Saigon ngày nào của GCC





 

Saigon ngày nào của GCC




V/v NS. Trên Blog Ðoàn Nhã Văn có 1 bài viết về ông. Post lại ở đây.
Một người bạn vừa email hỏi: "Ông biết câu này trong bài thơ nào không?" và viết tiếp "Bia lên tìm chỗ ta nằm / Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu", là sao?...
Anh bạn cho biết: câu thơ đọc được trong 1 bài báo của 1 tờ báo "chợ" tại địa phương. Báo "chợ" là báo tặng miễn phí, thường phát hành tại các chợ người Việt tại Mỹ. Đây là những tờ báo địa phương, sống bằng quảng cáo của các cơ sở thương mại trong vùng.
Trở lại câu hỏi của người bạn. 'Bia' trong câu này không phải là bia ... uống, bia hơi. "Bia lên" không hề là nâng bia lên để cùng uống. Và, "bia lên" càng không hề là bia ...ôm.
Bia, ở đây, là tấm bia nơi trường bắn. Là mục tiêu tác xạ của những người lính mới.
Câu thơ trên là 1 câu trong bài thơ "Sân bắn" của nhà thơ Nguyên Sa, mà câu kết là 1 câu thơ đẹp:
"Hầm bia buồn đến mộ sâu
ngàn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."
Tôi nghĩ, đây có thể là bài khởi đầu trong mạch lục bát của Nguyên Sa. Và cũng nên nói thẳng rằng: Nguyên Sa làm rất ít lục bát, ngay cả những năm tháng sống ngoài nước. Và cũng nói luôn, theo tôi, lục bát không phải là điểm mạnh của ông, dù rằng trong số những bài lục bát ấy, có nhiều câu thơ đẹp. 
Xin chép lại bài "Sân Bắn"
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch thấy đời lãng du,
Thấy tay dư, thấy thân thừa,
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không...
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau,
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta...
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh,
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng, em còn thấy đâu...
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay... 
Bài này ông làm năm 1966, thời kỳ ông bị động viên theo học khóa 24 Thủ Đức. Chuyện bị động viên của ông cũng rất .. hài hước. Ba mươi mấy tuổi, đang dạy học ngon lành, ông nhận giấy lên đường. Lúc đó, Tổng Trưởng giáo dục là ông Bùi Tường Huân. Nhưng NS tin rằng: sau ông Huân phải có "đại ca thủ lãnh". Đại ca mượn ông BTH mà xuống tay với ông. Dĩ nhiên, trước khi vào Thủ Đức NS cũng đã nhờ những tên tuổi khác, chống lưng một thời gian, để sắp xếp công việc nhà. Và khi mọi việc đã sắp xếp xong, ông "phơi phới lên đường". 
Và ở quân trường Thủ Đức, "Sân Bắn" đã ra đời. Nó ra đời từ những mệnh lệnh:
- Hầm bia chuẩn bị
-Xạ thủ chuẩn bị!
-Mở khóa an toàn!
-Bia lên
-Bắn 
Và thi sĩ (chứ không phải xạ thủ) đã bật ra:
"Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay..."
Note: Chuyện động viên thì ai cũng dính hết, khó mà…  “hài hước” được. Sở dĩ NS "ba muơi mấy tuổi đang dạy học ngon lành", bị gọi động viên, theo như Gấu suy nghĩ, trước đó, ông đã được ai đó vờ đi. Và BTH đã làm đúng việc của ông, nghĩa là hỏi thăm sức khoẻ của NS.
Ðây là 1 cái may lớn của NS, thực sự là vậy. Về già ông phải cám ơn BTH. Nhờ đi lính, ông làm thơ, bài thơ trên, viết văn, không phải thứ “dễ dãi và sung sướng”, mà là thứ có mùi người chết [những ngày ông phục vụ ở chung sự vụ).
Mấy thằng bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC làm sao có được cái may như NS. Bị gọi, ông sợ lắm, phải đưa đi nhà thương tâm thần, TPG nhân đó, đi một đường vấn an thật xỏ lá, để đáp lễ cái cú NS đánh ông, khiến 1 phần nào làm ông mất job!
Trên TV có cái Tin Văn Vắn ký tên Thư Trung, tức TPG nhưng không làm sao kiếm ra.
*

Trong đời viết văn cũng cả nửa thế kỷ đâu có ít, Gấu chưa từng có ý nghĩ nhìn lại những trang viết cũ, và cũng chẳng hề mong có ai viết về mình, theo cái kiểu nhà văn của thế kỷ, như Thầy Cuốc phán về VP. Gấu thực sự mong có người viết về mình, như "tri âm tri kỷ", kẻ thù càng tốt, như trong Ngư Ông và Biển Cả.
Một nhà phê bình, khi đưa ra 1 nhận xét "chìa khoá" về 1 tác phẩm, hay 1 tác giả, thì chẳng khác gì 1 anh học trò phải chứng minh một định lý, hay giải 1 bài toán. Giải 1 bài toán thì phải dựa vào những giả thiết, ở đầu bài. Bài toán phán, cho 1 tam giác cân, lập tức anh học trò biết ngay, anh ta có 1 tam giác, tam giác đó có 1 đỉnh, hai đáy, hai cạnh bằng nhau, hai góc đáy bằng nhau. Và anh ta sẽ phải dựa vào đó để chứng minh. Giả thiết không thể thừa, không thể thiếu. Thiếu, không giải được. Thừa vô nghĩa, bài toán ra trật.
Với nhà phê bình, khi phán, là phải dựa vào những giả thiết như thế. Nhưng với anh ta, giả thiết do anh ta tìm ra, không ai cho, và có thể, càng nhiều giả thiết, thì càng dễ thuyết phục người đọc. Câu phán cũng chỉ có tính thuyết phục thôi, chứ không phải là chân lý.
Chúng ta lấy câu phán của Thầy Cuốc về Võ Phiến, nhà văn của thế kỷ 20, để bàn thử.
Bất cứ nhà văn nào sống cùng thời với VP, đều có thể nói ta là nhà văn của thế kỷ 20 được.
Một độc giả sau khi đọc câu phán, nếu như quan tâm, thì bèn tìm hiểu, thế kỷ 20 có cái gì, và VP có mắc mớ tới cái gì đó không, thì sẽ nảy sinh 1 số vấn đề, thế kỷ 20 là thế kỷ của bạo lực, của cái ác ngự trị, của Lò Thiêu, Trại Cải Tạo, Gulag…
VP có mắc mớ tới những thứ đó không?
“Hình như” không.
Nói ông là nhà văn của thế kỷ 20 do chống Cộng cũng sai, vì tác phẩm của VP không chống Cộng. Ðặt ông vào cái thế đó là hạ thấp tác phẩm của ông. Tụi VC đã làm như thế, thành ra chúng đếch cho ông về, phong cho ông là Tổ Sư Chống Cộng cả trước 1975, và sau đó, ở hải ngoại. Bữa trước, Gấu đọc đâu đó 1 bài về ông, hình như của PLT thì phải, ông này về trong nước và có hỏi ý VC, liệu VP có về được không, VC lắc đầu, và PLT rất lấy làm buồn cho VP.
Quá nhảm.
Một người như VP mà phải năn nỉ xin về ư?
Nếu sự thực VP ướm lời, thì VC phải sướng điên lên, trải thảm đỏ mời ông về thì mới đúng chứ, sao lại lắc đầu.
Bởi thế, chúng đâu có thực sự hoà giải. Coi trường hợp PD, Kỳ Râu Kẽm là biết. Chúng tìm đủ cách dụ hai ông này về. PD thì dùng tiền nhử. Nửa triệu đô chứ đâu có ít. Kỳ Râu Kẽm, thì chỉ mong nắm xương tàn sẽ được nằm ở xứ Ðoài mây trắng lắm, sau khi hoàn tất cái công trình của thế kỷ ở Vịnh Hạ Long! Về, là chúng chửi như chửi chó. PD thì bị chính 1 ông nhạc sĩ, bố của ông ta bị VC làm thịt, chửi. Kỳ bị một đấng cùng quê Sơn Tây. Tên khốn này chửi xong, phán, thôi tha cho tên tội đồ!
Cô con gái đâu thấy đau, lại quay qua chửi đám hải ngoại, mấy ông thầy chùa ở Cali đã nhận tiền tụng kinh cho Râu Kẽm, sau lắc đầu!
Khốn nạn thế.

Monday, October 10, 2011 2:23 PM
Hà Nội 1954
Không biết mày đã từng xuống tàu này để vào Nam năm 1954 hay không.
Không được thư mày trả lời thư tao thăm hỏi sức khỏe mày. Tuy nhiên, tao cứ cho rằng mày vẫn an lành mọi mặt. Nhân tiện, tao nêu mấy chi tiết không quan trọng đọc thấy trong 'Nơi Người Chết Mỉm Cười' mà thư trước tao quên không nói tới. Vụ biểu tình chống Văn Tiến Dũng năm xưa, mày và tao có tham dự, xảy ra ở khách sạn Galie'ni (?) chứ không phải Majestic. Trường của ông Nguyễn Khắc Kham ở đường Ngô Tùng Châu có tên là Văn Hóa, không phải Văn Lang của ông Ngô Duy Cầu. Ngoài ra, về chữ dịch, mày dịch Hope abandoned là Hi vọng rã rời thì không biết có phải mày định nói 'hi vọng đã rời xa hay hi vọng xa rời hay không. Một ý khác, .....vấn đề có liên quan đến đất cát (Câu này tao muốn trích nguyên văn nhưng tìm thoáng qua lại không thấy. Có phải mày định nói ... có liên quan đến nơi sinh, sống?)
Lủng
Tao trả lời mày liền rồi, cả ở trên Tin Văn.
Tao và mày biểu tình ở cả hai khách sạn.
Ở Galliéni trước, sau quay qua Majestic. Ở Majestic, mày phá cửa phòng của 1 em đầm, nó khóc thảm thiết, sợ bị giết. Tao nhớ rõ lắm, làm sao quên được?
Có tí mùi đầm, ngay đầu đời nữa, làm sao quên?
Tao đi tầu Marine Serpent, Rắn Biển của Ðệ Thất Hạm Ðội. Ðúng chuyến có Ðức Hồng Y Spellman lên tầu thăm dân di cư.
V/v tên trường Văn Hóa. Tks. NQT
Hope abandoned: Hy vọng tan hoang, rã rời, tao dịch theo ý của tao, không theo nguyên ý của câu tiếng Anh, hope abandoned, hy vọng bị bỏ rơi.
V/v Hình di cư xin coi Blog Tin Văn. NQT

*


*

Một trong những Chợ Giời như thế này, mở ra ngay trước nhà của Gấu, villa số 60 đường Nguyễn Du, Hà Nội, vòng quanh 1 phần bờ hồ Hallais. Trộm cắp như rươi. Gấu thủ một khúc gậy, đêm nằm ngay hành lang căn trộm. Trộm vô thật. Nhè khúc bờ tường thấp, đúng nơi Gấu, những lần đi ciné về muộn, cổng đóng, leo tường vô nhà. Nhưng, vì bên nhà Gấu đâu có gì ngoài hai cái bếp, và 1 hồ nước, nhà trên thì khoá, thế là chúng leo qua nhà hàng xóm, một bảo sanh viện, dinh đâu mớ quần áo, tã lót, bàn ủi, mấy cái phích đựng nước sôi cho con nít. Nghe động, mấy bà đẻ thức giấc, chúng bỏ chạy. Gấu nghe tiếng hô hoán, bật dậy, vác gậy đuổi theo, chúng leo tường thoát ra ngoài, đánh rớt lại 1 cái bàn ủi. Gấu đứng dưới bờ tường với đưa lên cho 1 mụ đàn bà. Bà này lại nghĩ Gấu là đồng bọn, mở cổng cho chúng vô nhà Gấu, rồi theo đường đó leo qua nhà bảo sanh, vì có cái thang lộ thiên kế bên tường.
Sáng hôm sau, lũ đàn bà đẻ lào xào sao đó tới tai bà cô Gấu. Buổi chiều, bà đứng ngay sân chửi cho một trận thật tàn khốc. Ui chao ơi, tới khi đó, Gấu mới biết tài chửi của bà cô của mình. Mấy đứa nhỏ, con tay bác sĩ chủ nhà bảo sanh hình như cũng học Nguyễn Trãi. Chúng nói với bố. Hôm sau đích thân ông bác sĩ sang gặp bà cô của G
ấu xin lỗi.
Không phải bà chỉ chửi mấy con mụ đàn bà mà chửi luôn cả Gấu. Sao mà mày ngu đến như thế, may mà không mất mạng!
Nhìn cái hình DTH đứng giữa Paris, trong 1 số báo ML, thì lại nhớ đến bà cô của Gấu, đứng giữa sân nhà xỉa xói qua nhà kế bên. May có thằng cháu kế đó, không thì bà cũng dám v đồm độp như SCN một lần mất vịt!



*


*  
GCC & Nguyễn Đông Ngạc, nhà xb Sóng @ Niagara Falls cc 1996
Gấu “sống sót” cuộc chiến, và có được cuộc đời thứ nhì ở hải ngoại là nhờ cuốn này. Bức hình độc nhất của suốt 1 thời trẻ tuổi, viết văn viết viếc, xì ke xì kiếc, cùng tí tiểu sử, trong có ghi "phê bình, điểm sách", trở thành bùa cứu mạng, Gấu lèm bèm về nó nhiều lần rồi, nhân 30 Tháng Tư bèn tự sướng thêm 1 cú!
*


3.4.2008 @ Little Sàigon


30.4.1975 with Đỗ Khờ
Trong quân đội miền Nam, sĩ quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không bao giờ để bị nhầm lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ Đức, Long Thành. Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc Đường Số 1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những bút ký về "người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.
DK
Theo GCC, nhận xét này sai.
Gấu đọc PNN, không thấy cái gọi là không ý thức hay chủ ý, mà chỉ thấy anh chọn nghề binh, chọn cả chuyện chống cộng ở trong đó. Chứng cớ, là, khi đi tù cũng không thay đổi, đếch thèm nhận quà thăm nuôi của phía thắng trận, đếch thèm tiếp phần “họ” của mình, ở ngoài Bắc.
Võ Bị Đà Lạt là của đám chọn binh nghiệp, khác hẳn Thủ Đức, là của những người bị động viên, phải vô lính. PNN có những dòng thổi Võ Bị Đà Lạt, tất nhiên, là cái nôi của anh, làm sao không. Nhưng đâu có dòng nào coi khinh đám Thủ Đức.
Nhận xét về văn nghiệp của PNN như thế, thì cũng cho phép GCC nhận xét về văn của DK, cũng y thế, một thứ văn chương Thủ Đức, đếch phải văn chương thứ thiệt của Đà Lạt, như của PNN!
Viết tiếng Việt còn thấy đỡ đỡ, bày đặt viết tiếng Tây, ai đọc?
Thú thực, đọc đám Mít viết tiếng Tây, GCC thấy buồn cười.
Tởm, đúng hơn.
Đó là thứ tiếng Tây viết đúng văn phạm, nhưng đếch phải văn chương.
Văn chương, là thể nào cũng có cái gì đó, có tính u hoài, gọi đại như vầy, về 1 xứ Mít đã mất. Linda Lê có bao giờ nhận bà là người Mít đâu, vậy mà đọc, vẫn cảm thấy cái đó, dù bà phán, tôi viết văn như kẻ giảng đạo ở giữa sa mạc.
NQT 
Phạm Duy Khiêm, xưa chê đám Mít viết văn bằng tiếng Mít, là tụi “ratés”, thất bại.
Có thể, vì tiếng Mít hồi đó còn hoang dại lắm.
Nhưng ratés, bi giờ là để chỉ đám viết văn bằng tiếng Tây, nhất là đám con cháu VC!
Chúng đếch biết viết, bằng thứ tiếng gì nữa, mặt trái/theo kiểu Kafka phán, tớ nói tất cả ngôn ngữ, nhưng bằng tiếng Do Thái
Với Kafka, là hãnh diện, còn đối với đám CCCC/VC này, là nhục nhã, mặt phải/theo kiểu Malaparte chửi Đồng Minh:
Thắng trận nhục nhã lắm!
Bạn DK này, ở Mẽo, nhưng đọc, thấy có vẻ rất ghét Mẽo!
Y chang đám Bắc Kít!
Hà, hà!





*
Ngô Khánh Lãng & Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà
Trụ ơi !

Tớ còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này đi "bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó. (1)

Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.

Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này, phải không ?  Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến


Ngô Tùng Lam thì nhớ quá chứ, còn mấy bạn kia quên sạch.
Mai Ngọc Liên?
Có phải  anh bạn ở bên Thủ Thiêm, rớt Tú Tài I, đi Đà Lạt ngay khóa đầu?
Tớ chơi xì ke chừng vài chục năm [cc 1970-1989, cỡ đó] khi “hồi phục”, mất hẳn 1 khoảng thời gian, không làm sao nhớ lại được.
May là còn ngờ ngợ ra bạn!
Tháng tới, tớ qua Cali, sẽ gặp nhau
Gửi lời chúc tới gia đình và tất cả bè bạn
NQT
*

Đây là Phà Thủ Thiêm, nhưng trong hình, không có con phà, mà chỉ có những con đò.
Thời gian trọ học bên Thủ Thiêm, gần ngay bờ phía bên kia, hàng ngày đi học, Gấu dùng phà, vì có giá đặc biệt cho học sinh. Chỉ tới sau 1975, thì mới qua lại bằng bến đò Thủ Thiêm, nơi cột cờ Thủ Ngữ, vì phiá bên kia là khu xóm chích.
Quen Phạm Văn Hàm ở bên đó, vì cùng trọ học. Hàm dân Hố Nai, sau học Luật, ra trường làm lớn, ở Tòa Sài Gòn. Anh nhớ nhiều về thời gian trọ học, Gấu gần như quên sạch.
Đầu tiên người chủ trọ là 1 ông đàn ông, sau ông ngày nhường mối cho 1 người bà con, có chồng, nhưng chồng mất, có mấy đứa con, hình như đều là con trai.
Để căn chừng người đàn bà có con không có chồng, là ông bố chồng. Hàm còn nhớ tên tất cả, có lần qua Cali, Gấu hỏi, anh trả lời, nhưng lúc này, Gấu chẳng nhớ.
Nhưng nhớ cái kỷ niệm thật đáng nhớ về bà chủ trọ, kiêm nấu cơm trọ, cho 1 đám thanh niên mới lớn.
Gấu nhớ là, đứa con trai của bà rất thông minh, và hay quấn quýt với Gấu. Một lần, bế thằng bé, Gấu chỉ trái bầu trên giàn, hỏi trái gì, nó nói, trái bầu, hỏi tiếp trái bầu giống cái gì, nó nghĩ và trả lời, giống cái chai, hỏi nữa, nữa, sau cùng trở lại với trái bầu, và khi Gấu hỏi trái bầu giống cái gì, nó khóa họng Gấu bằng câu trả lời:
-Giống 1 trái bầu khác!
Tuyệt!
Gấu xoa đầu thằng bé khen um lên, bà mẹ cũng mừng quá, cười quá là cuời, cái cảnh Gấu bế thằng bé, tung lên trời rồi ôm vào lòng, và hình như là bắt đầu thương....  Gấu, đúng vào lúc đó!
Hà, hà!
Phải đến chót đời, thì Gấu mới hiểu được người đàn bà có chồng một mình nuôi con này thương… Gấu, khi nhớ lại một buổi trưa, nhà chẳng có ai, Gấu và thằng bé đang nô đùa, người đàn bà nói, ông cụ nhà tôi chửi tôi mê trai, Gấu ngạc nhiên, hỏi mê trai, mà mê ai chứ, người đàn bà mặt đỏ ửng, bẽn lẽn nói, mê... cậu.
Gấu khi đó, thực sự không biết ba cái chuyện này, ngu thế. 
Thành thử nghe xong, cũng…  bỏ qua, chán thế!
Về già, tiếc hùi hụi!
Thủ Thiêm

Nhìn hình, và đều già cằn, nhưng làm sao quên được kỷ niệm nhưng ngày mới vô Sài Gòn, mà, nếu không có bạn Tuyến, không làm sao đi học được tại trường Thành Công, và nếu có đi được, thì cũng trần ai, vì phải đi bộ. Suốt thời gian học Thành Công, bạn Tuyến ngày nào cũng phải chở Gấu đi học.
Cũng thế, thời gian trọ học Thủ Thiêm, bạn Hàm cho mượn chiếc xe đạp. Chỉ đến khi đậu cái bằng Tú Tài 1, được Bà Trẻ lôi về nuôi, thì mới lấy lại cái xe.
Bạn Tuyến có thể quên, nhưng Gấu gặp lại bạn 1 lần, ở 1 con hẻm, nơi Cổng Xe Lửa Số 6, nơi nhà ông Hiếu Chân, sau khi dời Chợ Vườn Chuối, mua cái nhà ở đó. Bà chị họ, vợ ông HC tiếp tục cái nghề bán bún chả, ở chợ Trương Minh Giảng. Chắc là bạn đến chơi gia đình 1 ngươi quen, kêu Gấu.
Gấu "hi" 1 phát, rồi chuồn.
Lúc đó ghiền nặng quá, ngượng, chẳng muốn gặp lại bạn cũ.



http://huyvespa.blogspot.com/2015/11/thanh-tam-tuyen-tren-khoi-hanh-series.html
Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.
Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.
Theo Enrique Vila-Matas
Nhưng mà, này, vẫn thuổng Vila-Matas, liệu có một thánh nữ có tên là Bông Hồng Đen?

(1)

Béatrice exista-t-elle vraiment?

AUTOFICTION

Une seule certitude: l'autofiction est un néologisme inventé par le professeur et romancier français Serge Doubrovskyen 1977. Il désigne une variante moderne de l'autobiographie romancée. En anglais, ce même genre littéraire s'appelle faction, fusion des mots fact et fiction.
C'est tout ce que je sais sur l'autofiction.
Je me rends tout à coup compte en rougissant que je dois demander pardon, parce que je sais quelques autres choses à ce sujet. Vous voyez bien comment je suis. Sans y songer vraiment, je m'étais déjà mis à faire de l'autofiction. Oui, je sais certaines choses de plus. Je sais, par exemple, ce qu'a exactement dit Doubrovsky. Il a dit qu'il y a autofiction quand « l'auteur devient lui-même sujet et objet de son récit ». Et je sais aussi ou crois savoir ce qui distingue l'autobiographie de l'autofiction. C'est tout simple: l'autofiction, c'est l'autobiographie faisant l'objet d'un soupçon. Celui qui raconte sa vie la transforme en roman et passe la frontière qui le mène vers les domaines de la fabulation. Ce qui veut dire que nous ne devons plus comprendre l'autobiographie uniquement de façon classique (simple reproduction exacte du moi), mais comme un ensemble de matériaux utilisés pour la fiction, si bien que l'auteur auto-invente son autobiographie.
Il n'est pas indispensable d'être comme les autres veulent nous voir, mais que l'écriture nous serve à construire notre propre personnalité et notre biographie. Nous pouvons renoncer aux liens chaotiques avec les événements de notre vie et essayer de nous autocréer, de modeler notre propre personnage et notre propre biographie pour l'usage du lecteur, de notre fiancée, de notre épouse ou de notre belle-mère.
Ce que fit, par exemple, Gombrowicz dans son célèbre Journal. À la base, il y a évidemment des faits réels de la vie de l'auteur, de la vie de Gombrowicz. Ce sont des faits racontés plus ou moins minutieusement tandis que, simultanément, des fragments d'essais philosophiques, de brillantes polémiques, des passages lyriques, des plaisanteries grotesques, et aussi, ouvertement, de la fiction littéraire accèdent au même statut.
Cela dit, par bonheur, Gombrowicz n'avait jamais entendu parler d'autofiction. Pour ma part, j'ai du mal à m'habituer à ce mot apporté au monde par Doubrovsky. Bien des annnées avant d'entendre parler d'autofiction, j'ai écrit, je me souviens, un livre intitulé “Souvenirs inventés” (1) dans lequel je m'appropriais les souvenirs d'autres personnes pour consstruire mes souvenirs personnels. Je ne sais toujours pas si c'était de l'autofiction. Toujours est-il qu'avec le temps, ces souvenirs sont devenus pour moi tout à fait vrais. Je dirais même que ce sont mes souvenirs.
Pour ce livre, j'avais volé à Antonio Tabucchi ses souvenirs de Porto Pim dans les Açores. Mais Tabucchi ne l'a pas mal pris et a donné un double tour d'écrou à cette histoire en transformant les souvenirs que je lui avais volés en souvenirs à lui, de son invention. Ce double tour d'écrou n'a, pour l'instant, aucun néologisme qui le désigne, il attend son Doubrovsky, mais à vrai dire, je préférerais qu'il n'yen ait pas d'autre, parce qu'il ne me semble pas indispensable de donner des noms à toutes les variantes du prétendu nouuveau genre, et si je dis « prétendu nouveau genre », c'est parce que Dante et Rousseau l'ont déjà pratiqué.
Si l'on s'en tient à ce qu'a dit Borges, Dante écrivit La Divine Comédie uniquement pour y inclure, de temps à autre, des scènes de ses renconntres avec l'irrécupérable Béatrice, dont le regard le comblait d'une inntolérable béatitude. Béatrice qui s'habillait en général de rouge. Béatrice à qui il avait tant pensé qu'il fut étonné que des pèlerins qu'il vit un matin à Florence n'eusssent jamais entendu parler d'elle.
Béatrice exista-t-elle vraiment?
L'ombre d'un léger soupçon pèse sur elle. Et une autre sur Dante. Avait-il, par hasard, des souvenirs inventés?
Je crains fort que l'autofiction ne soit une invention de Dante. Lacan disait que la vérité est structurée comme une fiction. Dante aurait, à coup sûr, souscrit de son plein gré à cette phrase .•

Traduit de l'espagnol par André Gabastou

(1) Non disponible en français.

Magazine Littéraire Nov 2005

Tất cả cái gọi là thơ xuôi thì không thực.
hay,
Làm đếch gì có cái gọi là thơ xuôi

Điều này chính xác: tự động giả tưởng là một tân luận lý được phát minh bởi một vị giáo sư, tiểu thuyết gia người Pháp, Serge Doubrovskyen, vào năm 1977, để chỉ 1 thể loại văn học hiện đại qua đó, tự thuật được tiểu thuyết hóa. Trong tiếng Anh, cũng có 1 thứ tương tự có tên là “faction”, do “fact” [sự kiện] trộn với giả tưởng [fiction].





Đường Lê Lợi. 1968
Hình manhhai

Nhà thương Đô Thành, phía bên phải. GCC ăn mìn VC ở Mỹ Cảnh, được cảnh sát khiêng ra xe, rồi đưa vô đây.
Khi ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện, còn là thầy dạy học trường Quốc Gia Bưu Điện, Thầy Nguyễn Văn Điều, vô thăm, thấy kiến bu vết thương, phán, cho nó vô Grall - nhà thương Đồn Đất, của Tẩy.
Kế nhà thương, là bót Lê Văn Ken, GCC cũng đã bị bắt, đưa vô đây, đã kể rồi, trong Lần Cuối Saigon.

Capstan: Cho anh phát súng tim anh nát!

Grall là nhà thương tư, Gấu vô đó, là phải trả tiền. Khi ông Tổng Giám Đốc phán như thế, là nhà nước phải trả tiền. Sau đó, trừ vào lương. Phải mất đâu cả 1, hay 2 năm, Gấu mới thanh toán hết tiền nằm Grall.
Bót Lê Văn Ken. GCC lầm là Bót Hàng Ken.
Thảo Trường, hồi chưa di xa, mail, chỉ cho cái sai.


Khi GCC nằm nhà thương Đô Thành, BHD không dám vô thăm. Đọc báo Chính Luận, thấy GCC thuộc loại bị thương nặng, khóc, mà không dám dụi mắt, sợ mắt sẽ đỏ, mọi người trong nhà sẽ biết. Khi Gấu chuyển vô Grall, ghé thăm đâu cũng được một, hai lần; một lần, trên đường đi, ghé 1 tiệm sách ở Lê Lợi, mua 1 cuốn của J.H. Chase, Un beau matin d’été, Một sáng đẹp mùa hè. Hỏi, đọc chưa. Gấu ngu quá, nói đọc rồi, em, mặt xịu xuống, H. cũng nghĩ là anh đọc rồi.
Khi về nhà dưỡng thương, ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, có ghé, rồi, khi về Đài làm việc, với cái tay băng bột, cũng ghé.
Khi tháo băng bột, là mối tình chấm dứt.
Cái đoạn, chạy theo em, nơi cổng trường Đại Học Khoa Học, Đại lộ Cộng Hòa, xẩy ra đúng như vậy. Gấu không thêm bớt, tưởng tượng.
Sau này, nghe qua Vy, cô em họ, em nói, học Y Khoa mấy năm dài, làm sao bắt anh Gấu đợi. Mà đợi, thì cũng chắc gì đã nên vợ, nên chồng. Hơn nữa, anh Gấu, có bằng cấp, công chức chánh ngạch Bưu Điện, có nhà nhà nước cấp, lại viết văn nữa, thiếu gì người lo cho anh ấy…
Em tính toán y hệt 1 cô gái Bắc Kít. Thật là chu đáo. Nhưng lý do chính, là, em không muốn Gấu phải gọi ông bố của em là bố!
Nhớ, lần đi chơi trong Chợ Lớn, về, ghé hình như cũng đường Lê Lợi, để em đi bộ về nhà. Ra khỏi xe, có một bà và 1 cô gái, đứng bên hè đường đợi tắc xi, hóa ra là cô bạn cùng lớp, và bà mẹ của cô. Cả hai cùng trố mắt nhìn. Gấu hoảng quá. Em tỉnh bơ, như người Hà Nội, chào, và giới thiệu Gấu, không phải bạn trai, mà là bạn của ông anh.
Thật là chững chạc.
Ui chao, sau đọc MCNK, cũng có 1 cảnh y chang. Nhưng thê lương hơn nhiều.

Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, khi chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình, chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật rõ ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng sẽ được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì giờ để nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó chẳng liên can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu không đã chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng ân hận, là chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết, "Chúng ta không sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta yêu thương nhau nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như vậy, và chẳng thể nào khác. 
Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó. 
Trong khi lần hồi sống lại, trong những lần nàng vào nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện, khi được tin, nàng đã khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và người trong nhà sẽ biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa hổ thẹn.... 
Ngày 28 tháng 3, tôi gặp lại H. lần cuối cùng. Trời bữa đó mưa. Trận mưa mở đầu mùa. Thời tiết thay đổi, khí hậu ẩm ướt làm cánh tay trái của tôi trở nên đau nhức, khó chịu. Tôi ra Sài Gòn, tìm một quán nước, vừa uống cà phê vừa ngó mưa. Quán này, ngày trước tôi và H. thỉnh thoảng có ghé. Tôi còn nhớ, một lần ngồi đây, cũng tại bàn này, tôi uống bia, và chợt có ý định muốn hôn nàng. Lúc đó buổi trưa, trong quán chỉ có một hai người ngoại quốc đang dùng bữa. Họ vừa ăn vừa cắm cúi đọc báo. Ngày hôm sau, nàng bảo tôi, nàng biết ý định của tôi lúc đó, và phải quay đi, để che giấu nụ cười. 
Đang ngồi, đột nhiên nhớ đến nàng, đột nhiên tôi có ý định phải gặp nàng, và chỉ cần nhìn mặt nàng lúc này, là tôi biết rõ, nàng có còn yêu tôi hay không. Tôi đến Đại Học Khoa Học, và ngồi ở hiên ngoài, cũng là nơi tôi vẫn thường ngồi với bạn bè, hoặc ngồi một mình đọc sách, thay vì ngồi bên trong giảng đường nghe giáo sư giảng bài. 
Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
Sơ Dạ Hương
Trong khi Kiệt bị quấy rầy, Oanh châm thuốc lá hút, nhấm nháp ly rượu hồng nhạt. Nàng đóng kiểu cách vênh váo lạ mắt, nghênh nghênh trông ra cửa sổ làm vẻ không chú ý đến kẻ nhiễu sự. Thái độ của nàng hơi quá đáng nhưng Kiệt thích.
Oanh càng lúc càng vui vẻ, điệu bộ ngôn ngữ linh hoạt. Nhiều lúc nửa say nửa tỉnh, nàng bộp chộp gấp gáp khiến Kiệt phì cười. Đó là những phút vui thê thiết. Những lúc ấy Kiệt nắm tay Oanh, níu nàng lại, không cho tiến thêm. Chàng cũng có cảm tưởng hai người đang tựa nhau trong cơn lảo đảo để khỏi té nhào. Và Oanh cười long lanh nước mắt.
Cuối bữa ăn, không khí bớt ồn tạp. Oanh bình tĩnh, thong thả hơn. Kiệt thấm rượu choáng váng. Họ ăn món tráng miệng đặt trên mặt bàn đã thay khăn trải, vẻ thật nghiêm chỉnh.
Trong phòng nổi mấy khúc nhạc tối qua.  Nhà hàng có lẽ chỉ có vài ba băng nhạc và mở lên theo một trật tự bất biến. Kiệt lại nghe Hòa Tấu Khúc số 5, nhưng chàng không hát theo vì còn gặm miếng bánh ngọt. Oanh khời khời từng muỗng nhỏ trái cây hộp. Hai người âm thầm ngắm lẫn nhau, cùng ngưng thần sửa soạn vượt chặng gian nan nhất của cuộc tình ngắn ngủi. Kiệt biết vậy. Và Kiệt biết, người thiếu nữ lạ lùng vừa sống trọn với mình một ngày chủ nhật, cũng biết thế.
Tu es vraiment femme.


Gấu thực sự không biết BHD có đọc Gấu, những ngày còn Saigon. Nhưng cái xen chạy theo em, trên, về già, Gấu biết, gây “chấn động”, ở 1 vài độc giả. Trong có cô em gái của HPA, cùng học lớp BHD, thời học trường Kiến Thiết, trên đường Trần Quí Cáp, phía bên đường, căn nhà của BHD, ở đường Phan Đình Phùng.
Ấy là có lần HPA chê Gấu viết văn vãi linh hồn, và cho biết cô em của anh, đọc, khúc trên, khóc nức nở.
Cô này, thời gian học cùng lớp với BHD, có lần nhờ Gấu giải giùm 1 bài toán hình học. Cô ngớ người, và nói với ông anh, Gấu giỏi toán, còn hơn cả ông thầy của cô!







*


Saigon_scenes 1967 by Francois Sully - Đường Yersin. Phía trước là ngã tư Hồ văn Ngà - Yersin, thẳng lên là Khu Dân Sinh.

Francois Sully, ký giả Tẩy, chết cùng Đỗ Cao Trí, khi trực thăng rớt. GCC nhớ là tờ báo Mẽo mà ông là nhân viên, sau đó, đi 1 đường điều tra, và kết luận, máy bay để dơ quá, nên rớt, không phải VC bắn hạ, hình như ở Tây Ninh. 


*

Note: Thú thực Gấu không nhớ là đã từng giữ mục “Chữ và Việc” cho “Tập San Văn Chương”.
Tks. All of U.
NQT


Đọc, bồi hồi, muốn khóc.
Vì có địa chỉ của BHD, có số điện thoại của BHD nữa!
Hà, hà!

Già rồi, khóc hoài, con nít nó cười cho!
Người gì mà dai như đỉa thế!

Sorry, NQT
*



Một thảm kịch vô phương cứu chữa vẽ nên khuôn mặt nát tan tuyệt vời của tình yêu:
Đúng là nó vận vào anh cu Gấu thật!
Số nhà thì không quên, nhưng số điện thoại, làm sao mà nhớ nổi, nhưng không quên, cái lần đầu nhờ cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài gọi giùm, gặp ông bố hắc ám, tất nhiên. Tra vấn 1 hồi, mới kêu cô con gái. Nói chuyện cũng lâu lắm. Cô em họ, cô Vy, dân Đà Lạt, hỏi ai đấy, nghe nói Gấu, cô chạy qua nhà kế bên, có điện thoại, kêu đúng số trên, để cùng nghe. BHD cười quá. Hỏi về boyfriend, biết là có rồi, bạn cùng học, cũng dân y khoa, sau qua Cali, thôi nhau, có được 1 đấng con trai.
Qua đây, GCC có mấy cơ hội để có được số điện thoại, nhưng ngu quá, tự ái nữa, chỉ nhờ 1 anh bạn nhắn giùm, em trả lời qua anh bạn, để em kêu. Ui chao GCC chờ hoài, em quên, chắc là chờ đi rồi, sẽ gọi từ phía bên kia.
Đó cũng là lần em kể chuyện boyfriend nghe Sài Gòn rục rịch có biểu tình là khệ nệ vác mấy bao gạo tới nhà trình ông bố vợ, và phán, Gấu không làm nổi chuyện đó đâu. 
Đúng, không làm nổi.
Mà có làm nổi thì em cũng cấm không cho làm.
Bởi là vì, nếu Gấu làm nổi, thì em đâu cần có thêm 1 thằng vác gạo khác nữa?



*
manhhai
Vietnam war Photo - Fall of Saigon, April 1975
Marcus, gmp3157 and 5 more people faved this

    ngao5 7h
    13-4-1975, trực thăng CH-47 Chinook di tản binh sĩ Sư đoàn 18 bộ binh và gia đình ra khỏi Xuân Lộc. Ảnh: Dirck Halstead

GCC biết Dirck Halstead trở lại Việt Nam làm phóng sự di tản cho Time, quá trễ, qua Nhung, cũng 1 chuyên viên Bưu Điện, cũng làm part time cho tụi báo chí Mẽo, đúng ngày Dương Văn Minh ra lệnh Mẽo cút khỏi Miền Nam. Đến khách sạn anh ở, ở đường Nguyễn Huệ, anh nói, cầm cái camera theo tao, lên trực thăng, ra hạm đội 7, hết C.130 rồi, Gấu không thể bỏ gia đình, lắc đầu, anh móc túi lấy hết số tiền Ngụy còn lại giúi vô tay Gấu, miệng nói bye, bye. Gấu xuống Ngã Sáu, làm 1 shot, chắc phải 2, rồi về nhà nằm phê!


Mới nhận mail của Dirck, liền tức thì:

From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon in May.

Cuộc hội ngộ vào tháng Năm, the reunion in Saigon in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân. Mời mấy anh ký giả Mẽo tới, trong có Dirck.
Hai Lúa lúc đó ở trong Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, như đã kể sơ sơ trong một bài viết.
Khi về được Sài Gòn thì lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng tối. Anh nói, thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau cả mười mấy thước, ở ngay trước Tòa Đô Chính, chỗ bùng binh phun nước.
Sợ mấy ảnh, đầy đường lúc đó.
Tám nói, cũng là tình cờ tao nhìn thấy thằng Dirck từ đằng xa. Chính nó kêu tao.
Tám, nhân viên phòng tối, trốn lính, suốt ngày đêm đóng đô tại văn phòng UPI. Bữa đó, cuồng cẳng quá, mò ra ngoài, lang thang mấy snack bar kế bên văn phòng tại đường Ngô Đức Kế, phía đi ra Nguyễn Huệ, bị tóm liền.
Bữa sau, Hai Lúa xuống văn phòng, gặp Tư Râu, người chuyên đưa hình lên Đài cho HL chuyển đi. Anh nói, mở mấy ngăn kéo riêng của thằng Tám, thấy toàn xú chiêng, quần lót của bướm!
Dirck cũng từng đề nghị với Hai Lúa, mày có muốn đi làm tại văn phòng UPI Tokyo, tao lo cho. Đó là lúc cuộc chiến "hứa hẹn những điều khủng khiếp".
Lạ một điều, Hai Lúa chưa từng có ý định rời bỏ Sài Gòn, chờ cho cuộc chiến qua đi, rồi lại mò về. Đi tu nghiệp hai năm thì được. Nhưng do làm UPI, HL từ bỏ một hai cơ hội tu nghiệp Huê Kỳ. Nhớ lại, lúc đó, chỉ mong được đi Tây.
Cho Gấu tí Paris
Để Gấu làm thi sĩ!
Đại khái vậy!
Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.

Bài Surprise là do một độc giả Tin Văn [ĐLK, cộng tác viên thường trực của Tin Văn, đúng hơn], chuyển cho. Nhờ vậy, liên lạc được với Dirck. Tks. Hai Lúa.






*
Giấc Mơ BHD
Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.
Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ  có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.
Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.
Theo Enrique Vila-Matas
Trang Vila-Matas
Ui chao, mò ra được bài viết trên, sướng mê tơi.
Của Người Phước Ta.
Cám ơn ông Vila-Matas một phát!

 (Ủng hộ hai bác TV và NL:)



*

Số Mùa Thu, năm ngoái. Fate. Số mệnh. Cầm lên, đọc loáng thoáng, vớ đúng bài Joseph Roth viết về “nơi cuộc chiến bắt đầu”, Sarajevo, 1923.
Bài intro cũng tuyệt. Cả 1 thế kỷ đã qua, Roth thì cũng chết từ đời tám hoánh. Ông chết, và bài essay thuộc thứ, nhìn lại. Chúng ta nhìn tới, cuộc chiến thứ nhì, cuộc chiến Bosnia, cuộc chiến chấm dứt mọi cuộc chiến…



“Vẫn là nó. Nhưng không phải là nó!”
Câu trên là của ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của GCC, sau khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều lần rồi.

Sở dĩ nhắc lại, là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng phóng viên, trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và, cái quần tuột ra khỏi anh ta.
Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là mình, đếch mất cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về thể chất lẫn tinh thần, anh ta đếch còn như xưa!
Đúng là tình cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái gì đã mất đi, theo nó.
*
Chôn thường dân chết trong trận vây hãm, Jan 1993
MEMOIR
Remembering the siege of Sarajevo
By Janine di Giovanni
There was spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering over the green foothills of Mount Igman. Through the frosted window I could see the outline of the road we used to call Snipers' Alley, above which Serbian sharpshooters would perch and fire at anyone below. Twenty years had passed since I'd arrived in Sarajevo as a war reporter. During the siege of the city, most foreign journalists had lived in the Holiday Inn, and it was in that grotty hotel that the man who was to become my husband and the father of my child professed undying love. I met some of my best friends in Sarajevo and lost several others-to alcoholism, drugs, insanity, and suicide. My own sense of compassion and integrity, I think, was shaped during those years. 
Janine di Giovanni has won four major awards for her war reporting and is a member of the Council on Foreign Relations. She is currently writing a book about Syria, to be published by Norton. She lives in Paris.
Janine di Giovanni đợp bốn giải thưởng bự nhờ phóng sự chiến trường và là thành viên của "Council on Foreign Relations" [Hội Đồng Những Liên Hệ Ngoại]. Hiện đang viết 1 cuốn sách, sẽ do Norton xb. Sống ở Paris.
HARPER'S MAGAZINE / APRIL 2013
Tin Văn sẽ post bài này, và dịch lai rai, song song với bài Novel, của Fuentes
Why was it that Sarajevo, and not Rwanda or Congo or Sierra Leone or Chechnya-wars that all of us went on to report-captured us the way this war did? One of us, I think it was Christiane Amanpour, called it "our generation's Vietnam." We were often accused of falling in love with Sarajevo because it was a European conflict-a war whose victims looked like us, who sat in cafes and loved Philip Roth and Susan Sontag. As reporters, we lived among the people of Sarajevo. We saw the West turn its back and felt helpless.
Đây là "Việt Nam của thế hệ chúng tôi". Chúng tôi thường bị buộc tội tương tư Sarajevo, bởi vì đây là cuộc xung đột Âu Châu - một cuộc chiến mà nạn nhân trông giống chúng tôi, những kẻ ngồi trong những tiệm cà phê, mê Philip Roth và Susan Sontag

Khe Sanh,1968

MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM
I looked and there was a pale green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with him.   
 -Book of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết, và Diêm Vương, đằng sau anh ta.
Khe Sanh 1968, Sarajevo 1992, Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”, kể cả "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung cái air "độc thoại". Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát là nhập vô liền:
There was spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân và sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của tôi loay hoay chọn hướng đáp xuống thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp, màu xanh, của núi Mount Igman.
Câu văn còn làm nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, cái gì gì, “phi cơ đáp xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!
(1)
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ 
Em không nhìn được xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu !
Lê Thị Ý
[net]
Lần đầu tiên Gấu nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả mình, nhớ lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết được mùi thịt chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời” xoay chuyển] như thế nào mới được thưởng thức!




*

Saigon Feb 1967 - Chợ hoa Tết Đinh Mùi - Tòa nhà góc Nguyễn Huệ-Ngô Đức Kế - Vélo Solex

Văn phòng UPI, 19 Ngô Đức Kế, phía bên trái bức hình. Bạn đi tới, gặp con phố Catinat...

Khi nghe tin BHD bịnh, biết Lãng Ngố có số phôn, Gấu biểu anh gọi, nói, Gấu xin số phôn.
Em nói, cho Em số phôn, để Em gọi, tiện hơn.
Gấu ngu quá, cứ chờ hoài, cho đến lúc nghe tin Em đi xa.

*

*

Ngã Sáu Saigon

*

GCC hay ngồi ở đây, vào những lúc quá trống trải, thường là ban đêm, làm 1 ly sâm bửu lượng

*
Địa chỉ [số nhà số điện thoại] của BHD
Thiếu email-address! 
...  như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên ngoài cuộc đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không thể biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....

Tứ tấu khúc


*

Một trang bản thảo tìm lại được, viết về Bông Hồng Đen.
Viết hồi ở trại tị nạn Thái Lan.
Cùng một air với những dòng sau đây, mở ra Lần Cuối Sài Gòn:

Viết, một cách nào đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo những chữ. Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một con hẻm bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo chủ nhân bỏ chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá Thăng Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một Sài-gòn sau được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên bờ đê, hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm nào,"Chúng ta đi mang theo quê hương".
*
"Cô đã đi xa, xa lắm" có nghĩa, lúc đó BHĐ ở Huê Kỳ. Gấu thì chưa biết có đậu thanh lọc, hay bị trả về cho VC.
Bi giờ mới biết, "Cô đã đi xa, xa lắm" có nghĩa là:
Vĩnh Biệt

Cái câu văn sau cùng - đột nhiên, đèn trong phòng trên lầu bật sáng: hình bóng của cô xuất hiện trước khung cửa mở rộng - là một kỷ niệm thật là tuyệt vời về Bông Hồng Đen

Nhớ, đêm đó là đêm Noel.
Em nói, làm sao có chuyện đi rước đèn với anh được!
Gấu bèn đưa ra... giải pháp:
Anh sẽ đi chơi, tơi bời, thăm đủ chỗ, đủ thứ, của Sài Gòn, giùm cho cả Em!
Đúng 12 giờ đêm, anh sẽ đậu xe ngay dưới đường, nhìn lên phòng em, và lúc đó em bật đèn, mở cửa sổ.
Bông Hồng Đen gật đầu.



Tks Both [Hai Bac] of U. NQT

  *


manhhai
SAIGON 1967 - Đường Nguyễn Du, cổng Vườn Tao Đàn

Cổng vô vườn Tao Đàn, phía đường Nguyễn Du. Lần đầu tiên, Gấu đậu cái xô lếch bên hè đường, phía bên trong vườn. Em đi bộ, phía bên kia đường, vô vườn, Gấu vòng xe hoa, em thản nhiên ngồi lên, đúng như em viết trong 1 lá thư sau đó.
Nhớ là thời gian đó, cuối năm, lạnh, Gấu dậy sớm, chắc là do lạnh, nên nhớ Hà Nội, xứ Bắc Kít, thế rồi bất thình lình, nhớ Em khủng khiếp, và thế là lấy cái xô lếch phóng 1 mách…
Chiếc xô lếch, là của bạn Chất. Bà cụ Chất nói, mày lấy cái xe, đi làm, đừng đi xe đạp nữa, có tiền rồi. Tao mua chiếc xe Nhật cho nó....
1967, đúng thời gian này.












 
Saigon ngày nào của GCC




*


THE POET AS A HERO


Yuri Zhivago is a poet, a successor to the Western European bohemian, torn asunder by two contradictory urges: withdrawal into himself, the only receptacle or creator of value; movement toward society, which has to be saved. He is also a successor to the Russian "superfluous man." As for virtues, he cannot be said to possess much initiative and manliness. Nevertheless the reader is in deep sympathy with Yuri since he, the author affirms, is a bearer of charisma, a defender of vegetal "inner freedom." A passive witness of bloodshed, of lies and debasement, Yuri must do something to deny the utter insignificance of the individual. Two ways are offered to him: either the way of Eastern Christianity or the way of Hamlet.
Pity and respect for the yurodivy-a half-wit in tatters, a being at the very bottom of the social scale-has ancient roots in Russia. The yurodivy, protected by his madness, spoke truth in the teeth of the powerful and wealthy. He was outside society and denounced it in the name of God's ideal order. Possibly in many cases his madness was only a mask. In some respects he recalls Shakespeare's fool; in fact Pushkin merges the two figures in his Boris Godunov, where the half-wit Nikolka is the only man bold enough to shout the ruler's crimes in the streets.
Yuri Zhivago in the years following the civil war makes a plunge to the bottom of the social pyramid. He forgets his medical diploma and leads a shady existence as the husband of the daughter of his former janitor, doing menial jobs, provided with what in the political slang of Eastern Europe are called "madman’s papers." His refusal to become a member of the "new intelligentsia" implies that withdrawal from the world is the only way to preserve integrity in a city ruled by falsehood. Yet in Yuri Zhivago there is another trait. He writes poems on Hamlet and sees himself as Hamlet. Yes, but Hamlet is basically a man with a goal, and action is inseparable from understanding the game. Yuri has an intuitive grasp of good and evil, but is no more able to understand what is going on in Russia than a bee can analyze chemically the glass of a windowpane against which it is beating. Thus the only act left to Yuri is a poetic act, equated with the defense of the language menaced by the totalitarian double-talk or, in other words, with the defense of authenticity. The circle closes; a poet who rushed out of his tower is back in his tower. 
Yuri's difficulty is that of Pasternak and of his Soviet contemporaries. Pasternak solved it a little better than his hero by writing not poems but a novel, his Hamletic act; the difficulty persists, though, throughout the book. It is engendered by the acceptance of a view of history so widespread in the Soviet Union that it is a part of the air one breathes. According to this view history proceeds along preordained tracks, it moves forward by "jumps," and the Russian Revolution (together with what followed) was such a jump of cosmic dimension. To be for or against an explosion of historical forces is as ridiculous as to be for or against a tempest or the rotation of the seasons. The human will does not count in such a cataclysm, since even the leaders are but tools of mighty "processes." As many pages of his work testify, Pasternak did not question that view. Did he not say in one of his poems that everything by which this century will live is in Moscow? He seemed to be interpreting Marxism in a religious way. And is not Marxism a secularized biblical faith in the final accomplishment, implying a providential plan? No wonder Pasternak, as he says in his letter to Jacqueline de Proyart, liked the writings of Teilhard de Chardin so much. The French Jesuit also believed in the Christological character of lay history, and curiously combined Christianity with the Bergson an "creative evolution" as well as with the Hegelian ascending movement.
Let us note that Pasternak was probably the first to read Teillhard de Chardin in Russia. One may be justly puzzled by the influence of that poet-anthropologist, growing in the last decade both in the West and in the countries of the Soviet bloc. Perhaps man in our century is longing for solace at any price, even at the price of sheer Romanticism in theology. Teilhard de Chardin has predecessors, to mention only Alexander Blok's "music of history" or some pages of Berdyaev. The latent "Teilhardism" of Doctor Zhivago makes it a Soviet novel in the sense that one might read into it an esoteric interpretation of the Revolution as opposed to the exoteric interpretation offered by official pronouncements. The historical tragedy is endowed with all the trappings of necessity working toward the ultimate good. Perhaps the novel is a tale about the individual versus Caesar, but with a difference: the new Caesar's might has its source not only in his legions. 
What could poor Yuri Zhivago do in the face of a system blessed by history and yet repugnant to his notions of good and evil? Intellectually, he was paralyzed. He could only rely on his subliminal self, descend deeper than state-monopolized thought. Being a poet, he clutches at his belief in communion with ever reborn life. Life will take care of itself. Persephone always comes back from the underground, winter's ice is dissolved, dark eras are necessary as stages of preparations, life and history have a hidden Christian meaning. And suffering purifies.
Pasternak overcame his isolation by listening to the silent complaint of the Russian people; we respond strongly to the atmosphere of hope pervading Doctor Zhivago. Not without some doubts, however. Life rarely takes care of itself unless human beings decide to take care of themselves. Suffering can either purify or corrupt, and too great a suffering too often corrupts. Of course hope itself, if it is shared by all the nation, may be a powerful factor for change. Yet, when at the end of the novel, friends of the long-dead Yuri Zhivago console themselves with timid expectations, they are counting upon an indefinite something (death of the tyrant?) and their political thinking is not far from the grim Soviet joke about the best constitution in the world being one that grants to every citizen the right to a postmortem rehabilitation.
But Pasternak's weaknesses are dialectically bound up with his great discovery. He conceded so much to his adversary, specuu1ative thought, that what remained was to make a jump into a completely different dimension. Doctor Zhivago is not a novel of social criticism, it does not advocate a return to Lenin or to the young Marx. It is profoundly revisionist. Its message summarizes the experience of Pasternak the poet: whoever engages in a polemic with the thought embodied in the state will destroy himself, for he will become a hollow man. It is impossible to talk to the new Caesar, for then you choose the encounter on his ground. What is needed is a new beginning, new in the present conditions but not new in Russia marked as it is by centuries of Christianity. The literature of Socialist Realism should be shelved and forgottten; the new dimension is that of every man's mysterious destiny, of compassion and faith. In this Pasternak revived the best tradition of Russian literature, and he will have successors. He already has one in Solzhenitsyn.
The paradox of Pasternak lies in his narcissistic art leading him beyond the confines of his ego. Also in his reed like pliability, so that he often absorbed les idees recues without examining them thoroughly as ideas but without being crushed by them either. Probably no reader of Russian poets resists a temptation to juxtapose the two fates: Pasternak's and Mandelstam's. The survival of the first and the death in a concentration camp of the second may be ascribed to various factors, to good luck and bad luck. And yet there is something in Mandelstam's poetry, intellectually structured, that doomed him in advance. From what I have said about my generation's quarrel with worshippers of "Life," it should be obvious that Mandelstam, not Pasternak, is for me the ideal of a modern classical poet. But he had too few weaknesses, was crystalline, resistant, and therefore fragile. Pasternak-more exuberant, less exacting, uneven-was called to write a novel that, in spite and because of its contradictions, is a great book.
 Cezlaw Milosz
Note: Bài viết của Milosz về Pat cũng quá tuyệt. Cái khó của nhân vật Bác sĩ Zhi Và Gồ- Yuri - là của Pat và đám đồng thời của ông. Pat giải quyết nó, bảnh hơn nhân vật của ông, bằng cách, thay vì làm thơ, thì viết 1 cuốn tiểu thuyết, 1 hành động Hâm Liệt!

Pat muốn giải thích Mạc Xịt bằng Ky Tô Giáo, in a religious way, đúng hơn!

Những dòng chót mới ghê. Pat vs Mandelstam!

Note: Cái phần thiếu của GCC, trong khi đọc, khi... sống, chính là cái phần những vị như Brodsky, như Milosz có thừa: Tôn giáo, và nhất là Ky Tô Giáo.

Nguyễn Khải đau hơn Gấu. Ông than, đếch có Đảng, ông trở thành Thầy Tu, tu sĩ.
Khi Chúa bỏ chạy vào Nam, ông bèn trả thù Chúa cực kỳ thậm tệ!

Greene thì viện tới Chúa, để cho Con Quỉ ở trong ông đánh vật với Ngài.

Chúa của Simic, thì bị VC giam vào Hoả Lò, sáng sáng tranh thủ dậy sớm, làm lễ cho đám vợ con của Quỉ Đỏ, rồi trở lại Hoà Lò!

Obscurely Occupied
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In
a cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic 
U tối bận rộn
Người là Chúa Tể của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực của Người
Hãy để trước cây thập tự bỏ trống
Vài cây đèn cầy, cháy thật cao
Cao hơn cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới vòm trời phóng lớn tối thui.


Note: Bài thơ này cực kỳ…  u tối. Chỉ bằng mấy dòng thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!









*



Rạp Cao Đồng Hưng, gần hẻm Đỗ Thành Nhân, nhà Bạn Chất



Văn xuôi Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi




Trong Nửa Thế Kỷ Của Tôi, tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova, có trích mấy đoạn, trong Nhật Ký, bà viết về thành phố của bà.
Post lên đây như “chim mồi”, lấy hứng, viết về Sài Gòn Của Gấu ngày nào.

Nữ văn sĩ Bắc Kít, Lờ Mờ Hờ, khi mới viết, cũng có những dòng thật đẹp về Hà Nội.
Nhưng Hà Nội của Gấu khác, và Sài Gòn, thì tất nhiên, khác, vì bà này làm gì có!

"Suốt khoảng phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố trước mặt chúng nó.
Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết..."
"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và chi chít sao."
"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."
".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em."     

(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)

Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố.

Tuyệt!






Cảnh đẹp VN


Giới Thiệu Sách, CD


Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011


30. 4. 2013


Thơ JHV


Trang đặc biệt


Tưởng nhớ Thảo Trường


Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan


TTT 2011
TTT 2012


Tribute to PCL & VHNT

Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life



Vĩnh Biệt BHD


6 năm BHD ra đi

Blog TV





&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây


Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn


NQT vs DPQ



Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’