Thơ Mỗi Ngày




 Thơ Mỗi Ngày

Simic: Scribbled in the Dark  


    Note: Hai bài thơ sau đây, trong Master of Disguises, nhớ là dịch rồi, nhưng kiếm hoài không thấy.
    Bèn dịch lại:
        God never made a day as beautiful as today,
        Chúa chưa từng tạo ra 1 ngày đẹp đến như thế này: Bữa nay!

Đúng là điều Gấu đã từng khám phá ra!

Cái gì gì:
Tại sao trời mưa?

Tuổi Thiên tài

Gấu có tới ba cái truyện ngắn đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay, tính theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, trang VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel, theo nghĩa, chẳng có cái chó gì hết ở trong đó.

Quả thế thật. Đây là câu chuyện mà Gấu còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em mời ngồi bàn, ở hành lang căn nhà, một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi em ngồi cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ mình là những cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó trời mưa. Ra đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại sao trời mưa?
The Toad

It'll be a while before my friends
See me in the city,
A while before we roam the streets
Late at night
Shouting each other's names
To point out some sight too wonderful
Or too terrifying
To give it a name in a hurry.

I'm staying put in the country,
Rising early,
Listening to the birds
Greet the light,
And when they fall quiet,

To the wind in the leaves
Which are as numerous here
As the crowds in your city.

God never made a day as beautiful as today,
A neighbor was saying.

I sat in the shade after she left
Mulling that one over,

When a toad hopped out of the grass
And, finding me harmless,
Hopped over my foot on his way to the pond.

Con Cóc
[là cậu Ông Giời]

Nó sẽ là 1 lúc, trước khi bạn quí của Gấu
Nhìn thấy Gấu trong thành phố
Một lúc, trước khi chúng tớ lang thang phố phá
Khuya đêm
Ơi ới gọi tên nhau [cho đỡ nhớ!]
Chỉ cho nhau thấy một cảnh tượng thần sầu
Hay, thật đáng sợ
Để ban cho nó 1 cái tên, trong vội vã

Gấu lúc này đang ở bên ngoài thành phố
Dậy sớm
Nghe chim
Chào mừng ánh sáng
Và khi chúng im lặng
Bèn quay qua gió
Ở trong đám lá
Chúng mới nhiều làm sao
Như đám đông ở trong thành phố của bạn

Ôi, Chúa ơi!
Người chưa từng tạo ra một ngày đẹp như là ngày hôm nay
Một người hàng xóm nói
Gấu ngồi trong cái bóng sau khi bà ta bỏ đi
Lầu bầu lầu bầu
Khi một con cóc lóc lóc nhảy ra khỏi đám cỏ
Và, thấy Gấu vô hại
Bèn nhảy lên chân Gấu
Trên đường ra cái ao gần đó!


Summer Light

It likes empty churches
At the blue hour of dawn.

The shadows parting
Like curtains in a sideshow,

The eyes of the crucified
Staring down from the cross

As if seeing his bloody feet
For the very first time.
Ánh Sáng Mùa Hạ
Nó thít nhà thờ vắng hoe
Vào cái giờ xanh của rạng đông

Những cái bóng bèn lên đường
Như những bức màn trong 1 "sideshow"

Mắt của người bị đóng đinh thập tự
Nhìn dọc xuống cây thánh giá

Như thể nhìn thấy máu của mình ở dưới chân
Lần đầu,
Rất lần đầu
 
Charles Simic

 
Simic: Scribbled in the Dark


THE INFINITE

The infinite yawns and keeps yawning.
Is it sleepy?
Does it miss Pythagoras?
The sails on Columbus's three ships?
Does the sound of the surf remind it of itself?
Does it ever sit over a glass of wine
            and philosophize?
Does it peek into mirrors at night?
Does it have a suitcase full of souvenirs
            stashed away somewhere?
Does it like to lie in a hammock with the wind
            whispering sweet nothings in its ear?
Does it enter empty churches and light a single
            candle on the altar?
Does it see us as a couple of fireflies
            playing hide-and-seek in a graveyard?
Does it find us good to eat?

Vĩnh Cửu

Vĩnh Cửu ngáp và tiếp tục ngáp
Nó buồn ngủ ư?
Hay nhớ Pythagoras?
Ba con thuyền và những chuyến ra khơi của Kha Luân Bố?
Hay tiếng sóng gợi nhớ nó, về chính nó?
Nó đã từng ngồi bên 1 ly rượu vang
Và triết lý?
Đưa mắt nhìn mình, ở trong gương, vào ban đêm?
Có cái cà tạp đầy ứ kỷ niệm
Quăng ở đâu đó?
Thích nằm võng
Nghe gió thì thầm những hư vô ngọt ngào vào tai?
Vô 1 ngôi nhà thờ vắng hoe
Đốt ngọn nến cô đơn nơi bàn thờ?
Liệu nó có nhìn chúng ta như 1 cặp đom đóm
Chơi trò hú tim nơi nghĩa địa?
Hay là nó nghĩ hai đứa mình thịt ngon lắm, thử xực 1 phát xem sao?


IN SOMEONE'S BACKYARD

What a pretty sight
To see two lovers drink wine and kiss,
A dog on his hind legs
Begging for table scraps.

Ở sân sau nhà ai đó
Coi kìa, tuyệt làm sao
Cặp tình nhân, uống và hôn
Và con chó, ngồi lên chân
Chờ mẩu vụn.


THE ART OF HAPPINESS

Thanks to a stash of theatrical costumes
And their kindly owner,
An opportunity for this couple to brighten up
This dark and dreary day,

Cut a dash as they step out
Into the crowded street
Wearing powdered wigs,
Cross against the screeching traffic,
And go have lunch,
She looking like Marie Antoinette,
And he all in black,
Like her executioner or father confessor,

Watching the young French Queen
Splashing ketchup over her fries
With a wicked smile on her face,
While he struggles to balance the straw
That came with the Coke
On his nose and waits for her applause.

Nghệ thuật hạnh phúc

Nhờ giấu được những bộ đồ sân khấu
Và người chủ tốt bụng
Một cơ hội đã mở ra cho cặp vợ chồng,
Sáng hẳn lên
Hay, như Ngụy nói,
Đời lên hương
Trong một ngày âm u, ảm đạm như thế này.

Đi 1 đường huê dạng,
Và thế là cặp vợ chồng
Bèn nhập vô phố phường đông đúc
Đầu, tóc giả xịt phấn
Chúng sấn vô dòng xe cộ chát chúa
Chúng đi làm bữa trưa
Nàng, như Marie Antoinette
Chàng, đồ đen tuyền
Như tên sắp sửa chặt đầu nàng
Hay, vì linh mục xưng tội giờ phút chót.

Nàng, Nữ Hoàng Pháp trẻ măng
Chét nước cà tô mát lên mớ khoai chiên
Với nụ cười ma mị trên mặt
Trong khi chàng
Vật lộn 
Với cái ống hút
Ở trên mũi của chàng
Tới, cùng lúc với chai Cô Ca Cô La
Và đợi nàng
Ban cho 1 chầu vỗ tay!


THE NIGHT AND THE COLD

Torturers with happy faces,
You've made a prisoner strip naked
And stand strung with electric wires
Like a Christmas tree
In a department store window
Next to a smiling family gathered
Around a fake brick fireplace.

And as for you, men and women
Sprawled in dark doorways,
Along this street I'm walking,
Stuff your clothes with more newspaper,
The night will be long and cold.
 Đêm và Lạnh
Những tên Cớm VC, chuyên tra tấn người
Với những bộ mặt hạnh phước, vui vẻ
Tụi mi bắt tù nhân Ngụy cởi trần cởi truồng
Treo tòng teng bằng những sợi dây điện
Nơi kính cửa sổ của một gian hàng
Như cây Giáng Sinh
Kế bên nụ cười tươi cười của một gia đình
Bên cái lò sưởi giả bằng gạch, tất nhiên, cũng giả!

Còn các người, các người, đờn ông và đờn bà
Nằm la liệt ở những hành lang tối thui
Dọc con phố Gấu bèn đang lang thang tản bộ,
Nhồi nhét quần áo, với đủ thứ giấy báo, nhựt trình
Đêm VC thì sẽ dài và sẽ lạnh lắm đấy!

Note: Bài thơ trên phải đi cùng với bài thơ sau đây, cũng có trong tập thơ mới mua, thì mới đã!

Children’s fingerprints
On a frozen window
Of a small schoolhouse.
An empire, I read somewhere,
Maintains itself through
The cruelty of its prisons.
Tháng Giêng
Vân tay con nít trên cửa sổ giá lạnh
Của một ngôi trường nhỏ
Một đế quốc, Gấu Cà Chớn đọc đâu đó
Tự gìn giữ, chính nó
Bằng sự độc ác của những nhà tù của nó 
[Ui chao, đọc bài thơ này, thì GCC bèn THNM, mà ngộ ra rằng, nhờ cái thứ giáo dục, ngày hôm nay, em bắn rớt ba Thần Sấm, giết bốn tên Mẽo, chôn sống năm tên Ngụy, mà xứ Mít VC, không chỉ tự gìn giữ nó, mà còn đánh thắng được cả hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới]


THE MESSAGE

Take a message, crow, as the day breaks.
And find the one I hold dear,
Tell her the trees are almost bare
And the nights here are dark and cold.

Learn if she lights the stove already,
Goes to bed naked or fully dressed,
Sips hot tea in the morning, watching
Neighbors' children wait for a school bus.

Tell her nothing fills me with more sorrow,
Than the memory of seeing her
Covering her face with her hands
When she thought she was alone.

Help me, bird, flapping from tree to tree
And calling in a voice full of distress,
To some fond companion of yours
You'd like to see flying by your side.

Thông điệp

Này, quạ, mang giùm Gấu bức thông điệp này
Khi ngày ló dạng
Tới người Gấu thươn ơi là thươn.
Nói với nàng, cây gần như trụi sạch lá
Và đêm ở đây, tối, lạnh làm sao

Coi coi nàng đã đốt lò chưa
Nàng lên giường khỏa thân, hay là với áo ngủ
Buổi sáng, nhâm nhi trà,
Ngắm trẻ hàng xóm lên xe buýt tới trường 

Nói với nàng, Gấu buồn ơi là buồn
Vì nhớ
Nàng đã từng lấy tay ôm mặt
Khi nghĩ rằng nàng cô đơn

Hãy giúp ta
Bay, từ cây này qua cây khác
Gọi, thật là thê lương
Một bạn đường
Sóng đôi bay cùng.

BIRDS KNOW
There's a pond, a man said,
Far back in these woods,
Birds and deer know about
And slake their thirst there

In a water so cold and clear,
It's like a brand-new mirror
No one had a chance to look at,
Save, perhaps, that little boy,

Who went missing years ago,
And may've drowned in it,
Or left some trace of himself
Playing along its rocky edges.

I better go and find out,
This very night, I said to myself,
With my mind running wild,
And the moon out there so bright.

Chim biết

Có cái ao, một người đàn ông nói
Ở mãi tít bìa rừng
Chim và hươu nai biết
Và vẫn thường tới đó thoả cơn khát

Nước mới lạnh mới trong làm sao
Giống như là cái gương mới tinh
Chẳng ai có cơ may soi mình
Ngoại trừ chú bé đó

Chú bé mất tích nhiều năm trước đây
Chắc là chết đuối ở trong ao
Hay, để lại vài dấu vết
Khi chơi đùa với mấy bờ đá.

Tớ có lẽ nên đến đó coi sao
Trong cái đêm thật là đêm như đêm nay
Tớ bảo mình như vậy
Với cái đầu hoang dại
Và trăng đêm nay thì mới sáng làm sao!


STRAY HEN

The hounds of hell are barking again,
Better look for a tree to climb,
Befriend a rat slipping into a sewer,
The kite someone set free in the sky.

The watermelons we saw last summer
Falling out of a truck and breaking
Into bloody chunks on the highway,
May have already foretold our story.

Stray hen, is what they call our neighbor,
The one always looking lost,
Always clucking about something
And crossing herself as if she were in church.

I fear she hears those hounds barking,
And so does that man I see every night
In the picture window of his home
Sitting with a lit candle at a long table.
Gà mái lạc
Chó địa ngục lại sủa
Tìm cái cây để mà trèo lên thôi
Làm bạn với con chuột lọt vô cống
Cái diều ai đó thả rông lên trời

Những trái dưa hấu chúng ta nhìn thấy mùa hè năm rồi
Rớt ra khỏi cái xe tải
Bể ra làm đôi làm ba
Máu me tung toé trên xa lộ
Chúng, chính chúng
Có thể đã tiên tri câu chuyện xứ Mít của chúng ta

Gà mái lạc
Đó là cái “mĩ từ” mà lũ đàn ông Bắc Kít
Gọi một cái hĩm của xứ của chúng
Cô hàng xóm lúc nào cũng như là thất lạc
Luôn luôn cục ta cục tác một điều gì đó
Làm dấu thánh giá
Như thể đang ở trong nhà thờ

Gấu nghi cô nghe tiếng chó địa ngục sủa
Cũng nghe, là cái gã đờn ông Gấu nhìn thấy hàng đêm
Từ bức hình cửa sổ căn nhà của người đó
Ngồi, với cây đèn cầy thắp sáng
Nơi một cái bàn dài.

Note: Nhân nói chuyện facebook, hĩm Bắc Kít, mời độc giả Tin Văn đọc Blog NL viết về Cung Oán

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/05/tro-ve-co-dien-cung-oan.html?showComment=1497981833317

Bài viết này quá thần sầu. Lâu lắm mới được đọc 1 bài viết như vầy

NQT

Đọc lại bài này sởn cả gai ốc. Rùng mình vì những đoạn trích thơ, rùng mình cả vì cái kết luận cuối bài.
Với GCC, đoạn viết về Nguyễn Du quá tới:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là...  gà mái lạc!


MYSTERY THEATER
Bald man smoking in bed,
Naked lightbulb over his head,
The shadow of his cigar
Next to him on the wall,
Its long ash about to fall
Into a pitch-dark fishbowl.
Tuồng Bí Mật
Đầu trọc nằm hút thuốc lá trên giường
Cái bóng đèn trộc lốc trên đầu hắn ta
Cái bóng điếu xì gà
Kế hắn ta, trên tường
Mẩu tàn thuốc, dài ơi là dài
Hăm he rớt
Xuống cái chậu cá, đen ơi là đen.

Thơ trên trang Tinvan (tanvien.net)
DESCRIPTION
It was like a teetering house of cards,
A contortionist strumming a ukulele,
A gorilla raging in someone's attic,
A car graveyard frantic to get back
On the interstate highway in a tornado,
Tolstoy's beard in his mad old age,
General Custer's stuffed horse ...
What was? I ask myself and have no idea,
But it'll come to me one of these days.
-Charles Simic
Bác Gúc dịch:
Dọa
Giống như ngôi nhà phập phù dựng bằng các lá bài
như người nhào lộn gảy đàn ukulele
như con khỉ đột đại náo tầng áp mái
như cái xe nát cuồng phóng hòng trở lại trên xa lộ liên bang
chòm râu của Tolstoy trong cảnh già rồ dại
đàn chiến mã (của tướng Custer) nhồi bông
là cái gì? Tôi tự hỏi và tuyệt không một ý tưởng
Nhưng nó sẽ đến lúc nào đó trong những lúc này


It was like a teetering house of cards,
A contortionist strumming a ukulele,
A gorilla raging in someone's attic,
A car graveyard frantic to get back
On the interstate highway in a tornado,
Tolstoy's beard in his mad old age,
General Custer's stuffed horse ...
What was? I ask myself and have no idea,
But it'll come to me one of these days.

-Charles Simic

NYRB Nov 5, 2015

Miêu tả

Như ngôi nhà bằng những lá bài phập phù
Như tay nhào lộn bập bùng cây đàn ukule
Như con khỉ đột phát cuồng trên căn gác xép nơi mái nhà
Như cái xe nát nơi bãi tha ma phát rồ muốn trở lại
Xa lộ liên bang, trong cơn cuồng phong,
Chòm râu Tolstoi trong tuổi già khùng
Chú ngựa nhồi bông của tướng Custer…

Cái gì? Tôi tự hỏi và không có ý tưởng
Nhưng nó sẽ tới với tôi vào một trong những ngày này


SWEPT AWAY

Melville had the sea and Poe his nightmares,
To thrill them and haunt them,
And you have the faces of strangers,
Glimpsed once and never again.

Like that woman whose eye you caught
On a crowded street in New York
Who spun around after she went by you
As if she had just seen a ghost.

Leaving you with a memory of her hand
Rising to touch her flustered face
And muffle what might've been something
Being said as she was swept away.

-Charles Simic

NYRB Nov 2015

Cuốn trôi đi
Melville có biển và Poe, những ác mộng
Để run rẩy và lai vãng,
Và nếu mi có bộ mặt người xa lạ,
Nhoáng, 1 phát, và đừng bao giờ, nữa, nhé!

Như thiếu phụ mà mi tóm được mắt của em
Trên con phố đông người ở New York
Em lúng ta lúng túng khi bị dòng người xô dạt về phía mi
Như thể nhìn thấy một bóng ma

Bỏ mặc mi với tí ti hồi nhớ bàn tay của nàng
Cố vươn lên để, biết đâu đấy, chạm được khuôn mặt bối rối của em
Và chết sững, biến thành câm,
Như thể nghe em nói 1 điều gì đó
Trước khi bị dòng đời cuốn trôi đi

Cái gì gì, kiếp trước ta có nợ nần chi đâu mi
Mà sao kiếp này mi đòi kiếp khác
Mà ta đã biểu, đừng “run rẩy và lai vãng” bên ta nhiều
Khi ta đi rồi, mi sẽ khổ.


Note: Mấy bài thơ trên, đã post trên Tin Văn, có trong cuốn thơ mới mua.

Hai bài thơ sau đây, chắc là chưa:


THE CRICKET ON MY PILLOW
His emaciated head and legs
Speak of long fasts, frantic prayers,

Dark nights of the soul,
And other unknown torments,

Before he found refuge in our home
From that madman out there

Who threw over his bed
A heavy blanket of snow.

Con dế trên gối tớ
Đầu và chân hốc hác của chú dế
Lèm bèm về
Những lần ăn chay dài,
Những lời cầu nguyện khùng,

Những đêm u tối của linh hồn
Và những dằn vặt ba vạ khác

Trước khi chú kiếm ra nơi trú ẩn
Trong nhà GCC, tất nhiên!
Thoát khỏi tên khùng điên đó, ở bên ngoài kia

Ai ném lên giường của chú
Chiếc mền tuyết nặng ơi là nặng



IN THE COURTROOM
The judge appears to be asleep:
His heavy eyelids are lowered
And his black glasses rest
On a thick stack of documents. 
Take your shoes off as you enter,
So as not to disturb his rest,
But keep your white socks on.
The floor of the courtroom is cold. 
What's left of the fading daylight
Is about to make its quiet exit,
Leaving the darkness in our souls
To do what it damn pleases here.
Tại phòng xử án
Ông tòa coi bộ ngủ
Cặp mi dày sụp xuống
Cặp kính đen nằm ngơi
Trên đống hồ sơ dày cộm
Tháo giầy ra rồi hãy vô
Như thế, không làm rộn giấc của Người
Nhớ đừng cởi đôi vớ trắng
Sàn phòng xử thì lạnh
Còn lại chi
Khi ngày tắt lịm dần?
Bèn cắp đít ra về
Bỏ mặc cái đen thui
Của linh hồn lũ mi
Muốn làm gì hài lòng
Thì làm!

MISSED CHANCE
One afternoon looking for a shortcut,
I found myself on a street
That I' d never known was there,
And might've gone no further-
With my foot arrested in midstride 
Before a dogwood tree in flower,
Towering in someone's yard
And a few brightly colored toys
Scattered along their driveway,
But no child or anyone else in sight. 
One caged bird chirping in a window
Who may've been in on the secret?
I didn't wait to find out, but hurried away
Wherever it seemed more important
For me to show my face that day
Cơ may bỏ lỡ
Một buổi xế trưa, tính đi tắt đường
Tớ bỗng thấy mình trên con phố lạ
Chưa từng gặp bao giờ
Và, vô phương đi xa
Với cú hỏng giò.
Trước một bụi cây đang trổ bông,
Vượt lên trên,
Là khu vườn của một ai đó
Mấy đồ chơi sặc sỡ
Rải rác trên lối đi
Nhưng không thấy bóng 1 chú bé con nào
Hay, của một ai.
Một chú chim chíp chíp
Ở trong 1 cái lồng ở một khung cửa sổ
Liệu có ai lấp ló đâu đây?
Tớ đếch muốn tìm cho ra
Và, thay vì vậy, thì chuồn
Chuyện, “tẩu như phi”
Xem ra quan trọng hơn
So với việc chường mặt ra
Vào 1 ngày như thế này!


THE LOVER
When I lived on a farm I wrote love letters
To chickens pecking in the yard,
Or I' d sit in the outhouse writing one to a spider
Mending his web over my head.
That's when my wife took off with the mailman.
The neighbors were leaving, too.
Their sow and piglets squealing
As they ran after the moving truck,
And even that scarecrow I once tied to a tree
So it would have to listen to me.

Người Tìn

Khi sống ở một trang trại
Tớ bèn viết thư tìn
Cho mấy chú gà con, đang mổ lóc chóc ở ngoài sân
Hay là ngồi ở nhà xí
Viết thư tìn
Cho con nhện
Đang vá lưới trên đầu
Khi vợ tớ bỏ tớ, theo tên bưu tá
Hàng xóm cũng bỏ tớ
Con heo nái và lũ heo con kêu eng éc
Khi chạy theo chiếc xe tải
Ngay cả thằng người rơm!
Có lần tớ trói nó vô 1 cái cây,
Thì chỉ có mỗi cách đó
Để bắt nó nghe tớ đọc thư tìn.

THE SAINT

The woman I love is a saint
Who deserves to have
People falling on their knees
Before her in the street
Asking for her blessing.
Instead, here she is on the floor,
Hitting a mouse with a shoe
As tears run down her face.
THE SAINT 
Người đờn bà mà tớ “êu”, là một thánh nữ
Nàng xứng đáng để mọi tên đực quỳ trước nàng
Ngay trên đường phố
Để nàng ban cho tí ân sủng
Ôi chao, thay vì vậy,
Thì nàng, vào lúc này, cầm chiếc giày
Đập một chú chuột con, trên sàn nhà
Nước mắt ràn rụa trên mặt.



 
http://www.babelmatrix.org/works/es/Borges,_Jorge_Luis-1899/Carnicer%C3%ADa/en/37604-Butcher_shop

Butcher shop

Lower than a lupanar
the butcher shop signs the street insultingly.
On the lintel
a blind cow's head
rules the coven
of final marble and gaudy flesh
with an idol's remote majesty.
[Mulrooney, Christopher]

J.L. Borges

AT THE BUTCHER'S

Meaner than a house of prostitution
the meat market flaunts itself in the street like an
insult.
Above the door
the head of a steer in a blind-eyed stare
watches over the witches' Sabbath
of flayed flesh and marble slabs
with the aloof majesty of an idol.
[Norman Thomas di Giovanmi]

"Lộn(g) dịch":
Ở nhà HPNT

Bần tiện hơn cả nhà thổ
Phiên chợ thịt người
Ánh lên lời nguyền rủa của những nạn nhân Tết năm đó
Ở bên trên cửa
Cái đầu bò mù
Đưa mắt nhìn xuống Ngày Hội Máu của VC
Bằng 1 cái nhìn cao sang, quyền quí
Của những vì vua chúa thời nhà Nguyễn.

Compass

Every single thing becomes a word
in a language that Someone or Something, night and day,
writes down in a never-ending scribble,
which is the history of the world, embracing

Rome, Carthage, you, me, everyone,
my life, which I do not understand, this anguish
of being enigma, accident, and puzzle,
and all the discordant languages of Babel.

Behind each name lies that which has no name.
Today I felt its nameless shadow tremble
in the blue clarity of the compass needle,

whose rule extends as far as the far seas,
something like a clock glimpsed in a dream
or a bird that stirs suddenly in its sleep.
-A.R.

J.L. Borges

UNE BOUSSOLE
A Esther Zemborain de Torres.
Choses sont mots. Quelqu'un - mais qui, mais quoi ? -
Nous écrit : cette incessante graphie
Inextricable et qui ne signifie
Rien, c'est l'histoire humaine. En ce convoi

Passent Carthage et Rome, et moi, lui, toi,
Mon désespoir d'être cryptographie,
Hasard, rébus - mon impensable vie,
Cette Babel qui s'é
cartèle en moi.

Mais par-delà la parole ou le nombre
Un reste attend. Je sens planer son ombre
Sur cet acier léger, lucide et bleu

Qui cherche un point où l'océan fait trêve ;
Presque une montre entr'apercue en rêve,
Presque un oiseau qui dort et tremble un peu.

La bàn
Mọi vật đơn trở thành một từ
Trong một ngôn ngữ mà Ai Đó, hay Điều Đó, ngày đêm
Viết xuống một bản văn chẳng bao giờ chấm dứt
Gọi là lịch sử thế giới, ôm trong nó

La Mã, Carthage, bạn, tôi, mọi người
Đời Gấu, không làm sao hiểu nổi, cơn nhức nhối,
Là niềm bí ẩn, tai nạn, và thai đố
Và tất cả những ngôn ngữ chẳng thứ nào chịu được thứ nào của Babel

Sau mỗi tên, nằm, mỗi
không tên
Bữa nay Gấu cảm thấy cái bóng không tên của nó run rẩy
Trong cái sáng sủa màu xanh của cây kim của cái la bàn

Luật của nó thì vươn xa thật xa như những biển xa
Một điều gì như cái đồng hồ thấp thoáng trong giấc mơ
Hay một hải âu bất thình lình run run trong giấc ngủ của nàng



My Beloved
after D. Khrams

In the fine print of her face
Her eyes are two loopholes.
No, let me start again.
Her eyes are flies in milk,
Her eyes are baby Draculas.
To hell with her eyes.
Let me tell you about her mouth.
Her mouth's the red cottage
Where the wolf ate grandma.
Ah, forget about her mouth,
Let me talk about her breasts.
I get a peek at them now and then
And even that's more than enough
To make me lose my head,
So I better tell you about her legs.
When she crosses them on the sofa
It's like the jailer unwrapping a parcel
And in that parcel is a Christmas cake
And in that cake a sweet little file
That gasps her name as it files my chains.

Charles Simic

Người êu dấu của Gấu
theo D. Khrams

Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của em,
Cặp mắt là hai lỗ châu mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai con ruồi chết đuối trong ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!
Thôi, kệ cha cặp mắt em mà lũ Mít chuyên mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ của tâm hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng là căn lều
Nơi chó sói làm thịt bà nội của cô bé quàng khăn đỏ, cháu ngoan Bác Hồ
A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp dzú của em
Lúc này, lúc nọ, con mắt lé của Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế, mà Gấu xém điên cái đầu!
Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp cẳng của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái xô pha,
Thì chẳng khác gì tên quản giáo mở gói quà
Trong gói quà có cái bánh ngọt
Trong cái bánh ngọt, cái giũa xinh xinh
Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh cổ Gấu Cà Chớn

Hà, hà!

Paradise

In a neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the city burned in midsummer heat;
Where a lady barber who called herself Cleopatra
Wielded the scissors of fate over my head
Threatening to cut off my ears and nose;
Where a man and a woman went walking naked
In one of the dark side streets at dawn.
I must be dreaming, I told myself.
It was like meeting a couple of sphinxes.
I expected them to have wings, bodies of lions:
Him with his wildly tattooed chest;
Her with her huge, dangling breasts.
It happened so quickly, and so long ago!
You know that time just before the day breaks
When one yearns to lie down on cool sheets
In a room with shades drawn?
The hour when the beautiful suicides
Lying side by side in the morgue
Get up and walk out into the first light.
The curtains of cheap hotels flying out of windows
Like seagulls, but everything else quiet….
Steam rising out of the subway gratings….
Bodies glistening with sweat ...
Madness, and you might even say, paradise!

Charles Simic

Thiên Đàng

Trong 1 khu xóm có thời được gọi bằng cái nick, Nhà Bếp của Địa Ngục
Nơi một người ăn xin, vỗ ngực xưng tên, ta chơi cây vĩ cầm Nero
Nơi thành phố cháy bỏng cái nắng giữa hè;
Nơi bà chủ tiệm làm tóc tự gọi mình là Cleopatra
Khuơ khuơ cây kéo số mệnh trên đầu Gấu
Hăm, ta sẽ thiến tai và mũi, và có thể, 1 cái gì đó nữa, của mi!
Nơi một đấng đàn ông và một cô nường tản bộ, cả hai trần như nhộng
Tại một con phố tôi tối, vào lúc rạng đông.
Mi đúng là đang mớ, Gấu bảo Gấu
Đúng là như gặp một cặp nhân sư
Gấu đã mong, họ có cánh, và có mình, sư tử
Chàng, ngực trạm trổ hoang dại
Nàng, vú cực bự đong đưa
Chuyện xẩy ra thật lẹ, và cũng lâu lắm rồi, từ thuở Diễm Xưa....
Bạn biết, thời gian đó, ngay trước rạng đông
Khi con người thèm ngả lưng xuống những chiếc khăn trải giường mát lạnh
Trong 1 căn phòng, những chiếc mành mành đã được kéo xuống
Đúng thời khắc mà những cái chết đẹp đẽ vì tự vận
Nằm song song bên nhau trong nhà xác,
Bèn thức dậy, bước ra ngoài, nhập vào tia sáng đầu tiên
Những bức rèm của những khách sạn rẻ tiền bay ra khỏi cửa sổ
Như những con hải âu, nhưng mọi thứ, mọi vật khác thì đều êm ả…
Hơi nước bốc lên từ những lưới sắt đường xe điện ngầm …
Những cơ thể lấp lánh mồ hôi…
Khùng điên, vậy mà bạn dám biểu, thiên đàng!
SCRIBBLED IN THE DARK
Sat up   
Like a firecracker     
In bed,                        
Startled                    
By the thought         
Of my death.  
            *         
Hotel of Bad Dreams.            
The night clerk         
Deaf as a shoe brush.
            *         
Body and soul          
Dressed up   
As shadow puppets,   
Playing their farces  
And tragedies        
On the walls of every room.
*                     
Oh, laggard snowflake
Falling and melting
On my dark windowpane,
Eternity, the voiceless,
Wants to hear you
Make a sound tonight.
*
Softly now, the fleas are awake.
Charles Simic: The Lunatic

Quọt quẹt trong bóng tối
Bật dậy
Như cây pháo
Ở trên giuờng
Ngỡ ngàng
Với ý nghĩ
Ơ kìa, mình chết
*
Khách sạn của những giấc mơ tồi
Gã nhân viên ca đêm
Điếc đặc, như cái bàn chải đánh giầy
*
Hồn & xác
Ăn vận như bóng những con rối
Chơi trò hề
Và bi kịch
Trên tường của mọi căn phòng.
*
Ôi, những bông tuyết muộn
Rớt xuống, đông lại trên cửa sổ tối thui của tôi
Vĩnh cửu, câm
Muốn mi làm cái gì
Nghe lục cà lục cục đêm nay
*
Nhè nhẹ, nhè nhẹ
Những con bọ chét thức giấc.


[from The Lunatic]

Tập thơ mới nhất của Simic, 2017. Gần như quá nửa trong đó, đã đăng trên Tin Văn.

Simic: Scribbled in the Dark

SCRIBBLED IN THE DARK
A shout in the street.
Someone locking horns with his demon.
Then, calm returning.
The wind tousling the leaves.
The birds in their nests
Pleased to be rocked back to sleep.
Night turning cool.
Streams of blood in the gutter
Waiting for sunrise. 
Nguệch ngoạc trong đêm
Một tiếng la ngoài phố
Một người nào đó cà khịa với con quỉ của hắn
Rồi thì là im ắng trở lại.
Gió giằng co với những chiếc lá.
Chim ở trong tổ
Làm ơn lúc lắc nhè nhẹ
Ru giấc ngủ trở lại
Đêm trở lạnh
Máu sùng sục ở trong mạch
Đợi mặt trời mọc.

Charles Simic

HISTORY

Our life stories are scary and droll,
Like masks children wear on Halloween
As they go from door to door
Holding the little ones by the hand
In some neighborhood long torn down,

Where people ate their dinners
In angry silence or quarreling loudly,
When there was a knock on the door,
A soft knock a shy boy makes
Dressed in a costume his mother made.

What's this you're wearing, kid?
And where did you get that mask?
That made everyone laugh here
While you stood staring at us,
As if you knew already we were history.
Chuyện
Chuyện đời chúng ta, hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào

Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may

Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là...  chuyện



Điểm cuốn tiểu sử Milosz. Tin Văn sẽ tóm tắt bài viết.

GCC nghĩ, Milosz ảnh hưởng từ Simone Weil, như Camus. Nhưng người điểm cuốn tiểu sử của ông cho rằng Milosz giống [những nhân vật của] Camus, và người ảnh hưởng lên ông là Conrad.
Quái thật, vì Conrad là thầy của Graham Greene, theo GCC và 1 số nhà phê bình văn học.
Miłosz was a good man, but, like the heroes of the novels of Albert Camus (whom he admired and resembled), he was no saint. A number of affairs sustained him during his marriage, and he was absent for much of the upbringing of his sons (one of whom became seriously mentally ill). With his Lithuanian and Polish background, and his fluency in many languages (along with Lithuanian and Polish we must add Russian, French and an English competent enough for him to be his own translator), he was immune to any strong national or ideological pressures: he had left-wing sympathies but loathed dictatorship; a freethinker, he came gradually to see belief in a Christian God as indispensable to a sense of freedom and purpose. His progress somewhat resembles that of T S Eliot, but Eliot’s hell was private and Miłosz’s was public. Miłosz admired Eliot’s poetry, but understandably despised the self-indulgence of The Cocktail Party.
If anyone influenced Miłosz, it was Joseph Conrad, and one of the many merits of Andrzej Franaszek’s biography is that it reminds us of Conrad’s importance as a Polish essayist and as a guide to how men of goodwill can act in an evil world. Miłosz did not hate Russia with Conrad’s single-mindedness (as in Under Western Eyes), but he saw tsarist and Soviet Russia in the same light as him. Conrad also taught Miłosz, as someone who had likewise experienced the Heart of Darkness, to see life as an honourable defeat. Perhaps it would have been helpful if Franaszek had also considered Miłosz’s status as the senior figure in a trio of poets – the others being the Lithuanian Tomas Venclova (still alive today) and the Russian Joseph Brodsky – who emerged as defectors from communist Europe to achieve even greater success in American exile and who interacted with one another in a way rarely seen among poets in the 20th century. Miłosz’s sibilant Polish, Catholic background and Polish romanticism may seem far removed from Venclova’s highly accented but mellifluous Lithuanian and obsession with Greek mythology, and from Joseph Brodsky’s frivolous paradoxes and wildly inventive, often song-like Russian, but these three poets had much in common. They all made the best of exile, and of the USA and its universities in particular, with gratitude, eschewing the scorn shown by Nabokov and Solzhenitsyn. They all revered W H Auden and, like him, persisted with poetry, even though they realised it doesn’t make anything happen. In that hopeless fight, they are the three musketeers of verse.
It took Franaszek ten years to compose this life of Miłosz, and Aleksandra and Michael Parker another six to translate it. The result is a classic of the genre: a biography based on interviews and exhaustive documentary research. It is tolerant, perceptive, beautifully written and utterly objective. It is also an effective critical study, containing generous excerpts of Miłosz’s writing that make it almost an anthology of his poetry and essays (Miłosz’s fiction is perhaps of a lower order). To achieve greatness in Polish verse is no mean feat: the language lacks the strong beat of English and Russian and the subtle vowels of French. It suffers, even more than English, from awkward consonant clusters; its peculiarity is a monstrous proliferation of sibilants and chuintantes that can make a poem sound like a scratched wax recording. The poet must achieve, like the French with alexandrines, rhythmic effects by subtly breaking up the line and avoiding inflectional rhymes. Miłosz was such a fine observer of the world and recollector of experience that his imagery alone qualifies as poetry. His syntax is so clear that the most profound thoughts are immediately perceptible, so that he is less at the mercy of translation than other poets.
Milosz Unbowed




Tập thơ mới nhất của Simic, 2017. Gần như quá nửa trong đó, đã đăng trên Tin Văn.
Cherry Pie
If it’s true that the devil has his finger
In every pie, he must be waiting
For the night to fall, the darkness to
Thicken in the yard, so we won’t see him
Lick the finger he dipped in your pie,
The one you took out of the oven, my love,
And left to cool by the open window.

—Charles Simic

Bánh Anh Đào

Nếu đúng là quỉ có ngón tay của nó
Ở trong mọi cái bánh anh đào
Nó sẽ phải đợi đêm xuống
Ngoài vườn tối thật tối
Như thế bạn sẽ không thể nhìn thấy nó
Thế là nó bèn liếm thật sâu vào cái bánh của bạn
Cái bánh mà bạn lấy ra khỏi lò
Và để ở cửa sổ,
Để cho nó nguội lạnh đi
All Gone into the Dark
Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese? 
Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?

Rồi tất cả cũng đi vào đêm tối
Ông linh mục mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những người chết mới tới?

Charles Simic

LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010

Post 1 bài, chưa, brand new!
THE MOVIE 
My childhood, an old silent movie.
O, winter evenings
When Mother led me by the hand
Into a darkened theater
Where a film had already started-
Like someone else's dream
Into which we happened to drop in- 

With a young woman writing a letter
And pausing to wipe her eyes
In a room looking out on some harbor
And a bird sitting quietly in her cage,
No one was paying any attention to,
Nor to the white ship on the horizon,
Perhaps drawing closer, perhaps sailing away. 

It was an occupied city, I forgot to say.
We trudged our way home
Bundled up heavily against the cold,
Keeping our eyes to the ground
Along the treacherous, dimly lit streets.


Phim
Tuổi thơ của tớ, một cuốn phim câm, cũ
Ôi, những buổi tối mùa đông
Khi mẹ tớ cầm tay tớ
Dẫn vô một rạp hát tối thui
Nơi phim đã khởi sự chiếu đã đời rồi –
Giống như 1 giấc mơ của một ai đó
Mẹ con tớ may rủi thế nào, bèn lọt vô –
Với một người đờn bà ngồi viết thư
Và ngưng, để chùi mắt
Trong 1 căn phòng nhìn ra 1 bến cảng nào đó
Và 1 con chim lặng lẽ đậu trong 1 cái lồng
Chẳng ai để ý bất cứ để ý gì
Cái con tầu trắng ở chân trời thì cũng thế
Chẳng biết nó đi đâu
Có lẽ nó tới gần
Có lẽ nó bỏ đi xa
Đó là 1 thành phố bị chiếm đóng
Tớ xém quên chi tiết thần sầu này
Mẹ con tớ mệt mỏi lết về nhà
Co rúm lại chống lại cái lạnh
Mắt chăm chăm nhìn xuống đất
Dọc theo những con phố lừa lọc, đèn đuốc lù tà mù
*****

Bài sau đây, vừa chôm trên tờ NYRB, số June 8, 2017.
Nhớ là đã dịch rồi, mà không làm sao kiếm thấy!
Sorry, kiếm thấy rồi!

IN THE SNOW

Tracks of someone lost,
Bleakly preoccupied,
Meandering blindly
In these here woods,
Licking his wounds
And crunching the snow
As he trudges on,
Bereft and baffled,
In mounting terror
With no way out,
Jinxed at every turn,
A mystery to himself.
-Charles Simic

Trong tuyết

Dấu vết kẻ nào đó thất lạc,
Hoang mang chộn rộn
Mù lòa dọ dẫm
Trong rừng này.

Liếm, láp vết thương
Nhai, gậm tuyết
Hắn lê lết
Như mất trí, lầm lạc

Và thế là nỗi ghê rợn tăng lên
Không lối thoát
Vận rủi ở từng lối ngoặt, ngã rẽ,
Một bí ẩn với chính hắn.





Note: Bài thơ dưới đây, cũng có trong tập thơ mới mua.
Lạ, là bài này ám ảnh GCC, liền ngay sau khi đọc trên báo giấy, ở tiệm sách, và đúng là THNM, nó làm GCC nhớ đến 1 cas, 1 ông sĩ quan Ngụy, đi cải tạo, bà vợ đem mấy đứa con tới gửi 1 gia đình 1 người bạn thân của chồng, nhờ trông nom giùm, và bà sau đó, biến mất, đúng hơn, vượt biên, cùng với bồ.

Kẻ biến mất
Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.

Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một.
Charles Simic
The New Yorker April 7, 2014



































Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư