị, liệu chúng ta có nên thêm vào Văn Học Việt Nam một "mảng văn chương viết bằng tiếng Anh".
Bởi vì Thượng Đế quả tình đã nghe được lời khẩn cầu của S. Rusdhie, và thế giới đối với ông quả có rộng thêm, không phải một chút xíu, mà thật rộng, ít ra cũng rộng hơn nhiều, so với đám di dân, tỵ nạn chúng ta.
Cùng với những nhà văn như Michael Ondaatje, Kazuo Ishiguro... họ đang đại diện cho dòng văn chương thế giới hiện đại: dòng văn chương viết bằng tiếng Anh của những người di dân. Họ cũng đã từng đoạt giải thưởng The Booker, một giải thưởng văn chương của "đế quốc Anh". Nếu không có những người như họ, liệu tiếng Anh, dòng văn chương viết bằng tiếng Anh có trở nên giầu có, trở thành niềm hãnh diện không phải của một số sắc dân mà coi như của toàn thể nhân loại. Bản thân người viết, khi đọc họ, thí dụ như nhà văn nữ Amy Tan, chỉ thấy đây là một người đàn bà Trung Hoa, viết về những đề tài muôn thuở của con người, và những xung đột, những mâu thuẫn... khi họ, những "đứa con của Trung Nguyên, của ông Trời", phải đụng đầu với thế giới Tây Phương; trong niềm tin tưởng mãnh liệt, chỉ cho họ đặt chân xuống đất Trung Hoa là họ trở thành người Trung Hoa "một trăm phần trăm".
Trong cuốn "Tàn Ngày", (The Remains of the Day), tác phẩm đoạt giải The Booker, nhà văn gốc Nhật, Kazuo Ishiguro đặt thẳng vấn đề, "người ta không thể có nhân phẩm, một khi là một tên nô lệ", và có nên trung thành với "ông chủ", Lord Darlington, một nhân vật biểu tượng cho vương quốc Anh, cho sự cao cả, la grandeur, của vương quốc đó, đến nỗi đẩy người yêu vào tay kẻ khác, cuối cùng khám phá ra ông chủ chỉ là một kẻ cộng tác với Nazi. 
Cũng trong Quê Hương Tưởng Tượng, S. Rusdhie, trong bài viết Luận về phê bình, Essai de critique, bàn về vấn đề di dân, về những tác phẩm văn học thế giới, và của nhà văn Đức, Gunter Grass. Ông viết: Có những tác phẩm mở ra những cánh cửa cho độc giả, những cánh cửa ở trong đầu, những cánh cửa mà họ chẳng bao giờ nghi ngờ đến sự hiện hữu của chúng. Và có những độc giả mơ ước trở thành nhà văn; họ tìm kiếm một cánh cửa lạ lùng nhất trong số tất cả những cánh cửa... Lại có những độc giả khác đọc và bắt đầu mơ mộng. Với những Alice như vậy, họ ao ước "di cư" từ Thế Giới vào trong Những Cuốn Sách. Đối với họ, có những cuốn sách (nếu họ may mắn) cho phép họ du lịch, cho phép họ trở thành "nhà văn có sẵn ở trong họ"... Một cuốn sách cũng giống như một tờ thông hành, và những tờ thông hành của tôi, gồm có Hồi Ký của Serge Eisentein, Con Quạ của Ted Hugues, Những Giả Tưởng của Borges, và trong mùa hè 1967, Cái Trống, của Gunter Grass.
G. Grass là đứa trẻ nổi tiếng nhất của Danzig (Lech Walesa, người độc nhất có thể tranh giành với ông danh hiệu này, thực ra sống ở Gdansk). Ông cũng là nhân vật quan trọng "trung tâm" của dòng văn chương di dân, và di dân lại là nhân vật trung tâm và quyết định của thế kỷ 20 này. Như rất nhiều di dân, như rất nhiều người đã mất một thành phố, ông tìm lại được nó trong hành trang của ông, dấu kỹ trong một cái hộp cũ bằng sắt. Thành phố Prague của Kundera, Dublin của Joyce, Danzig của Grass: Ôi chao, cái đám lưu đầy xứ người, cái đám tỵ nạn, cái đám di dân gói ghém không biết bao nhiêu là thành phố trong hành trang của họ theo suốt những cuộc hành trình "lang thang Do thái" đó! Và đừng coi thường sự cứng đầu của họ, những nhà văn như thế. Họ không cho phép bất cứ ai được "Gdansk hóa" quá khứ của họ. Trong cái thành phố mà Grass mang theo, Labesweg vẫn là Labesweg, và những xưởng đóng tầu nhìn thấy sự ra đời của Solidarnosc không gọi là Lénine, nhưng mà là Schichau.
Theo một nghĩa nào đó, Grass chỉ có một nửa "di dân". Một di dân chính hiệu đau nỗi đau ba lần "đứt phim": mất nơi chốn, sống ở một nơi có một tiếng nói xa lạ hoàn toàn, sống với những người xa lạ hoàn toàn, nhiều khi còn tỏ vẻ thù nghịch đối với người đó. Chính ba lần đứt phim này đã biến di dân trở thành quan trọng vì ba điều vừa kể trên là ba thành phần quan trọng nhất để định nghĩa một con người. Mất cả ba, họ bắt buộc phải tìm những cách thức mới để tự diễn tả, những cách thế mới để là người.
Di dân dâng hiến cho chúng ta "ẩn dụ" giầu có nhất của thời đại. Từ "ẩn dụ", métaphore, theo gốc Hy Lạp của nó, có nghĩa "mang qua", diễn tả một trạng thái thiên di, từ ý tưởng qua hình ảnh. Di dân do đó là những sinh vật ẩn dụ tự bản chất.
Grass còn là một di dân đối với quá khứ của ông. Không phải đợi đến khi người Mỹ tới, và cuộc chiến chấm dứt ông mới nhận ra chuyện gì thực sự đã xẩy ra ở Đức. Một kinh nghiệm mới đắng cay làm sao khi khám phá ra rằng hình ảnh toàn diện về thế giới mà người ta có được là giả, không những giả mà còn được tạo nên từ Quỷ, từ Ma. Và trách nhiệm mới lớn lao làm sao đối với chỉ một cá nhân: xây dựng lại, tái tạo thực tại từ những mảnh vụn, những điêu tàn. Theo nghĩa đó, Grass là một di dân trong Lịch Sử. Ông là di dân "kép", chứ không chỉ một nửa. 
Quê Hương Tưởng Tượng, tại sao vậy?
Trong bài viết được dùng làm tên cho cả tập, S. Rushdie viết về một kỷ niệm lần ông trở lại Bombay. Như những di dân, những kẻ lưu đầy xứ người, ông luôn bị ám ảnh bởi một nỗi mất mát, và sự cần thiết phải "tái chinh phục" quá khứ, phải quay về với nó, cho dù có bị biến thành tượng muối. Nhưng nếu chúng ta quay lại, chúng ta phải biết rằng là, sự xa mặt đã làm cho chúng ta không thể nào tái chinh phục được cái đã mất; một cách ngắn gọn, chúng ta sẽ chỉ xây dựng được, không phải những thành phố, những làng mạc thực mà là những quê hương tưởng tượng.
Những Việt Nam, Sài-gòn, Mỹ Tho, Cai Lậy... của trí tưởng.
NQT
Note: Bài viết này, Gấu viết, hình như 1997, khi bắt đầu giữ mục Tạp Ghi của tờ VH, của NMG. Nay, để tưởng niệm G. Grass, Tin Văn đi hết bài viết của Rushdie, về ông, trong Quê Hương Tưởng Tượng.
Tính đi bài trên The New Yorker, nhưng hết credit, tờ báo đếch cho đọc!
Đọc được rồi, dùng 1 cái PC khác, hà hà!
In 1982, when I was in Hamburg for the publication of the German translation of “Midnight’s Children,” I was asked by my publishers if I would like to meet Günter Grass. Well, obviously I wanted to, and so I was driven out to the village of Wewelsfleth, outside Hamburg, where Grass then lived. He had two houses in the village; he wrote and lived in one and used the other as an art studio. After a certain amount of early fencing—I was expected, as the younger writer, to make my genuflections, which, as it happened, I was happy to perform—he decided, all of a sudden, that I was acceptable, led me to a cabinet in which he stored his collection of antique glasses, and asked me to choose one. Then he got out a bottle of schnapps, and by the bottom of the bottle we were friends. At some later point, we lurched over to the art studio, and I was enchanted by the objects I saw there, all of which I recognized from the novels: bronze eels, terracotta flounders, dry-point etchings of a boy beating a tin drum. I envied him his artistic gift almost more than I admired him for his literary genius. How wonderful, at the end of a day’s writing, to walk down the street and become a different sort of artist! He designed his own book covers, too: dogs, rats, toads moved from his pen onto his dust jackets. 
After that meeting, every German journalist I met wanted to ask me what I thought of him, and when I said that I believed him to be one of the two or three greatest living writers in the world some of these journalists looked disappointed, and said, “Well, ‘The Tin Drum,’ yes, but wasn’t that a long time ago?” To which I tried to reply that if Grass had never written that novel, his other books were enough to earn him the accolades I was giving him, and the fact that he had written “The Tin Drum” as well placed him among the immortals. The skeptical journalists looked disappointed. They would have preferred something cattier, but I had nothing catty to say. 
I loved him for his writing, of course—for his love of the Grimm tales, which he remade in modern dress, for the black comedy he brought to the examination of history, for the playfulness of his seriousness, for the unforgettable courage with which he looked the great evil of his time in the face and rendered the unspeakable into great art. (Later, when people threw slurs at him—Nazi, anti-Semite—I thought: let the books speak for him, the greatest anti-Nazi masterpieces ever written, containing passages about Germans’ chosen blindness toward the Holocaust that no anti-Semite could ever write.) 
On his seventieth birthday, many writers—Nadine Gordimer, John Irving, and the whole of German literature—assembled to sing his praises at the Thalia Theatre in Hamburg, but what I remember best is that when the praise songs were done music began to play, the theatre’s stage became a dance floor, and Grass was revealed as a master of what I call joined-up dancing. He could waltz, polka, foxtrot, tango, and gavotte, and it seemed that all the most beautiful girls in Germany were lining up to dance with him. As he delightedly swung and twirled and dipped, I understood that this was who he was: the great dancer of German literature, dancing across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because of his personal grace, and his comedian’s sense of the ridiculous as well. 
To those journalists who wanted me to diss him in 1982, I said, “Maybe he has to die before you understand what a great man you have lost.” That time has now arrived. I hope they do.
Vào năm 1962, khi tôi tới Hamburg nhân dịp ra lò ấn bản tiếng Đức, "Những Đứa Con Giờ Tý", nhà xb gợi ý hay là tụi mình đi thăm GG?
Why not? Thế là chúng tôi làm 1 chuyến ghé thăm ông, ở 1 cái làng; ông có hai ngôi nhà ở trong làng, một để viết, và sống, một để vẽ vời, ông là 1 họa sĩ ra trò.
Sau cú đi thăm, mọi tên ký giả Đức mà tôi gặp, đều hỏi tôi, nghĩ gì về GG, và tôi bèn phán, ông ta là 1, hoặc, 1 trong 2, hoặc 1 trong 3, nhà văn vĩ đại nhất hiện còn sống trên thế giới; vài tên ký giả ngó bộ thất vọng, thằng chả đó ư, "Cái Trống Thiếc", OK, nhưng Xưa rồi Diễm ơi, thằng chả teo chim rồi, hết viết được rồi, hà, hà! 






Khiem Do commented on this.
Ồ, không thấy báo chí nước ta tường thuật về lễ tang đồng chí Phi Đen nhở. Để truyền thông nước ngoài bôi bác thế này a?
Lược dịch nội dung bài báo: Xe tang chở Fidel Castro chết máy giữa đường. Theo tin cho biết, một cảnh gần như hài hước diễn ra giữa lễ tang Fidel khi chiếc xe chở di cốt ông chết máy dọc đường và các quân nhân tháp tùng phải đẩy bộ. Được biết đây là chiếc xe do Nga sản xuất. Hình ảnh này nhanh chóng được mọi người lan truyền lại qua trang Twitter với lời bình rằng đó là hình ảnh ẩn dụ không thể khéo hơn cho chế độ Fidel!
Bình luận gia Xuan Nguyen thì đặt câu hỏi hùng biện rằng không biết tại trí não (căn cốt?) người quá nặng hay xe cộ Nga quá phập phù?
His brain is only too heavy! Or, Russian cars too lousy... Make your choice!


townhall.com|By Christine Rousselle

Note: Gấu Cà Chớn gặp đúng cảnh này, lần từ giã Trại Tị Nạn Thái Lan, lên đường tái định cư Xứ Lạnh. Đã kể trên Tin Văn một hai lần rồi.
Trước hết, là tăng xông đột nhiên vọt lên tới trần nhà.
Bác sĩ tính gạch tên ra khỏi chuyến bay. May quá, Thứ Bảy. Bèn cho vô bịnh viện nằm, tiêm thuốc hạ tăng xông. Tới Thứ Hai, đo lại tăng xông, OK!
Trên đường đi tới phi trường, xe chết máy, y chang Fidel!




Viết Mỗi Ngày


*
"My author is Kafka", Calvino once told an interviewer when asked about his influences, and his presence is discernible throughout Calvino's work, from The Argentine Ant to the 1984 story Implosion. Here Calvino links two of literature's most introspective characters, the doomed prince Hamlet (the story begins: "To explode or to implode – said Qfwfq – that is the question") and the mole-like creature from Kafka's death-haunted story The Burrow, in a beautiful but deeply melancholic rumination on black holes and the death of the universe, and an apprehension that obliteration lies at the heart of each individual consciousness:
    "Don't distract yourselves fantasizing over the reckless behaviour of hypothetical quasi-stellar objects at the uncertain boundaries of the universe: it is here that you must turn your attention, to the centre of our galaxy, where all our calculations and instruments indicate the presence of a body of enormous mass that nevertheless remains invisible. Webs of radiation and gas, caught there perhaps since the time of the last implosions, show that there in the middle lies one of these so-called holes, spent as an old volcano. All that surrounds it, the wheel of planetary systems and constellations and the branches of the Milky Way, everything in our galaxy rests on the hub of this implosion sunk away into itself."
Thầy của tôi là Kafka.
Không 1 tên Mít nào viết nổi 1 câu thật là bình thường như vậy.
Bài viết này, nằm trong loạt bài nghiên cứu về truyện ngắn của tờ Guardian. Bài này cũng thật là tuyệt



Quyen Nguyen replied to a comment on this.
Xin cảnh báo với đồng bào: đây là một cuốn tiểu thuyết CHỐNG sự đọc ở cảnh giới cao: dài một cách tăm tối, gần 342 ngàn từ, tức gấp 5 lần một cuốn tiểu thuyết bình thường cỡ 300 trang, và đều đều một cách tuyệt vọng. Xin tóm tắt kinh điển này như sau: đàn bà lố bịch làm tình với đàn ông hãm. Tôi xin góp phần nhỏ bé của mình vào việc điểm thêm một bà già và ế. Xin phép tag anh dịch giả Lê Khánh Toàn :D để trước xin lạy sau xin bày tỏ sự ngưỡng mộ vô tận với công trình thế kỷ của anh
Image may contain: text
Bên phía nhà Z
56 mins
Điểm sách, "Cuốn sổ vàng," Ngủ lang với Chủ nghĩa Cộng sản và, với nhiều thứ khác
CUỐN SỔ VÀNG
Của Doris Lessing. Dịch bởi Lê Khánh Toàn.
667 trang. Nhã Nam & N...

See More
http://www.tanvien.net/dich/Lessing_auto.html


Tui tin rằng, có vài cô bé, trong có tui, nên học thực tập yêu với một người đàn ông lớn tuổi hơn, khi họ ở cái tưổi ô mai.
Stalin khốn kiếp hơn Hitler cả hàng ngàn lần. Nếu những trí thức gia như Heidegger, và Paul de Man, bị xét xử vì tội phò Nazi, tại sao lũ khốn khóc Stalin không bị trừng trị?
Mà, quái quỉ thật, chẳng ai để ý đến chuyện này?
Nadine Gordimer, and Lessing (who, though reluctant to accept the label "African writer”, freely acknowledges that her sensibility was formed in and by Africa) - none completed high school. All were substantially self-educated, all became formidable intellectuals. This says something about the fierceness with which isolated adolescents on the margins of empire hungered for a life they felt cut off from, the life of the mind - far more fiercely, it turned out, than most of their metropolitan cousins.
Trong cả ba nhà văn nổi tiếng nổi lên từ Nam Phi, chẳng có ai học xong trung học, cả ba đều tự học tới chỉ, và trở thành những nhà trí thức đến tận lỗ chân lông. Điều này cho thấy, sự quyết tâm, của những người trẻ tuổi ở mép bờ của đế quốc, bởi vì họ tin rằng chỉ có cách đó, mới có được cuộc sống mà họ thèm khát: cuộc sống của trí tưởng.
*
Nếu nói về ngổ ngáo, độc miệng, yêu quái dị, thì TTNgh. thua bà Lessing này.
Bà gọi phê bình gia là lũ chấy rận hút máu mủ nhà văn.
Yêu quái dị: she records, she has been more interested in the "amazing possibilities" of the vagina than in the "secondary and inferior pleasure" of the clitoris. "If I had been told that clitoral and vaginal orgasms would within a few decades become ideological enemies ...I'd have thought it a joke.": Tôi quan tâm đến những chiêu yêu quái dị của cái cửa mình, hơn là cái lạc thú thứ cấp, và nội tại, của cái hột le. Nếu có người nói với tôi, cái hột le và cái cửa mình người đàn bà, chỉ trong vài thập kỷ, sẽ trở thành những kẻ thù ý thức hệ, thì tôi nghĩ đây chỉ là một chuyện khôi hài."
As someone whose life has had a substantial public and political component, Lessing confesses a certain respect for people who don't write memoirs, who "have chosen to keep their mouths shut." Why then her own autobiography? Her answer is candid: "self-defense." At least five biographers are already at work on her. "You try and claim your own life by writing an autobiography".
Bà thú nhận, rất phục... [Gấu, một trong số] những người không viết hồi ký, tự thuật, những người chọn cái chuyện ngậm miệng ăn tiền. Như vậy tại sao bà lại viết. Câu trả lời cũng thật là ngây thơ, thành thật: Tự vệ.
*
Lại nói về yêu quái dị.
Hồi ở trại tị nạn chuyển tiếp Thái Lan, trong lúc chờ phái đoàn phỏng vấn, tái định cư tại một đệ tam quốc gia, vào một buổi trưa nóng nực, Gấu nghe một bà hàng xóm nói oang oang, hồi còn con gái, rồi hồi mới lấy chồng, bà hay thẹn, chẳng bao giờ dám nhắc tới chuyện phòng the, hay những chuyện tục, nhưng ông chồng của bà lại rất thích nói tục, làm tục, ổng biểu, phải tục, thật tục, như con vật thì mới sướng hết cỡ thợ mộc như là con người vào những giây phút như thế đó.
Thế rồi bà kể tiếp, ông chồng bà có một thói quen, khi ngủ, bắt bà phải nựng thằng nhỏ, "ru mãi ngàn năm", thì mới dỗ giấc ngủ của thằng lớn được!
Lúc đầu, tui ngượng quá, tuy chỉ có hai vợ chồng. Nhưng sau đó, tui ghiền, cứ mỗi lần nằm ngủ, là phải nựng thằng nhỏ mới ngủ được!
Đau khổ nhất, là, những ngày sau đó, ổng chán tui, cứ hất tay tui ra, không cho nựng thằng nhỏ nữa.
Ôi chao, sao khủng khiếp quá, không hẳn tui ghen, mà tôi thèm nựng thằng nhỏ!


Mit Critic

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/12/su-ky.html#more


Cái dở của việc đọc sách hồi nhỏ là cứ đọc đi đọc lại rồi lại đọc đi đọc lại, thậm chí đến nỗi thuộc lòng rất nhiều đoạn. Sao hồi bé chúng ta ngu thế nhỉ?
NL

Note: Cái chết của nền giáo dục Bắc Kít, là do dạy con nít hận thù - trồng người  100 năm - tức là 1 nền giáo dục hận thù, đúng như Borges chỉ ra, khi viết về Nazi.
Bởi thế mà Naipaul, theo Gấu, không đọc được Borges, khi chê ông suốt đời mê mải với cái vĩnh cửu.
Nhưng chính cái “bài luận mẫu”, cũng giết giáo dục Bắc Kít.

GCC, "đau đáu" với cái đau, tại sao lũ tinh anh Mít Miền Nam, nhất là lũ học Triết, rồi tới lũ bỏ chạy cuộc chiến... không tên nào viết được cái gì cho ra hồn, và sau cùng ngộ ra, chính cái chính sách “hoãn dịch vì lý do học vấn’ làm hại chúng!
Những đấng như Thầy Đạo, Thầy Quân, Thầy Thục... không tên nào viết cho ra hồn, vì cứ ngồi xuồng bàn viết 1 phát, là cours của Thầy lại hiện ra ở trong đầu của họ, rõ mồn một rồi.
Nói rõ hơn, chúng học thuộc cours của Thầy, đến không làm sao quên được nữa!
Gấu đã kể về cái lần thi lấy chứng chỉ Triết Tây Phương, có thể nói, trúng tủ, vì gặp đúng đề tài, đã từng đọc trong cours Sorbonne, mua ở Lê Phan, đếch thèm học cours của Thầy NVT - vì lúc đó đi  làm Bưu Điện rồi, ghi danh học theo kiểu hàm thụ -, và bị đánh rớt- mày không học thuộc cours của tao, Gấu cứ như nghe Thầy NVT phán – thế là bèn bye bye Văn Khoa Saigon, sau khi lấy được cái Triết Dự Bị.

Thầy khốn nạn, đẻ ra học trò khốn nạn.
Gấu nhớ là, đọc cái đề thi, mừng quá, nghĩ thầm, xong rồi!

Mấy Thầy Đạo, Thầy Thục, do học thuộc cours quá, thế là “thoát chết, sống sót”, nhưng không sao viết được nữa!
Steiner cũng đã kể về lần gặp 1 ông Thầy Mẽo, khi vô học Đại Học, và bị Thầy chửi, mi học theo kiểu Tây, học thuộc lòng, “hư mẹ mi” mất rồi!

Note: Bài trả lời phỏng vấn The Paris Review này, cực kỳ quan trọng, vì có rất nhiều vấn đề liên quan đến Mít chúng ta, thí dụ Cái Ác Nazi. Steiner, thoát chết Lò Thiêu, nhưng không làm sao quên nổi tro than của nó. Nhờ những người như ông, hay như Levi, mà có thể nói, Âu Châu đã được cứu thoát, bởi cái họa Nazi, và sau đó, cái họa Đỏ.
Hai cái họa này, kể như "còn nguyên" với xứ Mít.


http://www.tanvien.net/Tuong_niem/trinh_cong_son_tuong_niem.html


*
Đường may mắn.
Hình trên, là một bài toán lớp Đệ Ngũ.
Trên hai cạnh một góc nhọn, lấy hai đoạn bằng nhau AB và CD. Chứng minh:
MN - đường nối trung điểm AC và BD - song song với đường phân giác của góc.
 Gấu đã giải được, nhờ phịa ra thêm một đường.
Thiếu đường vẽ thêm đó, là vô phương!
Có những con đường may mắn như thế, phải đợi tri âm của nó, hàng bao nhiêu thế kỷ!
Koestler, trong Hành động sáng tạo, The Act of Creation, viết về trường hợp Kepler: Hình học "cô níc" đã từng được Apollonius of Perga nghiên cứu từ thế kỷ thứ tư, trước BC, chỉ để vui đùa, giải trí, và phải đợi Kepler, hai ngàn năm sau, mới biết cách sử dụng nó, vào việc nghiên cứu quĩ đạo các hành tinh. Mấy định luật về cô-níc, [hình e-líp, ở đây], Kepler khám phá ra, là nhờ đo đạc đường bay của mặt trời, và khi biết, nó là hình e-líp, ông đã hoảng hồn, ghi vào nhật ký, tôi phải là một tên khùng, một kẻ sát nhân, bởi vì điều tôi khám phá ra đó, từ thời Pythagore người ta đã biết rồi!

Gấu viết đến đây, bỗng nhớ lại kỷ niệm tự mình kiếm ra phương trình đường thẳng, vội vàng đi khoe với bạn học, và bị ông bạn nhìn với cặp mắt thương hại, ôi chao, sao lại có thằng ngu như mày, hả Gấu, điều sơ đẳng đó, người ta đã kiếm ra từ đời nảo đời nào rồi.

Đây cũng là kinh nghiệm để đời cho mấy ông nghệ sĩ: một thằng cha sáng tạo ra cái mới phải là một thằng thuộc lòng quá khứ, và chán quá khứ quá, nên mới phịa ra cái mới, chỉ để vui chơi mà thôi!

Vì quá mê chơi đổ hột xí ngầu mà Chevalier de Méré tìm gặp Pascal để nhờ ông này cố vấn, làm sao đổ xí ngầu cho ngon lành, và thế là môn học xác xuất ra đời.
Có khi, tưởng là may mắn, nhưng thực sự, chỉ lập lại, một hành động trong đời xưa, kiếp trước.
Hành động sáng tạo của cô khỉ đột Nueva, a young female chimpanzee, Koestler kể ra, trong Hành động sáng tạo, ông cho rằng, đã được lập lại, từ đời trước, earlier life. 
Gấu đã từng gặp "một vài lần", như vậy.
*
Nhân chuyện học, ở trong nước, mới có một em được điểm 10 cao quí nhất của môn văn, là nhờ nhớ như in, một bài văn mẫu!
Đây là một trường hợp quá tuyệt vời của kiểu giáo dục 100 năm trồng người. Thành công một trăm phần trăm! Trồng sao, thì quả vậy.
Gấu bỗng nhớ, một trường hợp y chang, nhưng hơi bị ngược lại, của học sinh Miền Nam. Chuyện này hoàn toàn "non-fiction", không phải giả tưởng, vì xẩy ra với một người học trò của Gấu: Cô con gái của ông Chú của Gấu, mà Gấu khi đó làm nghề kèm trẻ tại gia. Ông chú này Gấu đã nhắc tới nhiều lần, thí dụ như trong Tên của cuộc chiến.
Năm đó, cô học thi lấy bằng tiểu học. Bài luận văn trong kỳ thi y hệt một bài cô đã từng được Gấu dậy. Nghĩa là trúng tủ. Và thế là đậu.
Lạ một điều, là thi vô Đệ Thất trường công, cũng một bài luận văn tương tự. Cô gái về nhà mếu máo, bài thi y hệt bài cũ, đã ra thi kỳ thi tiểu học vừa rồi, em không dám lập lại bài thầy đã dậy, vì nghĩ, như vậy là không được đàng hoàng!

Một cách nào đó, cô gái mơ hồ hiểu ra cái gọi là học. Học, cũng chẳng khác gì sáng tạo, nghĩa là không hề lập lại, ngay chính mình.
Gấu nhớ đến câu chuyện một ông thợ làm đồ sành đồ gốm, xong, trang trí bằng những hoa văn. Khách thấy đẹp quá, bèn order, cho thêm vài cái nữa. Mấy cái sau, ông thợ tính giá gấp đôi, gấp ba. Khách ngạc nhiên. Ông thợ phán: Lập lại chán chết!

Ôi chao, tại sao lại có một cách dậy học sinh tuyệt vời đến như thế, tại sao lại có những người học sinh tuyệt vời đến như thế!
Vậy mà tụi khốn nạn làm hư hỏng hết, thê thảm chưa!
Không chỉ một, mà, chẳng biết, bao nhiêu thế hệ.
Như vậy mà không đau, không xót, không chửi?


Viết Lại Truyện Kiều

Czeslaw Milosz, trong 1 bài viết ngắn về Dos, đã đưa ra nhận xét, không phải chỉ sự quan tâm của Dos về 1 nước Nga đã đem đến cho ông sức mạnh, nhưng còn là những sợ hãi của ông về tương lai nước Nga đã bắt ông phải viết để đưa ra 1 lời cảnh báo. [It was not only his concern for Russia that gave him strength, but also his fears about Russia’s future that forced him to write in order to issue a warning]. Nhìn như thế, thì Mít không cần thứ văn chương “Đĩ Thúi”, bởi nó chỉ là 1 thứ ẩn dụ cởi truồng nhắm chửi xéo chế độ - khi nhà văn vô lại không dám trực diện đồi đầu với nó, như 1 Phương Uyên, chẳng hạn.
Cái thứ văn chương ẩn dụ cởi truồng này, vốn được đám nhà văn VC ưa sử dụng, nhằm tránh kiểm duyệt, mà vẫn được coi là “liều mạng”, “cách mạng”, theo Gấu, hết thời rồi. Đây là cái mặt “side-effect”, phản ứng phụ, của một NHT, chuyên sử dụng nhân vật lịch sử để nói chuyện hiện tại. Đám đàn em bắt chước, nhưng thiếu tài, thiếu tâm, vả chăng đều đã từng cúc cung phục vụ chế độ, khi bị đá, bèn "ở về phía nước mắt", cực tởm.  
It is good to be born in a small country where nature is on a human scale, where various languages and religions have coexisted for centuries. I am thinking here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với con người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi đang nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Czeslaw Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Lần đầu đọc, khúc trên, Gấu bèn nghĩ đến cái xứ Bắc Kít ngày nào của Gấu. Cái miền đất của huyền thoại đó, có thiệt, ở thằng Gấu Bắc Kít nhà quê, mắt lé, lùn, một phần, có sẵn trong máu, một phần, có thể là nhờ đọc những tác phẩm đầu đời, loại Sách Hồng, như “Những chiếc ấm đất”, “Ông Đồ Bể”. Lớn thêm 1 tí, thì là nhờ đọc Nguyễn Tuân, qua “Vang Bóng Một Thời”, hay Nguyễn Công Hoan, qua “Bước Đường Cùng”, thí dụ.
Phải đến mãi sau này, đi hết cuộc chiến, cuộc tình, với Cô Bạn, và với Cô Ba, nhìn lại lũ con tư sinh của một miền đất, trong có Gấu, và đọc câu của Nguyễn Du, “thiện căn ở tại lòng ta”, Gấu bèn đi tìm cái thiện căn, của những đấng “tư sinh”, Bắc Kít di cư, và phát giác, có, nhưng không chỉ có nó, mà còn có Cái Ác Bắc Kít, "rong ruổi bên nhau".
Rõ nhất là ở những đấng “tay phải vẽ hình vuông, tay trái vẽ hình tròn”, như Duyên Anh, thiện căn thì đẻ ra “Con sáo của em tôi”, ác căn Bắc Kít, thì ra ông Thương Sinh cực độc. Rồi ông Lê Tất Điều cũng có “Những Giọt Mực” rong ruổi kế bên ông Kiều Phong chuyên “trừ tà”, giống như nhân vật trong “Cửa Tùng Đôi Cánh Gài”, của Nhất Hạnh. 
Trừ Tà ghê quá, biến thành Tà hồi nào, đếch biết!
Ông Số 2 thì “Thơ Trong Tiếng Mít”, kế bên những bài viết của Đạo Cấy.
Cấy gì?
Cái Độc, Cái Ác Chống Cộng Điên Cuồng, nhưng đằng sau thì chứa Cộng trong nhà, trong tòa soạn NV.
Bạn đọc bài viết kể chuyến anh y tá dạo công du, mà chẳng thấy thổi VC còn bảnh hơn nhiều, so với trong nước ư? (1)
Với tên nhà văn vô lại, NV, đếch còn tí thiện căn nào cả!
Không chỉ với ông ta mà với toàn bộ đám VC nhà văn Bắc Kít.
Dòng văn chương “thiện căn” Bắc Kít chấm dứt với NHT.
Cực độc đấy, nhưng vẫn còn mầm thiện!
Bởi vậy mà khi Sến cô nương đăng "Đĩ Thúi", bèn phán, có ta ở trong đó!
Nói toàn bộ nhà văn VC Bắc Kít, hẳn là nhiều người bực mình. Nhưng đúng như thế đấy.
Đám Bắc Kít bây giờ viết văn là để tự cứu họ, chưa xong, làm sao nghĩ đến cái ác, cái thiện?
Trong cuộc tử đấu tay đôi giữa nhà văn và thế giới, hãy cứu mình trước đã!
Nói rõ hơn, họ không bị mắc míu với câu hỏi thiện ác, có thể nói như vậy.
Có vẻ như họ đếch đau khổ một chút nào khi viết, nói như Milosz, khi viết về Akhmatova.
Chỉ thấy sướng điên lên, vì sáng tạo, có thể!
Cthể, cái cuộc xung đột thiện ác của 1 miền đất, chấm dứt với ngày 30 Tháng Tư 1975?
Gấu có ý nghĩ đó, khi vừa chơi xong bài thơ ngắn của Milosz, sau đây:
Quà tặng
Một ngày thật hạnh phúc
Sương tan sớm, tôi làm vườn
Chim đậu trên cành
Đếch có cái gì trên mặt đất mà tôi muốn sở hữu
Đếch biết 1 ai xứng đáng cho tôi thèm
Cái Ác, bất cứ gì gì, mà tôi đã từng đau khổ, tôi quên mẹ mất rồi.
Nghĩ, có thời, tôi cùng là 1 người, cũng chẳng làm phiền tôi.
Trong thân thể tôi, tôi không cảm thấy đau
Khi ngẩng đầu lên, đứng thẳng dậy, tôi nhìn thấy biển xanh và những cánh buồm.
Berkeley, 1971.
Milosz là 1 nhà thơ mà cái phần cực độc, cực ác, không thua bất cứ ai, có thể nói như vậy. Suốt đời, ông thèm được như Brodsky, sống 1 cuộc đời gần như sống 1 phép lạ. Nhưng sau ông nhận ra, chính cái phần nhơ bẩn ác độc, với ông, cần hơn nhiều, so với “thiện căn”.
Sự tương phản giữa thiện và ác, của miền đất Bắc Kít, rõ nhất, là qua Tô Hoài của “Dế Mèn”, và của “Ba Người Khác”. Với Tô Hoài, không có sự cứu rỗi, và có vẻ ông cũng chẳng hề bận tâm, về 1 "evil" mà ông đã từng đau khổ, và quên mẹ mất rồi. Nhưng với Milosz, nếu có cứu chuộc, là nhờ đọc Simone Weil, và cái gốc Ky Tô của ông, theo Gấu. Bữa nào rảnh, TV sẽ đi 1 đường chuyển ngữ, bài của Milosz, “Sự quan trọng của Simone Weil”, hầu độc giả thân mến TV!
Hà, hà!


My Old Saigon


Không phải tên một tác phẩm của một nhà văn nữ nổi tiếng của Sài gòn năm xưa đâu nha. Tôi đang nghĩ đến mấy con mèo hoang tôi gặp trên đường rừng.


Note: Chắc là nhớ lộn. Mèo Đêm. Của Thụy Vũ. Bà này mới được trong nước tái bản liền 1 lúc mấy cuốn.
Cuốn "Khung Rêu" của Bà được Nobel văn chương của ông Diệm. 1971.


*


Hãy Nói Về Miền Nam
  Câu chuyện về một "Muỗng Nước Mắm" của Nguyễn Thị Thụy Vũ
 Nhưng câu chuyện về một Deep South của Quentin không chấm dứt với chiến tranh. Đại tá Sutpen về nhà, [Quentin] nói, để thấy rằng vợ đã chết, con trai, một kẻ trốn chạy, những nô lệ của ông phân tán (họ bỏ chạy trước khi được giải phóng bởi quân đội Union), và hầu hết đất đai của ông bị trưng thu do nợ nần.

(Malcolm Cowley giới thiệu William Faulkner, trong The Portable Faulkner, nhà xb The Viking Press New York)
 "Tại sao anh thù ghét Miền Nam?", Shreve McCannon hỏi, sau khi nghe xong câu chuyện – "Tôi không thù Miền Nam", Quentin trả lời liền lập tức. "Tôi không thù Miền Nam," anh lập lại, như thể nói với tác giả, và với chính mình. Tôi không thù …. Tôi không. Tôi không thù! Tôi không thù!
 William Faulkner. Absalom, Absalom! (1936)
  Trong số những truyện ngắn của Thụy Vũ, có một, ít được nhắc tới, nhưng có lẽ đây là truyện ngắn hay nhất của bà, cho thấy cái mạch ngầm của ‘dòng văn học miền nam’: thiên về tâm linh, và nó ‘nhập thế’ qua hình ảnh của một đạo gia hơn là của một nhà văn. Đây là điểm thật khác biệt giữa hai dòng văn chương, một mang "chiến đấu tính", và một tuân theo sức mạnh vô hình, của điều được gọi là "thiên tài của nơi chốn", hay của Thần Đất (genius loci, the spirit or guardian deity of the place).
 Đó là câu chuyện về một người đàn bà, hình như một ‘Chị Hai’ trong một gia đình miền nam. Chị Hai nhiều khi không hẳn là một ruột thịt trong gia đình, mà chỉ là một người làm công lâu đời, người viết không khỏi liên tưởng tới người vú da đen, trong Âm Thanh và Cuồng Nộ của William Faulkner: những con người gìn giữ lương tâm của cả một miền đất. Malcolm Cowley viết về những nhân vật của Faulkner: dù anh hùng, hay tiểu nhân, họ có một cảm quan kỳ cục: nhẫn nhục với số mệnh của mình (They… carry, whether heroes or vilains, a curious sense of submission to their fate).
 Bà Chị Hai của Thụy Vũ, suốt đời ăn chay niệm Phật, tới phút hấp hối, bỗng muốn được hưởng mùi trần: hãy cho tôi nếm thử một muỗng nước mắm! Thế là có người thì giẫy nẩy, đây là Quỉ ám, cản trở không cho bước vào cõi Phật. Họ viện dẫn, ngay cả Đức Phật trước khi đắc đạo, trước nhìn ra ý nghĩa đau khổ của cõi đời sinh tử lão bịnh, và tìm ra được giải thoát ra khỏi vòng luân hồi, cũng đã từng bị Quỉ ám ảnh. Có người gật gù, phải thực hiện ao ước cuối cùng của một linh hồn trước khi lìa đời….
 Tôi không nhớ Thụy Vũ đã ‘quyết định" ra sao, về nhân vật của mình, "chấp nhận luân hồi, anh bước vô", hay là…
 Theo tôi, câu chuyện muỗng nước mắm của Thụy Vũ nằm trong dòng văn chương "tâm linh", như một "Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp" của Hồ Hữu Tường. Hay một Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, của Nhất Hạnh. (1)
 Ở hải ngoại, chúng ta thấy không khí tâm linh này thấp thoáng ở một số tác giả như Miêng, Phạm Hải Anh…
 "Hãy nói về Miền Nam", một người bạn học ở chung phòng tại Harvard nói với Quentin. Một tay người Canada tên là Shreve McCannon vốn tò mò về một vùng đất chẳng ai biết (unknown) vượt bên ngoài Ohio. "Nó ra sao", anh ta hỏi. "Người ta làm gì ở đó? Tại sao người ta sống ở đó. Tại sao người ta sống, vậy đó?"
 Nỗi băn khoăn về một miền đất quá bên kia dẫy Trường Sơn, có thời được coi là Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân, nhưng bắt đầu trở thành "unknown", không phải với một người Canada, mà là với chính mình, đó là một ám ảnh viết mở ra Khung Rêu, của Thụy Vũ:
 "Từ hồi nhỏ, tôi phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở Miền Nam. Nguyên nhân chính của sự suy sụp này thì ai cũng biết: chiến tranh… Khi khởi công viết quyển truyện này, tôi đặt trước cho mình một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong".
 Khung Rêu, tác phẩm được giải nhì văn học toàn quốc (1970) làm độc giả say mê Faulkner nhận ra trang trại nho nhỏ có tên là Sutpen’s Hundred, lọt thỏm trong Thiên Đàng Giả Tưởng: Xứ Yoknapatawpha (The Yoknapatawpha Country) của ông. Khung Rêu, qua tóm tắt của Vương Trùng Dương, trong bài viết Nguyễn Thị Thụy Vũ Giữa Dòng Đời Nghiệt Ngã: "Bối cảnh câu chuyện xoay quanh gia đình ông Phủ, điền chủ, quan lại, giai đoạn về hưu. Nhìn bên ngoài gia đình giầu sang nhưng bên trong từ ông Phủ đến con cái chẳng ra gì, con trai có đứa thì chơi bời trụy lạc, đứa thì dốt nát, con gái có đứa lăng loàn, đứa thì thất tình hóa điên, đứa thì ái nam ái nữ. Ông Phủ lắm vợ nhưng đầu óc đầy nhục dục, hãm hiếp người làm trong nhà tuổi bằng con cái… tạo ra thảm kịch, băng hoại của gia đình đến thời suy sụp"
 Như trên cho thấy, Thụy Vũ đổ cho chiến tranh gây nên sự suy sụp. Nhưng Faulkner nhìn xa hơn, ông cho rằng sự suy tàn của Miền Nam, là do chính những con người của nó. Như Malcolm Cowley chỉ ra: Miền Nam Sâu Thẳm được cai trị bởi những điền chủ, một số là quí tộc như bộ lạc Sartoris, trong khi một số khác, là dân ở đâu mới tới, như Colonel Sutpen. Cả hai đều cùng chung một mục đích: xây dựng một trật tự xã hội lâu dài, trên một vùng đất họ cướp được từ những người thổ dân da đỏ. Đầu óc thẳng băng, sống theo một qui luật nhất định (fixe code), nhưng "sâu thẳm" ở trong họ, là một ám ảnh tội lỗi, ở trong cách sống của họ, ở trong mơ ước tạo lập thiên đường hạ giới của họ (but there was also an inherent guilt in their "design", their way of life); và chính chế độ nô lệ mà họ bắt dân da đen phải chịu đựng, đã gieo vào mảnh đất một lời nguyền, và từ đó, là Cuộc Nội Chiến. Như trong thư của Faulkner viết cho Cowley, đám con cháu của Sutpen đã coi ông như là một thứ rác ruởi, đồ trôi sông lạc chợ (trash, originless), nhưng lại cảm thấy được an ủi, bởi sự kiện: rằng một người như Sutpen, giấc mơ của họ mới cao làm sao, nhưng chỉ đủ sức mạnh, và sự dẻo dai, để thất bại một cách thật là cao cả (the fact that a man like Sutpen ‘could only have dreamed so high but have had the force and strength to have failed so grandly.) Do đó, không phải do tính tình, mà chính là do số mệnh, mà Sutpen trở thành một nhân vật mang tính biểu tượng của Miền Nam.
 Faulkner thường được coi như là một "ông già nhà quê", với độc giả người Mỹ. Và không phải nước Mỹ, mà là thế giới, đặc biệt là nước Pháp, đã "khám phá" ra ông. Nếu trí nhớ không phản lại người viết, khi ông được Nobel văn chương, tờ NY Times, trong một bài báo đã "cảnh cáo" độc giả nước ngoài: đừng nghĩ rằng ở Mỹ, nơi nào cũng có những thảm kịch loạn luân, thù hận da đen, như trong tiểu thuyết của Faulkner mô tả.
 Cuộc Nội Chiến, kết quả của nó, là một nước Mỹ hùng cường ngày nay. Liệu một khi người Mỹ nhẩy vào Miền Nam Việt Nam, họ có mơ tưởng một lập lại lịch sử của chính họ, tại một vùng đất "unknown" nơi đầm lầy nhiệt đới Việt Nam? Và họ đã thất bại một cách thật là cao cả?
 Trên đây chỉ là một "giả tưởng", của người viết bài này, nhưng trên thực tế, với tác giả Thụy Vũ, nó là một hy vọng thực sự, nếu chúng ta để ý đến hoàn cảnh gia đình của bà, mà như tác giả Vương Trùng Dương, qua bài viết đã dẫn ở trên: "Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. Nhà văn sống giữa lằn ranh Quốc-Cộng trong gia đình. Vì sống giữa lằn ranh đó, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã gánh chịu bao điều ngộ nhận về khuynh hướng chính trị… thân phụ là nhà thơ Mặc Khải, tác giả Phấn Nội Hương Đồng. Mặc Khải nằm vùng, hoạt động cho Cộng Sản…". Nếu Thụy Vũ cho rằng chiến tranh là duyên do của suy sụp, nhưng bởi vì "sống giữa lằn ranh", bà cũng còn tin tưởng, chiến tranh dưới dạng giải phóng, là khởi đầu một hưng thịnh của nó.
 Jennifer Tran
 Chú thích:
 (1) Người viết xin tóm tắt sơ qua, cái nghiệp của một con thằn lằn. Tác giả của nó, Hồ Hữu Tường, theo người viết, cũng là một thứ đạo gia, xuống núi hành hiệp, qua những vai trò: hiệp sĩ, khi chấp nhận triết lý hành động của một Đệ Tứ, nhà văn, khi viết Phi Lạc, thiền sư, trong Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, và sau cùng, một người dân Miền Nam, như tất cả mọi người, sau 1975.
 Câu chuyện Con Thằn Lằn mở ra tại một ngôi chùa hẻo lánh, tại một miền đất xa xôi. Bữa đó, có hai người khách lãng du tình cờ ghé qua. Đúng vào ngày cuối cùng, trước khi quyết định lên giàn hỏa tự thiêu của vị sư trụ trì. Nhân câu chuyện lúc cùng khách, vị sư cho biết, ông đã tụng đủ mấy ngàn lần một bộ kinh, và theo như truyền thuyết, sau khi tụng xong lần cuối cùng vào tối nay, ông sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, và sẽ thành… Phật. Hai ông khách, khi về phòng riêng, nói chuyện với nhau, cho rằng nhà sư đã hiểu lầm ý nghĩa của bộ kinh, hơn nữa còn hiểu sai Phật Giáo, vốn cấm con người tự huỷ mình. Không ngờ khi họ nói chuyện, con thằn lằn trong chùa đã nghe được. Đây là một con thằn lằn đã tu nhiều đời, hiểu được tiếng người. Và nó cũng đã tin tưởng như nhà sư, và cũng tính theo ông lên giàn hoả, sau khi nghe ông tụng xong lần cuối bộ kinh. Thế là con thằn lằn cố tìm cách cứu mình, và cứu vị sư. Bằng cách uống dầu đèn, nó làm cho vị sư không làm sao tụng xong lần thứ… chót của bộ kinh, để lên giàn hoả tự thiêu. Vị sư sau cùng khám phá ra, và tiện tay cầm vồ tụng kinh, ông đập chết con thằn lằn, rồi tụng tiếp, và tự thiêu. Hồn cả hai lên gặp Phật. Phật quở vị sư, tu mà còn đủ sân si, lại còn thêm tội sát sinh, bắt trở lại làm người, tu tiếp. Còn con thằn lằn, Phật giải thích, tuy đã ngộ ra được một phần chân lý, nhưng phương tiện "nuốt dầu" như thế là còn có tính "bạo động", ép buộc, và "ngẫu nhiên". Phật cho phép con thằn lằn được tự chọn nghiệp, trước khi đầu thai, và phải "độ" cho được, tất cả con số chúng sinh đầu thai thành người, từ tro than của "nhục thân" một con thằn lằn, tức là kiếp trước của nó. Như người viết còn nhớ, truyện lần đầu chấm dứt ở đây, nhưng sau đó (trên tờ Văn ở Sài Gòn, sau 1954, trước 1975), tác giả viết thêm, cho con thằn lằn đầu thai, làm một nhà văn hóa.
 Liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài, là một tiếp nối Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp? Đây là câu chuyện một vị sư trẻ xuống núi hành hiệp, mang theo một cây gươm, và một cái kiếng chiếu yêu. Nhờ kiếng chiếu yêu, chàng dũng sĩ trong chiếc áo thầy tu đã dùng cây kiếm trừ khử được rất nhiều yêu quái đội lốt người… nhưng dần dần, anh ít sử dụng tới kính chiếu yêu, và do đó, cũng ít phải có dịp rút kiếm ra khỏi vỏ, như thể thiên hạ đã hết cả yêu quái… Rồi tới một ngày kia, nhớ thầy, nhớ chùa, anh trở lại. Cửa chùa ngày anh còn, thường luôn luôn mở rộng, sao nay khép lại, trước anh? Buồn rầu, anh ngồi bên con suối xưa, thấy bóng mình trên dòng nước: một con người mệt mỏi, chán chường… Anh tự dưng có ý định soi một lần bóng mình, trên kiếng chiếu yêu… và rụng rời thấy, một con quỉ trên mặt suối giận dữ nhe nanh…
 Không hiểu Hồ Hữu Tường đã từng đọc Nhất Hạnh, và tự hỏi như trên: liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài là một tiếp nối Con Thằn Lằn, và vị dũng sĩ thiền sư đã thất bại, như chính ông đã từng thất bại… ?
 Và Nhất Hạnh, đã có lần nào đọc (lại) Cửa Tùng?
 JT









Viết Mỗi Ngày


http://www.gio-o.com/TrangDai/TrangDaiGlasseyTranguyenToiOi.htm


Note: Ngoài Bắc, cũng có cái này, và gọi là cái "lờ".
Trong Nam, vào thời lập quốc của nó, chẳng cần ba thứ này, như Gấu đã từng nghe 1 anh bạn học kể:


http://www.tanvien.net/tg/tg07_ten_cua_cuoc_chien.html


Thời gian học lớp đệ ngũ trường Văn Hóa, của thầy Nguyễn Khắc Kham. Vẫn "thói" bắc không thể bỏ, chọn thầy trước khi chọn trường, chọn lớp. Tiếng là trường, chỉ một căn hộ trong một con hẻm đường Ngô Tùng Châu gần Ngã Sáu Sài-gòn. Tiếng là di cư, nhưng chính ở đây, cậu có người bạn Nam-kỳ đầu tiên. Cũng lần đầu, cậu nghe anh bạn Trí phát âm "tìn thươn", thay vì tình thương. Con nhà giầu miệt tỉnh, mấy chị em kéo lên Sài-gòn mua nhà thay vì trọ học. Và phải là một trường Bắc-kỳ. Anh giải thích: ở dưới đó, anh "số dzách", nhưng ông thầy lắc đầu, không ăn thua gì đâu, so với đám học trò người bắc. Anh đưa về "khoe" với mấy anh chị em. Cả nhà đều mến, nhưng phàn nàn với đứa em: bạn mày nói, tụi tao nghe không ra!

Còn thằng bé cứ há hốc mồm, nghe kể về một miền đất, sáng rảo bộ ra quán cà-phe nơi đầu ngõ, tiện chân ngoáy ngoáy một hố đất nơi con rạch, trưa về thò tay nhấc lên một con cá. Nhưng hình ảnh "Nam-kỳ nhất" ở nơi cậu, là từ một cô gái "lai", Bắc-kỳ xa xưa từ hồi nảo hồi nào. Và nó bắt nguồn từ... Hà-nội!





Trong những giấc mộng, có 1, thật là tuyệt, và ứng vào xứ Mít, nếu đọc những gì Calvino phán, ở dưới đây, đời mình, sách mình đọc, phim mình coi là.... một. Một anh sĩ quan Ngụy, sống sót cuộc chiến, đi qua 1 đường hầm, sắp qua hết, thì nghe gọi ới ới... Hóa ra 1 hồn ma, thuộc trung đội của anh này nào, đã từng chết trên tay anh. Hồn ma biểu, không làm sao đi được, cứ nhớ nhà, nhà ở chỗ kia kìa. Thế rồi cả 1 trung đội xuất hiện, và anh trung đội trưởng bèn ra lệnh, như ngày nào, đằng sau quay.
Và cả 1 trung đội theo lệnh sếp đi vô đường hầm!
Giấc mơ này, làm nhớ giấc mơ khác, trong Quái Đản. Chuyện anh "hoi chi" cụt tai, trên TV đã kể rồi. Truyện cũng được quay thành phim, nhưng đoạn kết của phim khác hẳn truyện. Hay hơn nhiều. Lần kể chót, là giữa ban ngày ban mặt, hồn ma Ngụy lũ lượt trở về, nghe anh “hoi chi” thuật trận đánh chót, rồi đi, và lần ngày đi hẳn, chắc là đi đầu thai.





Một lần, cũng đã lâu, Gấu đi giang hồ vặt, cùng vài bạn văn, tới thăm một ông chưa từng quen biết.
Chủ nhân, ông bạn chưa từng quen biết, là một tay sành rượu. Nhất là rượu bồ đào.
Ông khoe, rượu của ông là từ bên Pháp gửi qua, thứ quí, hiếm, lâu đời. Trong khi chén chủ chén khách, ông cho biết, có một ông bạn [Gấu đoán, chắc là ông ta], rất khoái những bài Tạp Ghi của Gấu, và chưa từng bỏ qua một bài nào [thời gian Gấu giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG].
Được khen, khoái quá, mũi phổng quá, Gấu quên cảnh giác, tố thêm, Gấu này thường là đoán ra đoạn chót, không cần phải coi hết một cuốn phim, khi được biết chủ nhân là một tay mê phim, và mê làm phim.
Ông có vẻ bực, thằng khốn này huênh hoang quá, nhưng, nói đến phim nào là nó biết phim đó, hay là thử phim này...
Ông lôi ra một phim, dựa theo một câu chuyện Nhật.
Tuyệt, tuyệt. Gấu tỉnh cả rượu, và xin lỗi chủ nhân, Gấu này chịu thua, không thể nào đoán ra đoạn kết của phim.
*
Sau này, được coi nguyên tác, chuyện anh chàng hôi chi, Gấu mới càng phục tay đạo diễn phim.
Đoạn cuối của phim khác hẳn nguyên tác.
Thần kỳ hơn nhiều.
* *


Cái chương chót, hay đúng hơn, cảnh chót, của phim Hoichi cụt tai, chính là cái lễ 30 Tháng Tư đúng ra là phải như thế, thế mới ly kỳ!
Gấu đã đòi phen, tính kể ra, nhưng lại sợ làm bực người chưa coi phim.
[Mày nói mẹ nó ra hết rồi, còn cái đếch gì mà coi nữa! Ui chao, lại nhớ tới ông Trạng Quỳnh và câu chửi của ông, đụ má thằng nào bảo thằng nào!] (1)
Kể ra, một cách nào đó, cũng là một cách tưởng niệm 30 Tháng Tư.
Năm tới chắc gì còn thằng cha Gấu nữa, và biết đâu, nhà nước ta khi đó lại biến giấc mơ của GNV thành hiện thực!
Ui chao đúng là… Ngụy không biết thân Ngụy, đũa mốc đòi mâm son, tiền ít muốn hít đồ thơm….! 
Hay, muộn quá chăng?
Muộn còn hơn không!
(1) Hồi còn con nít đi xem ciné, Gấu có cái tật không làm sao bỏ được, bô bô kể cảnh sắp sửa xẩy ra, vì đã coi rồi, ciné thường trực [permanent] mà, cho tới một lần, bị một ông ngồi phía sau, kéo tai Gấu, xách lên, như xách một con gà, phán, mi mà không câm miệng lại, tao nhét vô miệng mi, cái NHT nhét vô miệng sĩ phu Bắc Hà bi giờ!


*

Phì Lũ


Truyện ngắn Phì Lũ này, cũng trong dòng Lưu Đày và Quê Nhà, "thème" chính của văn học hiện sinh. Có thể nói, cả 1 cõi văn chương của Camus, là nằm gọn trong nó. Và nó từ Trước Pháp Luật của Kafka, mà ra

Enright on Carver
I often ask students to read "Fat" because it also seems to talk about what a story is. A story is something told – as the waitress tells her friend Rita about the fat man – it is something that really needs to be said. But though we feel its force and resonance, it is often hard to say what a story means. The most we can say, perhaps, is that a short story is about a moment in life; and that, after this moment, we realize something has changed.
Tôi [Enright], thường biểu sinh viên của tôi đọc “Fat” [Phì Lũ], vì có gì đó ở trong đó, về, một câu chuyện là gì. Một câu chuyện là một điều gì đó được kể ra – như cô bồi bàn kể cho cô bạn Rita, về ông khách mập – đó là một điều thực sự cần nói ra, kể ra. Nhưng, mặc dù chúng ta cảm thấy, sức mạnh của nó, sự rộn ràng, âm hưởng tràn trề của nó, nhưng thường ra, thật khó mà nói, một câu chuyện nghĩa là gì. Bảnh nhất mà chúng ta có thể nói, một truyện ngắn là về một khoảnh khắc trong cuộc sống; và, sau khoảnh khắc đó, chúng ta nhận ra, một điều gì đã thay đổi.


Carver được coi như là cha đẻ của thứ truyện ngắn mini.
Truyện ngắn của ông, như Fat, được Enright diễn tả thật tuyệt vời như sau đây:
Fat là 1 thí dụ lớn về làm thế nào mà 1 truyện ngắn được “cắm vào đời” [dùng những từ của bà Huệ, Gió-O, khi "xoa đầu" NTHL, áp dụng vô đây thì thật là tuyệt: Cái gì của Linh là do Linh nẩy bật ra. Tuổi đôi mươi sắc như một nhát dao. Linh cứa vào đời sống bằng tinh hoa và nội lực một ông cụ non lẫn một đứa trẻ già]: cái đầu vô của vết thương thì như là của 1 mũi dao, nhưng cái hệ quả thì lại chết người!
Enright viết:
Như tất cả những truyện ngắn của RC, Fat có vẻ đơn giản. Một cô bồi bàn không được nêu tên, kể với cô bạn, Rita, về chuyện phục vụ 1 ông khách mập. Cô thích thằng chả, dù phì lũ. Cô thích phục vụ ông ta. Cuộc quen của họ mặc dù bình thường, ngắn ngủi, và chỉ có tính giao tiếp, hình thức, nhưng thật là dịu dàng - và, như một truyện tình, nó xuất hiện là để chửi bố cái thế giới loài người còn lại vây quanh nó!
Ui chao, đọc 1 phát, là Gấu nghĩ ngay đến truyện  ngắn của... Gấu Cái!
Cái thứ truyện ngắn “viết như không viết”, về cái mảnh đất thần tiên Tara không còn nữa, hóa ra y hệt thứ truyện ngắn của RC: đầu vào thì nhỏ xíu như vết muỗi chích, như cái xước da, nhưng đầu ra, là hậu quả của cả 1 cuộc chiến tàn nhẫn, dã man...
Thảo nào H/A phán, hay hơn cả Cô Tư, vì nó rất tự nhiên.
Cái gọi là tự nhiên, là cái viết mà như không viết, nhưng, để có được như vậy, là nhờ cái nền của nó, là cái xã hội Ngụy, bị VC kết án tử.
Một tí tỉ tì ti tình mà cô bồi bàn cảm thấy – cái khoảnh khắc mà cô gật gù, thằng chả mập này cũng đường được - mới nhức nhối làm sao, khi, sau đó, vào buổi tối, khi cô ở trên giường với Rudy, bạn trai của cô: Đúng là cái cảm tưởng, lén chồng, lên sân thượng “ngắm trăng sao", của người đàn bà ngoại tình của Camus: giá mà có tí ti thay đổi, nhỉ?
Raymond Carver's 'Fat' is simple but deadly, says Anne Enright
Giản dị, nhưng chết người, đó là truyện ngắn Fat, của RC
“Fat" is a great example of how little a short story has to do in order to work – the entry wound is so small, you could say, and the result so deadly. Like many of Raymond Carver's stories, this one seems very simple. An unnamed waitress tells her friend, Rita, about serving a very fat customer. She likes the guy, despite his girth. She likes serving him. Their relationship, though ordinary, and brief, and formal, is quite tender – and, like a love story, it happens in the face of opposition from the rest of the world. The small love the waitress feels – this moment of empathy she has for the fat man – becomes briefly amazing later that evening, when she is in bed with her boyfriend, Rudy, and the waitress is left with an uneasy, hopeful intimation of change.
I ask often ask students to read "Fat" because it also seems to talk about what a story is. A story is something told – as the waitress tells her friend Rita about the fat man – it is something that really needs to be said. But though we feel its force and resonance, it is often hard to say what a story means. The most we can say, perhaps, is that a short story is about a moment in life; and that, after this moment, we realize something has changed. 
Carver coi câu của Pound như là 1 thứ kinh nhật tụng:
“Thơ, ít ra thì cũng phải cố viết cho thật bảnh như là văn xuôi”!


http://www.tanvien.net/ds/ds_mieng_bien.html
Camus có một truyện ngắn "Người đàn bà ngoại tình", đêm đêm, sau khi làm xong hết bổn phận của người vợ, trong cuộc lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén thoát ra ngoài, để ngắm trời ngắm sao... Đây là một đề tài lớn của dòng văn chương hiện sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện ngắn "Before the Law", của Kafka.
Đây là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.
Trong truyện ngắn Evelyne của James Joyce, trong tập "Những người dân thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có đủ điều kiện để đưa cô gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng tới giờ phút chót, cô gái quyết định "ở lại".



* *

Rushie khen cái tít, 1 trong những cái tít thần sầu nhất trong cõi văn hậu chiến, one of the best titles in the post-war literature, như trong ghi chú cho bản dịch 1998 cho biết.
Than ôi, giá mà
ông đọc được tiếng Mít:
Hay nhất trong mọi cái tít, kể từ khi có cái gọi là văn chương: Đường Tới Ổ Nhện!

Cuốn này, đầu tay của Calvino, bị chính ông chê, rồi sau đó thì bèn ngó lại, và bèn viết lại nó - viết lại cuốn tiểu thuyết, nhe - và đi 1 đường giải thích thiệt dài.
GCC post 1 đoạn, rất thú vị, sau đây:

What you read and what you experience in life are not two separate worlds, but one single cosmos. Every life-experience, in order to be interpreted properly, evokes certain things you have read and blends into them. That books always derive from other books is a truth which is only apparently in contradiction with the other truth that books derive from practical existence and from our relations with other people. Almost as soon as I had stopped being a partisan I discovered (initially in excerpts in magazines, then as a whole book) a novel about the Spanish civil war which Hemingway had written six or seven years previously, For Whom the Bell Tolls. It was the first book with which I as an ex-partisan could identify: it was from reading that novel that I began to transform into narrative motifs and phrases what I had seen and experienced the detachment of Pablo and Pilar was 'our' detachment. (Nowadays that book of Hemingway's is the one which I probably like least; in fact Hemingway became the model for many of us only when we discovered his real stylistic mastery in other books of his, especially in his earliest short stories.)
    The kind of literature we liked was that which contained this sense of a seething humanity, of ruthlessness, and also of nature. We also felt that the Russian writers of the civil war period - that is, before Soviet literature was purged and became idealized - were our contemporaries. In particular, Isaac Babel: his Red Cavalry, already translated into Italian before the war, and one of the masterpieces of twentieth-century realism, also sprang from an intellectual's encounter with revolutionary violence.
    But also influential, though to a lesser extent, was Alexander Fadeyev (at least before he became a mere functionary of official Soviet literature). He had written his first book, The Rout, with that particular sincerity and vigor (though I do not remember whether I had already read it when I wrote my novel, and I am not going to check either: that's not important, since similar situations breed similar books in terms of structure and style). Fadeyev knew how to finish things as cleanly as he had begun them, as he was the only Stalinist writer, in 1956, who showed that he realized the extent of the tragedy for which he had been partly responsible (the tragedy in which Babel and so many other genuine writers of the Revolution had lost their lives). Refusing to go in for hypocritical recriminations, he faced up to the strictest consequence of his actions, and took a pistol to his forehead.
    These books, then, form the background to The Path to the Spiders' Nests. But when you are young every new book you read is like a new eye which opens on to the world and which modifies the viewpoint of the other eyes or book-eyes which you had before, and so in the midst of this new idea of literature which I longed to create, there was also space for a revival of all the literary worlds which had captivated me from childhood onwards ... The result was that while setting out to write something like Hemingway's For Whom the Bell Tolls, at the same time I also wanted to create a work akin to Stevenson's Treasure Island.
    It was Cesare Pavese who understood this instantly: from his reading of The Path he intuited all my favorite literary texts. He even cited Ippolito Nievo, the nineteenth-century Italian writer to whom I had wanted to pay secret homage by basing Pin's meeting with Cousin on Carlino's encounter with Spaccafumo in Nievo's Le confessioni di un Italiano (The Confessions of an Italian). It was Pavese who was the first to talk of a fairy-tale tone in my writing. Up until then I had not been aware of this, but from that point onwards I became only too conscious of it, and tried to confirm that definition. The story of my literary career was already beginning to be mapped out, and now I think I see it entirely encapsulated in that beginning.
    Perhaps, in the end, it is only your first book that counts, perhaps you should only write that one and stop; you only make the great leap that one time, the opportunity to express your real self happens only once, what you have to say inside you is either said at that point or never more. Perhaps real poetry is possible only at one moment in your life, which for most people coincides with their earliest youth. Once that phase has passed, whether you have expressed yourself or not (and you won't know whether you have for a hundred, maybe a hundred and fifty years: contemporaries cannot be good judges), from that point on the die is cast, all you will do subsequently is imitate others or yourself, you won't ever manage to produce a single word that is authentic or unique….

Cái chúng ta đọc và cái chúng ta kinh nghiệm trong đời không phải là hai thế giới riêng rẽ, nhưng mà là một cosmos, vũ trụ, đơn.  Mọi đời-kinh nghiệm, để được giải thích tới chỉ, khơi lên một số điều bạn đã đọc, và trộn vào nhau. Những cuốn sách luôn chuyển từ những cuốn sách khác là một sự thực, chỉ mâu thuẫn ở bề ngoài với sự thực khác, sách chuyển từ hiện hữu thực dụng, thực tế, và từ những liên hệ của chúng ta với những người khác.
Hầu như liền sau khi tôi không còn là 1 người lính pạc ti dăng, thì tôi bèn khám phá ra - thoạt tiên là những mẩu báo chí, rồi trọn cả cuốn - rằng thì là, me-xừ Hemingway đã đi 1 đường tiểu thuyết, chừng 6 hay 7 năm trước đó, về cuộc nội chiến Tây Bán Nhà, Chuông Gọi Hồn Ai.
Đó là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tố cáo tôi là 1 cựu pạc ti dằng!
Chính là do đọc cuốn tiểu thuyết mà tôi bèn chôm chĩa, và lẫn lộn hầm bà làng giữa tôi và cuốn tiểu thuyết của Hemingway!
Bây giờ đọc lại nó, thì lại đếch thấy khoái như trước nữa. Sự thực, Hemingway trở thành khuôn mẫu cho rất nhiều chúng ta, chỉ từ khi chúng ta khám phá ra cái sự bậc thầy của ông ta về văn phong, ở trong những cuốn khác của ông, đặc biệt là trong những truyện ngắn sớm sủa nhất.

Note: Cái mẩu này, thực là thú vị, nhất là đoạn sau đây, khi Calvino lèm bèm về đám vệ quốc “Niên Xô”. Nó giải thích tại làm sao lũ Bắc Kít mê văn chương Gấu Mẹ Nga Vĩ Đại!
http://www.tanvien.net/tg3/art_fiction.html

Tôi khởi đầu chậm như rùa. Nếu có một ý tưởng cho một cuốn tiểu thuyết, tôi phịa đủ mọi cớ để đừng phải loay hoay với nó. Nếu một tập truyện ngắn, mỗi truyện lại có cú khởi đầu của nó. Ngay những bài báo cũng rứa, cứ mỗi lần tính viết, không có cũng phải phịa ra trục trặc này nọ để trì hoãn. Nhưng được cái, hễ đã bập vào rồi, là cứ ro ro như máy mới đổ dầu nhớt!
Nói ngắn gọn, tôi lẹ lắm, nhưng trước khi lẹ, là những lỗ trắng lớn. Chuyện viết lách của tôi hơi giống một câu chuyện Tầu, về một họa sĩ, được nhà vua yêu cầu, hãy vẽ cho ta một con cua. Nhà nghệ sĩ bèn trả lời, Thưa Hoàng Thượng, hạ thần cần mười niên, một căn nhà tổ bự, và hai mươi nàng hầu. Mười năm qua đi, "Thưa Hoàng Thượng, hạ thần cần thêm hai niên nữa". Rồi thêm một tuần. Sau cùng, ông nhặt cây cọ lên, múa một đường, là xong con cua.
Italo Calvino

“Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”

Hãy thử bắt đầu bằng một định nghĩa:
Tác phẩm cổ điển là thứ mà người ta nói, “tôi đang đọc lại nó”, không hề nói, “tôi đang đọc nó.”
Điều này chí ít chỉ có thể xẩy ra giữa đám “đọc rộng”, không thể áp dụng cho tuổi trẻ, vào tuổi đó, cái gì gì thì cũng là nụ hôn đầu, tình đầu, lần đầu gặp gỡ, cú sét đánh…
Cái mẩu “lại”, trong “đọc lại” có thể làm cho một độc giả nào đó, đỏ mặt, nhất là những đấng nghĩ rằng mình chưa từng đọc một dòng Tội Ác và Trừng Phạt, thí dụ. Để an ủi họ, chúng ta có thể nói, ngay cả thằng cha Gấu, được đời khen tặng uyên bác, hay chữ, thực sự, cái đọc của hắn ta thì cũng chỉ quanh quẩn nơi lò thiêu người, lò lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ, hay Phạm Văn Cội, Củ Chi Thành Đồng, là cùng!
Nào, ai đã từng đọc hết Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Bọ Lập Ký Ức Vụn… giơ tay lên! Ngay cả những bộ sách lãng mạn trứ danh, thì cũng chỉ nghe người đời xướng danh, thay vì đọc chúng. Ở Pháp, người ta bắt đầu đọc Balzac khi đi học, và qua những những lần tái bản cho thấy, Tây mũi lõ vẫn tiếp tục đọc Balzac, khi hết còn mài đít quần trên ghế nhà trường. Ở Ý, đám fans của Dickens thì cũng chỉ có một dúm, và mỗi lần gặp nhau, là mỗi lần trộ nhau, cứ như là thằng nào cũng quá rành Oliver Twist!
Cách đây vài năm, Michel Butor, dậy học tại Mẽo, quá chán vì cứ nghe lải nhải, Thầy đã đọc Emile Zola chưa, sự thực, ông chưa từng đọc, và thế là một ngày đẹp trời, bèn chúi mũi vào Zola. Kết quả ông khám phá ra một điều không thể ngờ được về bộ Rougon–Macquart: Một phả hệ học tuyệt vời về huyền thoại và vũ trụ, và sau đó ông chỉ ra trong một tiểu luận thật đẹp.
*
Coetzee mở ra cuốn Những bến bờ lạ lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài viết Cái Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt. Bài này Mít chắc thú hơn bài của Calvino, vì ông chú trọng tới cái thời của riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.
Theo cái kiểu, sống sót Lò Cải Tạo, một buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài Gòn, bèn lôi Nguyễn Du ra đọc!

Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của thời của riêng chúng ta, nhà thơ Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch của cổ điển thì không phải là hiện đại, mà là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không hẳn một đối nghịch, mà là một đối đầu [not so much an opposition as a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu xa”, “tôi cùng gió mùa”… đều là… cổ điển: Chúng dám đối đầu với man rợ.
*
Câu trả lời của Coetzee, cho câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”: Cổ điển là cái sống sót, … that the classic is what survives…. the classic defines itself by surviving… what survives the worst of barbarism, surviving because generations of people cannot afford to let go of it and therefore hold on to it at all costs – that is the classic.
Cái sống sót những gì tệ hại nhất của man rợ, sống sót theo cái nghĩa, hết thế hệ này qua thế hệ khác, con người không thể chịu nổi chuyện buông xuôi, cố ôm lấy nó, không thể cho man rợ thắng thế, cái đó gọi là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là cổ điển của Mít, chính là văn chương Miền Nam trước 1975. Chỉ có nó sống sót trong trận chiến "cổ điển vs man rợ"!
Ba cái thằng bỏ chạy bợ đít VC, mà là… sống sót ư?
*
“Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino gồm những bài viết về một số tác giả. Cách đọc “Bác sĩ Zhivago” của ông, trong bài “Pasternak và cách mạng”, thật là tuyệt. Ông không đồng ý với Lukacs, khi tin rằng, chẳng phải ngẫu nhiên mà thế kỷ của chúng ta là của truyện kể, récit, của tiểu thuyết ngắn [roman court, không phải sử thi], của những chứng từ có tính tiểu sử, tự thuật [témoignage autobiographique]. Calvino viết câu sau đây - có thể là để vinh danh một số câu văn thần sầu của… Gấu, [vừa thôi cha nội!], thí dụ như câu: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể", hay câu "
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu", [thì đã nói rồi, cái đám bỏ chạy làm sao viết nổi những câu như thế, và đây chính là điều Calvino "ngộ" ra, khi không đồng ý với phê bình gia tổ sư Mạc xít Lukacs, khi viết]: de nos jours, une prose narrative véritablement moderne ne peut faire porter sa charge poétique que sur le moment….
Cái gọi là ‘sur le moment’, đám bỏ chạy làm sao có?

&
V/v Linda Lê trích dẫn Calvino.
Trong bài viết “Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”, Calvino đưa ra nhiều đề nghị, trong có một, được Linda Lê trích dẫn, un classique est un livre qui n'a jamais fini de dire ce qu'il a à dire.
Nhân đây, post cả bài viết thú vị đó.
Trong bài viết, Calvino trích dẫn Cioran: Trong khi người đời sửa soạn làm thịt ông [làm món cigue, cỏ độc], thì Socrate đang mê mải học thổi ống sáo.
-Để làm gì? Người ta hỏi ông.
-Để biết thêm một điệu nhạc sến trước khi chết.
Note:
Sở dĩ Gấu phải mầy mò, lục lọi trong đống sách vở hầm bà làng do dọn nhà hai ba phen, cuốn của Calvino, ấy là vì, Gấu nhớ một câu, cũng trong bài, khác câu của Linda Lê.
Coi lại, thì ra câu Gấu nhớ, là ở trong bài tựa, bản tiếng Pháp, của Philippe Sollers. Cũng thật tuyệt.
Tại sao đọc cổ điển? Sollers trả lời: Bởi vì cổ điển đọc chúng ta.
Pourquoi lire les classiques?
Parce que ce sont eux qui nous lisent (1)
(1) Borges là tác giả cổ điển, trước khi là một huyền tượng. Nhưng như Philippe Sollers khi giới thiệu "Tại sao đọc cổ điển", của nhà văn người Ý, Italo Calvino: Bởi vì chính họ đang đọc chúng ta. Trò dởm đời: đòi nguyên gốc và tính thực (authenticité), vốn chỉ là thói soi gương bao giờ cũng chỉ để nhìn ngắm mình, của chúng ta. Calvino biết rõ điều này, bởi vì kẻ hiện đại độc nhất, có thể là một cổ điển. Luôn luôn là vậy, cổ điển là hiện đại. Và phải chứng minh điều đó ra.
Theo Calvino, lịch sử gia tài Borges ở Ý, tính ra là đã được 30 năm. Nó bắt đầu vào năm 1955, khi bản dịch đầu tiên Giả Tưởng (Ficciones) dưới cái tên Thư Viện Babel, xuất hiện tại nhà xb Einaudi. Mới nhất, là toàn bộ tác phẩm của ông, trong tủ sách Meridiani, của Modadori. Nhưng nó có sau Pháp, và là công của Roger Caillois. Ông này tới Buenos Aires, Argentine, quê hương của Borges, vào năm 1939 và ở đây đến cuối Đệ nhị chiến. Quá mê Borges, ông dịch Xổ số tại Babylone, Thư viện Babel (1944), rồi tuần tự những tác phẩm khác, cho xuất bản trong tủ sách "La Croix du Sud" do ông đảm đương tại nhà xb Gallimard. Liên hệ giữa hai người cũng thật gai góc. Một giai thoại: Khi Roger Caillois cho xuất bản tại Buenos Aires một nghiên cứu về tiểu thuyết trinh thám, ông cho rằng nguồn gốc của nó là ở thời Napoléon, và sự thành lập cơ quan cảnh sát, theo một hình thức hiện đại. Borges nói, tầm bậy, bởi vì "rõ ràng là thể loại tiểu thuyết trinh thám chẳng mắc mớ gì tới cảnh sát: đây là một thể loại khác biệt hẳn thể ký sự". Thực ra, vấn đề cơ bản ở đây là, với Caillois: giữa thực tại và văn chương, có sự liên tục, có qua lại, và tương đồng. Còn Borges coi đây là hai miền hoàn toàn khác biệt, tự chủ, mỗi nơi có, và bị chi phối bởi những luật lệ riêng. Sau đó, ông than: Chính nước Pháp đã phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện hữu. Caillois đã làm cho người ta nhìn thấy tôi. Than ôi, người ta nhìn thấy tôi: rõ quá!
Cũng vì lý do đó, đọc Borges bằng tiếng Pháp sẽ mất đi một điều thiết yếu: giọng điệu (tonalité) của bản văn. Điều này cho thấy, sự trung thành với một văn bản nói (thí dụ như văn chương nói của Miền Nam chẳng hạn), là một điều rất cần thiết: Khi nói, người ta tính tới "thời lượng" (la durée) của câu chuyện đang được kể: Người đẹp trong Ngàn Lẻ Một Đêm, đã "nát óc" tính toán, làm sao cho câu chuyện ngưng lúc nào, để bắt đầu một câu chuyện mới, nếu nàng muốn sống thêm một đêm nữa.
Theo tôi, những người viết Miền Nam ở hải ngoại hầu như đã quên mất bài học sinh tử này.
Borges và tôi
Italo Calvino được dịch và xb ở trong nước, và là 1 tác giả có nhiều fan, theo như GCC được biết.
Nhưng Gấu mê những bài viết essays thần sầu của ông hơn.
Mới đọc thấy, trên 1 tờ báo cũ, tính tìm lại, thì đã mất tiêu, 1 tờ NYRB cũ, trong có bài điểm cuốn "Tại Sao Đọc Những Tác Giả
Cổ Điển". Tuyệt. Từ từ, tìm lại, rồi tính.

Mit Critic

http://www.tanvien.net/thu_tin/ghet_talawas.html


Vào giây 0:11, dù không có nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, đoàn biểu tình vẫn hô to “không thích talawas” rất là rõ.
Đỗ Kh. [Talacu]

Tks. Take care. NQT

V/v Một số thư góp ý của độc giả talawas khi bài viết ‘Vì sao ghét talawas’ được post lại trên diễn đàn này.

Tin Văn là một trang nhà. Không phải là một diễn đàn. Đừng nghĩ là Gấu này phách lối, nhưng ‘như là một trang nhà’ độc giả ghé thăm, thích thì ở lại lâu, không thích, có thể bỏ đi liền.
Như đã từng thưa nhiều lần, Tin Văn thực sự không phải là một trang văn học theo nghĩa thuần túy của nó. Đào Hiếu, trong một bài viết cho BBC, đã coi báo chí trong nước có một tổng biên tập.

Trang Tin Văn cũng thế, cũng có một tổng biên tập, và ông này ra lệnh: Tất cả những bài viết trên Tin Văn, bằng mọi cách, cố làm sao trả lời cho được câu hỏi hắc búa: Giả như dân Mít chúng ta biết đến cái độc cái ác đưa đến Lò Thiêu Người tại Âu Châu, liệu chúng ta có tránh đi vào vết xe đổ, nghĩa là không để xẩy ra cú tàn khốc tàn độc 10 ngày Lò Cải Tạo?

Những trích dẫn trên Tin Văn quả là nhiều khi chẳng ăn nhập tới bài viết, và những bài viết thì không đầu không đuôi, chẳng có bài nào hoàn tất, như một lần bà chủ talawas đã nhận xét. Chúng, trên một bình diện rộng, đều nhắm trả lời câu hỏi trên.
Những trích dẫn, thường là, hoặc để cho khỏi quên, vì liên quan tới một vấn đề sắp tới, mà bài viết đề ra, [câu hỏi cần hơn câu trả lời, và câu trả lời, nếu có được, lại biến thành câu hỏi mới, phát sinh từ bài viết, cứ thế cứ thế], hoặc là, như những qui chiếu về nhiệm vụ mà ông tổng biên tập đề ra, ở trên. Chúng, đa số đều là những tài liệu Tin Văn bỏ tiền ra mua, post lên, hy vọng độc giả nào cần tới, thì lấy ra xài. Bởi vậy, không hề có vấn đề uyên bác, khoe chữ ở đây. Được gợi hứng bởi Steiner, như Gấu đã từng lèm bèm, lải nhải rất nhiều lần, sau 10 năm lụi cụi, một mình một ngựa, ý tưởng trên ngày càng lộ ra.
Còn chuyện hiệu đính, thì sẽ trả lời trong lần tới. NQT
*
Koestler trong cuốn Những Kẻ Mộng Du viết, đại khái, những hiện tượng thiên nhiên, thí dụ như thuỷ triều lên xuống theo mặt trăng, vật thể tung lên trời là bắt buộc phải rớt xuống đất… chúng có vẻ chẳng mắc mớ gì tới nhau, cho tới khi Newton xuất hiện, và, như một vì nhạc trưởng, giơ cây đũa thần, và thế là, những hiện tượng rời rạc kia, giống như những nhạc sĩ, cùng nhau theo hiệu lệnh của ông, tấu lên bản đại hòa tấu có tên là ‘vạn vật hấp dẫn’!

Bạn đọc Tin Văn, cứ nghĩ mình là Newton thử xem, coi bản đại hoà tấu diệt trừ Cái Ác Bắc Kít có biến thành hiện thực?
Hay thử coi đây là mê cung nhốt… dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy ngày nào, sau 30 Tháng Tư, gen đột biến, biến  thành quái thú. Và đến lượt bạn, trở thành dũng sĩ, xâm nhập mê cung, trang bị sợi dây Adriane, là tấm lòng nhân hậu của mình…






Vào trang Văn Việt bất ngờ phát hiện (một phần) tiểu luận tôi viết đã lâu và được trình bày tại Đại học Massachusetts Boston (Mỹ, 2006). Mời các bạn xem cho vui.


Do hoàn cảnh lịch sử, sau 1975 đã có hàng triệu người Việt rời bỏ quê hương. Họ định cư phần lớn ở Úc, Pháp, Mỹ, tạo nên một cộng đồng có bản sắc văn hóa riêng biệt đồng thời với những cố gắng hội nhập vào đời sống địa phương cư trú. Trong những từ chỉ về tình trạng sống của họ, tôi đã tìm thấy chữ “tạm dung” được sử dụng khá phổ biến. “Tạm dung”, nó cho tôi biết những người Việt hải ngoại không hề muốn mất quê hương. Nó cũng bày tỏ một tâm thức quay về cố quốc. Chính vì thế mà văn học nghệ thuật Việt vẫn tồn tại và phát triển vừa như một phương tiện vừa như một cứu cánh cho nỗ lực duy trì ngôn ngữ và văn hóa Việt.
NV

Note: Tạm dung, là từ được chuyển từ "asylum" - nơi trú ẩn, nương náu, tạm dung-
của mũi lõ, và là 1 trong "ba từ cơ bản" của cõi vượt biển tìm tự do.
Thứ nhất, quê hương thứ nhất, là xứ Mít, mà họ
bỏ đi, tìm tự do.
Tới được cõ
i tạm dung, là mấy trại tị nạn.
Họ được các nước sở tại, cho tạm trú, tạm dung họ,
trong khi chờ 1 quốc gia nhận họ, và đóquê hương thứ hai, cái cõi mà lũ Mít đang sống, tức cõi "tái định cư", và đây là quê hương mới, thực sự của họ

“Tạm dung”, nó cho tôi biết những người Việt hải ngoại không hề muốn mất quê hương. Nó cũng bày tỏ một tâm thức quay về cố quốc. Chính vì thế mà văn học nghệ thuật Việt vẫn tồn tại và phát triển vừa như một phương tiện vừa như một cứu cánh cho nỗ lực duy trì ngôn ngữ và văn hóa Việt.

Viết cái kiểu ngu dốt, vơ vào như trên, là cực kỳ khốn nạn.
Bản thân Gấu, thí dụ, không hề coi cố quốc Mít như là quê hương, theo cái nghĩa của tên khốn này, viết.
Và Gấu tin, có rất nhiều người nghĩ như Gấu!
Cái tên chửi bố tên khốn này, là Brodsky.
Ông đi là đi luôn, đéo thèm về nữa!

Viết, như tên này viết, là làm nhục những quốc gia đã nhủ lòng xuống lũ Mít tị nạn, chấp nhận họ, cho họ quê hương, và đây mới là quê hương thực sự của họ, không phải cố quốc cái con mẹ nào đó.
Tên này ngu dốt quá, không làm sao hiểu nổi những chuyện như thế này.
Bởi thế mà đám Mít viết lách ở hải ngoại, tên nào cũng bò về lạy lục Bắc Bộ Phủ, xin tha tội, xin được kiểm duyệt tác phẩm...

T
rong bài tưởng niệm Brodsky, Tolstaya có kể là, nếu không muốn về, được nhà nước hân hoan chào đón, cưỡi ngựa trắng, thì về theo kiểu "incognito"... ông trầm ngâm, gãi gãi cằm, về như thế, thì thật là tuyệt vời, nhưng bạn của ông, viết, tuyệt vời thực, nhưng trễ quá rồi, Brodsky đã nhập vào cuộc đời mới....

From Russia With Love

New York: Home
AS HE AGED - and in his last years he aged very fast, as if trying to catch up with or even overtake his own end - a kind of world- weariness (mellowness?) seemed to be replacing the earlier acerbity. Even so, the world was still a wonderful place. Joseph's creativity did not desert him.
Talking of wonderful places, what of Joseph and New York City? This was his home for most of his time in the West, even though from 1981 he taught in the spring at Mount Holyoke College and rented a home in South Hadley, Massachusetts. He was also in the habit of spending Christmas in Venice. The Joseph I knew, however, was the New York Joseph, even though I met him first in London and, at least in the seventies, often saw him there, and even though my first visit to him in America was to Ann Arbor, Michigan when he was poet-in-residence at the University of Michigan. I visited him only once in Emily Dickinson country.
New York became his home and he was at home in New York. Or that's how it seemed. The City lets (or encourages?) you to be whatever you are, meaning that, wherever you hail from, it is not really possible to continue being a stranger or foreigner there. Everyone is both outsider and insider. To live in New York is to become a native New Yorker. If Joseph was going to fit anywhere, it was in New York.
But there is something else. The scale of the city, even if it is now matched by other urban conglomerations, still frees one from the need to measure up to one's environment. It is impossible to measure up to New York. Actually, its scale is still unique.
Perhaps it is the only truly twentieth-century city, which would also means that, among cities, it is the one and only true child of the nineteenth-century. What will it be in the twenty-first century? Joseph did not expect to live into the next century anyway, and perhaps in a way didn't want to. The world is, or appears to be changing radically, while he had sweated blood surviving in it as was. After all, even so brave and virtuoso an improvisers as Joseph has his limits. The price of further change might simply have been too great.
For instance, Russia. There was no longer any impediment to his returning. On the contrary, he would have received a hero's welcome. But he was a world citizen, or rather he was a New Yorker. A hero's welcome might have disturbed the equilibrium he had achieved, at who knows what cost. And besides, as he was fond of saying, being outside was the best situation for the artist. Being a New Yorker allowed him to be outside and at the same time to enjoy the horny comforts it offered.
Perhaps he could have slipped into Russia unannounced, as the fiction writer Tatyana Tolstaya suggests, in a novelistically transcribed interview:
"Do you know, Joseph, if you don't want to come back with a lot of fanfare, no white horses and excited crowds, why don't you just go to Petersburg incognito?" [. . .] Here I was talking, joking, and suddenly I noticed that he wasn't laughing [. .. ] He sat quietly, and I felt awkward, as if I were barging in where I wasn't invited. To dispel the feeling, I said in a pathetically hearty voice: "It's a wonderful idea, isn't it?" He looked through me and murmured: "Wonderful. . . Wonderful ... "
Wonderful, but too late. After all, one of Joseph's great achievements, as George Kline has pointed out, had been to throw himself into the language and literature of his adopted country. He rejected the path of nostalgia, regret, self-pity,lamentation, the fatal choice (if one can call it that) of so many émigré writers, especially poets. And what now, when he was no longer technically an involuntary exile? He had refused to complain about it, just as he refused to complain about his treatment in Russia, or his lack of a formal education. On the contrary, he had valued exile to the arctic region as liberating. And the education in question was a Soviet one, though when he said that the "earlier you get off track the better", he may not have been referring exclusively to the Soviet system.
Furthermore, his own generation, as he acknowledged, was what mattered to him. He kept up, to a remarkable extent, with what was being written by his younger contemporaries, but his real sympathies were with those of his own generation. Although, with the unanticipated collapse or abdication of the Soviet imperial power, he came to see many of his friends again, he had both intellectually and emotionally bade them" farewell" (proshchaite), not "good-bye" (do svidanie, "see you again "). In a sense, the reunions must have been posthumous affairs. So, when he was shown photos, taken shortly before his departure from the Soviet Union, he suddenly became serious, solemn, grim: "One's affinity is for the generation to which one belongs ... Theirs is the tragedy ... " Not of those who emigrated or, like himself, were given little choice other than to leave. And as for himself, well, he had exchanged oppression for freedom and all kinds of material advantage. He had no patience with talk of exile. Perhaps the dissolution of the Soviet State, its transformation, rather than opening the way for his return, simply confirmed his Americanness ...
Or rather, his New- Yorkerness. New York, as he put it, "reduces you to a size". It is a gigantic impediment to gigantism. And yet, at the same time, it is human. The scale of its monumentality is human. It was also a "Mondrian city". Who, familiar or besotted with New York, does not know what he meant by that? The perpendicularity and horizontality; windows, facades, facets ...
Anyway, it was his city; that is, he made it his. And he was right about it. In this place, you were not greater than yourself; you were "reduced to a size" (curious that use of the indefinite article), the right size, your own human size. It's not true that you were dwarfed by those canyons; they are clearly the product of human labour, an index to human industry. And strangely heartening, too, even now, nearly a century on ...
But now I am waxing sentimental. Thinking about the city now, at age sixty-one, it seems to me not a bad place to die in. I remember being told by Ted Hughes, ten or twenty years ago already, that we had reached the age when the Indian princes abandoned their worldly concerns and retired to the forests. Perhaps New York is the equivalent for urban man? As if one’s death there would be less unbearably personal, with that crush of people which somehow leaves you uncrushed, so you feel, even in your isolation, part of a far greater organism, an organism in that it doesn't (quite) self-destruct. There's one positive effect being "reduced to a size". Joseph, having been deprived of what, as a Jew, he possibly never quite possessed, Russia, having "quit the country that bore and nursed him" and having been forgot - ten by so many - first you have to be known by so many -, having suffered catastrophic loss, however much he insisted that he had left the worse for the better, was now threatened with the early loss of his life. Under these circumstances, New York, perhaps, fitted the bill.
I am waiting for Joseph in Washington Square. It looked like rain before, but it hasn't rained yet. I am watching the skateboarders, the jugglers, the children, the clochards, the mothers, the gangs of youths. Nobody pays any attention to me, and I suddenly feel blissfully unselfconscious. Joseph arrives late. He shuffles over, grinning wryly. He seems in no hurry and doesn't apologize. There is a stillness about him. Suddenly I feel, by contrast, tense, anxious.
We stroll into the Village, towards one of his favourite restaurants. And now it is raining or drizzling. He has to call Maria. He uses a street phone. At the same time, he conveys to me that nothing has changed ...
Ai chỉ định anh là thi sĩ? 
Thứ Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the language - của người quá cố:
Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người đàn bà nào đó). 
Tuy sống lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.
Ông sang Mỹ, nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là một xứ đáo để (Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của mi...): Anh càng rẫy ra, nó càng bám chặt lấy anh cho tới hơi thở chót.
-Bao giờ ông về?.
-Có thể, tôi không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có ai cần tôi ở đó.
-Đừng nói bậy, họ sẽ không để ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới Petersburg... Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều khiến tôi không muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó. 
Theo Tatyana Tolstaya, nhà văn nữ người Nga hiện đang giảng dạy môn văn chương Nga và viết văn, creative writing, tại Skidmore College, thoạt đầu, ông rất muốn về, ít nhất cũng như vậy. Ông đã từng nổi giận về những lời trách cứ. "Họ không cho phép tôi về dự đám tang ông già. Bà già chết không có tôi ở bên. Tôi hỏi xin nhưng họ từ chối". Cho dù vậy, lý do, theo Tolstaya, là ông không thể về. Ông sợ quá khứ, kỷ niệm, hồi nhớ, những ngôi mộ bị đào bới. Sợ sự yếu đuối của ông. Sợ hủy diệt những gì ông đã làm được, với quá khứ của ông, trong thi ca của ông. Ông sợ mất nó như Orpheus đã từng vĩnh viễn mất Eurydice, khi ngoái cổ nhìn lại.

Gấu bắt chước Brodsky, cũng dõng dạc phán, tao đéo cần ai ở đó!
Hà, hà!
NQT.
Sở dĩ những tên, như tên chuyên viết Phén, hay tên số 2, hay thi sĩ “gì gì” đó, coi, ngày tình nhân, lover's day, Valentine's Day, thì cũng như ngày nhân tình, "bướm đê", butterfly's day, "đến, 1 phát, là đi", không tên nào tỏ ra biết ơn cái xứ sở Canada, là nơi đã nhận chúng, cho chúng 1 quê hương, là vì, theo GCC, chúng đều được thân nhân bảo lãnh.
Không tên nào đã từng sống ở trại tị nạn, tức chốn tạm dung.
Chúng chưa từng biết cái nỗi mất quê hương khủng khiếp đến như thế nào.
Tên số 2 ở Canada đến ị ra cứt toàn mùi Canada - đừng có nghĩ là Gấu có...  ngửi, mà, đúng như thế, hắn ăn ở, ở Montreal, học, lấy đâu mấy cái bằng Đại Học, chơi với lũ mũ
i  lõ, không có 1 tên bạn mũi tẹt đầu đen nào, như chính hắn viết, vậy mà có dịp là chuồn đi Mẽo.
Ca ngợi Mẽo hết lời, không phải vì mê Mẽo, mà mê đồng đô la.
Hắn cũng không hiểu được Mẽo khốn nạn như thế nào.
Nếu Mẽo thực sự tốt như hắn viết, thì nước Mít không ở trên mép bờ của hủy diệt như hiện nay.
Đây là đề tài của cuốn “Người Mỹ Trầm Lặng” của Graham Greene, mà trên Tin Văn lèm bèm hoài.
Cái thiện ý của Mẽo sợ còn độc hơn nhiều so với Cái Ác Bắc Kít, tên ngu này làm sao hiểu được.
Chính vì cái thiện ý của chúng, mà chúng xâm lăng
Iraq, khi phịa chuyện, Hussein chứa vũ khí huỷ diệt toàn thể nhân loại.
Đâu có khỉ gì.
Đâu thua gì Bắc Kít, phịa ra cú Diệm đầu độc tù, để gây chiến, biến Miền Nam thành bãi chiến trường, để thống nhất, đúng ra là để ăn cướp.
Một chính thể đẹp đẽ như VNCH, chúng huỷ diệt, thay bằng chính thể cứt đái như hiện nay, đến 1 tên bộ trưởng, hay thủ tướng, mà nói ngọng, vậy mà chúng bảo đây là do phương ngữ!
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali
Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!
Rợp bóng Greene:
Tháng 11, 2005, trên tờ Newsweek, ký giả Christopher Dickey viết, “Một lần nữa, những lầm lẫn chết người của những thiện ý của Tông Tông Bush làm nhớ đến anh chàng Mẽo ngây thơ Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng”. Tay ký giả Mẽo đi 1 đường trích dẫn, về những ngày đầu Mẽo vô Miền Nam:
'He was absorbed already in the dilemmas of Democracy and the responsibilities of the West; he was determined - I learnt that very soon - to do good, not to any individual person but to a country, a continent, a world ... When he saw a dead body he couldn't even see the wounds. A Red menace, a soldier of democracy'. Replace the word 'Red' with 'Islamic', and fast forward 50 years.
Chỉ cần thay từ Đỏ, bằng từ Hồi Giáo, là thấy 50 năm trôi qua.

Malcolm Pryce's top 10 expatriate tales

Michael Caine in The Quiet American.

Michael Caine as Fowler in The Quiet American. Photograph: PR

Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape



No single imagination can truly own a city, so when we speak of Proust’s Paris , Joyce’s Dublin , Musil’s Vienna and Lawrence Durrell’s Alexandria , we are really clearing a space in our minds where specific happenings and feelings may be identified and reconvened. It is these novelists’ pressing need to set their narratives down in some palpable place, almost as aliens colonizing a territory, rather than a compulsion to celebrate their country or fictionalize an already famous vicinity that leads to their iconic inventions. Nguồn

K dịch giùm, Tks. NQT
Không một đầu óc tưởng tượng nào, một mình nó, có thể thực sự sở hữu một thành phố đâu, bởi thế khi chúng ta nói đến Paris của Proust, Dublin của Joyce, Vienna của Musil và Alexandria của Lawrence Durrell, là chúng ta đã dọn sạch một chỗ trống trong trí óc chúng ta sẵn sàng để cho những sự kiện và cảm xúc đặc thù nào đó được nhận diện và gom góp lại . Chính vì sự cần thiết phải sắp đặt những tình tiết chuyện kể của các nhà văn này vào một nơi chốn có thể chạm tay tới được, gần như theo kiểu ngoại nhân tìm cách chiếm hữu một vùng đất nào đó làm thuộc địa, hơn là ý hướng thăng hoa đất nước mình, hoặc  tiểu thuyết hóa một khu vực đã nổi tiếng sẵn, đã dẫn dắt họ đến những sáng tạo đầy biểu tượng.

Tks

Cau nay hay qua, ma kho dich qua
Nhat la khuc sau.
Tks again
NQT
TB: Đang chạy nước rút với Istanbul. NQT
Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Đó còn là nỗi sợ hãi đời sống, và mong muốn có một người cùng chia sẻ. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh buốt. Hình như bằng những xôn xao, những mơ hồ như vậy tôi viết cho Lan Hương những dòng cuối cùng: "Anh không sợ chúng ta không yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá".
Note: Câu văn trên, và cả cái truyện,
Lần Cuối Sài Gòn được viết tại Trại tị nạn Thái Lan, cc 1989-90.
Khi tờ LV ở Canada vô được Trại Cấm, một anh nhóc, đọc câu chót, phán, khủng khiếp quá!
"Anh không sợ chúng ta không yêu thương nhau nhưng chỉ sợ chúng ta thương nhau nhiều quá".
Xạo hết chỗ nói, tới cỡ đó, mà vẫn mất em như thường!

Viết Mỗi Ngày


Quyen Nguyen replied to a comment on this.
Cuộc đời tôi trong cái quý cuối năm 2016 rút gọn trong trạng thái pending, chờ. Chờ kết quả chấm luận án. Chờ bảo vệ. Chờ sửa. Vài cái abstract hội nghị vài cái book chapter cũng như essay journal gửi đi không một sủi tăm. Cảm giác chờ nói chung là không có cảm giác gì, chỉ trừ đến lúc sát ngày có kết quả mà vẫn thấy các bên liên quan không động tĩnh gì thì hơi điên. Ba ngày vừa qua thì tôi chờ một thứ khác. Và hôm nay thì nó đã tới. Tôi sung sướng một cách đơn thuần và biết ...
Quoc Tru Nguyen Chúc mừng. Joyce theo tôi, rất khó đọc. Ngay Beckett, tôi cũng mới đọc được 1 chút, mà cũng mới đây thôi. Khó lắm đấy, thành thực chúc mừng. NQT
LikeReply136 mins
Quyen Nguyen Cảm ơn bác ạ. Cháu đọc Joyce và Beckett mấy năm nay rồi mà vẫn chưa thấy đỡ khó
LikeReply135 mins

Tks
Theo tôi, đọc Beckett thú hơn nhiều, nếu phải so với Joyce.
Thanh Tâm Tuyền
cũng mê Beckett. Vô tù VC mà vẫn mang theo, như Bùi Ngọc Tấn mang theo Mai-a!
Đọc Beckett, còn lần ra Kertesz, Kafka, Celan, Linda Lê... nhiều lắm.
NQT

http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_10_Yrs_3.html

*

Liquidation: Thủ tiêu, làm thịt, thanh toán




Liquidation fait ainsi écho au très beau Kaddish pour l'enfant qui ne naîtra pas (2), troisième volet de la trilogie amorcée par Être sans destin: on retrouve dans les deux cas un écrivain du nom de B., séparé d'une femme médecin, un personnage nommé Obláth, une soirée où chaque convive cite les camps par lesquels il est passé ... Face au néant ne subsiste en définitive que la foi en l'écriture professée par Keserü : “Le monde se compose de tessons qui s'éparpillent, c'est un obscur chaos incohérent que seule l'écriture peut maintenir. Si tu as une idée du monde, si tu n'as pas oublié tout ce qui s'est passé, alors sache que c'est l'écriture qui a créé pour toi le simple fait que tu as un monde et qu'elle continue à le faire, elle est la toile d'araignée invisible qui relie nos vies.” Une image qui se rapproche étrangement de celle qu'emploie Imre Kertész pour parler de la littérature, “grande toile faite de filiations et de rejets”. Il aime qu'un auteur se réfère à d'autres et ses livres sont truffés « de citations en filigrane », d'allusions à Kafka, Camus ou Paul Celan, voire, comme on l'a vu, à ses autres livres. Kertész avait ainsi intégré au Kaddish des bribes de la Todesfuge (3), la fameuse “Fugue de mort” de Celan, emblème d'une poésie qui s'oppose fondamentalement à l'assertion d'Adomo selon laquelle « écrire un poème après Auschwitz est barbare ». À quoi Kertész rétorque voolontiers que “ne pas écrire de poème après Auschwitz aurait été bien plus barbare ...”. Comme Celan, Kertész considère qu'en creusant la part d'ombre, le néant, on redonne sens à la parole. « On fouille les recoins les plus obscurs de soi-même et l'on aspire à la clarté, c'est l'essence même de l'écriture. On part du désespoir, d'un monde traversé de part en part par la souffrance, et l'on veut atteindre la lumière. On y arrive ou non. Parfois l'écrivain et le héros du roman réussissent, parrfois les deux sombrent. Avec Liquidation, le héros succombe, mais l'écrivain que je suis donne un entretien ... »
Minh Tran Huy

Làm thơ sau Lò Thiêu dã man
Không làm thơ sau Lò Thiêu dã man hơn nhiều

Note: Gấu cũng đã từng dịch và giới thiệu Joyce, từ trước 1975, trên TSVC, nhưng thú thực, chỉ đọc nổi tập truyện của ông, Những cư dân của Dublin. Đọc, qua bản tiếng Tẩy!

*
GCC giới thiệu 1 truyện ngắn của Joyce trong Dubliners.
Thương Ẩn, là từ Lý Thương Ẩn.

*
Post thêm bài này của Prospero, thần sầu!
James Joyce's "Ulysses"

Why you should read this book



THERE are two kinds of people. Those that have read "Ulysses" and those that haven't,” my best friend stated plumply one day, dropping the surprisingly compact 783-page paperback on the table with a thud. This was meant in a silly, snobbish kind of way, but he was right. Given the flood of ecstatic imagination between the covers of James Joyce's novel, its more patient readers are marked for life by having read it.

Today, June 16th, is Bloomsday, the day in which all of the action of "Ulysses" takes place in the spinning clockwork of Dublin in 1904. Joyce's devoted fans can be seen celebrating it every year. While Bloomsday events outside of Dublin tend to be nerdy affairs in Edwardian dress, I do recommend a good public reading if you can find one. (I do not, on the other hand, recommend the Bloomsday Irish breakfast of kidneys and gizzards, which is positively Cronenberg-esque.)

Perhaps that breakfast is a good metaphor; some people, not happy with saying "Ulysses" is not to their taste, must pronounce it loathsome. It was banned in America until 1934 because of its “pornographic” nature, a comical artefact of the country's prudishness. And its position atop the western canon's modernist heap has made it an all-too-tempting target for critics. I'll never forget one of my old bosses damning "Ulysses" as the phallogocentric truncheon of paternal oppression, whatever that means. (He felt Gertrude Stein was the real talent.)

Just last year, Slate published a humourless piece in which Ron Rosenbaum fulminated about the book's shortcomings, or rather its overcomings: “'Ulysses' is an overwrought, overwritten epic of gratingly obvious, self-congratulatory, show-off erudition that, with its overstuffed symbolism and leaden attempts at humor, is bearable only by terminal graduate students who demand we validate the time they've wasted reading it.” Ouch. This is the kind of wet-blanket misinformation that you will have to ignore if you want to have any fun. And "Ulysses" is fun—maybe the best book you take to the beach this summer.

It is true that full-time literature students are in the best position to read "Ulysses": it's our job, with tons of time and a support staff standing by. I had the luxury of a "Ulysses" seminar with ten other undergrads, a professor with a Joyce tattoo on his back, and a pub with Beamish on tap. That's the ideal, but you really don't need all that. The beer is important, but all you really need is a clean, well-lit room of one's own, a copy of "Ulysses", Don Gifford's "Ulysses Annotated", Harry Blamires's "The New Bloomsday Book" for chapter summaries, Joseph Campbell for some colour commentary, and some spare time.

Many readers will recoil: “I have to read three other books to read this one book? Zounds!” Trust me: you'll be glad you did. Joyce is allusive and experimental, and the helping books do indeed help the reader mine for historical and literary meanings that reward often. But even a reader who forgoes annotated help can enjoy Joyce's virtuosity. Few novelists have the ability to make the English language do whatever he wants, to make it do cartwheels and sing arias. Even when Joyce goes down (yet another) digressive rabbit hole, you love being along for the ride. 

Two counts in Rosenbaum's indictment against "Ulysses" are worth examining in more detail, since they implicate not just that book but all brainy novels period in today's digital zeitgeist. The first one is pretty easy: the anti-intellectual, knee-jerk reaction to erudition, show-off or otherwise. We're all familiar with the prejudice that horse sense is better than intellect. And it's true that "Ulysses" is a clearinghouse of historical facts, religious and philosophical ephemera, and clever-boots witticisms. "Ulysses" is also a variety show of the sexual and excretory; the denouement is the book's two main characters drunkenly pissing side by side under the “heaventree of stars”, a first I'm sure. The novel is a perfect mix of highbrow and lowbrow, of poetry and patter, the very same flavour we love in our Shakespeare, who also happens to permeate much of "Ulysses". Both Shakespeare and Joyce are industrial-grade humanists who devote every page to the study and celebration of us—smart, dumb, middling, fair, no matter.  

The second complaint with "Ulysses", or smart books in general, is that they are too long or too dense, or both, and we simply don't have the time to “waste”. The fear that we are becoming too distracted for big books has consumed the last decade. But what does digital have to do with novels, aside from making them more accessible? Ulysses, more than any novel, was made for the digital age. In the past decade, various projects have already begun to hyperlink the book with nifty annotations and commentary in an entertaining format to make it even easier to enjoy—in bite-sized portions—Joyce's feast of words. 

Are we really too busy for one of history's great psychological novels? Many of those who scoff at the idea of reading Ulysses will tell you in the next breath of finishing the 4,000-odd pages of George R.R. Martin's "A Song of Ice and Fire" (ie, the Game of Thrones books), or consuming all four seasons of "Breaking Bad" in a meth-fuelled weekend. Let's not kid ourselves: we have the time. Find some room in your summer reading for "Ulysses" or those other loose, baggy monsters it spawned, like "Gravity's Rainbow" or "Infinite Jest". "Ulysses" is perhaps the most written about book ever after the Bible, which should tell you something. It's definitely a better read. Sláinte!

Read more: We review Gordon Bowker's biography of James Joyce



Viết Mỗi Ngày


*

Mới ra lò: Tuyệt đối về âm nhạc


Gide, viết về Dos, tác phẩm nhớn có phần đóng góp của Quỉ.

Nhớ, lần viết về "Cuộc Tình Trong Ngục Thất" của Nguyễn Thị Hoàng, Gấu bèn chôm, và phán, con quỉ ở trong đó, là con quỉ chiến tranh và, thay vì Orpheus, thì là NTH, xuống địa ngục - lao công chiến trường - để cứu chồng.
Nhớ, lại nhớ, Mai Thảo đọc, thú quá, gật gù, được, được!

Trong bài Tựa cho cuốn sách này, Murakami viết:

Creative people have to be fundamentally egoistic. This may sound pompous, but it happens to be the truth. People who live their lives watching what goes on around them, trying not to make waves, and looking for the easy compromise are not going to be able to do creative work, whatever their field. To build something where there was nothing requires deep individual concentration, and in most cases that kind of concentration occurs in a place unrelated to cooperation with others, a place we might even call damonisch.

Có lẽ văn chương Mẽo, thiếu, cả hai thứ
trên, chăng?

Lũ viết lách, chúng thực là ích kỷ, và đây là 1 điều cực kỳ cơ bản, thiết yếu, đối với chúng.
Nghe thì có vẻ huênh hoang, phách lối, y chang thằng cha Gấu Cà Chó [Cà Chó nhe!] Nhưng đó là sự thực.
Thường nhân, viết văn, mần thơ,
thì cần ly cà phê để tản mạn, để phén, phiếc, nhưng để "dưng không trồi lên sự thực" thì cần 1 chỗ có tên là Quỉ Ma.


Interlude 2

The Relationship of Writing to Music

MURAKAMI: I've been listening to music since my teens, but lately I've come to feel that I understand music a little better now than I used to-that maybe I can hear the fine differences in musical detail-and that writing fiction has gradually and naturally given me a better ear. Conversely, you can't write well if you don't have an ear for music. The two sides complement each other: listening to music improves your style; by improving your style, you improve your ability to listen to music.
OZAWA: Interesting ...
MURAKAMI: No one ever taught me how to write, and I've never made a study of writing techniques. So how did I learn to write? From listening to music. And what's the most important thing in writing? It's rhythm. No one's going to read what you write unless it's got rhythm. It has to have an inner rhythmic feel that propels the reader forward. You know how painful it can be to read a mechanical instruction manual. Pamphlets like that are classic examples of writing without rhythm.
    You can usually tell whether a new writer's work is going to last by whether or not the style has a sense of rhythm. From what I've seen, though, most literary critics ignore that element. They mainly talk about the subtlety of the style, the newness of the writer's vocabulary, the narrative momentum, the quality of the themes, the use of interesting techniques, and so forth. But I think that someone who writes without rhythm lacks the talent to be a writer. That's just my opinion, of course.
OZAWA: Do you think we can feel that kind of rhythm when we read it?
MURAKAMI: Yes, the rhythm comes from the combination of words, the combination of the sentences and paragraphs, the pairings of hard and soft, light and heavy, balance and imbalance, the punctuation, the combination of different tones. "Polyrhythm" might be the right word for it, as in music. You need a good ear to do it. You either can do it or you can't. You either get it or you don't. Of course, it is possible to extend one's talent for rhythm through hard work and study.
    I'm a jazz lover, so that's how I set down a rhythm first. Then I add chords to it and start improvising, making it up freely as I go along. I write as if I'm making music.
OZAWA: I never knew that there could be rhythm in writing. I'm still not that clear on what you mean by it.
MURAKAMI: Well, rhythm is an important element for both reader and writer. If you're writing a piece of fiction and you haven't established a rhythm, the next sentence won't come out, which means the story can't move ahead. The rhythm in the writing, the rhythm of the story: if you've got those, the next sentence will come out naturally. When I'm writing a sentence, I automatically sound it out in my head, and a rhythm takes hold, kind of like in jazz: you ad-lib a chorus, and that leads organically to the next chorus.
OZAWA: I live in the Seijo neighborhood of Tokyo, and I was recently given a pamphlet for a candidate running for office there. I opened it up and found some kind of pledge or manifesto, so I started reading it because I had nothing better to do at the time, and I found myself thinking, "This guy will never make it." And I felt this because I couldn't read more than three lines of this document, no matter how hard I tried. This guy seemed to be saying something important, but I just couldn't read it.
MURAKAMI: And that's probably because his writing had no rhythm to it.
OZAWA: You think so? Is that what it was? What about somebody like Natsume Soseki?
MURAKAMI: I think Soseki's style is tremendously musical. It makes for very smooth reading. It's quite wonderful even now, a century after his death. I'm pretty sure he was less influenced by Western music than by the long narrative chants of the Edo period [1603-1868]. but he had a great ear. I don't know how deeply versed he was in Western music, but he spent a couple of years studying in London, so I suspect he familiarized himself with it to some degree. I'll look into it.
OZAWA: He was also a professor of English, wasn't he?
MURAKAMI: He probably had a good ear in that sense, too, with a good combination of Japanese and Western elements. Hidekazu Yoshida was another writer with a musical style. His Japanese flows beautifully, is very easy to read, and is quite personal in tone.
OZAWA: You may be right about that.
MURAKAMI: Speaking of professors of literature, I gather your English professor at the Toho Gakuen School of Music was the novelist Saiichi Maruya.
OZAWA: That's true. He had us read James Joyce's Dubliners. There was no way I could understand a book like that. [Laughter.] I sat next to a girl who was good at English and she told me what it was about. I didn't study at all. Which meant that I didn't know any English when I went to America. [Laughter.]
MURAKAMI: SO it was just that you didn't study, not that Mr. Maruya was a bad teacher.
OZAWA: No, I really didn't study.

Tây Du.
Con
đường Tây Du là con đường
Chống Tây

Lúc này anh không còn lấy tên là anh “Ba”, mà là Paul Tất Thành.
Cái nhìn tự tin, dáng dấp đúng điệu công tử Paris, anh đang dạo chơi trên cầu Alexandre III

Giá như mà Bác cứ ở Tẩy, ngày ngày làm anh thợ chụp hình, đêm đêm xách cục gạch ấm áp, mềm mại, thơm như múi Mít về lót đầu nằm, thì xứ Mít thoát họa Tẫu.
Xứ Mít chết, đúng lúc Hồ thoát cớm Tẩy, bò sang được Moscow, sau đó thoát chết cuộc thanh trừng đám cựu trào Bôn Xê Vích, được Xì cho về hầu hạ Mao, sau khi cấy
cho 1 cái sinh tử phù là Cái Độc Cẩm Linh.
Qua Tẫu, được chích thê
m mũi nữa, Cái Ác Bắc Kinh.
Cộng thêm Cái Ác Bắc Kít có sẵn, thế là ô hô ai tai nước Mít!






*

SAIGON 1969 - Photo by larsdh - Đường Tự Do, Công viên Chi Lăng

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/30880068970/

1969 
Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.

Whether it's the stones or not, explain it however you like, but in Petersburg there is this enigma, and it truly does influence your soul, shapes it. A person who grew up there or at least spent his youth there, it's hard to mix him up with other people, or so it seems to me. That is, for starters, it's hard to confuse us, say, with Muscovites, if only because we speak Russian differently.
Đá hay không đá, sỏi hay không sỏi, cắt nghĩa thế nào thì kệ cha mi, nhưng Sài Gòn có 1 niềm bí ẩn và nó thực sự ảnh hưởng lên linh hồn mi, tạo vóc dáng cho nó
. Một thằng cha lớn lên ở đó, hay ít nhất đã trải qua thời mới lớn của nó, ở đó thì thật khó mà lẫn nó với những đứa khác.

That is, for starters, it's hard to confuse us, say, with Muscovites, if only because we speak Russian differently.
Với ngôn ngữ rất là Bắc Kỳ, và gần suốt một đời trưởng thành và sống tại Miền Nam, văn của NQT đã trở nên đa dạng và phức tạp hơn hầu hết những người cầm bút cùng thời.
Phan Tấn Hải






Viết Mỗi Ngày


THE CASE OF VIET NAM illustrates Solzhenitsyn's limitations. His and his critics'. Those groups who opposed, almost always with good and legitimate reasons, the American intervention in Indochina denied at the same time something undeniable: the conflict was an episode in the battle between Washington and Moscow. Not to see it-or to try not to see it-was to be blind to what Solzhenitsyn and (also) Mao saw: the defeat of the Americans encourages the aspirations toward Soviet hegemony in Asia and Eastern Europe. Those same groups-socialists, libertarians, democrats, anti-imperialist liberals-denounced justifiably the immorality and corruption of the South Vietnamese regime but did not say a single word about the actual nature of the one that ruled in North Vietnam. A witness beyond suspicion, Jean Lacouture, has called the Hanoi government the most Stalinist in the Communist world. Its leader, Ho Chi Minh, directed a bloody purge against Trotskyites and other dissidents of the left when he took power. The cruel measures adopted by the triumvirate which rules Cambodia have shocked and shamed Western supporters of the Khmer Rouge. All this proves that the left is snared in its own ideology; that is why it has not yet found the means of combating imperialism without succoring totalitarianism instead. But Solzhenitsyn himself is a victim of the ideological snare: he said that the war in Indochina was an imperial conflict, but he did not say that it was also-and above all else-a war of national liberation. This was what legitimized it. To ignore this fact is to ignore not only the complexity of all historical reality but also its human and moral dimension. Manichaeism is the moralist's trap.

Octavio Paz: On Poets and Others

Gấu có đọc 1 tài liệu của Tẩy, chúng gần như lạy lục Vẹm, đừng làm nổ ra cuộc chiến [nên nhớ Tẩy xin lại Xứ Mít, từ Đồng Minh], nhưng nếu không làm nổ ra cuộc chiến, làm sao làm cỏ sạch những người tuy chống Pháp, nhưng không theo chúng?
Bằng mọi cách phải làm nổ ra cuộc chiến chống Pháp, và sau này, bằng mọi cách phải nhử được Thằng Mẽo nhảy vô Miền Nam.

Mặt khác, dù bị mọi người chỉ trích vì các chính sách trong quá khứ và hiện tại, thú thật Đảng Cộng sản vẫn là tổ chức hùng mạnh nhất. Do đó, để giải quyết các vấn nạn của xã hội ngày nay, vai trò của họ vẫn còn rất quan trọng. Đây là sự thật không thể bác bỏ.
LCD

Vai trò quan trọng của chúng ư?
Làm thịt sạch những người không theo chúng.

Trong thời kỳ chiến tranh với Mẽo, cứ có 1 khuôn mặt quốc gia nào sáng giá 1 chút, là chúng thịt.
Bạn thử chỉ cho Gấu thấy, chỉ 1 vụ, Vẹm đối xử bằng tình người với “bất cứ 1 ai”?
Có thể nói, tất cả những gì ghê tởm nhất, ác độc nhất, của giống Mít, Vẹm có hết, ngoài ra là....  chấm hết.

Ở trong nước, cứ cá nhân nào chống chúng, là chúng dùng đủ mọi cách dù nhơ bẩn thế nào, để hành hạ người đó, nào đổ cứt vô nhà, ném mắm tôm vào mặt, ngay cả con nít… Chúng tịch thu máy tính, thư từ, hình ảnh…  sau đó gửi những hình ảnh riêng tư của khổ chủ nhằm hăm dọa, như trong trường hợp Đoan Trang, thí dụ.

Không lẽ dân Mít cần “vai trò” của Vẹm, như thế?

Paz viết:

Solz gọi cuộc chiến Đông Dương là tranh chấp đế quốc, nhưng ông ta không nói, còn là - và trên tất cả - cuộc chiến giải phóng của 1 quốc gia.
Chính cái điều này biện minh tính chính thống cho nó.
Vờ nó, là vờ luôn tính đa dạng lịch sử mà luôn cả chiều hướng nhân bản và đạo đức của nó.

Cách hiểu VC của Paz, là cũng nằm trong cách giải thích Vẹm của LCD.
Vẹm 1 mình 1 chợ làm cuộc chiến chống Pháp, sau khi làm thịt hết những đảng phái khác - thủ tiêu, vu là Việt Gian... - Đâu là chiều hướng nhân bản và đạo đức?
Nếu là giải phóng quốc gia, thì làm sao cắt nghĩa yếu tố Tẫu, ngay từ khởi thuỷ cuộc chiến?



Cái cú khẳng định, tôi sẽ trở về trước khi chết, và khi đó đế quốc Đỏ đã sập tiệm, Solz phán gần như ngay sau khi bị tống xuất, trong chương trình văn học Apostrophes của đài truyền hình Pháp, của Bernard Pivot, vào tháng Tư 1975, tức là đúng lúc Miền Nam đi đoong. Vì vậy ngoài khẳng định sẽ về, còn tiên đoán về số phận Miền Nam: Miền Bắc sẽ chiếm đóng Miền Nam, chẳng có giải phóng giải phiếc gì hết [Soljenitsyne prophétisant la mainmise du Nord sur le Sud. Bernard Pivot: Le métier de lire, Nghề đọc]
Tay Pivot này phỏng vấn Solz hai lần [cho chương trình Apostrophes do ông chủ trì, sau đó, còn phỏng vấn Solz cho chương trình Bouillon de culture, khi Apostrophes sập tiệm]. Lần đầu, vừa kể, nhân dịp cuốn Le Chêne et le Veau, bản tiếng Tây, tất nhiên, ra lò ở Tây. Lần thứ nhì, tại Vermont, nơi cư ngụ của Solz. Lần đầu, chỉ bốn tháng sau khi chương trình văn học Apostrophes xuất hiện. Pivot, khi nhớ lại, vẫn còn cảm động, ui chao tôi nhớ là tui hơi run run khi đứng trước người khổng lồ, sống sót ba trận đại dịch của thế kỷ 20: chiến tranh, ung thư, và trại tù. Tôi thấy mình thật nhỏ bé trước người khổng lồ và cuốn sách mới ra lò… Người ta chê trách tôi, tại sao không mời thêm một tay trí thức CS để đấu tay đôi với ông ta. Lúc đó, thì thứ này vẫn còn ở Tây.
Tôi không nghĩ, Solz chấp nhận, nhưng còn vấn đề này căng hơn nhiều: Làm sao để một người khổng lồ kế bên một con bọ?


Tết này nhớ Bác

Trang này đang "hot".

*

Tây Du.
Lúc này anh không còn lấy tên là anh “Ba”, mà là Paul Tất Thành.
Cái nhìn tự tin, dáng dấp đúng điệu công tử Paris, anh đang dạo chơi trên cầu Alexandre III

Giá như mà Bác cứ ở Tẩy, ngày ngày làm anh thợ chụp hình, đêm đêm xách cục gạch ấm áp, mềm mại, thơm như múi Mít về lót đầu nằm, thì xứ Mít thoát họa Tẫu.
Xứ Mít chết, đúng lúc Hồ thoát cớm Tẩy, bò sang được Moscow, sau đó thoát chết cuộc thanh trừng đám cựu trào Bôn Xê Vích, được Xì cho về hầu hạ Mao, sau khi cấy
cho 1 cái sinh tử phù là Cái Độc Cẩm Linh.
Qua Tẫu, được chích thê
m mũi nữa, Cái Ác Bắc Kinh.
Cộng thêm Cái Ác Bắc Kít có sẵn, thế là ô hô ai tai nước Mít!

Khi c
ó dịp trở lại đất Bắc, Gấu bèn mò về, và cũng phải tính toán thật chi ly. Không dám về thẳng Sài Gòn, mà phải tới
Hà Nội, và phải phôn ông cậu, Cậu Toàn, em trai bà cụ Gấu, một người theo CS từ những ngày đầu, và là 1 ký giả phải nói là khá nổi tiếng, đích thân ra phi trường đón.

Phải phôn cho ông bạn quí HPA, nhờ giới thiệu 1 đấng nhà văn nhà thơ nổi tiếng, phòng hờ.
Anh giới thiệu 1 tay thật hách là thi sĩ Nguyễn Quang Thiều. NQT và 1 số bạn bè quen biết sau đó,
lo lắng cho Gấu đủ thứ, nhân tiện đây, xin đa tạ tất cả.
Một trong những điều Gấu canh cánh trong lòng, là, tại sao ông cụ Gấu, bị VNQDD thủ tiêu, ngay những ngày đầu nổ ra cuộc chiến chống Pháp, vậy mà bà chị ruột, đứa em trai ruột còn ở lại, không được nhà nước VC công nhận là con của liệt sĩ. Cái gì khiến ông bố của Gấu không được coi là 1 tên Việt Minh?
Về, hỏi han đầu này mối nọ, hóa ra là ông cụ nhất quyết không theo Vẹm.
Dù là hiệu trưởng 1 trường tiểu học, chống Tây, bị chúng chuyển đổi khắp mọi nơi, kể cả Lục An Châu, nổi tiếng nước độc, thuốc phiệ
n ê hề!
Bà cụ Gấu, khi thấy thằng con lậm Cô Ba, chửi, mày thua xa Bố của mày!
Chỉ là 1 cảm tình viên của Đảng, như 1 ông chú, 1 tỉnh uỷ viên, cho biết.

Có thể, ông đã từng chứng kiến,
cảnh VM thủ tiêu những người chống Pháp, nhưng không theo chúng.
Ông không muốn con cái sau này phải mang nhục, bố của chúng là 1 tên giết người! 
Phạm Quỳnh, ngay cả vào những giây phút cuối cùng của đời mình, bị Vẹm dùng đá đập cho tới chết, vì tiếc 1 viên đạn, vẫn khư khư với ý nghĩ, không có thằng Tây, là thằng Mít chết. Gấu thực sự không tin, ông giải ra được cái thai đố, giặc ngồi ngay sau lưng nhà vua, tức “yếu tố Tẫu”. Cuộc chiến chống Pháp là cơ hội bằng vàng cho Vẹm làm thịt sạch những ai không theo chúng. Đến cả những kẻ theo chúng, như Nguyễn Hữu Đang, thí dụ, mà chúng còn giết, nữa là!
Tuy nhiên, phải đến khi Âu Châu sống sót Lò Thiêu, và thoát bị nhuộm Đỏ, nhờ nó,
thì chúng ta mới hiểu được, giả như vẫn còn thằng Tẩy, là Mít thoát hết,  ba bốn Cái Ác: Ác Mốt Cu, Ác Bắc Kinh, và Ác Bắc Kít.
Và một Miền Nam không nhiễm 1 thứ Ác nào hết, vẫn còn.
Cái gì làm Âu Châu thoát bị nhuộm Đỏ?
Theo Applebaum, hai cuốn sách của Koestler và của Orwell, Bóng Đen Giữa Ban NgàyTrại Loài Vật.
Cuộc Cách Mạng thất bại ở Hungary.
Nhưng theo GCC, những cuốn sách của những kẻ đã sống sót Lò Thiêu, chính chúng, đã khiến Âu Châu, sống sót Lò Thiêu, và sau đó, không bị nhuộm Đỏ.
Nhớ, Gấu có đọc 1 số tài liệu của Tẩy về Việt Nam, trong có cái sự kiện, chúng rất tự hào là cái Mác Xít ở xứ Mít, là gốc Tẩy, không phải gốc Moscow.
Đúng!
Giá như mà Bác cứ ở Tẩy, ngày ngày làm anh thợ chụp hình, đêm đêm xách cục gạch ấm áp, mềm mại, thơm như múi Mít về lót đầu nằm, thì xứ Mít thoát họa Tẫu. Xứ Mít chết, đúng lúc Hồ thoát cớm Tẩy, bò sang được Moscow, sau đó thoát chết cuộc thanh trừng đám cựu trào Bôn Xê Vích, và được Xì cho về hầu hạ Mao, sau khi được chích cho 1 cái sinh tử phù là Cái Độc Cẩm Linh.
Qua Tẫu, được chích them mũi nữa, Cái Ác Bắc Kinh.
Cộng thêm Cái Ác Bắc Kít có sẵn, thế là ô hô ai tai nước Mít
!
Rất ư là tình cờ, tờ Guardian, số cuối tuần, 20 & 26 May, 2016, phán, đúng như GCC: Á Châu chưa xong đâu, với quá khứ của nó, khác hẳn Âu Châu.
Xứ Mít chết, khi Hồ bỏ....  Lò Thiêu, chọn Cái Ác Ác Châu, Cái Ác Tẫu, Cái Ác Bắc Kít, mà, cho đến lúc này, chưa có thuốc chủng!
*

Chưa xong đâu, với quá khứ 1 ngàn năm nô lệ thằng Tầu





Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư