LOUISE GLUCK


LOUISE GLUCK

The unsaid, for me, exerts great power.


THERE IS SOMETHING radically uncompromising about all of Louise Gluck's work. Gluck has published nine books of poems, each one an entity unto itself. She has redefined her project with each volume. Each one of her books is a significant station in her progress: “Firstborn” (1968), “The House on Marshland” (1975), “Descending Figure” (1980), The triumph of “Achilles” (1985), “Ararat” (1990), “The Wild Iris” (1992), “Meadowlands” (1997), “Vita Nuova” (1999), and “The Seven Ages” (2001). She has also written one very forceful and clear-eyed work of prose, “Proofs & Theories: Essays on Poetry” (1994), which serves as a guide to her aesthetic and spiritual concerns.
Gluck was mentored in poetry by Stanley Kunitz, her teacher at Columbia University. Her poems are austere and beautiful. She has an oracular voice, a fierce imagination, and an unsparing vision. Her short lyrics swell on the page. She has learned something about impersonality from T. S. Eliot, whose work she loves. She has a taste for asymmetry and writes a taut, irregular free verse. Like the Objectivist poet George Oppen, whom she calls "a master of white space," she typically employs a strategy of pauses and intervals, of "disruption, hesitation, silence." "I am attracted to ellipsis, to the unsaid, to suggestion, to eloquent, deliberate silence," she asserts.
Gluck's subjects are painful ones and she embraces them with unflinching honesty. A massive isolation surrounds everything she writes. Loss is a given, like loneliness, like yearning. Often she seems disgusted with our flawed bodily desires, our sad needs, our human imperfections. Yet her work craves listeners and seeks connection.



THE SEVEN AGES

In my first dream the world appeared
the salt, the bitter, the forbidden, the sweet
In my second I descended

I was human, I couldn't just see a thing
beast that I am

I had to touch, to contain it

I hid in the groves,
I worked in the fields until the fields were bare-

time
that will never come again-
the dry wheat bound, caskets
of figs and olives

I even loved a few times in my disgusting human way

and like everyone I called that accomplishment
erotic freedom,
absurd as it seems

The wheat gathered and stored, the last
fruit dried: time

that is hoarded, that is never used,
does it also end?

In my first dream the world appeared
the sweet, the forbidden
but there was no garden, only
raw elements
I was human:
I had to beg to descend
the salt, the bitter, the demanding, the preemptive

And like everyone, I took, I was taken
I dreamed

I was betrayed:

Earth was given to me in a dream
In a dream I possessed it

Edward Hirsch: Poet’s Choice





Bẩy Đời


Trong giấc mơ thứ nhất, thế giới hiện ra
Muối, cay đắng, cấm đoán, ngọt ngào
Trong giấc mơ thứ nhì, tôi xuống 

Tôi là người, tôi chỉ nhìn thấy 1 con vật, là tôi
Tôi phải sờ soạng, chứa đựng nó

Tôi ẩn náu trong những bụi rậm
Tôi làm việc ở những cánh đồng cho tới khi chúng trần trụi -
Thời gian
Sẽ không bao giờ lại tới.
Bao lúa mì buộc lại, những tráp sung, ô liu. 

Tôi còn yêu vài lần, trong cách người ghê tởm của tôi

Và như mọi người tôi gọi sự thành tựu đó,
Tự do dâm đãng,
Phi lý, như nó như thế. 

Lúa thu gom, trữ trong kho
Và trái cây sau cùng khô héo: thời gian 

Được thu vén, chẳng bao giờ được dùng tới nữa
Liệu nó kết thúc, như thế?

Trong giấc mơ đầu tiên của tôi
Thế giới xuất hiện
Cái dịu dàng, cái cấm đoán 

Nhưng không có vườn tược,
Chỉ có những nguyên liệu thô
Tôi là người 

Tôi phải năn nỉ để được xuống
Muối, cay đắng, cái đòi hỏi, cái ưu tiên

Và như mọi người, tôi lấy, bị lấy
Tôi mơ

Tôi bị phản bội 

Trái đất được trao cho tôi trong một giấc mơ
Trong giấc mơ, tôi chiếm đoạt nó.




Sinh Nhật

Mỗi năm, sinh nhật, má tôi nhận được 1 tá bông hồng
Từ 1 đấng ngưỡng mộ cũ
Ngay cả sau khi bà mất, hồng vưỡn tới
Theo kiểu 1 ai đó, để họa phẩm, hay đồ đạc bàn ghế…
Đấng này để những tờ hoa
Ý muốn ca tụng nhan sắc của má tui
Vưỡn như xưa, ngay cả khi ở bên dưới lòng đất

Thoạt đầu, thấy kỳ kỳ
Rồi chúng tôi trở nên quen: Tháng Chạp tới 1 phát
Là nhà đầy mùi hồng.
Chúng tạo nên 1 mẫu mã của lịch sự, của rộng lương.
Sau 10 năm, hồng ngưng
Nhưng vào lúc đó, tôi nghĩ
Những người đã chết có thể “minister”
[tạm dịch: phục vụ, chăm sóc…]
Những người sống
Tôi không nhận ra sự dị thường:
Rằng, những người đã chết thì như là ông via của tôi, một phần lớn.
Má tôi đâu thèm để ý ba cái chuyện vặt vãnh như thế, tất nhiên:
Bà đâu cần những trình diễn, bầy trò, từ ba tôi
Sinh Nhật của Bà tới rồi đi
Bà giản dị ngồi ngay đó, kế bên nấm mồ
Và, trải qua nó
Bà muốn chỉ cho ông chồng biết, bà hiểu
Bà chấp nhận sự im lặng của Ổng
Ổng ghét sự lường gạt, bầy đặt, đánh lừa
Bả cũng không muốn Ổng làm những cử chỉ thân thương
Khi, không thể, làm
Cũng không thể, cảm.


BIRTHDAY

Every year, on her birthday, my mother got twelve roses
from an old admirer. Even after he died, the roses kept coming:
the way some people leave paintings and furniture,
this man left bulletins of flowers,
his way of saying that the legend of my mother's beauty
had simply gone underground.
At first, it seemed bizarre.
Then we got used to it: every December, the house suddenly
filling with flowers. They even came to set
a standard of courtesy, of generosity-
After ten years, the roses stopped.
But all that time I thought
the dead could minister to the living;
I didn't realize
this was the anomaly; that for the most part
the dead were like my father.
My mother doesn't mind, she doesn't need
displays from my father.
Her birthday comes and goes; she spends it
sitting by a grave.
She's showing him she understands,
that she accepts his silence.
He hates deception: she doesn't want him making
signs of affection when he can't feel.
Louise Gluck: Selected Poems 1962-2012





Iris hoang

Ở vào khúc chót của nỗi thương đau của tớ

Một cái cửa bèn mở ra.

Nè, tớ ra nè.
Tớ nhớ ra rồi:

Chúng biểu, đó là cửa… tử!
Lào xào ở trên đầu, những ồn ào, những cành thông lao xao
Rồi thì là… hư không, chẳng có mẹ gì hết
Nắng nhợt nhạt trên mặt đất khô.

Thực là khủng khiếp, cái chuyện sống sót
Khi ý thức bị chôn vùi trong đất tối

Rồi thì.. đứt phim.
Điều bạn sợ, là 1 linh hồn và không thể cất tiếng,
Đứt phim cái rẹt,

Mặt đất cứng như nghiêng đi 1 tí.
Và những gi mà tớ coi là lũ chim,
Bèn cắm mỏ vào những bụi cây thấp lè tè.

Bạn, chưa từng kinh qua khúc chuyển qua thế giới khác
Tớ nói cho bạn hay,
Tớ có thể lại cất tiếng:

Bất cứ cái chi chi trở về từ quên lãng,
Trở về để tìm lại tiếng nói:
Từ trung tâm cuộc đời của tớ

Một con suối lớn bèn mở ra,
Những cái bóng xanh thẳm trên nước biển màu da trời

THE WILD IRIS

At the end of my suffering
there was a door.

Hear me out: that which you call death
I remember.

Overhead, noises, branches of the pine shifting.
Then nothing. The weak sun
flickered over the dry surface.

It is terrible to survive
as consciousness
buried in the dark earth.

Then it was over: that which you fear, being
a soul and unable
to speak, ending abruptly, the stiff earth
bending a little. And what I took to be
birds darting in low shrubs.

You who do not remember
passage from the other world
I tell you I could speak again: whatever
returns from oblivion returns
to find a voice:

from the center of my life came
a great fountain, deep blue
shadows on azure seawater.

L'IRIS SAUVAGE

Au bout de mes souffrances
il y avait une porte.

Écoutez-moi: ce que vous appelez la mort
Je me rappelle.

Frais généraux, bruits, branches du pin se déplaçant.
Puis rien. Le faible soleil
scintillait sur la surface sèche.

C'est terrible de survivre
comme conscience
enterré dans la terre sombre.

Puis ce fut fini: ce que tu crains, étant
une âme et incapable
pour parler, se terminant brusquement, la terre raide
se pencher un peu. Et ce que j'ai pris pour être
les oiseaux piquent dans les bas arbustes.

Toi qui ne te souviens pas
passage de l'autre monde
Je vous dis que je pourrais parler à nouveau: peu importe
retourne de l'oubli
pour trouver une voix:

du centre de ma vie est venu
une grande fontaine, bleu profond
ombres sur l'eau de mer azur.



 Thinh Q Tran, James Nguyen and 2 others


 LOUISE GLUCK
 

Cái không nói, theo tôi, dũng mãnh hơn nhiều, so với nói. 


Có 1 điều gì đó rất ư ‘không thỏa hiệp” – ta đếch thèm chơi với mi -  nếu nói về tất cả những cái viết của Louise Gluck. Bà đã cho xb 7 tập thơ, mỗi tập tạo riêng cho nó 1 cõi. Mỗi cuốn được trau chuốt mỗi cách, nếu chúng ta muốn nói tới viễn ảnh của bà. Mỗi cuốn là 1 ga tới đáng kể theo đà phát triển. Bà cũng còn viết một cuốn tản văn (prose) dũng mãnh và sáng suốt, được coi như 1 hướng dẫn, về những quan tâm mỹ học và tinh thần của bà.
Người thầy về thơ của bà là Stanley Kunitz, khi bà học Đại Học Columbia University
Thơ của bà thì khắc khổ, và đẹp. Bà có 1 giọng bí hiểm, một tưởng tượng dữ dằn, và 1 viễn ảnh sừng sỏ, không giống ai, không tha ai –unspairing. Những đoạn ngắn phồng lên trên trang giấy. Bà học được 1 điều gì đó về “impersonality” (tạm dịch, vô ngã), từ T.S. Eliot, mà bà rất thích tác phẩm của ông. Bà có khiếu thưởng ngoạn về bất đối xứng – asymmetry – và viết những dòng thơ tự do căng thẳng, không điều hòa, bất qui tắc. Như nhà thơ khách quan (objectivist) George Oppen – bà gọi ông, “sư phụ của không gian trắng” – “a master of white space” – bà sử dụng 1 chiến thuật về “ngưng (pauses) và xen kẽ (intervals)”, “đập đổ (disruption), ngần ngừ (hesitation), im lặng (silence)”. “Tôi thì mắc mớ, dính líu (attracted) tới “ellipsis”,  cái không nói, “unsaid”, giả dụ, cái im lặng “hào hứng, chủ ý”, bà khẳng định.
Đề tài thơ của Gluck thì nhức nhối và bà ôm lấy chúng, bằng 1 sự lương thiện không thể nào chê được. Một cõi riêng lẻ khổng lồ bao quanh mọi điều bà viết. Mất mát được trao, như cô đơn, như khao khát. Thường xuyên, bà tỏ ra “ghê tởm (disgusted) với cái gọi là dục vọng - những thèm khát thân xác không hoàn hảo - những nhu cầu buồn bã, những bất hoàn hảo của chúng ta. Tuy nhiên, tác phẩm của bà thèm đón nhận, tìm móc nối. 

Edward Hirsch: Poet’s Choice



ECHOES

I.

Once I could imagine my soul
I could imagine my death.
When I imagined my death
my soul died. This
I remember clearly.

My body persisted.
Not thrived, but persisted.
Why I do not know.

2.

When I was still very young
my parents moved to a small valley
surrounded by mountains
in what was called the lake country.
From our kitchen garden
you could see the mountains,
snow covered, even in summer.

I remember peace of a kind
I never knew again.

Somewhat later, I took it upon myself
to become an artist,
to give voice to these impressions.

3.

The rest I have told you already.
A few years of fluency, and then
the long silence, like the silence in the valley
before the mountains send back
your own voice changed to the voice of nature.

This silence is my companion now.
I ask: “of what did my soul die?”
and the silence answers

“if your soul died, whose life
are you living and
when did you become that person?” 




Những tiếng vọng

1.

Một lần ta nghĩ ta có thể tưởng tượng linh hồn của ta
Ta có thể tưởng tượng cái chết của ta
Khi ta tưởng tượng cái chết của mình
Linh hồn ta bèn ngỏm.
Cú này ta nhớ thật rõ.

Cơ thể ta cưỡng lại
Không phải nẩy nở, mà là cưỡng lại,
Tại sao ta không hiểu.

2.

Khi ta còn rất trẻ
Cha mẹ ta dời tới một thung lũng nhỏ
Núi vây quanh
Ở nơi người ta gọi là xứ sở của hồ ao
Từ khu vườn nhà bếp
Bạn có thể nhìn thấy núi
Tuyết phủ, ngay cả mùa hè.
Ta biết bình an,
Thứ, chẳng bao giờ lại hiểu
Một cách nào đó, ta loay hoay, hỳ hục, xoay sở…. trên/lên chính ta
Để trở thành 1 nghệ sĩ
Để đem tiếng nói cho những cảm nghĩ, ấn tượng… này.

3.

Còn lại ra sao thì ta đã nói cho bạn nghe rồi
Một vài năm thong dong, rồi thì một im lặng dài
Như sự im lặng trong thung lũng
Trước khi núi dội lại
Tiếng nói của chính bạn
Biến thành tiếng nói của thiên nhiên

Sự im lặng này là bạn của ta bây giờ.
Ta hỏi: “Linh hồn của ta chết bởi vì cái gì?”

Và sự im lặng trả lời:
“Nếu linh hồn của mi chết, đời nào, đời của ai, mi đang sống đó,
Và khi nào, vào lúc nào mi trở thành người này?”


 
MEMOIR

I was born cautious, under the sign of Taurus.
I grew up on an island, prosperous,
in the second half of the twentieth century;
the shadow of the Holocaust
hardly touched us.

I had a philosophy of love, a philosophy
of religion, both based on
early experience within a family.

And if when I wrote I used only a few words
it was because time always seemed to me short
as though it could be stripped away
at any moment.
And my story, in any case, wasn't unique
though, like everyone else, I had a story,
a point of view.

A few words were all I needed:
nourish, sustain, attack. 



Hồi Ức

Huế Mậu Thân ư?
Ta chưa ra đời

****

Tôi ra đời, thận trọng, dưới chòm sao Kim Ngư
Lớn lên tại một hòn đảo, thịnh vượng
Trong hậu bán thế kỷ 20
Cái bóng của Lò Thiêu kể như không choàng lên tôi

Tôi có 1 triết học về yêu đương,
Một triết học về tôn giáo, dựa trên kinh nghiệm gia đình, từ hồi còn nhỏ
Và nếu, khi viết, tôi dùng ít từ
Là vì đối với tôi, thời gian có vẻ ngắn
Cho dù nó có thể bị tiêu tùng bất cứ lúc nào
Và câu chuyện của tôi, trong bất cứ trường hợp,
không phải duy nhất
Cho dù, như bất cứ ai, tôi có 1 câu chuyện,
Một quan điểm

Một vài từ, là tất cả tôi cần:
Nuôi nấng, chịu đựng, tấn công.


  LOST LOVE

My sister spent a whole life in the earth.
She was born, she died.
In between,
not one alert look, not one sentence.

She did what babies do,
she cried. But she didn't want to be fed.
Still, my mother held her, trying to change
first fate, then history.

Something did change: when my sister died,
my mother's heart became
very cold, very rigid,
like a tiny pendant of iron.

Then it seemed to me my sister's body
was a magnet. I could feel it draw
my mother's heart into the earth,
so it would grow.



Tình Mất

Bà chị của tôi trải qua trọn đời trên trái đất này
Bà sinh ra, bà chết
Theo đó, trong đó,
Không 1 cái nhìn hốt hoảng, không 1 câu, đoạn.

Bà làm những gì con nít làm,
Bà khóc.
Nhưng bà không muốn bú bón, nuôi nấng
Tuy nhiên má tôi bồng bà, cố gắng thay đổi
Trước tiên là số mệnh
Sau tới lịch sử

Một điều gì đó thay đổi:
Khi chị tôi mất
Trái tim của má tôi trở nên rất lạnh, lạnh cứng
Như 1 sợi dây tua bằng sắt

Kể từ đó, có vẻ như đối với tôi
Cơ thể của chị tôi là 1 khối nam châm
Tôi có thể cảm thấy
Nó hút trái tim của má tôi xuống sâu trong lòng đất
Và như thế, nó sẽ lớn.







Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư