Simone Weil
- Get link
- Other Apps
Sep 11, 2019
Thông báo nữa
và mọi chuyện (giống mọi chuyện) khởi sự từ tình cờ
Hồi năm ngoái, sau loạt thuyết trình về École de Genève, tôi nhận ra các tài liệu tôi chuẩn bị cho nó đủ để in không ít sách. Bất kỳ editor nào (nếu đó đúng là editor) đều có thể thấy điều đó.
Và quả thật đã xuất hiện một nhân vật: xem ởkia, phần comment. Tôi nói là ai muốn in mấy thứ từ đợt vừa xong đó thì tôi cho in luôn, và có người nhận. Lúc ấy hoàn toàn là chuyện: tôi thì đã xong việc (tức là thuyết trình trường chinh về École de Genève), những gì liên quan ai thích tôi cũng sẽ đưa ngay.
Lúc comment ở đó, tôi hoàn toàn không biết người nhận in sách là ai, nhưng "nhất ngôn ký xuất" hay cái gì đó tương tự í nhờ (cf. Vi Tiểu Bảo), nếu đã vậy thì sẽ vậy: âu cũng là số trời.
Tất nhiên thời điểm đó không có nhiều dính dáng đến Simone Weil, nhưng cộng thêm Simone Weil vào thì lại càng tốt: Weil là grace.
(bìa: Phạm Đam Ca)
Simone Weil: Mọc rễ
Bùi Giáng
Simone Weil: Nặng và Thanh
Phùng Thăng
Sep 3, 2018
Simone Weil: Mọc rễ
Achtung, tôi sắp nói một điều to tát (không hợp với tôi lắm,
nhưng thôi kệ): kiểu xã hội Việt Nam hiện nay (tinh thần của nó) cần
nhất dạng tinh thần nào? Tôi nghĩ chính là tinh thần Simone Weil, tức là một tinh thần nghiêm khắc.
Chính vì thế, sau khi đã dịch xong hoàn toàn Nặng và Thanh (tức là La Pesanteur et la Grâce) - và sẽ in luôn thành sách chứ không đợi nữa - tôi chuyển sang L'Enracinement (hình như ở đâu đó tôi đã post quyển sách, ấn bản đầu năm 1949).
"Cuốn sách" (ở trường hợp của Weil, khái niệm "cuốn sách" tương đối mơ hồ, vì không có vai trò ý chí của chính Weil) L'Enracinement gồm ba phần, phần cuối là "Mọc rễ", phần giữa sẽ gọi là "Bật rễ" - gọi như vậy cho tương ứng với "mọc rễ", còn nó hay được gọi là "vong bản" hơn: suốt quãng thời gian cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đó là một trong những "từ khóa" lớn nhất; đó là thời đại của sự vong bản. Tôi sẽ còn quay trở lại với khái niệm "déracinement" này.
André Weil, nhà toán học lớn, anh trai của Simone Weil, có vai trò không nhỏ trong việc in tác phẩm của Simone Weil. Cả hai anh em Weil đều có thời gian không ngắn ở trường École Normale Supérieure de la rue d'Ulm.
Ở ENS, bốn phòng học (ở khu chính, tức là khu chạy vòng quanh cái vườn vuông) mang tên đáng nhớ nhất là phòng Simone Weil, phòng Samuel Beckett, phòng Paul Celan và phòng Jean Cavaillès (ai từng đọc hồi ký của Hồ Hữu Tường hẳn còn nhớ nhân vật ấy). Trong vòng một năm, tôi sống ở căn phòng (có mezzanine) nhìn xuống góc tường chỗ thư viện của trường gấp khúc, nhìn thấy vài kệ sách của thư viện. Giờ, tôi nhớ dường như phòng tôi nằm ngay trên đầu một trong bốn phòng học nói trên, rất có thể chính là phòng Simone Weil. Ở quá gần thì lại rất đi học muộn, nhưng tôi sẽ không thú nhận có hôm nào xuống phòng học để theo séminaire nào đó mà chưa kịp đánh răng hay không. "Tinh thần Sorbonne" mà tôi đã nói ởkia được giải trừ hết sức hiệu quả nhờ những căn phòng mang tên người ấy.
Ý thức con người chưa từng bao giờ
biến động trên điểm này. Cách đây hàng nghìn năm người Ai Cập đã nghĩ
rằng một linh hồn không thể được biện minh sau cái chết nếu nó không thể
nói: “Tôi đã không để mặc ai phải chịu đói.” Tất
tật Ki-tô hữu đều biết họ lâm vào tình cảnh rồi một ngày kia đích thân
Đức Ki-tô sẽ nói với họ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn.” Tất cả
mọi người đều hình dung sự tiến bộ trước hết như là sự chuyển sang một
trạng thái của xã hội con người nơi sẽ không ai còn phải chịu đói nữa.
Nếu ta đặt câu hỏi dưới hình thức khái quát cho bất kỳ người nào, thì
chẳng một ai nghĩ rằng một người là trong trắng nếu, vốn dĩ có dồi dào
thức ăn nhưng khi thấy trên ngưỡng cửa nhà mình một ai đó đói lả sắp
chết, mà lại đi qua luôn không cho người đó cái gì.
Như vậy đây là một bổn phận vĩnh cửu đối với con người, việc không để cho anh ta chết đói khi ta có cơ hội cứu giúp anh ta. Vì bổn phận này là hiển nhiên nhất, nó phải được dùng làm hình mẫu để dựng ra danh sách các nghĩa vụ vĩnh cửu đối với mọi con người. Nhằm có được tính cách tuyệt đối nghiêm ngặt, danh sách ấy phải được triển khai từ ví dụ đầu tiên này theo con đường của tương đồng.
Vì thế, danh sách các bổn phận đối với con người phải tương ứng với danh sách những nhu cầu con người có tính cách sống còn, tương tự với cái đói.
Trong số các nhu cầu ấy, một số thuộc thể chất, như bản thân sự đói. Dễ dàng liệt kê chúng. Chúng liên quan tới sự bảo vệ chống lại bạo lực, chỗ ở, quần áo, sưởi ấm, vệ sinh, sự chăm sóc khi ốm đau.
Sau rốt cảm giác về những bổn phận
đa dạng lúc nào cũng nảy sinh từ một ham muốn cái thiện vốn dĩ là duy
nhất, cố định, giống hệt với chính nó, cho mọi con người, từ lúc nằm
trong nôi cho tới khi xuống mộ. Ham
muốn vĩnh viễn hoạt tác đó nơi tận sâu chúng ta ngăn cản không lúc nào
chúng ta có thể cam chịu với các hoàn cảnh nơi những bổn phận là bất
tương thích. Hoặc giả chúng ta viện tới sự dối trá để quên đi rằng chúng
tồn tại, hoặc chúng ta mù quáng vật lộn nhằm thoát ra khỏi đó.
Chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật chân thực, và còn hơn thế nhiều, sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thế giới, và lại còn hơn thế nữa, sự chiêm ngưỡng cái thiện xa lạ mà chúng ta khát khao hướng về có thể hỗ trợ chúng ta trong nỗ lực liên tục suy nghĩ tới trật tự con người, thứ phải là đối tượng đầu tiên của chúng ta.
Những kẻ gieo rắc bạo lực lớn cũng từng tự khích lệ bản thân thông qua việc nhìn nhận bằng cách nào mà lực cơ học, mù quáng, lại thống trị toàn vũ trụ.
Bằng cách nhìn thế giới tốt đẹp hơn so với bọn họ, chúng ta sẽ tìm ra một sự khích lệ lớn hơn, nếu chúng ta nhìn nhận bằng cách nào những lực mù quáng nhiều vô số là có giới hạn, được kết hợp lại thành một cân bằng, được dẫn dắt đến chỗ cùng hợp lại cho một nhất thể, thông qua một điều gì đó mà chúng ta không hiểu, nhưng chúng ta yêu và gọi là cái đẹp.
Chủ định và trách nhiệm, cảm giác thấy mình có ích và thậm chí nhất thiết, là những nhu cầu sống còn của tâm hồn con người. Sự
tước bỏ hoàn toàn về phương diện này là trường hợp người thất nghiệp,
dẫu họ được trợ cấp để vẫn có cái ăn, cái mặc và chỗ ở. Anh ta chẳng là
gì trong cuộc sống kinh tế, và đối với anh ta tờ phiếu bầu vốn dĩ tạo
lập phần của anh ta trong cuộc sống chính trị không có nghĩa lý gì.
Nhân công làm việc tay chân ở vào một hoàn cảnh chẳng mấy tốt đẹp hơn.
Sự thỏa mãn nhu cầu này đòi hỏi một người phải thường xuyên ra các quyết định ở những vấn đề, lớn hoặc nhỏ, ảnh hưởng đến các lợi ích xa lạ với những lợi ích riêng của anh ta, nhưng là những thứ anh ta cảm thấy mình có liên can. Cũng cần có chuyện anh ta phải liên tục có các nỗ lực. Rốt cuộc anh ta cần phải có thể thông qua suy nghĩ mà tự nhìn nhận được toàn bộ công trình của tập thể mà anh ta là thành viên, kể cả những địa hạt nơi anh ta chẳng bao giờ có quyết định nào để ra hay ý kiến nào để có. Để được như vậy, người ta cần phải làm cho anh ta biết cái đó, phải yêu cầu anh ta quan tâm đến cái đó, khiến anh ta trở nên nhạy cảm với giá trị, tính hữu dụng, cũng như sự kỳ vĩ nếu có của nó, và phải khiến anh ta nắm bắt một cách rõ ràng cái phần mà anh ta dự vào đó.
Vinh dự là một nhu cầu sống còn của tâm hồn con người.
(còn nữa)
Simone Weil: Nặng và Thanh
Chính vì thế, sau khi đã dịch xong hoàn toàn Nặng và Thanh (tức là La Pesanteur et la Grâce) - và sẽ in luôn thành sách chứ không đợi nữa - tôi chuyển sang L'Enracinement (hình như ở đâu đó tôi đã post quyển sách, ấn bản đầu năm 1949).
"Cuốn sách" (ở trường hợp của Weil, khái niệm "cuốn sách" tương đối mơ hồ, vì không có vai trò ý chí của chính Weil) L'Enracinement gồm ba phần, phần cuối là "Mọc rễ", phần giữa sẽ gọi là "Bật rễ" - gọi như vậy cho tương ứng với "mọc rễ", còn nó hay được gọi là "vong bản" hơn: suốt quãng thời gian cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đó là một trong những "từ khóa" lớn nhất; đó là thời đại của sự vong bản. Tôi sẽ còn quay trở lại với khái niệm "déracinement" này.
André Weil, nhà toán học lớn, anh trai của Simone Weil, có vai trò không nhỏ trong việc in tác phẩm của Simone Weil. Cả hai anh em Weil đều có thời gian không ngắn ở trường École Normale Supérieure de la rue d'Ulm.
Ở ENS, bốn phòng học (ở khu chính, tức là khu chạy vòng quanh cái vườn vuông) mang tên đáng nhớ nhất là phòng Simone Weil, phòng Samuel Beckett, phòng Paul Celan và phòng Jean Cavaillès (ai từng đọc hồi ký của Hồ Hữu Tường hẳn còn nhớ nhân vật ấy). Trong vòng một năm, tôi sống ở căn phòng (có mezzanine) nhìn xuống góc tường chỗ thư viện của trường gấp khúc, nhìn thấy vài kệ sách của thư viện. Giờ, tôi nhớ dường như phòng tôi nằm ngay trên đầu một trong bốn phòng học nói trên, rất có thể chính là phòng Simone Weil. Ở quá gần thì lại rất đi học muộn, nhưng tôi sẽ không thú nhận có hôm nào xuống phòng học để theo séminaire nào đó mà chưa kịp đánh răng hay không. "Tinh thần Sorbonne" mà tôi đã nói ởkia được giải trừ hết sức hiệu quả nhờ những căn phòng mang tên người ấy.
Simone Weil
Mọc rễ
Phần thứ nhất
Các nhu cầu của tâm hồn
Khái niệm bổn phận vượt trên khái
niệm quyền, vốn dĩ là thứ lệ thuộc vào nó và có liên quan với nó. Một
quyền thì không hiệu quả bởi tự thân nó, mà chỉ bởi bổn phận tương ứng
với nó; sự thành tựu thật [ở mức “effectif”] của một quyền không xuất
phát từ người sở hữu nó, mà từ những người khác tự nhận ra là họ có bổn
phận ở điều gì đó đối với anh ta. Bổn phận thì hiệu quả ngay khi nó được
nhận ra. Một bổn phận dẫu chẳng hề được bất kỳ ai công nhận, thì nó vẫn
không mất đi gì hết trong sự đầy hữu thể của nó. Một quyền không được
bất kỳ ai công nhận thì chẳng là gì nhiều nhặn.
Chẳng có nghĩa lý gì nếu nói con
người có một mặt là các quyền, mặt khác là các nghĩa vụ [điểm rất then
chốt: con người hiện đại bị mắc kẹt vào các “idiom”, một idiom rất lớn
là “quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ” - idiom này phớt lờ bản chất của các
khái niệm và tạo cảm giác về một sự công bằng hư ảo]. Những từ đó chỉ
diễn đạt các khác biệt về quan điểm. Mối quan hệ giữa chúng là quan hệ
của đối tượng và chủ thể. Một người, được nhìn nhận ở chính anh ta, chỉ
có các nghĩa vụ, trong số đó có một số nghĩa vụ với bản thân anh ta.
Những người khác, nhìn nhận từ quan điểm của anh ta, chỉ có các quyền.
Đến lượt mình anh ta có các quyền khi anh ta được nhìn nhận từ quan điểm
của những người khác, họ tự công nhận các nghĩa vụ đối với anh ta. Một
người chỉ có một mình trong vũ trụ sẽ không có quyền nào hết, nhưng vẫn
có các bổn phận.
Khái niệm quyền, vốn dĩ thuộc trật
tự khách quan, không thể tách rời khỏi khái niệm tồn tại và khái niệm
thực tại. Nó hiện ra khi bổn phận đi xuống địa hạt thực tế [“địa phận”
của các “fait”]; bởi thế nó luôn luôn chứa đựng trong một chừng mực nhất
định sự nhìn nhận các trạng thái của thực tế và những hoàn cảnh riêng.
Các quyền luôn luôn hiện ra như là gắn bó với một số điều kiện. Chỉ bổn
phận mới có thể là vô điều kiện. Nó nằm trong một địa hạt phía bên trên
mọi điều kiện, bởi vì nó ở phía bên trên thế giới này.
Những người hồi 1789 đã không nhận
ra thực tại của một địa hạt như vậy. Họ chỉ công nhận địa hạt của các
vật thuộc con người. Chính vì thế họ đã bắt đầu bằng khái niệm quyền.
Nhưng cùng lúc họ lại muốn đặt ra các nguyên tắc tuyệt đối. Mâu thuẫn
này đã khiến họ rơi vào một sự lẫn lộn của ngôn ngữ và của các ý, ngày
nay nó có ý nghĩa lớn trong sự lẫn lộn chính trị và xã hội. Địa hạt của
cái vĩnh cửu, phổ quát, vô điều kiện, thì khác với địa hạt của các điều
kiện thuộc thực tế, và ở đó cư ngụ những khái niệm khác gắn bó với phần
bí mật hơn cả của tâm hồn con người.
Bổn phận chỉ liên kết các con người.
Không có các bổn phận cho những tập thể đúng như vậy [các
“collectivité”, chúng được nhìn nhận “comme tel”]. Nhưng có các bổn phận
cho mọi con người cấu thành, phụng sự, điều hành hay đại diện một tập
thể, trong cái phần đời của họ gắn bó với tập thể cũng như trong cái
phần độc lập với đó.
Các bổn phận tương tự nhau liên kết
mọi con người, mặc dù chúng tương ứng với những hành động khác nhau tùy
theo hoàn cảnh. Không con người nào, dẫu là ai đi chăng nữa, ở vào bất
kỳ hoàn cảnh nào, thoát được khỏi đó mà không gây tội ác; ngoại trừ
trong trường hợp, vì hai bổn phận có thực [mức của “réel”] quả thật
không thể tương thích với nhau, một người buộc lòng phải từ bỏ một trong
số chúng.
Sự thiếu hoàn hảo của một trật tự xã hội được ước định theo số lượng những hoàn cảnh thuộc dạng đó mà nó chứa đựng.
Nhưng ngay cả trong trường hợp ấy vẫn xảy ra tội ác nếu bổn phận bị bỏ mặc không chỉ bị bỏ mặc trên thực tế, mà còn bị chối bỏ.
Đối tượng của bổn phận, trong địa
hạt các vật con người, luôn luôn là con người đúng như vậy. Có bổn phận
đối với mọi con người, chỉ bởi đó là một con người, mà không cần bất kỳ
điều kiện nào khác can thiệp, và dẫu cho người đó không công nhận bất cứ
bổn phận nào.
Bổn phận ấy không đặt trên hoàn cảnh
thực tế nào, cũng như trên các án lệ, cũng như trên các tập quán, cũng
như trên cấu trúc xã hội, cũng như trên những tương quan sức mạnh, cũng
như trên di sản quá khứ, cũng như trên định hướng được giả định của lịch
sử. Bởi chẳng hoàn cảnh thực tế nào có thể khiến nảy sinh một bổn phận.
Bổn phận ấy không đặt trên bất kỳ
thỏa thuận nào [ta thấy rõ là Simone Weil tách xa khỏi Rousseau: quy
chiếu của tư tưởng Weil là Montesquieu nhiều hơn vô tận so với
Rousseau]. Vì mọi thỏa thuận đều có thể bị biến đổi tùy thuộc vào ý chí
của những người tham gia thỏa thuận, thế mà ở nó không thay đổi nào
trong ý chí con người có thể biến đổi bất cứ mảy may nào.
Bổn phận ấy là vĩnh cửu. Nó hồi đáp
số phận vĩnh cửu của con người. Chỉ con người mới có một số phận vĩnh
cửu. Các tập thể con người thì không có. Vậy nên về phía chúng chẳng hề
có các bổn phận trực tiếp có tính cách vĩnh cửu [Simone Weil đi đến rất
sát với “vô chính phủ”, nhưng chưa bao giờ Weil rơi vào vô chính phủ].
Chỉ là vĩnh cửu nghĩa vụ đối với con người đúng như vậy.
Bổn phận ấy là vô điều kiện. Nếu nó
được tạo lập trên một cái gì đó, thì cái gì đó không thuộc vào thế giới
của chúng ta. Trong thế giới của chúng ta, nó được tạo lập trên không gì
cả [“cái không” nằm ở yếu tính suy tư của Simone Weil]. Đó là bổn phận
duy nhất có liên quan đến các vật con người không tuân phục bất cứ điều
kiện nào.
Bổn phận ấy không có một nền móng,
mà có một sự kiểm tra trong sự đồng tình của ý thức phổ quát. Nó được
diễn đạt bởi một số trong những văn bản cổ xưa nhất mà chúng ta còn giữ
được. Nó được công nhận bởi tất cả mọi người trong mọi trường hợp riêng
nơi nó không bị tranh đấu bởi các lợi ích hay các dục vọng. Chính trong
quan hệ với nó mà ta ước lượng được sự tiến bộ.
Sự công nhận bổn phận ấy được diễn
đạt theo một cách thức rối bời và không hoàn hảo, nhưng là ít nhiều
thiếu hoàn hảo tùy thuộc trường hợp, bởi cái mà người ta gọi là những
quyền thực chứng. Trong chừng mực các quyền thực chứng rơi vào mâu thuẫn
với nó, chính xác trong chừng mực đó chúng bị mang dấu ấn của sự bất
hợp thức.
Dẫu bổn phận vĩnh cửu ấy hồi đáp số
phận vĩnh cửu của con người, đối tượng trực tiếp của nó không phải số
phận đó. Số phận vĩnh cửu của một con người không thể trở thành đối
tượng cho bất kỳ bổn phận nào, bởi vì nó không lệ thuộc những hành động
bên ngoài.
Việc một con người sở hữu một số
phận vĩnh cửu chỉ áp đặt một bổn phận duy nhất; đó là lòng kính trọng.
Bổn phận chỉ được thành tựu nếu sự kính trọng được diễn đạt ở mức thật,
theo một cách thực chứ không phải hư cấu; nó chỉ có thể như vậy qua
trung gian các nhu cầu nơi hạ giới của con người.
Như vậy đây là một bổn phận vĩnh cửu đối với con người, việc không để cho anh ta chết đói khi ta có cơ hội cứu giúp anh ta. Vì bổn phận này là hiển nhiên nhất, nó phải được dùng làm hình mẫu để dựng ra danh sách các nghĩa vụ vĩnh cửu đối với mọi con người. Nhằm có được tính cách tuyệt đối nghiêm ngặt, danh sách ấy phải được triển khai từ ví dụ đầu tiên này theo con đường của tương đồng.
Vì thế, danh sách các bổn phận đối với con người phải tương ứng với danh sách những nhu cầu con người có tính cách sống còn, tương tự với cái đói.
Trong số các nhu cầu ấy, một số thuộc thể chất, như bản thân sự đói. Dễ dàng liệt kê chúng. Chúng liên quan tới sự bảo vệ chống lại bạo lực, chỗ ở, quần áo, sưởi ấm, vệ sinh, sự chăm sóc khi ốm đau.
Những nhu cầu khác không có tương
quan với cuộc sống thuộc thể chất, mà với cuộc sống tinh thần. Tuy nhiên
cũng giống các nhu cầu đầu tiên chúng có tính cách trần thế, và không
có liên quan trực tiếp khả dĩ xâm nhập cho trí năng của chúng ta với số
phận vĩnh cửu của con người. Đó là, cũng như các nhu cầu thuộc thể chất,
những điều nhất thiết cho cuộc sống nơi hạ giới. Tức là nếu chúng không
được thỏa mãn, con người sẽ dần dà rơi vào một trạng thái ít nhiều
tương đồng với cái chết, ít nhiều gần với một cuộc sống thuần có tính
cách thực vật.
Chúng khó nhận ra và liệt kê hơn
nhiều, so với các nhu cầu của thể xác. Nhưng tất cả mọi người đều công
nhận rằng chúng có tồn tại. Mọi điều tàn nhẫn mà một kẻ chinh phục có
thể gây ra lên các tộc người bị chinh phục, tàn sát, hà lạm, nạn đói có
tổ chức, bắt làm nô lệ hoặc trục xuất số lượng lớn, thường được coi như
những thước đo cùng dạng, dẫu tự do hay quê hương chẳng phải những điều
nhất thiết có tính cách thể chất. Tất cả mọi người có ý thức rằng có
những sự tàn nhẫn xâm phạm đến cuộc sống con người mà không xâm phạm vào
thể xác anh ta. Đó là các sự tàn nhẫn tước mất khỏi con người một thứ
lương thực nào đó nhất thiết cần cho cuộc sống của tâm hồn.
Những bổn phận, vô điều kiện hoặc
tương đối, vĩnh cửu hoặc nhiều thay đổi, trực tiếp hoặc gián tiếp đối
với các vật con người, tất tật, không ngoại lệ, đều phái sinh từ những
nhu cầu có tính cách sống còn của con người. Các bổn phận nào không liên
quan trực tiếp đến người này, người kia, người nọ xác định, tất tật đều
có đối tượng là những vật có, nhờ tương quan với con người, một vai trò
tương đồng với lương thực.
Ta cần phải kính trọng một cánh đồng lúa mì, không phải vì bản thân nó, mà bởi đó là đồ ăn cho con người.
Theo cách thức tương tự, ta phải
kính trọng một tập thể, dẫu nó là gì - tổ quốc, gia đình, hay khác hẳn
đi nữa - không phải vì bản thân nó, mà như là đồ ăn cho một số lượng
nhất định tâm hồn con người.
Bổn phận ấy quả thật áp đặt những
thái độ, hành động khác nhau tùy theo các hoàn cảnh khác nhau. Nhưng
được nhìn nhận ở chính nó, nó tuyệt đối là tương tự với tất cả mọi
người.
Nhất là, nó tuyệt đối là tương tự với những ai ở bên ngoài.
Mức độ kính trọng cần phải dành cho các tập thể con người thì rất cao, bởi nhiều nhìn nhận.
Trước hết, mỗi tập thể là duy nhất
và, nếu nó bị phá hủy, sẽ không thể thay thế. Một bao lúa mì luôn luôn
có thể được thay bằng một bao lúa mì khác. Đồ ăn mà một tập thể mang tới
cho tâm hồn những ai là thành viên của nó không có tương đương trong
toàn vũ trụ.
Và rồi, bởi thời độ của nó, tập thể
đã xâm nhập vào tương lai. Nó chứa đựng đồ ăn, không chỉ cho tâm hồn
những người đang sống, mà còn cho tâm hồn những người còn chưa sinh ra
sẽ đến với thế giới trong các thế kỷ sắp tới.
Sau rốt, bởi cùng thời độ ấy, tập
thể cắm rễ vào quá khứ. Nó tạo lập cơ quan sinh tồn duy nhất đối với các
kho báu tinh thần được thu gom lại bởi những người đã chết, bộ phận duy
nhất của truyền thừa, là trung gian để những người đã chết có thể nói
chuyện với người sống. Và là vật trần thế duy nhất có một dây liên hệ
trực tiếp với số phận vĩnh cửu của con người, đó là sự tỏa rạng của
những ai từng biết cách có một thức nhận đầy đủ về số phận đó, được
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Vì tất tật những điều ấy, có thể xảy
ra chuyện bổn phận dành cho một tập thể lâm nguy đi đến tận chỗ hy sinh
hoàn toàn. Nhưng, từ đó không được suy ra rằng tập thể ở bên trên con
người. Cũng có thể xảy ra chuyện bổn phận cứu giúp một con người trong
cơn hoạn nạn phải đi đến tận chỗ hy sinh hoàn toàn, mà điều đó không ngụ
ý chút vượt trội nào từ phía người được cứu giúp.
Một người nông dân, trong một số
hoàn cảnh, có thể lâm vào cảnh, nhằm chăm bón cánh đồng của anh ta, kiệt
sức, bị bệnh tật hay thậm chí chết. Nhưng lúc nào trong tâm trí anh ta
cũng thấy vấn đề chỉ liên quan tới bánh mì.
Theo một cách thức tương đồng, ngay
cả vào khoảnh khắc của hy sinh hoàn toàn, bao giờ bất kỳ tập thể nào
cũng không có được gì khác ngoài một sự kính trọng tương đồng với sự
kính trọng cần phải có đối với đồ ăn.
Rất thường xảy ra chuyện vai trò bị
đảo ngược. Một số tập thể, thay vì mang tới lương thực, ngược hẳn lại,
ăn các tâm hồn. Trong trường hợp này có bệnh của xã hội, và bổn phận thứ
nhất là thử một cách chữa chạy; trong một số hoàn cảnh có thể nhất
thiết phải hướng đến những phương pháp phẫu thuật.
Cả ở điểm này nữa, bổn phận cũng tương tự, đối với những ai ở bên trong tập thể và những ai ở bên ngoài.
Cũng có thể xảy ra chuyện một tập
thể mang đến cho tâm hồn của những ai là thành viên của nó lượng đồ ăn
không đủ. Trong trường hợp ấy, cần phải cải thiện nó.
Sau rốt có những tập thể chết,
chúng, dẫu không ngốn ngấu các tâm hồn, cũng chẳng nuôi nấng. Nếu hoàn
toàn chắc chắn rằng chúng đã chết, chứ không chỉ là một cơn lịm thoáng
qua, và chỉ trong trường hợp đó mà thôi, cần phải hư vô hóa chúng đi.
Nghiên cứu đầu tiên cần phải thực
hiện là nghiên cứu về các nhu cầu đối với cuộc sống của tâm hồn cũng
giống đối với cuộc sống của cơ thể các nhu cầu về đồ ăn, giấc ngủ và
sưởi ấm. Cần phải tìm cách liệt kê chúng và định nghĩa chúng.
Không bao giờ được lẫn lộn chúng với
các ham muốn [điểm quan trọng], những thói thất thường, các phăng te
di, những thứ tật. Cũng cần phải phân biệt rõ cái cốt yếu với cái ngẫu
nhĩ. Con người cần tới, không phải gạo hay khoai tây, mà là đồ ăn; không
phải gỗ hay than, mà là sự sưởi ấm. Cũng vậy đối với các nhu cầu của
tâm hồn, cần phải nhận biết những thỏa mãn khác nhau, nhưng tương đương,
hồi ứng với cùng các nhu cầu. Cũng cần phải phân định các thức ăn của
tâm hồn và các thứ thuốc độc, chúng, đôi lúc, có thể gây ảo tượng là
lương thực.
Sự thiếu vắng một nghiên cứu như thế buộc các chính phủ, khi nào chúng có những ý đồ tốt đẹp, phải loay hoay mò mẫm.
Sau đây là một số chỉ dẫn.
Trật tự
Nhu cầu thứ nhất của tâm hồn, nhu
cầu ở gần số phận vĩnh cửu của nó hơn cả, là trật tự, tức là một cấu tạo
quan hệ xã hội sao cho không ai bị buộc phải xâm phạm những bổn phận
nghiêm ngặt nhằm thực thi các bổn phận khác. Tâm hồn chỉ gánh chịu một
bạo lực tinh thần từ các hoàn cảnh bên ngoài trong trường hợp ấy. Bởi ai
chỉ bị ngăn thực thi một bổn phận bởi mối đe dọa cái chết hoặc nỗi đau
đớn có thể tảng lờ đi, và sẽ chỉ bị thương tổn nơi cơ thể. Nhưng người
nào ở tình thế nơi các hoàn cảnh quả thật biến những hành động có trật
tự trở nên bất tương thích thông qua nhiều bổn phận chặt chẽ, kẻ ấy,
chẳng thể nào tự bảo vệ mình trước điều đó, bị tổn thương trong tình yêu
cái thiện của anh ta.
Ngày nay, có một mức độ rất cao của mất trật tự và bất tương thích giữa các bổn phận.
Bất cứ ai hành động theo cách thức
nhằm làm tăng sự bất tương thích ấy lên đều là một kẻ gieo rắc mất trật
tự. Bất cứ ai hành động theo cách thức nhằm làm giảm nó đi là một nhân
tố của trật tự. Bất cứ ai, nhằm giản lược hóa các vấn đề, chối bỏ đi một
số bổn phận, trong lòng mình kẻ đó đã ký kết một liên minh với tội ác.
Thật không may ta không có phương
pháp để giảm bớt sự bất tương thích ấy. Thậm chí ta còn chẳng thể chắc
chắn vào việc một trật tự nơi mọi bổn phận đều tương thích với nhau
không phải là một hư cấu. Khi nghĩa vụ đi xuống mức của thực tế, một số
lượng các mối quan hệ độc lập bắt đầu hoạt tác, lớn đến mức sự bất tương
thích dường như nhiều khả năng hơn so với sự tương thích.
Nhưng ngày nào chúng ta cũng tận mắt
chứng kiến ví dụ của vũ trụ, nơi vô tận hành động cơ học độc lập cùng
hợp lại nhằm tạo lập một trật tự, nó, xuyên qua những biến tấu, luôn
luôn cố định. Vậy nên chúng ta yêu vẻ đẹp của thế giới, vì chúng ta cảm
thấy đằng sau nó sự hiện diện của cái gì đó tương đồng với sự thông thái
mà chúng ta những muốn sở hữu nhằm thỏa mãn hoàn toàn ham muốn cái
thiện của chúng ta.
Ở một mức nhỏ hơn, các tác phẩm nghệ
thuật thực sự đẹp mang đến ví dụ về các tổng thể trong đó các thành tố
độc lập cùng hợp lại, nhằm tạo lập một cái đẹp duy nhất.
Chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật chân thực, và còn hơn thế nhiều, sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thế giới, và lại còn hơn thế nữa, sự chiêm ngưỡng cái thiện xa lạ mà chúng ta khát khao hướng về có thể hỗ trợ chúng ta trong nỗ lực liên tục suy nghĩ tới trật tự con người, thứ phải là đối tượng đầu tiên của chúng ta.
Những kẻ gieo rắc bạo lực lớn cũng từng tự khích lệ bản thân thông qua việc nhìn nhận bằng cách nào mà lực cơ học, mù quáng, lại thống trị toàn vũ trụ.
Bằng cách nhìn thế giới tốt đẹp hơn so với bọn họ, chúng ta sẽ tìm ra một sự khích lệ lớn hơn, nếu chúng ta nhìn nhận bằng cách nào những lực mù quáng nhiều vô số là có giới hạn, được kết hợp lại thành một cân bằng, được dẫn dắt đến chỗ cùng hợp lại cho một nhất thể, thông qua một điều gì đó mà chúng ta không hiểu, nhưng chúng ta yêu và gọi là cái đẹp.
Nếu chúng ta không ngừng giữ cho
hiện diện trong tâm trí ý nghĩ về một trật tự con người đích thực, nếu
chúng ta nghĩ đến nó như đến một đối tượng mà ta phải dành cho sự hy
sinh hoàn toàn khi nào có cơ hội, thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh của
một con người bước đi trong đêm, không người dẫn đường, nhưng không
ngừng nghĩ tới hướng mà anh ta muốn theo. Đối với một lữ khách như thế,
có một niềm hy vọng lớn.
Trật tự ấy là nhu cầu đầu tiên, thậm
chí nó còn ở bên trên các nhu cầu đúng nghĩa. Để có thể suy nghĩ nó,
cần đến một hiểu biết về những nhu cầu khác.
Tính cách thứ nhất phân biệt các nhu
cầu với các ham muốn, những phăng te di với những tật, rồi thì lương
thực với thói tham lam hay thuốc độc, nằm ở chỗ các nhu cầu thì có giới
hạn, cũng như những đồ ăn tương ứng với chúng. Một kẻ hà tiện [Simone
Weil đặc biệt hay lấy ví dụ “kẻ hà tiện”] chẳng bao giờ có vàng cho đủ,
nhưng đối với mọi con người, nếu người ta đưa cho anh ta bánh mì một
cách thoải mái, rồi sẽ tới một thời điểm anh ta thấy đủ. Lương thực mang
tới sự đủ đầy. Cũng như vậy đối với các đồ ăn của tâm hồn.
Tính cách thức hai, gắn liền với
tính cách thứ nhất, nằm ở chỗ các nhu cầu tự lập thành trật tự theo
những cặp đối nghịch, và phải được kết hợp thành một cân bằng. Con người
cần lương thực, nhưng cũng cần khoảng cách giữa các bữa ăn; anh ta cần
sự ấm áp và mát mẻ, nghỉ ngơi và luyện tập. Cũng vậy đối với các nhu cầu
của tâm hồn.
Cái mà người ta hay gọi là *juste
milieu* thật ra là không thỏa mãn cả cái này lẫn cái kia trong số những
nhu cầu đối nghịch. Đó là một biếm họa của sự cân bằng đích thực, cái
nhờ đó các nhu cầu đối nghịch được thỏa mãn, tất tật, trong sự đầy của
chúng.
Tự do
Một thứ lương thực nhất thiết phải
có cho tâm hồn con người là tự do. Tự do, theo nghĩa cụ thể của từ này,
là một khả năng lựa chọn. Tất nhiên, phải là một khả năng thực. Ở mọi
nơi nào có cuộc sống chung, không thể tránh khỏi việc những quy định,
được áp đặt bởi lợi ích chung, giới hạn lựa chọn.
Nhưng tự do không phải ít nhiều lớn
tùy thuộc vào chuyện các giới hạn hẹp hơn hay rộng hơn. Nó có sự đầy
riêng trong những điều kiện không dễ đo lường bằng.
Những quy tắc cần phải đủ hữu lý và
đủ đơn giản để bất kỳ ai muốn và đồng thời sở hữu một năng lực chú tâm
[“attention” là một trong những khái niệm then chốt nhất trong tư tưởng
của Simone Weil] trung bình đều có thể hiểu, một mặt là tính hữu dụng mà
chúng tương ứng, mặt khác là các nhất thiết thực tế đã áp đặt chúng.
Chúng phải tỏa ra một uy quyền không bị xem như là xa lạ hoặc thù địch,
mà được yêu quý như thể thuộc về những người mà nó chỉ huy. Chúng cần
phải đủ ổn định, đủ độ ít, đủ mức chung, sao cho suy nghĩ có thể lĩnh
hội chúng một lần là xong, chứ không vấp vào chúng mỗi lần nào cần có
một quyết định.
Với các điều kiện ấy, tự do của
những người ý chí lành mạnh, dẫu bị giới hạn trong các sự biến, là hoàn
toàn trong ý thức. Bởi các quy tắc đã được nhập vào bản thân họ, những
khả năng bị cấm không hiện ra với suy nghĩ của họ và không cần bị đẩy
lui. Cũng vậy, thói quen, vốn dĩ được giáo dục in sâu, về việc không ăn
những gì gây cảm giác ghê tởm hay nguy hiểm không bị một người bình
thường cảm thấy như là một giới hạn cho tự do trong địa hạt ăn uống. Chỉ
trẻ con mới cảm nhận được giới hạn.
Những ai thiếu ý chí lành mạnh hay
vẫn còn nhiều tính cách trẻ con thì mới chẳng bao giờ được tự do nơi bất
kỳ trạng thái nào của xã hội.
Lúc nào các khả năng lựa chọn đã đủ
tới mức gây hại cho lợi ích chung, con người không có khoái thú về tự
do. Bởi họ cần đến, hoặc viện tới nơi trú ngụ của vô trách nhiệm, của
tính cách trẻ con, của sự thờ ơ, cái chốn trú ngụ nơi họ chỉ có thể tìm
thấy nỗi chán nản, hoặc cảm thấy bị đè nặng bởi trách nhiệm ở mọi hoàn
cảnh, do nỗi sợ gây hại cho kẻ khác. Trong trường hợp tương tự con
người, nhầm lẫn mà tưởng đâu rằng họ sở hữu tự do và cảm thấy rằng mình
không được hưởng nó, đi tới chỗ nghĩ rằng tự do không phải là một điều
tốt.
Sự vâng lời
Sự vâng lời là một nhu cầu sống còn
của tâm hồn con người. Nó có hai dạng: vâng lời những quy tắc đã được
thiết lập và vâng lời các con người được coi như là thủ lĩnh. Nó giả
định về sự nhất trí, không phải về phía mỗi mệnh lệnh nhận được, mà là
một sự nhất trí trao một lần là xong, chỉ với một lưu ý, nếu có: các đòi
hỏi của ý thức. Rất cần thiết chuyện nó được công nhận theo lối chung,
và trước hết bởi các thủ lĩnh, chuyện sự nhất trí chứ không phải nỗi sợ
bị trừng phạt hay mồi nhử phần thưởng tạo nên trong thực tế động lực
chính cho sự vâng lời, theo cách thức sự tuân phục chẳng bao giờ vương
chút đê hạ nào. Cũng cần được biết rằng những ai chỉ huy cũng phải vâng
lời; và rất cần thiết chuyện toàn bộ tôn ti được hướng về phía một mục
đích mà giá trị và thậm chí sự kỳ vĩ được tất cả mọi người cảm nhận, từ
cao nhất cho đến thấp nhất.
Sự vâng lời vốn dĩ là một món đồ ăn
cần thiết cho tâm hồn, bất kỳ ai bị tước mất nó đi một cách chung quyết
đều bị ốm. Vậy nên mọi tập thể được điều hành bởi tay một thủ lĩnh tối
cao không phải giải trình trước bất kỳ ai đều nằm trong tay một kẻ bị
bệnh.
Chính vì thế, nơi nào một người được
đặt cả đời ở chỗ đứng đầu tổ chức xã hội, ông ta phải là một biểu tượng
chứ không phải một thủ lĩnh, giống trường hợp của vua nước Anh [Simone
Weil rất hay lấy ví dụ từ nước Anh]; cũng cần làm sao để các quy định
hạn chế tự do của ông ta theo lối chặt chẽ hơn so với bất kỳ tự do của
người bình dân nào. Theo cách đó, các thủ lĩnh thật, dẫu là thủ lĩnh,
vẫn có ai đó ở bên trên họ; mặt khác họ có thể, mà tính chất liên tục
không bị ngắt đứt, được thay thế, và do vậy mỗi người được nhận về phần
nhất thiết phải có của sự vâng lời cho mình.
Những ai bắt quy thuận các đám đông
thông qua sự bó buộc và tàn nhẫn tước đi của họ cả hai thứ lương thực
sống còn, tự do và sự vâng lời; vì những đám đông ấy không còn quyền
năng trao sự nhất trí bên trong của họ cho uy quyền mà họ phải chịu
đựng. Những ai tạo thuận lợi cho một trạng thái các vật nơi mồi nhử của
lợi nhuận là động lực chính yếu đều cướp đi khỏi con người sự vâng lời,
vì sự nhất trí vốn dĩ là nguyên tắc của điều đó không phải một thứ có
thể bán đi.
Cả nghìn dấu hiệu cho thấy rằng
những con người của thời chúng ta từ lâu đã đói khát sự vâng lời. Nhưng
người ta đã lợi dụng điều đó để trao cho họ sự nô lệ.
Trách nhiệm
Nhân công làm việc tay chân ở vào một hoàn cảnh chẳng mấy tốt đẹp hơn.
Sự thỏa mãn nhu cầu này đòi hỏi một người phải thường xuyên ra các quyết định ở những vấn đề, lớn hoặc nhỏ, ảnh hưởng đến các lợi ích xa lạ với những lợi ích riêng của anh ta, nhưng là những thứ anh ta cảm thấy mình có liên can. Cũng cần có chuyện anh ta phải liên tục có các nỗ lực. Rốt cuộc anh ta cần phải có thể thông qua suy nghĩ mà tự nhìn nhận được toàn bộ công trình của tập thể mà anh ta là thành viên, kể cả những địa hạt nơi anh ta chẳng bao giờ có quyết định nào để ra hay ý kiến nào để có. Để được như vậy, người ta cần phải làm cho anh ta biết cái đó, phải yêu cầu anh ta quan tâm đến cái đó, khiến anh ta trở nên nhạy cảm với giá trị, tính hữu dụng, cũng như sự kỳ vĩ nếu có của nó, và phải khiến anh ta nắm bắt một cách rõ ràng cái phần mà anh ta dự vào đó.
Mọi tập thể, dẫu nó thuộc vào dạng
nào, mà không mang tới được các thỏa mãn ấy cho những thành viên của nó,
bị tì vết và phải được hoán cải.
Ở bất kỳ tính cách hơi mạnh nào, nhu
cầu về chủ định đều đạt tới mức nhu cầu về điều hành. Một cuộc sống địa
phương, của vùng, cường độ cao, rất nhiều công trình về giáo dục và
phong trào cho thanh niên, phải mang lại cho bất kỳ ai vốn dĩ không có
khả năng cho điều đó, cơ hội điều hành trong vòng một số đoạn đời của
người ấy.
Bình đẳng
Bình đẳng là một nhu cầu sống còn
của tâm hồn con người. Nó là sự công nhận rộng khắp, chung, có thật,
được biểu hiện theo đường lối thực bởi các thiết chế và phong hóa, rằng
cùng lượng tôn trọng và trọng thị được dành cho mọi con người, bởi vì sự
tôn trọng được dành cho con người đúng như vậy và không có các cấp độ.
Bởi thế, các khác biệt không tránh
khỏi giữa những con người không bao giờ được mang ý nghĩa về một khác
biệt về mức độ tôn trọng. Để chúng không bị cảm thấy như là mang ý nghĩa
đó, cần phải có một cân bằng nhất định giữa bình đẳng và bất bình đẳng.
Một kết hợp nhất định của bình đẳng
và bất bình đẳng được tạo lập nhờ sự bình đẳng về những khả năng. Nếu
bất kỳ ai cũng có thể tới được thứ hạng xã hội tương ứng với chức năng
mà anh ta đủ khả năng hoàn thành, và nếu giáo dục đủ mức rộng để chẳng
một ai bị tước đi mất năng lực nào chỉ bởi hoàn cảnh xuất thân, hy vọng
là giống hệt nhau đối với mọi đứa trẻ. Như thế, mọi con người là bình
đẳng trong hy vọng đối với mọi người khác, cho chính anh ta khi còn nhỏ,
cho các con của anh ta về sau này.
Nhưng kết hợp ấy, khi nó vận hành
một mình chứ không phải trong tư cách một thành tố giữa các thành tố
khác, không tạo lập một cân bằng và chứa đựng nhiều mối nguy lớn.
Trước hết, đối với một người ở vào
hoàn cảnh thấp và đau đớn vì điều đó, việc biết rằng hoàn cảnh của anh
ta bắt nguồn từ sự thiếu năng lực của chính anh ta, và việc biết rằng
tất cả mọi người biết điều này, không hề là một niềm an ủi, mà là một sự
nhân đôi nỗi chua cay; tùy theo các tính cách, một số có thể bị điều đó
hành hạ nặng nề, một số khác bị dẫn dắt đến tội ác.
Và rồi không thể tránh khỏi chuyện
trong cuộc sống xã hội sinh ra một thứ giống như cái bơm đẩy lên cao.
Kết quả của điều đó là một chứng bệnh xã hội, nếu một chuyển động xuống
không xuất hiện để tạo cân bằng với chuyển động lên. Trong chừng mực
thực sự là có thể chuyện một đứa trẻ, con nhà người hầu trang trại, một
ngày kia trở thành bộ trưởng, trong chừng mực ấy phải thực sự có thể
chuyện một đứa trẻ, con nhà bộ trưởng, một ngày kia trở thành người hầu
trang trại. Mức độ của khả năng thứ hai không thể là đáng kể nếu thiếu
một mức độ rất nguy hiểm của bó buộc xã hội.
Dạng bình đẳng đó, nếu chỉ mình nó
vận hành và không có giới hạn, mang lại cho cuộc sống xã hội một mức độ
trôi lỏng làm phân rã nó.
Có các phương pháp bớt thô thiển hơn
để kết hợp bình đẳng với khác biệt. Phương pháp thứ nhất là tỉ lệ. Tỉ
lệ được định nghĩa như là kết hợp của bình đẳng và bất bình đẳng, và
khắp nơi trong vũ trụ nó là thành tố duy nhất của cân bằng.
Áp dụng vào cân bằng của xã hội, hẳn
nó sẽ áp đặt cho mọi con người những trách vụ tương ứng với sức mạnh,
sự sung túc mà anh ta sở hữu, cùng các mối nguy tương ứng trong trường
hợp thiếu năng lực hay có lỗi lầm. Chẳng hạn, hẳn cần phải có chuyện một
ông chủ thiếu khả năng hay là thủ phạm gây ra một lỗi lầm đối với công
nhân của mình phải chịu đau đớn rất nhiều, cả trong tâm hồn lẫn thể xác,
hơn so với một nhân công thiếu khả năng, hoặc là thủ phạm gây ra một
lỗi lầm đối với ông chủ của anh ta. Thêm nữa, hẳn sẽ cần có chuyện mọi
nhân công biết rằng sự là như vậy. Điều này hàm ý, một phần, một sự tổ
chức nhất định của các mối nguy, và mặt khác, trong luật hình sự, một
quan niệm về trừng phạt nơi thứ hạng xã hội, như hoàn cảnh tăng nặng,
luôn luôn đóng vai trò ở một chừng mực rất rộng trong việc xác định tội.
Không chỉ vậy, sự thực thi các chức trách cao cấp phải chứa đựng các
nguy cơ cá nhân lớn.
Một cách khác để biến bình đẳng trở
nên tương thích với khác biệt là giật đi, chừng nào mà ta có thể, khỏi
những khác biệt mọi tính cách định lượng. Nơi nào chỉ có khác biệt về
bản tính, chứ không phải mức độ, thì không có bất kỳ bất bình đẳng nào.
Bằng cách làm cho tiền trở nên động
lực duy nhất hay gần như thế của mọi hành động, thước đo duy nhất hoặc
gần như thế của mọi điều, người ta đã đặt thuốc độc của bất bình đẳng ở
khắp mọi nơi. Quả đúng rằng sự bất bình đẳng ấy là động lực; nó không
buộc vào những con người, bởi tiền thì kiếm được và mất đi; chẳng vì thế
mà nó bớt phần có thực.
Có hai dạng bất bình đẳng, tương ứng
với đó là hai sự thúc đẩy khác nhau. Bất bình đẳng gần như ổn định,
giống như bất bình đẳng của nước Pháp cổ xưa, thúc giục sự sùng bái
những người ở trên - mà chẳng phải là không đi kèm một sự trộn lẫn của
căm ghét dồn nén - và sự tuân phục mệnh lệnh của họ. Bất bình đẳng hoạt,
có tính lỏng, thì thúc giục ham muốn vươn lên cao. Nó không gần bình
đẳng hơn so với dạng bất bình đẳng ổn định, và nó tệ hại ngang bằng.
Cách mạng 1789, bằng cách đặt bình đẳng lên trước, trên thực tế đã chỉ
tuyên dương sự thay thế một hình thức bất bình đẳng cho một hình thức
bất bình đẳng khác.
Càng có nhiều bình đẳng trong một xã
hội, càng bớt đi hành động của hai sự thúc đẩy liên hệ với hai hình
thức bất bình đẳng, và do đó cần các hình thức khác.
Bình đẳng lại càng lớn hơn bởi vì
những thân phận người khác nhau được xem như là, không phải cái này ít
hay nhiều hơn cái kia, mà chỉ đơn giản là khác. Sao cho nghề thợ mỏ và
nghề bộ trưởng chỉ là hai thiên hướng khác nhau, giống như thiên hướng
nhà thơ và thiên hướng nhà toán học. Sao cho những khó nhọc về mặt vật
chất buộc chặt vào thân phận của thợ mỏ được tính vào cho vinh dự của
những người gánh chịu chúng.
Trong thời gian có chiến tranh, nếu
một quân đội có tinh thần thích hợp, một người lính thấy sung sướng và
kiêu hãnh vì được ở trong lửa đạn chứ không phải ở tổng hành dinh; một
vị tướng sung sướng và kiêu hãnh vì số phận của trận đánh đặt lên suy
nghĩ ông ta; và cùng lúc người lính ngưỡng mộ vị tướng, còn vị tướng
ngưỡng mộ người lính. Một cân bằng như vậy tạo dựng một bình đẳng. Hẳn
sẽ có bình đẳng trong các điều kiện xã hội nếu ở đó có cân bằng ấy.
Điều này ngụ ý đối với mỗi thân phận có các coi trọng thích hợp với nó, và không phải những dối trá.
Tôn ti
Tôn ti là một nhu cầu sống còn của
tâm hồn con người. Nó được tạo lập nhờ một sự kính ngưỡng nhất định, một
lòng tận tụy nhất định đối với những người ở trên, được nhìn nhận không
phải nơi con người họ hay nơi quyền lực mà họ thực thi, mà như các biểu
tượng. Cái mà họ là biểu tượng cho là địa hạt nằm bên trên mọi con
người, mà biểu hiện tại thế giới này được tạo lập nhờ những bổn phận của
mỗi con người đối với đồng loại của anh ta. Một tôn ti đích thực giả
định rằng những người ở trên có ý thức về chức năng biểu tượng ấy và
biết rằng nó là đối tượng hợp thức duy nhất cho lòng tận tụy của những
người lệ thuộc họ. Tôn ti đúng nghĩa có hiệu quả đưa mỗi con người tới
cư ngụ về mặt tinh thần tại cái chỗ mà anh ta chiếm giữ.
Vinh dự
(còn nữa)
Simone Weil: Nặng và Thanh
- Get link
- Other Apps
Comments
Post a Comment