Joseph Roth



Joseph Roth [1894-1939]: Vị Hoàng Đế Của Hoài Nhớ

Nghề của tui không phải là để làm hài lòng ông Giời.
Bố ai biết tại sao Thằng Chả lại chọn cái nghề đó cho tui.
My profession was not to pleasing God,
but His inscrutable will had selected it for me.
Joseph Roth
Lời thú tội của một tên sát nhân
[The Confession of a murderer]
"Tôi viết nó thẳng một lèo," Roth viết thư cho bạn mình, là Stefan Zweig, sau khi hoàn tất cuốn sách vào năm 1936. Trường hợp Joseph Roth là cái ngược đời vốn chỉ dành cho những bậc đại trí, đại nhân, thí dụ như Kafka. Vốn được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất của thế kỷ, nhưng lại được rất ít người đọc. Có vẻ như gần đây, nhân loại bắt đầu sửa sai, về những lỗi lầm trọng đại như trên. Nadine Gordimer, nhà văn Nam Phi, Nobel văn chương trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, coi toàn bộ tác phẩm của ông, một “tragédie humaine”,  Bi Kịch của Con Người, được viết bằng kỹ thuật giả tưởng hiện đại. Ngoài ông ra, không nhà văn hiện đại nào, ngay cả Thomas Mann, tới gần được cái toàn thể, một mục tiêu bất khả của chúng ta – our impossible aim - theo nhà phê bình Mác xít G. Lukacs.
Roth, cho tới khi ông mất vào năm 1939, là một trong số những nhà văn Đức lỗi lạc nhất, lưu vong. Thành thạo môn võ công Song Thủ Hổ Bác, tác phẩm của ông vừa là giả tưởng vừa là báo chí với những nối kết thật khó mò, giữa lưu vong và thân phận của riêng từng con người [điều mà chúng ta gọi là "căn cước", identity], giữa đời tư và đời công, Lời Thú Tội Của Một Sát Nhân, nằm trong dòng Conrad [với cuốn Tên Mật Vụ, The Secret Agent], Dos [với Tội Ác và Hình Phạt]... là một dẫn nhập tuyệt hảo vào cái thế giới của những Ông Cố Vấn, Ván Bài Lật Ngửa,Thời Gian Của Người, Người Mỹ Trầm Lặng...
Joseph Roth, tên khai sinh là Moses Joseph Roth, sinh ngày 2 tháng Chín, 1894, trong một gia đình Do Thái, tại Brody, Galicia, vùng cực đông của đế quốc Habsburg lúc đó. Mất ngày 27 tháng Năm 1939 tại Paris. Ông chẳng bao giờ nhìn thấy bố, biến mất trước khi ông ra đời, và sau đó mất vì bịnh điên. Được mẹ và gia đình bên ngoại nuôi nấng. Học Brody, đại học Lemberg, Lvov hay Lviv sau chuyển qua Vienna vào năm 1914. Phục vụ một, hoặc hai năm trong quân đội Áo Hung tại mặt trận miền đông, như là phóng viên hay censor [kiểm duyệt viên]. Sau đó, ông viết, “Kinh nghiệm mạnh nhất của tôi là về Chiến Tranh và sự huỷ diệt quê cha [fatherland], thứ độc nhất mà tôi có được, đó là đế chế Áo Hung.”
 Vào năm 1918, ông trở lại Vienna, bắt đầu viết cho những tờ báo khuynh tả với cái tên là Roth Đỏ, ‘der rote Roth’, Roth, một tay xã hội chủ nghĩa với trái tim chảy máu, ‘the bleeding heart Socialist”. 1920 ông dời tới Berlin, và vào năm 1923 ông cộng tác với báo Frankfurter Zeitung. Những năm tiếp theo, ông đi du lịch suốt Âu Châu, và từ những nơi đó, viết bài về cho báo trên: miền nam nước Pháp, Liên Xô, Albania, Đức, Ba Lan, và Ý. Ông là một trong những phóng viên số một, và được trả tiền hậu hĩ  nhất - một thứ tiền nhuận bút như trong mơ, the dream rate -  vào thời đó: một Đức mác/một dòng!
Một số bài sau được in trong The Panopticum on Sunday (1928), và trong Wandering Jews [Do Thái Lang Thang, 1927]: một cái nhìn khô khan về vị trí của những cộng đồng Do Thái tại Đông và Trung Âu.
Roth, trong thời gian là phóng viên tại Vienna, là một trong những nhà văn đầu tiên ngửi ra những thảm hoạ sắp tới, sẽ do Hitler gây ra. Ông cũng là người đầu tiên chống lại những người Cộng Sản, nhận ra bản chất ma quỉ của sự cai trị của Stalin [recognizing the evil nature of Stalin’s rule].
Khi Nazi lên nắm quyền vào năm 1933, Roth sống tại Paris, nhưng còn ở Amsterdam, Ostende, miền nam nước Pháp, viết cho những tờ báo lưu vong.
Như Walter Benjamin - người đồng thời, đã từng viết cho tờ Frankfurt, đã từng đi Liên Xô và vỡ mộng - nhận xét về Roth, rằng Roth đã tới Liên Bang Xô Viết như là một tay Cộng Sản tin tưởng ở chủ nghĩa này, nhưng khi rời nơi đây, như một tay Royalist: Quan điểm chính trị royalist, bảo hoàng, thực ta chỉ là cái mặt nạ che giấu niềm bi quan chán chường của Roth. Bài viết cuối cùng của ông có nhan đề là “Goethe’s Oak [Cây Sồi của Goethe tại] at Buchenwald”. Buchenwald sau đó là một trong những trại tù và lò thiêu người của Nazi.
Những năm cuối đời của ông thật là vất vả. Rời khách sạn này tới khách sạn khác, uống như hũ chìm, khốn khổ vì tiền bạc và tương lai thì thật là mù mịt. Ông hoàn toàn suy sụp khi nghe tin nhà soạn kịch Erns Toller treo cổ tự tử tại Nữu Ước. Trong những giấy tờ để lại của ông, có một thiệp mời của Pen Club [cơ quan này đã đưa Thomas Mann và nhiều người viết khác tới Mỹ].
Thật khó mà tưởng tượng nổi, một nhà văn Roth, trên một chiếc thuyền trực chỉ Thế Giới Mới, và sau đó, tiếp tục sống, và viết ở đó, và tuyên bố: không đi đâu nữa!
Thế giới của ông là một thế giới cũ, và ông sống, đến nát bấy, không chỉ một, mà cả hai, cái thế giới đó, và chính ông.
 Trong lời dẫn khi dịch Tập Truyện Ngắn của Roth, Michael Hofmann viết:
Hình như có hai loại tiểu thuyết gia. Một, hãy nghĩ tới Kafka, hay Lawrence, hay Hemingway, hay Scott Fitzgerald, hay Thomas Mann, hay Jean Rhys, hay Paul Bowles, là những người có chút chú ý đặc biệt về cái gọi là truyện ngắn, [short fiction], ban cho nó một tí quan tâm, lại cũng đặc biệt, về kỹ thuật, và sau cùng, "bèn" viết chúng. Và những người khác  - Dickens, Flaubert, Turgenev, Woolf, ngay cả Joyce - là những người cũng viết truyện ngắn, nhưng thường 'viết là viết', thoải mái, vô tư mà viết, giống như một thứ phó sản phẩm, hay là một phần của cái gọi là chuyện nghề của họ, 'đã đem nghiệp ấy vào thân', thì đành cũng thử xoay vần với cái gọi là truyện ngắn [với Nguyễn Du, cái gọi là lục bát], xem sao!
Với nhóm trên, người đọc, khi đọc những truyện ngắn của họ, là tìm cái mẫn cảm, cái có giá trị, của cái gọi là văn chương. Với nhóm dưới, đọc họ thấy kỳ kỳ [peculiar], cứ như là bị ép phải đọc! Không phải là họ viết dở, không có chi là đặc biệt ở trong đó, nhưng có lẽ, là do cảm giác này: những truyện ngắn của họ viết ra đó không hẳn là những truyện ngắn, không phải thứ tuyệt tác, theo đúng như cách mà người ta thường định nghĩa truyện ngắn là phải như vậy, nhưng thuộc vào cái khối đồ sộ là toàn bộ tác phẩm của họ, toàn thể cuộc đời của họ.
Joseph Roth thuộc nhóm này.
Sau đây, là bài viết của J. M. Coetzee, điểm Tập Truyện Ngắn của Joseph Roth, The Collected Stories, [dịch từ tiếng Đức với lời giới thiệu của dịch giả Michael Hofmann], trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB,  số đề ngày 28 tháng Hai, 2002. Dịch giả đã từng được giải thưởng the PEN/Book-of-the-Month Club Prize, cho bản dịch Câu Chuyện của Đêm thứ 1 ngàn lẻ 2 [The Tale of the 1,002nd Night], của Joseph Roth.
Từ 1848 tới 1916, vào lúc biên cương rộng rãi nhất, thần dân của Franz Joseph, Đại đế Áo và Hoàng đế Hung, có cỡ chừng trên năm chục triệu. Chưa đầy1/4 trong số đó, với họ, tiếng Đức là ngôn ngữ thứ nhất. Ở mẫu quốc, tức Áo quốc, đám thứ dân đều là một tên Slav, theo một kiểu nào đó, nghĩa là hoặc dân Czech, Slovak, Pole, Ukrainian, Serb, Croat, Slovene. Bất cứ một cộng đồng sắc dân trên đều hoài bão sẽ trở thành một quốc gia, với quyền hạn, sắc thái văn hóa, phong tục của riêng nó, bao gồm luôn, một thứ tiếng nói quốc gia, một thứ văn học quốc gia, của giống nòi nhà mình.
Lỗi lầm của đế quốc, là đã coi nhẹ những hoài bão như thế, khi cho rằng, một cuộc sống hiền hòa, đa văn hóa, giầu có, ngày thêm tươi sáng sẽ nhận chìm những tiếc nuối quá khứ, truyền thống, những hão huyền về một quốc gia riêng biệt, đẩy lùi chủ trương tách biệt [separatism], hoặc tình cảm bài Đức. Và khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1914, được hỗ trợ thêm bởi những hành động khủng bố sắc tộc, đế quốc Áo Hung đã trở nên quá yếu, không làm sao chống lại nổi quân đội Nga, Serbia, và Ý, tại những biên cương của nó, và cuối cùng vỡ ra từng mảnh.
“Áo Hung không còn nữa”, Sigmund Freud viết cho chính mình, vào Ngày Đình Chiến, năm 1918: “Tôi không muốn sống ở bất cứ một nơi nào khác… Tôi sẽ sống trong què cụt như vậy, và tưởng tượng mình vẫn còn đầy đủ tứ chi.” Ông nói không chỉ cho chính ông  mà còn cho rất nhiều người Do Thái của văn hóa Áo-Đức. Sự chia năm sẻ bẩy cựu đế quốc, và cùng với nó, việc vẽ lại bản đồ Đông Âu tạo nên những quê hương mới dựa trên sắc dân, chủng tộc - làm bật ra một sự kiện thê thảm: Người Do Thái không làm sao chỉ ra, chỗ này, chỗ kia, vốn xưa kia là nhà của tổ tiên họ. Họ không có nhà riêng trong một Đông Âu mới mẻ đó. Trước đó, họ vẫn coi cái đế quốc Áo Hung, như là nhà của họ, hay nói rõ hơn, cái nhà nước đế quốc siêu quốc gia cũ đó hợp với họ. Sự tái sắp xếp thời hậu chiến là một tai ương với người Do Thái. Và những năm đầu tiên của nhà nước Áo mới mẻ, ốm yếu bịnh hoạn, với sự thiếu hụt thực phẩm, nạn lạm phát là mất tiêu bao chắt chiu dành dụm của tầng lớp trung lưu, bạo lực trên đường phố giữa những lực lượng địa phương, phe nhóm…  chỉ làm tăng thêm nỗi khốn khó của họ. Một số đã nhìn về Palestine như là một nhà nước [a national home]; những người khác quay qua cầu cứu chủ nghĩa siêu quốc gia cộng sản.
Hoài nhớ quá khứ đã mất, và nỗi nhức nhối về một tương lai không nhà, là ở ngay tâm của mọi tác phẩm viết vào lúc đương độ  [mature work], của tiểu thuyết gia Áo gốc Do Thái, Joseph Roth. “Kỷ niệm không làm sao, không thể nào quên được của tôi, là  chiến tranh và sự chấm dứt quê cha, ‘quê hương độc nhất’ mà tôi đã từng có: vương quốc Áo Hung”, ông viết vào năm 1932. “Tôi yêu quê cha đó”, ông tiếp tục viết về nó, trong lời mở tác phẩm The Radetzky March. “Nó cho phép tôi là một kẻ ái quốc, và là một công dân trong số tất cả những con người Áo, và cũng là người Đức. Tôi yêu những đức tính và những phẩm hạnh của cái quê cha đó, và giờ đây, khi nó đã chết, và đã rời bỏ, tôi yêu luôn cả những cái dởm dáng, những cái  yếu đuối của nó.” The Radetzky March đúng là một bài thơ lớn, một ai điếu cho một xứ sở có tên là Hadsburg Austria, được viết ở một miền ven biên của xứ sở vương giả này; một cuốn tiểu thuyết lớn lao của một kẻ chỉ có một tí dấu chân của mình, ở trong cái cộng đồng văn chương Đức.
Moses Joseph Roth sinh năm 1894 tại Brody, một thành phố thuộc loại vừa vừa, cách biên giới Nga xô vài dặm, thuộc vùng Galicia nghèo khổ đa số là người Ukrainians, Poles, và Do Thái. Vào thập niên 1980, hai phần ba trong số này là Do Thái.
Trong những vùng nói tiếng Đức thuộc đế quốc Áo Hung, dân Do Thái không được coi trọng. Là một chàng trai đến từ phía Đông, tìm đường tiến thân tại Vienna, Roth giấu nhẹm nguồn gốc của mình, bịa ra một nơi sinh, Schwabendorf, một thành phố Đức, và thành phố giả tưởng này đã có tên trên những giấy tờ tuỳ thân của ông. Ông bịa ra một ông thân sinh, lúc thì là chủ xưởng, lúc sĩ quan, khi viên chức cao cấp của nhà nước, khi họa sĩ, nhà trưởng giả Ba Lan. Sự thực, Nachum Rothm, cha ông, là nhân viên hãng buôn ngũ cốc của người Đức tại Brody. Ông con Moses không hề biết ông bố Nachum: vào năm 1893, ngay ít lâu sau hôn nhân, trên một chuyến đi bằng xe lửa tới Hamburg, ông bố phát chứng thiên đầu thống [a brainstorm of some kind], và được đưa tới nhà bịnh, chẳng bao giờ hồi phục để trở lại Brody.
Moses được nuôi nấng bởi bên mẹ, một gia đình khá giả Do Thái đã hội nhập. Học trường cộng đồng Do Thái, nơi tiếng Đức là chính, sau tại gymnasium [trường trung học] nói tiếng Đức tại Brody. Nửa số bạn học của Roth ở đây là Do Thái. Với những chàng thanh niên Do Thái tới từ phía Đông, học vấn Đức sẽ mở cho họ cánh cửa vào thương mại, vào văn hóa thống trị.
Vào năm 1941, Roth ghi danh Đại học Vienna, vào lúc này có cộng đồng Do Thái đông đảo nhất tại Trung Âu, chừng 200 ngàn mạng, sống trong một ghetto tự tâm tự nguyện của họ, thì cứ nói như vậy cho tiện. “Chua lắm đấy, là số phận một tên Ostjude” - một người Do Thái đến từ phía Đông – Roth nhận xét, và nói thêm, “Nhưng chua hơn nhiều, là số phận một tên Ostjuden ở bên ngoài cộng đồng Do Thái, ở Vienna.” Đó là số phận trên đe, dưới búa, một cổ hai tròng, không những bị người Đức ghét mà còn bị người Do Thái ở phía Tây tẩy chay.
Roth học cừ, nhất là môn văn chương Đức, mặc dù, gần như suốt buổi học, anh nhìn đám thầy dậy của mình, và nhận ra rằng, họ thuộc loại bảo sao nghe vậy, và mô phạm. Sự khinh khi này xuất hiện trong những bản viết đầu tay của ông, qua đó, ông cho rằng cái kiểu học vấn như vậy của nhà nước chỉ tạo ra những con người nhút nhát, không dám có những phát kiến, thiếu hứng khởi. Ông làm part time, là phụ giáo cho đám con một nữ bá tước, và học ngay được thói dởm dáng của lớp người quyền quí, nghĩa là cũng biết “liếm” [kissing] tay mấy cô nường, tay cầm cây can vung vẩy, và đeo kiếng một mắt!
Và chàng bắt đầu in thơ!
Học vấn của chàng, vốn nhắm một nghề khoa bảng, kể như tiêu do chiến tranh xẩy ra. Vượt lên khỏi những cảm tính hiếu hoà, chàng lao vào nghề lính, vào năm 1916, và bỏ luôn cái tên Moses [gốc rễ Do Thái]. Trong quân đội của nhà vua, sự căng thẳng về mầu da thật căng, và thế là chàng bị tống ra khỏi những đơn vị nói tiếng Đức. Roth trải qua những năm 1917-1918 trong những đơn vị nói tiếng Ba Lan, tại vùng Galicia. Kinh nghiệm đoạn đời này là đề tài cho một số tác phẩm sau đó, đặc biệt, ông đã từng là một sĩ quan và là tù binh chiến tranh tại Nga Xô. Những năm sau đó, ông vẫn tiếp tục sử dụng những tiếng lóng của đám sĩ quan quân đội.
Sau chiến tranh, Roth bắt đầu viết cho những nhật báo, và dần dà nổi tiếng trong số những cư dân của Vienna, trước chiến tranh là thủ đô của một đế quốc lớn lao, sau, chỉ còn là một thành phố nghèo khổ với hai triệu thị dân của một xứ sở bẩy triệu người. Hy vọng khấm khá hơn, Roth và bà vợ mới, Friederike, dời tới Berlin. Ở đây ông viết cho một số nhật báo có khuynh hướng cởi mở [liberal], nhưng còn viết cho báo thiên tả Vorwarts, ký bút hiệu là Der rote Joseph, Joseph Đỏ [Joseph the Red]. Cuốn tiểu thuyết fơi-dơ-tông thứ nhất của ông ra đời, gọi là fơi-dơ-tông, là bởi vì viết từng kỳ cho nhật báo, có tính nhật báo, và còn do ông bẻ chúng ra thành những phần ngắn. Cuốn Mạng Nhện [tên tiếng Anh The Spider’s Web, 1923] chủ yếu đề cập tới đe dọa về mặt đạo đức và tinh thần trước “cao trào” của chủ nghĩa phát xít cánh hữu. Cuốn sách xuất hiện ba ngày trước cú đảo chánh đầu tiên của Hitler.
Vào năm 1925, Roth được tờ Frankfurter Zeitung cử làm phóng viên tại Paris. Đây là một tờ báo dẫn đầu có khuynh hướng cởi mở, và tờ báo biến ông thành một trong những ký giả đuợc trả tiền bảnh nhất tại Đức vào lúc bấy giờ. Ông tới Berlin, với ý nghĩ, mình sẽ là một nhà văn Đức, nhưng ở Paris, ông khám phá ra rằng ở trong tim của mình, là “một ông Tây đến từ phía Đông” [a Frenchman from the East]. Ông sa vào mê hồn trận của cái mà ông gọi là “dáng liễu mượt mà của Đầm” [the silkiness of French Women], nhứt là những bà đầm vùng Provence.
Ngay từ khi còn trẻ, Roth đã tạo cho ông một thứ tiếng Đức trong sáng, uyển chuyển. Ở Tây, sử dụng Stendhal, Flaubert - nhất là Flaubert của cuốn Một Trái Tim Đơn Giản, Un Coeur Simple – như là những khuôn mẫu, ông hoàn thiện cho mình một văn phong già dặn, lão luyện, và có thể tự hào về tuyệt tác của ông, The Radetzky March, như Flaubert đã từng tự hào, “Bà Bovary, đó là tôi” [Madame Bovary, c’est moi]. Chẳng ngưng ở đó, ông còn ve vuốt giấc mơ, rằng tại sao mình không chọn khung trời Tây, để mà sống đẹp quãng đời tiếp theo, và, tiện thể, viết văn bằng tiếng Tây?
Tuy nhiên, chỉ một năm sau, tờ báo thay người tại văn phòng Paris. Bất mãn, ông bèn làm một chuyến đi Nga. Ông “cẩn trọng” văn phòng chính của tờ báo, rằng, “tính tôi vậy, vốn vẫn thường hài hước, châm biếm về những định chế, những thói đạo đức và phong tục của thế giới trưởng giả, nhưng đừng nên dựa vào đó mà xem nhẹ những bài viết của tôi về nuớc Nga và “những hậu quả đáng ngờ” của Cuộc Cách Mạng Nga."
Quả đúng như vậy, loạt bài viết của ông là một thành công lớn; những bài viết từ Albania, Poland, và Ý tiếp theo thành công đó.
Ông tiếp tục viết giả tưởng [tiểu thuyết, truyện ngắn], cảm thấy đau khi tự tách mình ra khỏi đám ký giả. “Tôi không viết cái thứ bình luận dí dỏm. Tôi ký họa những nét của thời đại… Tôi là một nhà báo [journalist], không phải thông tín viên [reporter], tôi là nhà văn, không phải cái thứ người tạo mẫu cho loạt bài chỉ đạo.”
Vào năm 1930, ông in cuốn tiểu thuyết thứ chin, Job: The Story of a Simple Man. Cuốn Sách trở thành một thành công  tầm mức quốc tế, mặc dù – hay là nhờ ở cái kết thúc thần tiên, tràn trề tình cảm, qua đó, người cha già nua [the aging Mendel Singer], bị số phận đẩy mãi xuống đáy sâu của sự nghèo khổ trong những khu nhà ổ chuột ở thành phố New York, cuối cùng lại được cứu vớt bởi thằng con ngu đần mà ông ta bỏ rơi ở Cựu Thế Giới [the Old World].
Roth thú nhận ông không thể nào viết nổi một cái kết thúc hạnh phúc tràn trề như vậy nếu không có sự trợ giúp của… ma men. Hollywood biến Job thành phim mang tựa đề Đàn Ông Tội Lỗi [Sins of Man: Những Tội Lỗi của Người Đàn Ông], trong đó, cái gọi là Do Thái tính đã được thanh tẩy [purged]. Tiếp theo Job, hai năm sau đó, là cuốn đầy tham vọng của Roth, The Radetzky March. Khi còn sống, Roth cho xuất bản thêm sáu cuốn nữa, cộng một số truyện ngắn.

Giới thiệu nhà văn Áo, Joseph Roth (2)
 Hành Khúc Radetzky,
Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm! 

The Radetzky March, cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất, và cũng là tác phẩm độc nhất Roth viết mà không bị thôi thúc [1], là câu chuyện liên tiếp ba đời của dòng họ Trotta, cả ba đời đều hầu nhà vua: đời thứ nhất, là anh lính quèn cố kiếm được tí phẩm giá nhờ một hành động anh hùng; đời thứ nhì, viên chức hành chánh cao cấp, cấp quận huyện; thứ ba, sĩ quan cao cấp mà cuộc đời biến thành vô tích sự, khi sự bí ẩn vương quyền Habsburg buông ông ra [nghĩa là hết còn chú ý tới ông], và rồi cứ thế tàn lụi, không con cái nối dõi, ở trong cuộc chiến.
 Lớp lang hoạn lộ, con đường công danh ba đời dòng họ Trotta phản ánh con đường của đế quốc. Lý tưởng phục vụ hết mình cho vương quyền ở đời Trotta thứ nhì không truyền được tới đời thứ ba, không phải vì đế quốc đi trật đường rầy, không đạt được mục tiêu mà nó đề ra, nhưng mà là, có một cái gì đó thay đổi trong không gian, và chính thay đổi này làm cho chủ nghĩa lý tưởng “vua biểu chết là… chết”. [“Đảng biểu, sinh bắc tử nam”!] không còn thích hợp nữa. [Sự thay đổi ở trong không khí này là khởi điểm cho cuộc phân rã Cựu Đế quốc Áo, ở trong tác phẩm Người Không Phẩm Chất (bản tiếng Anh, The Man Without Qualities) của Robert Musil]. Anh chàng Trotta trẻ, sinh vào thập niên 1890 có thể đại diện cho Roth và Musil [“Der Leutnant Trotta, der bin ich”: "Đại Uý Trotta, chính là tôi"!]. Nhưng chính cha của anh, cuối đời không chỉ nuốt những thất bại của con, nhưng – nhờ nuốt nhục nhã – mà khám phá ra một điều là, những nghĩa cả cả đời ông ta theo đuổi đã trở nên lỗi thời [độc giả người Việt cứ như gặp một ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp ở đây: người ta chẳng đã hơn một lần được nghe những ông vi-xi của thời hậu-đại thắng mùa xuân than thở, tại sao cái đám cha ông của chúng mình… ngu đến như thế!]. “Đường ra trận mùa này đẹp lắm,” đẹp bao nhiêu ngu bấy nhiêu, có thể nói như vậy chăng, và cái hậu quả là, ông bố của đại uý Trotta - độc giả người Việt chúng ta cứ ban cho ông ta cái tên “tướng về hưu”- đã trở thành nhân vật bi thương nhất [the most tragic figure, chữ của Coetzee], trong khúc quân hành “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” [The Radetzky March]. Điều này còn cho thấy, tác giả của nó, Roth, là một nghệ sĩ, chứ không phải là người lên tiếng xin lỗi cho cuộc chiến vừa qua – ấy chết - xin lỗi cho đế chế Habsburg, như sau này Roth tự nhận.
 Trong vũ trụ của Roth, chính những con người ở bờ rìa đế chế, lại là những con người tin tưởng nhất vào nó, [thì cũng vẫn theo kiểu ăn cơm Sài Gòn, mà cổ thì vươn ra tới tận… Hà Nội!]. Dòng họ Trotta, những con người Áo Hung đó, không phải là người Đức, mà gốc gác Slovania. Một trong những người da đỏ  “Mohican” cuối cùng của bộ lạc này, sống sót, và xuất hiện ở trong Die Kapuzinergruft (1938, đuợc dịch sang tiếng Anh là “The Emperor’s Tomb: Mộ Đại Vương], một  tiếp nối mờ nhạt của hành khúc Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm. Đây là cái kết cục bi đát của đế chế, rơi vào thói vô liêm xỉ (xì níc), thoái hóa, của một thành phố Vienna sau chiến tranh.
 Trong thời gian đó, bà vợ Friederike Roth bị bịnh tâm thần và phải nhập viện. Bà trải qua thập niên 1930 ở dưỡng trí viện tại Đức và Áo. Khi Nazi nắm quyền, bà là một trong số những người được lọc ra để “chết một cái chết không đau đớn” [euthanized].
 Sau cùng, vào năm 1933, Roth rời Đức, và sau khi ngao du loanh quanh Âu Châu, ông dừng bước giang hồ tại Paris. Tác phẩm của ông được dịch ra chừng trên một chục ngôn ngữ ngoại; có thể nói, ông là một tác giả thành công. Tuy nhiên, tình trạng tài chánh của ông thì thật là ngao ngán. Hơn nữa, ông còn là một bợm nhậu hạng nặng, kinh niên, và vào khoảng giữa thập niên 1930, ông đành phó thác cả linh hồn lẫn thể xác của mình cho ma men quản lý. Tại Paris, ông đặt căn cứ địa của mình tại một bar rượu, ở ngay trong khách sạn, ở đó, ông uống, viết, và vui chơi với bè bạn.
 Thù nghịch, với cả hai, phát xít và cộng sản, ông tự cho mình là một tay Cà-Tô-Lích [Catholic], và tự mình liên luỵ vào những trò chính trị bảo hoàng, nhất là đã cố gắng tìm cách đưa Otto von Habsburg, vị cháu chit của vì vua cuối cùng, lên ngôi. Vào năm 1938, trước đe dọa bị sáp nhập vào Đức, ông tới Áo, như là người đại diện của phe bảo hoàng, để dụ khị nhà cầm quyền trao chức thủ tướng cho Otto. Chẳng ai thèm nghe, ông trở về Paris kêu gào thành lập lực lượng Austrian Legion, nhằm giải phóng Áo bằng vũ lực.
 Cơ hội đi Mẽo đã tới với Roth, nhưng ông bỏ qua cho chúng đi luôn. “Tại sao bạn nốc dữ như vậy?”, một ông bạn lo lắng giùm ông. “Không nốc thì làm gì bi giờ cơ chứ? Chẳng lẽ bạn cho rằng, có thể thoát. Ngay cả bạn, nốc hay không nốc, rồi cũng đi tàu suốt mà thôi!”, ông trả lời.
 Với những độc giả Việt Nam thường quan tâm tới văn học Việt Nam, và số phận hẩm hiu của những nhà văn An Nam khổ như chó, nhất là của những người thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt là Văn Cao: họ đều mang bóng dáng những nhân vật của Roth, đều cưu mang những đề tài của Roth. Chúng ta cứ tự hỏi, tại sao ông [Roth] không thể đi Mẽo: hãy giả dụ một ông Văn Cao di cư vào Nam, và sau đó vượt biên rồi nhập tịch Mẽo, là thấy ngay sự tiếu lâm của nó! Đề tài cuốn Vị Khách Mời Của Trái Đất [Tarbaras, The Guest on Earth], của Roth, thật hợp với Văn Cao, nhưng với rất nhiều khác biệt. Đây là câu chuyện, một ông giết người sau đó trở thành thánh, và vì ông giết người, sau thú tội, và là người độc nhất thú tội, nên mới trở thành thánh! Như lời giới thiệu trên trang bìa [ấn bản bìa mỏng xuất bản lần thứ nhất, năm 2002, nhà xb The Overlook Press, New York]: Đây là một truyền thuyết xẩy vào những năm đầu Cách Mạng Nga, câu chuyện một người nông dân Nga, ngay từ nhỏ được một bà thầy bói tiên đoán số mệnh: sẽ trở thành một kẻ sát nhân, và một vị thánh. Dưới bàn tay phù thuỷ của Roth, cả một giai đoạn hung bạo của lịch sử đã được nhét vào một “lỗ đen”, là số phận của một con người. Hay như nhân vật trong cuốn Nhà Tiên Tri Thầm Lặng, The Silent Prophet, dựa vào cuộc đời một nhân vật có thực ở ngoài đời là Trotsky, qua đó, Roth khẳng định, cuộc đời [của nhân vật chính] Kargan chỉ có một tí dây mơ rễ má với sự kiện lịch sử, như bất cứ một cuộc đời thực nào khác. Nhất quyết, nó không được đưa ra nhằm để chứng minh một quan điểm chính trị, nhưng mà là một chân lý muôn đời, cổ xưa, là, một cá nhân luôn thất  bại, vào lúc sau cùng [... at most, it demonstrates the old and eternal truth that the individual is always defeated in the end].
 Is Friedrick Kargan destined finally to sink into oblivion?
Chẳng lẽ số mệnh của Friedrick Kargan là sau cùng chìm vào quên lãng?
 Theo nghĩa đó, Nadine Gordimer, nhà văn Nam Phi, Nobel văn chương, trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, coi toàn bộ tác phẩm của ông, một “tragédie humaine”,  Bi Kịch của Con Người, được viết bằng kỹ thuật giả tưởng hiện đại. Và ngoài Roth ra, không nhà văn hiện đại nào, ngay cả Thomas Mann, tới gần được cái toàn thể, mục tiêu bất khả của chúng ta – our impossible aim - theo nhà phê bình Mác xít G. Lukacs.
 Jennifer Tran
 Chú thích: [1]. Ngoài The Radetzky March, còn Huyền Thoại về Ông Thánh Say, The Legend of the Holy Drinker, được coi như là cuốn sau cùng của Roth, đã được viết một cách nhẩn nha, [chừng trên 200 trang, chữ khổ lớn, viết trong vòng 4 tháng đầu năm 1939, tức là năm Roth mất], với thú vị và hãnh diện, như ghi chú của Michael Hofmann, khi dịch Huyền Thoại Ông Thánh Say, và dịch giả  nhận xét thêm về Roth: Đôi khi, rõ ràng là Roth không còn có lý do gì nữa để mà tiếp tục còn sống [to remain alive]. Là một nhà văn mà phải lưu vong, chỉ là phụ, nhưng quá nữa, ông là một người chẳng còn một tí viễn tượng, chẳng còn trông mong gì nữa, về chính con người là mình. Thường xuyên bị đe dọa, về chính trị, kinh tế, cảm xúc, và thể chất. Ma men tàn phá sức khỏe của ông. Vào năm 1938 ông bị tim quật [heart attack], và chỉ lê lết chừng vài bước. Ông đưa ra luận cứ, rằng, rượu làm ngắn đời ông, nhưng cũng thật may, là nhờ nó mà ông vẫn còn sống, trong điều kiện ngắn hạn. Và để chứng minh luận cứ này, ông làm việc cật lực. Sau khi khách sạn mà ông yêu quí, Hôtel Foyot, trong vòng 12 năm đã là “nhà” của ông, bị ủi sập, vào năm 1937, ông dời tới khách sạn Hôtel de la Poste, trong một căn phòng nhỏ hẹp đến nỗi, té xuống giường, là đã thấy ở hành lang, té thêm cái nữa, là đã thấy ở quầy rượu, tức là nơi ông qua nốt thời gian còn lại của một ngày, và của đêm, không ngừng làm cả hai việc: vừa uống vừa viết. Bạn bè, văn hữu của ông thưòng là chết trong những trường hợp thật là “nhảm” [grotesque: kỳ quái, kệch cỡm…]. Trong lần đi đám tang Horvath, ông bảo bạn bè, nhớ đừng quên đọc điếu văn cho ông, trong lần tới. Chính cái chết của một người bạn khác, nhà soạn kịch Ernst Toller [tự tử]  đã quật ngã Roth.
Thật là một phép lạ, trong những hoàn cảnh như thế đó, mà Roth vẫn có thể viết, mà không phải viết dở, viết tệ: Huyền Thoại Thánh Say lấp lánh, duyên dáng, tuyệt vời… Từ ‘huyền thoại’ [legend], theo định nghĩa đầu tiên của nó, nghĩa là “cuộc sống của một vị thánh’, thực khó mà coi ma men Andreas, nhân vật chính trong The Legend of the Holy Drinker, là một vị thánh. Nhưng có nhiều thứ thánh ở trên đời, những ông thánh mà không phải là thánh…







Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư