Souvenir




Kỷ niệm, kỷ niệm

 
Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy 
Câu văn mở ra, [khởi đầu là lời], mới lộng lẫy làm sao!
Bất giác nhớ đến câu văn mở ra đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển

Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.
*
Gấu viết Những con dã tràng, khi còn thằng em, tại căn nhà ở trong một con hẻm, đường Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận.
Lấy một tờ giấy trắng, viết, Villa trông ra biển, tắc tị, vò ném xuống gầm giường, lấy tờ khác, viết tiếp, tắc tị vò, viết, vò viết… chừng ngàn lần, có thể nói như vậy!
Thế rồi, một bữa, nó bật ra, tiếp:
Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp. Gió từ biển tới, vượt khoảng vườn nhỏ, mang những chiếc lá vàng trải lên thềm nhà. Con đường nhựa đen đúi, lầm lì chạy mải tới cuối thành phố. Bên kia con đường, là bãi biển, cát trắng và nóng. Xa hơn, về phía trái, nơi bắt đầu con đường, con sông nhỏ đổ nước ra biển làm đỏ lờ đờ một vùng. Xa hơn nữa, cuối tầm nhìn, một ngọn núi nằm trơ trọi, hình dáng nặng nề, thô kệch. Buổi tối, những người dân thường đốt rừng làm rẫy, xa trông, như một con rắn đỏ lập lòe.
Một chiếc xe ngựa đậu dưới bóng cây lớn ở trước cổng ra vào.
Hai dẫy nhà nhỏ chạy dài ra vườn sau. Phòng H. ở cuối một dẫy.
Những cây phi lao đứng im ở ngoài vườn.
Những con dã tràng
Tất nhiên, cũng trần ai khoai củ, mới rặn ra được mẩu trên. Gấu nhớ là, khi viết đến những hàng phi lao đứng im ở ngoài vườn, là, kể như xong!
Một bữa, thằng em bò xuống gầm giuờng, lôi ra cả một núi, những tờ giấy vò lại, biểu ông anh, tại sao anh không lấy bất cứ một tờ nào, trong số này, viết tiếp, mà cứ phải lập đi lập lại câu “Villa trông ra biển” cả ngàn lần như vậy?
Bây giờ Gấu hiểu được.
Mỗi lần viết, là mỗi lần mò mẫm cái mối nối tiếp theo, mỗi lần viết là tưởng tượng ra trước mắt cái bãi biển Nha Trang, và sau cùng, bức tường thấp hiện ra, nối kết cái villa với bãi biển phía trước.
*
Mát
Đồ mát dây, dở hơi, cám hấp, khùng…, đó là những từ để chỉ một người cái đầu không bình thường, hết còn minh mẫn. Mát, là từ tiếng Pháp, masse, bị mát dây tức là mạch điện bị chạm. Đối với cái đầu, nguy hiểm, nhất, đáng sợ nhất, là lúc nó biết rằng những dây nối đã bị lỏng, theo Roger Rosenblatt, trong bài tiểu luận trên tờ Time, số đề ngày 3 tháng Chín, 2001.
Tác giả nhắc lại, trước đó vài tuần, trên tờ The New York Times, ngay trang nhất, là bức hình tác giả, và sử gia William Manchester. Những nét “quằn quại” ở trên khuôn mặt cho thấy, có lẽ ông đang ở vào những giây phút sáng tạo dữ dằn nhất, [chắc giống như người đàn bà khi vượt cạn!]. Nhưng câu chuyện kèm theo bức hình, nói ngược lại. Đây là câu chuyện của một con người hết còn sáng tạo, nói nôm na, hết viết được nữa. Ở vào tuổi 79, liệt một bên chân do những cú strokes sau khi bà vợ mất vào năm 1998, ông nhận ra không thể hoàn tất tập ba của cuốn Con Sư Tử Cuối Cùng, viết về cuộc đời Winston Churchill. Độc giả đã chờ đón cuốn sách từ nhiều năm nay. Ông cho biết, “Tôi không thể sắp xếp mọi chuyện được nữa” (I can’t put things together). “Tôi không thể nối chúng lại” (I can’t make the connections).
***
Trong tất cả những nỗi sợ mà một nhà văn kinh nghiệm – và bởi vì nhà văn có nghĩa là cuộc đời của mình bao gồm từ 96% cho đến 100%, chỉ những sợ cùng lo, hay là niềm xao xuyến sinh tồn, angoisse, chữ thời trào lưu hiện sinh, – cái nỗi sợ không nối chúng lại với nhau được nữa, là khủng khiếp nhất. Cái đầu của nhà văn, khi nó còn chịu chơi (còn làm việc được), nó giống như chú thỏ của Alice, kéo người đẹp đi tới mọi hang cùng ngõ hẻm, với một lời hứa hẹn: Những nơi chốn bí ẩn và hấp dẫn này, ngay cả trí tưởng tượng của con người, cũng chưa từng biết tới! Niềm xao xuyến, nỗi lo âu của con thỏ: nó phải khám phá, và cùng lúc, phô bầy ra, cho người đẹp thấy, những thiên đường bí ẩn và hấp dẫn đó. Đây là một trong những “trách nhiệm” lớn lao nhất của nhà văn, theo người viết, làm sao cho độc giả cả thấy: đây là bí ẩn, đây là hấp dẫn, và đây là niềm vui: văn chương.
Hãy lấy một câu văn, của nhà sử học Manchester đã dẫn ở trên, khi viết về tang lễ của Churchill: “Khi chiếc hòm trên phủ quốc kỳ của ông đi qua thành phố cổ, cùng với đội nghi lễ hải quân, cùng với những cư dân của thành phố London, đầu trần, run rẩy trong giá lạnh; họ tưởng niệm, không phải chỉ Churchill, không phải chỉ những gì mà ông ta đã làm được cho nước Anh, ông ta là gì đối với họ; nhưng họ còn tưởng niệm, những gì họ có được, chẳng còn nữa, và chẳng bao giờ lại được như xưa.”
Rõ ràng là, khi bắt đầu câu văn, Manchester chẳng thể nào biết được, nó sẽ dẫn ông ta tới đâu. Nó sẽ chấm dứt như thế nào. Có thể ông mơ hồ cảm thấy, rằng sẽ hấp dẫn lắm đấy, khi tới được nơi chốn bí ẩn: trạm cuối của câu văn, của cuộc hành trình. Nhưng… tuyệt vời thay, khi câu văn chấm dứt, là một câu văn khác bắt đầu, và chúng ta – người viết, người đọc – sẽ cứ thế mà chạy theo, không những một con thỏ, mà có thể hai, có thể nhiều hơn nữa, cùng một lúc!
***
Người viết cho rằng, cái yếu tố quan trọng nhất, qua kinh nghiệm một câu văn ở trên là yếu tố thời gian: cùng một lúc. Thời gian mới là yếu tố quyết định của một câu văn.
Bạn hãy thử đọc câu văn sau đây: “Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt, thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết, theo từng cơn hấp hối của thành phố, cùng với tiếng hoả tiễn réo ngang đầu.” (Nguyễn Quốc Trụ: Cõi Khác, trong Lần Cuối, Sài Gòn, nhà xb Văn Mới, 1998)
Thời gian ở đây: Thành phố Sài Gòn, những ngày Mậu Thân.
Nói rõ hơn, chỉ có ai đã từng sống những giây phút đó, mới bắt được nhịp thở của câu văn, và cũng là của thành phố, trong những cơn hấp hối của nó.
Nói một cách khác, không phải NQT, mà là Sài Gòn, những ngày Mậu Thân, mới là chủ nhân thực sự của câu văn trên.
Cũng vậy, câu văn của Manchester, là của thành phố Luân Đôn, những ngày ăn bom bay V1, V2… của Đức quốc xã.
***
Những câu văn như của Manchester ôm lấy bạo động, hay là dấu ấn của thời gian, của lịch sử – lịch sử như là nơi chốn tự nhiên của bạo động, le lieu naturel de la violence - rồi biến nó thành niềm u hoài… liệu chúng ta có thể nói như vậy, khi phải giải thích những dòng chữ “hiền hoà” như trên?
Joseph Brodsky lại đưa ra một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu vắng cái gọi là “cảm xúc nói ra lời hung bạo” (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent expression of emotion) trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng, như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy:
”Không có biểu hiện hung bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên cõi đó.”
“-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn nhắm tới một thứ thơ “trung tính”, vượt lên trên mọi cảm xúc?”
Nhà thơ trả lời, đây là vấn đề thời gian. “Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời gian. Bạn chắc còn nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời gian được sắp xếp lại?… “Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những giọng điệu thay đổi. Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…”
(Trích “Trò chuyện với Joseph Brodsky”, tác giả Solomon Volkov, nhà xuất bản Free Press, 1998, đoạn Brodsky bàn về thơ của nữ thi sĩ Nga, Marina Tsvetaeva).
Có thể, một độc giả không ở Sài Gòn, trong những đêm thành phố run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần trút xuống, vẫn có thể cảm nhận được niềm lo âu xao xuyến, nỗi sợ bám riết vào da thịt… nhưng chắc chắn là qua một kinh nghiệm khác, về bạo động và lịch sử….
NQT
Nguồn
Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy 
Câu văn mở ra, [khởi đầu là lời], mới lộng lẫy làm sao!
Bất giác nhớ đến câu văn mở ra đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển

Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.
*
Người mở truyện hách nhất, có lẽ là Camus.
Thử coi, có đúng không.
NOCES A TIPASA
Au printemps, Tipasa est habitée par les dieux et les dieux parlent dans le soleil et l'odeur des absinthes, la mer cuirassée d'argent, le ciel bleu écru, les ruines couvertes de fleurs et la lumière à gros bouillons dans les amas de pierres.
LE VENT A DJÉMILA
Il est des lieux où meurt l'esprit pour que naisse une vérité qui est sa négation même. Lorsque je suis allé à Djémila, il y avait du vent et du soleil, mais c'est une autre histoire.
L'ÉTÉ A ALGER
Ce sont souvent des amours secrètes, celles qu'on partage avec une ville. Des cités comme Paris, Prague, et même Florence sont refermées sur elles-mêmes et limitent ainsi le monde qui leur est propre. Mais Alger, et avec elle certains milieux privilégiés comme les villes sur la mer, s'ouvre dans le ciel comme une bouche ou une blessure. Ce qu'on peut aimer à Alger, c'est ce dont tout le monde vit: la mer au tournant de chaque rue, un certain poids de soleil, la beauté de la race. Et, comme toujours, dans cette impudeur et cette offrande se retrouve un parrfum plus secret. A Paris, on peut avoir la nostalgie d'espace et de battements d'ailes. Ici, du moins, l'homme est comblé, et assuré de ses désirs, il peut alors mesurer ses richesses.
Gấu, khi mở ra Mùa Hè Miền Nam, đã chắc mẩm, kể như xong, một truyện dài, chẳng thua gì Lumière d’Aout của thầy Faulkner.
Hóa ra tẽn tò!
*
Mùa Hè Miền Nam
Căn nhà gỗ, vách ván, nền tráng xi măng, mái thấp, đứng ở ngoài hiên, hơi kiễng chân có thể lùa tay dọc theo con máng, lùa mớ lá khô, rồi sau đó, lấy rẻ ướt vét sạch lớp bụi cát do những chuyến xe đò chạy trên đường lộ lùa tới, lưu cữu dưới lòng máng sâu, mùi xăng nhớt lẫn trong luồng hơi nóng bị vách ván cùng những cánh cửa sổ đóng kín, ngăn chặn, quanh quẩn trong hiên, đánh thức những giấc ngủ trưa chập chờn, bài hoải trên chiếc ghế bố ở cuối hiên, đánh thức luôn những xúc động nhỏ nhặt, những ước muốn mơ hồ, không rõ rệt... Một lần giở một khúc máng gỉ nát tính sửa chữa, tình cờ tìm lại được cả một tập thư tình viết cho L.H. Những bức thư tình viết đầu tiên trong đời, trong đêm khuya, dưới ánh đèn lén lút chiếu sáng vừa đủ trang giấy, lo sợ, không phải ánh sáng đèn, nhưng mà là những xúc động rồn rập (nhiều lúc làm nghẹt thở), làm mọi người thức giấc; càng về khuya, chữ càng thêm năng nề, nhưng vẫn không thể nói hết, thỉnh thoảng viết được một vài điều thật cảm động, (những kể lể sướt mướt, những lời nói họa hoằn của nàng vẫn còn đọng lại, tiếng cười, cử chỉ của nàng khi vẫy tay từ giã, hẹn kỳ hè tới sẽ gặp lại...), vội vã tắt đèn, ngồi yên lặng trong bóng tối, sợ hãi chính nỗi xúc động của mình, chúng có thể gây nên những tiếng động lịch kịch như tiếng bàn ghế di chuyển, làm ngọn đèn cháy sáng trở lại, nỗi xúc động giống như nỗi cô đợn nhiều khi đột nhiên thái quá, làm ngây ngất, khó chịu. Những bức thư viết nhưng không bao giờ gửi, không phải sự sợ hãi, không phải quá rụt rè khi gặp nàng, nhưng mỗi lần tính đưa, thì một cử chỉ vô tình của nàng làm khựng lại, ngay chính người đưa thư cũng nhận ra sự vô ích, thừa thãi, nhưng tại sao vẫn.... Tưởng tượng nếu nàng đọc những bức thư đó, có cảm giác chết cứng vì tủi hổ, nỗi cô đơn đột nhiên bị tước đoạt, cảm giác trần truồng trước mặt nàng, trước người khác... Những bức thư được giấu kỹ trong đống sách vở, ở dưới đệm giường, ở dưới lòng máng, chỗ an toàn nhất không sợ chị Thu lục lọi ngăn kéo hộc bàn tìm mẩu viết chì, thỏi gôm, lật những cuốn tập, vô tình thấy, tò mò đọc, chắc chắn sẽ cười cợt, chế giễu, nhưng có thể sẽ thương hại; xấp giấy được giấu kỹ như những món quà, bánh được ba má chia đều cho hai chị em, thường để dành, tìm chỗ cất giấu, nhiều khi mải chơi, quên luôn, khi nhớ tìm lại, kiến bu quanh, hoặc chuột đã tha đi đâu mất tích, xấp giấy nay cũng bị gián nhấp tả tơi, chữ thiếu hụt, chỗ còn mất, nước mưa làm nhiều chỗ trở nên trắng bệch, mất cả buổi sáng tìm cách vá víu, chắp nối, nhưng không thể, quá khứ...
Mái lợp ngói nâu, vẻ cũ kỹ, mốc thếch, vườn cây vây quanh nhà, con kinh đào dẫn nước luân lưu khắp vườn, sau cùng đổ những trái dừa, trái cam hư thối ra nhánh sông sau nhà, một chiếc xuồng lập úp, vùi giữa đống lá dưới bóng một thân cây lớn, chủ nhật hay ngày lễ, nhất là vào dịp nghỉ hè, L. H. từ Sài Gòn lên vườn thăm chị Thu, sẽ đưa nàng đi chơi xuồng, cả hai len lỏi giữa những vùng trời nước im lặng, tiếng mái chèo đập nước làm át tiếng tim đập mạnh, giả đò thở hổn hển vì mệt chứ không phải vì quá xúc động... hoặc đậu xuồng dưới đám lá cây dầy đặc che hết ánh nắng (nàng bỏ kính che mắt, trong bóng mát, ánh mắt chợt long lanh, có thể nàng biết... tinh nghịch nhúng tay xuống nước, bóng nàng vỡ ra từng mảnh, chụm dần lại... biết tôi đang đăm đăm, ngơ ngẩn nhìn....), hoặc chìm mất giữa đám sậy nhỏ, những lần đi quá xa, tiếng chị Thu từ trên bờ gọi trở về dùng cơm vọng nước tới làm tắt ngấm những lời dự định nói, cuối cùng vẫn chỉ là những lời vu vơ, những hỏi han về việc học, về thành phố Sài Gòn đã lâu chưa có dịp xuống chơi, về một vài dự tính trong tương lai (nàng nói, sẽ học y khoa, chữa bệnh cho mọi người nhưng không cho riêng ai, tâm sự của mỗi người cũng chỉ là một chứng bệnh, rồi sẽ qua đi, chẳng cần chữa trị...), tất cả những gì còn lại được giấu kín như những bức thư chẳng bao giờ gửi, như những lần tự nhủ, trước khi nhập ngũ, sẽ gặp nàng một lần, và sau đó sẽ bỏ đi, sẽ mất tích trong cuộc chiến, hoặc cũng chẳng cần cuộc chiến, sẽ cố gắng quên hết, cố gắng làm lại từ đầu, giả sử như chưa từng gặp nàng, như những lần lang thang nơi khu phố nàng ở, (gần một ngã sáu, khu trung tâm thành phố, sinh hoạt đông đảo, một cửa tiệm bán sách vở, dụng cụ văn phòng, nàng thường ngồi sau một chiếc bàn lớn ở gần phía bên ngoài, gần cửa ra vào, phóng xe qua thật nhanh, hơi nhìn ngang, có thể thoáng thấy nàng ngồi chăm chú, viết, hoặc lơ đãng nhìn ra bên ngoài, làm sao nàng có thể nhận ra...), hoặc ghé xe bên lề đường, mua tờ báo, bao thuốc, hoặc ngồi uống cà phê ở quán Tầu phía bên kia đường, ngó những đứa trẻ đánh giầy chia nhau tiền bạc, giành giật khách, hay mẩu thuốc, khi ra về thường quá khuya, vòng xe qua con đường phía sau nhà nàng, ngó nhìn lên, có thể bóng dáng nàng sẽ hiện ra nơi khung cửa sổ trên lầu cao, che bớt ánh đèn lạnh toát, thỉnh thoảng bị mưa, ướt sũng, run lập cập, cần nhất là không bao giờ kể lể than khóc với nàng về ba chuyện đó, và nàng cũng chẳng bao giờ biết, hoặc hiểu được, nàng đến từ phía bắc, từ một thành phố có mưa phùn, có gió bấc, có rét mướt, băng giá, và nàng mang theo cùng với nàng chút giá băng, lạnh lùng, một chút tẻ nhạt, nàng đứng ở bên ngoài đời sống cô đơn, rực lửa, quạnh hiu của tôi, ở ngoài những nao nức, những băn khoăn, những mơ mộng của cả một thời niên thiếu, ở ngoài sự kiêu ngạo muốn đạp đổ tất cả, muốn xua đẩy nỗi giá băng, lòng lo lắng sợ sệt, muốn được nàng an ủi, vỗ về, nàng đứng ở đâu đó ở bên ngoài cuộc đời của tôi, như một người đứng ở chỗ sáng ngó vào chỗ tối, nàng không thể thấy, không thể biết, nhưng thôi, thôi, Ngọc, Ngọc, cố gắng quên đi, cố gắng đừng thủ dâm nữa, đừng nói gì cả....
Sơ Dạ Hương.

Kỷ niệm, kỷ niệm
1. Bây giờ điểm lại người có uy tín nhất hiện nay là Nguyễn Hưng Quốc, tiếp theo là Đặng Tiến, Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khuê, Trần Hữu Thục, Nguyễn Vy Khanh... và một vài người khác nữa.
2. Khi kê khai mà thiếu bất kỳ ai thì chết với họ. Có khi kể họ sau người khác cũng không được. Mà chẳng lẽ kê khai đồng hạng cả thì cũng không được.
NMG
Hai câu trên coi bộ không ưa nhau, và không biết câu nào [ông nào] chết với câu nào [ông nào].

Gấu thực sự không tin, me-xừ ĐT, một người coi như "đàn anh" của Gấu, ít ra về tuổi nghề, thí dụ vậy, lại chịu đứng số 2!
Khi Gấu còn đi học, ông đã nổi ơi là nổi rồi. Ông ta mà bàn về thơ là hết xẩy con cào cào. Gấu nhớ, có lần ông bàn về một câu thơ, đọc trên giấy, cũng thường thôi, nhưng ông phán, phải đọc nó lên, bằng cái thứ tiếng "Huệ" [Huế], hay tiếng miền Trung thì mới tới chỉ của nó. Mà quả thế thật!
Sau này, đọc Người Kinh Tế, viết về nhà thơ Anh Paul Paulin ông này cũng nói y chang. Cái gọi là 'tiếng thơ' mới thật là quan trọng.
Nhưng chưa ghê bằng ông này. Ông nói:
Thơ phải được đọc lên, phải được nghe, như đây là định mệnh cuối cùng của nó. Định mệnh của một tiếng nói và cũng là định mệnh của hồi nhớ, của biết bao nhiêu con người. TTT

Ôi chao cái kinh nghiệm tiếng Huệ, đúng ra, tiếng Quảng Trị, đúng hơn nữa, tiếng Đông Hà, của con sông Thạch Hãn, mới "ấn tượng" làm sao ở nơi Gấu, lần đầu tiên được nghe, thứ đúng hiệu con nai vàng. Nó đi vào tận xương tận tuỷ và trở thành một phần đời - phần đời tàn - của Gấu, nơi xứ người!
Có lần viết mail, xin phép [tán tỉnh] Em, nếu có về dòng sông TH thăm quê, thì thả một ngọn nến xuống lòng sông giùm cho Gấu.
Như tục lệ ở nơi này....
1

Ôi chao, thèm làm sao, được là ông con rể, tò tò đi theo sau cô con gái, của mảnh đất, đến thăm từng vết thương, đến giờ này vẫn còn sưng tấy lên của nó.
Hay nói như ông này:
Thị xã Quảng Trị của tôi, xin mạo muội được nhận mình là đứa con của Thị xã
Cục Uất
*
Nói trắng ra là bộ môn phê bình ở miền Nam trước kia và hải ngoại bây giờ rất yếu...
NMG
Yếu, mà NMG muốn nói ở đây, là nói theo Võ Phiến, khi VP cho rằng, những thời phê bình sau này bói không ra một ông Vũ Ngọc Phan với bộ sách khổng lồ Nhà Văn Hiện Đại, và chính vì vậy, VP muốn lập lại cái kỳ tích đó, bằng bộ Văn Học Sử Miền Nam của ông.
Bộ sách của Vũ Ngọc Phan nếu khổng lồ là ở cái tâm khổng lồ của ông, theo tôi. Khen chê rất chủ quan, vì bắt buộc phê bình là phải như vậy, và chính vì vậy mà ông đã bỏ qua một số tài năng. Nhưng không hề có tiểu tâm, không hề có tà ý.
Một khi bạn có tiểu tâm, là... vứt đi!
Đọc bộ sách của Võ Phiến, ngoài cái giọng huênh hoang về mình, còn cái giọng dè bỉu người khác.
Huênh hoang về mình, ngay cả khi ra vẻ khiêm nhường, thí dụ như đoạn ông nói về hồi ông mới xuất hiện ở Miền Trung, qua tờ Mùa Lúa Mới. Và ông rất 'ngạc nhiên', khi nghe Thanh Nam kể đã từng đọc VP từ hồi đó.
Từ Miền Trung vô Miền Nam, nào có xa xôi gì, Gấu ngay từ hồi còn là học sinh đã đọc VP, cũng chính từ tờ Mùa Lúa Mới đó. Đọc Người Tù, ngay khi nó ra lò. Đọc và mê lắm. Mới lớn, chạy trốn cái đói của Miền Bắc, đọc những đoạn ông tả cách gắp thức ăn ở trong Người Tù  - ngón tay chỉ mặt trăng, đôi đũa nhắm miếng thịt, đũa vênh là hỏng hết, chẳng thế mà có câu vợ dại không hại bằng đũa cong! - là Gấu thấm liền. Miếng ăn nó khủng khiếp nhường thế đấy!
Nhưng phải đến khi đọc Bếp Lửa, mới nhận ra cái phần thiếu sót của VP đối với những thế hệ đàn em: Ông không hề nói cho họ biết, ông đã đau khổ với chủ nghĩa cộng sản như thế nào.
Người ta cứ coi VP là nhà văn chống cộng. Tôi nói, không. Nếu có chống là sau này.
Ông sợ cộng sản, quá sợ cộng sản, chứ không phải chống cộng.
"Nói chung, bộ trường thiên lấy khung cảnh thời Tây Sơn, thế kỷ 18 và khởi đầu là sự nghiệp của anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và chấm dứt khi Nguyễn Huệ mất. Đây là thời gian có nhiều biến động. Quan trọng là qua những biến động đó, cái thử thách dành cho người đương thời, nhất là những nho sĩ, những người viết lách, những người có trình độ trí thức cao, phong phú lắm. Mỗi người một thái độ phản ứng khác nhau."
"Một thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái phức tạp của đời sống hiện ra trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng sản ở Việt Nam vậy, giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về cộng sản, tôi chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn cảnh mà tôi suy từ thời mình bây giờ sang thời trước."
NMG
Như vậy, việc NMG viết Sông Côn Mùa Lũ thật rõ ràng. Ông mượn thời Tây Sơn để nói về thời của ông. Và nếu như thế, cái thử thách, phong phú lắm đó, mỗi người một thái độ phản ứng khác nhau đó, là cũng dành cho người đương thời - thời "Quốc Cộng"-  trong có ông.
Ông chọn thái độ nào, ông phản ứng ra sao, trước cái thử thách đó?
Có vẻ như ông chẳng có phản ứng gì, qua bài trả lời phỏng vấn của ông. Qua nhận định của ông về văn học hải ngoại.
Khi ông viết bộ SCML, với ý định như trên - viết về thời Tây Sơn để nói về cái cú ăn cướp miền nam của VC - rồi đưa cho VC in, là tính nhắm đánh lừa tụi nó? Mấy thằng ngu này làm sao nhận ra thâm ý của tao?
Chẳng lẽ viết cả một bộ sách như thế chỉ vì một mục đích đen tối như thế? Và cái đó có phải là... chính trị?
Chắc không, bởi vì chính ông đã từng đi tour khi về nước và nhắn nhủ đám đàn em trong nước: "Nhà văn nào nổi bật nhờ sự khác biệt của chế độ chính trị thì thường không bền...".
*
Một cách nào đó, chúng tôi đã không "ôm lấy" cuộc chiến đó, cả trong ý nghĩa, "chống lại" nó. Chúng tôi tởm nó, trong khi chúng tôi chỉ có nó, như là phần đời đáng thương nhất, và cũng đáng yêu nhất, của chúng tôi.
Thử tính lại đi, bao nhiêu bạn thân, người thân, đã nằm xuống, vì nó?
NQT: Thư gửi bạn ta 2

Thú thực, đã 'hơn một lần', Hai Lúa 'tấn công' hai bộ trường thiên tiểu thuyết của NMG, nhưng, lần nào cũng vậy, cứ kéo pháo ra là lại kéo pháo vô! [Hình ảnh 'kéo vô kéo ra' này, chôm của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, khi ông nói về trận đánh Điện Biên Phủ].
Một cách nào đó, ở trong đó, có cái phần đời khốn kiếp nhất, đáng thương nhất, và cũng đáng yêu nhất, của cả đám chúng tôi.
Viết tới đây, Hai Lúa bỗng nhớ đến một cái mail của một thằng bạn của thằng em trai đã tử trận.
Anh ta viết:
Đọc Gấu cứ thấy bùi ngùi, vì có cả phần đời của cả đám tụi này, ở trong ấy, qua ông em của Gấu, bạn thân của tụi này.
*
Cái vụ NMG chơi VC một cú ra trò làm Gấu nhớ đến Câu chuyện trên tầu thuỷ, của Thế Lữ,  trong Bên Đường Thiên Lôi thì phải, về một anh đại bợm, đúng vào lúc đang bị tổ chác, thì có tin từ quê, bà vợ tấm cám đang đau nặng. Nhẩy vội tầu về, lên tầu mắt cú vọ kiếm mồi, toàn một lũ nhà quê nhếch nhác, đành nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ. Bỗng nghe có tiếng quát tháo, hé mắt hí hí, thấy một ông nhà quê đang lạy van ông soát vé tha cho cái tội đi lậu. Nghe lải nhải, đại bợm bực mình móc mấy đồng quẳng ra cho xong chuyện.
Anh nhà quê rối rít cám ơn, tiện thể nâng bi ân nhân, xin hãy gối đầu bằng cái mo cau này, chỉ là mấy bộ đồ rách, cho dễ ngủ.
Sáng hôm sau, tới một nhà ga, anh nhà quê đánh thức ân nhân, mời tới nhà để được tạ ơn. Thoái thác cỡ nào cũng không được.
Xuống sân ga, anh nhà quê đưa cái mo cau cho một người bà con. Thấy cách đưa có vẻ quan trọng, anh đại bợm tỏ ra ngạc nhiên. Anh nhà quê lúc đó mới nói, chuyến này về là để lo chức lý trưởng cho thằng em. Chỉ có cách đóng trò như tối qua thì mới qua mắt được đại bợm. Và anh ta cười:
Nếu không làm thế thì làm sao may mắn gặp được ân nhân?
Thế Lữ chắc là đã đọc Lá Thư Mất Trộm của Edgar Poe. Nguyên lý của nó: vật tìm kiếm có khi ở ngay trước mắt, vậy mà không thèm để ý tới. Phạm Cao Củng cũng đã từng mượn ý trên, khi cho thám tử Kỳ Phát đi kiếm một cái dĩa cổ. Tay chôm được cái dĩa, chắc chắn đã đọc Poe, bèn sơn nó đi, và dùng để đựng cơm cho anh chàng Kỳ Phát xơi. Anh xơi cơm xong, bỏ đi, lượm luôn cái dĩa theo.
Ấy là vì cơm nóng, làm bong lớp sơn mỏng, lộ bảo vật ra.
Lớp sơn mỏng bị nóng làm chảy ra phải chăng cũng giống như những dòng "tự thú trước bình minh" của NMG?
Hay là lừa được thằng đại bợm, sướng quá, bèn xì ra?


TIN VĂN:

nguyễn quốc trụ & jennifer tran phụ trách:

1. Chào mừng một diễn đàn bạn: Talawas-Forum
*


Linda Lê
trích từ "VOIX" (TIẾNG NÓI)
Đinh Linh giới thiệu
dịch từ Pháp ngữ bởi Nguyễn Đăng Thường
VÀI Ý KIẾN CỦA VĂN HỮU:
Tôi thử đọc, khó vào quá, chắc chắn không phải vì LL, mà vì bản dịch…
Vừa đọc vào đã gặp những câu, từ khó chấp nhận. Không phải vì chúng Tây, mà vì chúng thiếu tự nhiên và sinh động, không toát lên một giọng riêng, một mầu sắc, một mùi vị gì đáng để ý. Còn nếu đó là dụng ý của người dịch hòng trung thành với văn bản thì lại thiếu triệt để, chưa đủ cách điệu. Chúng đơn giản là văn dịch, văn nhân tạo.
Phạm Thị Hoài
Tôi đang đọc bản dịch. Sướng quá! Hay tuyệt vời. Mọi người sẽ phải cám ơn anh đã bỏ công làm một việc cực kỳ ích lợi này…
Đã đến lúc độc giả Việt Nam có cơ hội thưởng thức một tài năng rất hiếm có đã xuất phát từ đất Việt.
Đinh Linh
Bản dịch thật hay và thi vị. Đó không những là truyện mà còn là thơ, một bài thơ với nhịp điệu mới mẻ, làm ngạc nhiên những nhà thơ.
Khế Iêm
Trên đây là vài lời nhận xét thẳng và thật của văn hữu mà người dịch rất trân trọng và hết lòng cám ơn hầu khắc phục những yếu điểm cuœa mình. Dù sao thì cũng chỉ là một bản dịch thử nghiệm để cống hiến cho độc giả trong giai đoạn này và để dọn đường cho những bản dịch mới đặc sắc hơn. NĐT
*
Ui chao, cái thuở ban đầu nưu nuyến ấy!



Buổi sáng, [25.11.09], tà tà đi ra quán cà phê ngã tư đầu đường, dưới bầu trời ẩm đục, cặp theo một số báo TLS cũ, 25.1.08, có hình bìa Graham Greene, vừa nhâm nhi ly cà phê vừa tưởng tượng đang ngồi Quán Chùa như những ngày nào, và bất chợt rơi đúng vào bài điểm cuốn “Tại sao bầu trời thì xanh” (1), đọc vài dòng, bất giác nhận ra, đây là tình cảnh Gấu, những ngày ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, chỉ ít lâu sau Giải Phóng, sững sờ đến nghẹt thở, khi, vừa đào kinh vừa nghe nhịp tim mình đập, như đánh nhịp cho bài hát “Con kinh ta đào”, đang được cả bầy tù gào lớn: Tiếng hát át tiếng cuốc!
Con kinh ta đào chưa có nước chẩy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng…
Mồ hôi muối lưng áo em bạc trắng
Rồi tới câu này, đẹp "khủng khiếp”:
Trời [trên cao?], rất quen và rất lạ
Cứ xanh thăm thẳm ở trên đầu.

Một trong những khoảnh khắc không làm sao quên được, ở trong cuốn tiểu thuyết rắc rối, gây bực bội [disturbing], viết về thời tuổi trẻ, Die Verwirrungen des Zoglings Torless (1906), của Robert Musil, là khi nhân vật chính nằm ngửa trên thảm cỏ nơi sân trường và nhìn lên bầu trời mùa thu, "như thể anh ta nhìn thấy lần đầu, và anh ta chết khiếp vì cái mầu xanh thăm thẳm của nó":
Anh ta nghĩ, nếu có một cái thang thật dài, thì có thể trèo lên và nhập vào nó. Nhưng càng leo lên thì nó càng lùi, tuy nhiên, có những lúc, anh ta cảm thấy có thể tới được, và có thể nắm giữ được nó. Và ước muốn đó thì thật là mãnh liệt ở nơi anh ta.
Đúng là tình cảm, và tình cảnh của Gấu: Đi tù VC mà nghĩ đến cái đẹp khủng khiếp của lời ca của bản nhạc Cách Mạng, và cái đẹp khủng khiếp của một cái nhà Mít, sau 30 Tháng Tư 1975.
Bây giờ nghĩ lại, càng thấy thê thiết!
(1) Tại sao nước biển thì xanh
Máu thì đỏ, và
VC thì còn đỏ hơn cả máu?
P.D. Smith đọc Why The Sky Is Blue: Discovering the color of life, của Gotz Hoeppe, Princeton University Press.
**
*
Ở xứ Mít Nam, có lẽ Gấu là người đầu tiên viết về văn chương dấn thân, ngay khi vừa bước vô làng văn, phải nói, ngay sau khi dư âm của truyện ngắn đầu tay Những Ngày Ở Sài Gòn còn rền rĩ ở trong giới giang hồ, qua loạt bài, Gấu nhắc lại, loạt bài “Thế nào là văn chương dấn thân?”, trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, khiến mấy đấng bạn quí càng thêm chán Gấu!
Gấu nhớ là, Thạch Chương, tức Cung Tiến, thú loạt bài của Gấu. Gặp, đúng cái lần Gấu không được mời mà cũng mò đến nhà anh uống rượu, anh nói, cái style, cách dùng tiếng Mít của Gấu, rất Mít, không “khoa bảng”, như của anh, và, anh không viết được như vậy. Lâu ngày rồi, Gấu không nhớ rõ nguyên văn, nhưng đúng là ý của anh.
Hình như trong bữa tiệc đó có cả Kiệt Tấn thì phải, và sau đó, hai thằng rủ nhau đi uống tiếp, và xém chút nữa thì bị đám du đãng cho ăn đòn, Gấu đã kể về vụ này rồi.
Loạt bài viết về Thế nào là văn chương dấn thân?, Gấu viết từ những gì đọc được ở Roland Barthes, chứ không phải theo cách nhìn của Sartre, về dấn thân. Còn nhớ một câu, hình như chôm trong một bài viết, của một anh Tây hay một bà Đầm [Marthe Robert?]: Ngay cả khi khẳng định, tôi vẫn còn tra hỏi. [Même, quand j’affirme, j’interroge encore, đại khái thế]
Gấu gặp lại Kiệt Tấn, đúng cái lần qua Paris tái ngộ đấng bạn quí từ Sài Gòn bay qua, ở cuối thiên niên kỷ. Hai vợ chồng anh ra phi trường đón vợ chồng Gấu. Chẳng thằng nào nhận ra thằng nào, sau bà xã anh cứ nhè mấy thằng đầu đen hỏi, có phải mi là Gấu, thế là lòi ra ngay. Bà kể, cái lần đón ông bạn quí của cả hai cũng y chang, nhưng lần đó, bả biết trước, và có nói với ông chồng: Bạn anh từ Sài Gòn qua. Mấy chục năm rồi. Không nhận ra được đâu! (1)
Tuyệt!
Nhưng cái lý do Kiệt Tấn không nhận ra Gấu, thì còn tuyệt hơn thế nhiều!
Thủng thẳng Gấu kể tiếp.
(1) 
Tôi vẫn còn nhớ cái nhìn của anh sinh viên Luật, người Thái Lan, được Bộ Nội Vụ và Cao Uỷ Tỵ Nạn mướn làm thẩm tra viên trong buổi thanh lọc. Cái nhìn dừng lại rất lâu trên khuôn mặt tiều tuỵ ở ngoài đời so với trong hình. Có vẻ anh tin. Có vẻ anh thông cảm. Có vẻ anh sợ hãi, không ngờ sự khủng khiếp của một chế độ so với sức chịu đựng của con người.
Như lính giữa rừng


*
Hình chụp lần đi San Jose, thăm bạn Chất, em ông anh nhà thơ, khi nghe tin ông mất.
Tại gia đình một người quen. Bà vợ, bạn thân của Gấu Cái. Bạn thời tiểu học. Cũng dân Cai Lậy. Cũng ‘bạn của Cô Bạn’.
Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật.
*

*
Gấu & Bạn Chất
*
Ngô Vương Toại & NQT
@
Đặng Phú Phong, Tiểu Sài Gòn, Tháng Tư, 2006.
Gấu biết ông này, khi làm UPI, gửi hình ông, nằm một đống, nơi sân trường Văn Khoa, trong cái vụ giành giựt micro với VC nằm vùng, hình như khoảng 1966 hay 67, khi mấy ông này kỷ niệm thành lập Mặt Trận của mấy ổng.
Nhắc chuyện cũ, điêu khắc gia DVH đi một đường cảm khái:
-Tụi nó bắn ông là do nghĩ ông giành giựt em KL với tụi nó!
Bữa gặp ở nhà ĐPP là lần thứ nhì. Lần trước, liền bữa trước, tại cà phê "fắc" [Factory], có thêm ông Bùi Hồng Sĩ, cũng đã từng bị VC bắn lủng cổ. Thêm ông nữa, cũng họ Bùi, chuyên gia viết biếm văn nổi tiếng hải ngoại.
Ông họ Bùi này gật gù, trong hai thằng mình, không biết thằng nào.. 'ba con chữ' ?
Thằng nào "Bùi", thằng nào "Buồi" ? (1)

Họa sĩ NĐT bèn đưa ra ý kiến:
-Tụi này cho hai ông bắt thăm! Mít gọi là, rắn độc cắn phải lưỡi!
Tên "sa đích văn nghệ" sợ nhất cái cú "tổ trác" này!
Đi đêm lắm, tất có ngày gặp ma!
Nhưng, biết đâu, ông Vua Biếm muốn khoe súng, cũng nên!
 Súng của tao dài hơn súng của mi!


*
Đây là bãi sông, nơi ông cụ Gấu bị một đấng học trò làm thịt.
Về, Gấu mới biết là ông bị bắt không chỉ một mà tới hai lần, theo như cô con gái của ông chú của Gấu, Chú Cầm, Trùm VC vùng Việt Trì, cũng bị bắt nhưng trốn được. Cô con gái cho biết, ông cụ Gấu bị bắt lần thứ nhất, là đúng vào ngày phát thưởng cho học sinh trường tiểu học Việt Trì mà ông cụ là hiệu trưởng, trước khi đóng cửa trường nghỉ Tết. Trong gói quà nào cũng cho truyền đơn của VC. Chúng bắt ông, rồi thả. Ông về bên kia sông, làng Thanh Trì, quê của Gấu, ăn Tết cùng gia đình. Bà cụ tham mấy phiên chợ Tết, ở lại. Chúng bèn đưa cái thư mời dự tiệc tất niên, mang về cho ông. Đọc xong, là ông đi dự tiệc tất niên, và không trở về nữa. Đúng 30 Tết.
Gấu tin là bà cụ có đọc lá thư, đàn bà ưa tò mò, và nghĩ không có gì, vì nếu chúng bắt thì đã bắt rồi!
Cái gì làm chúng giết, lần sau?
Gấu nghĩ, chúng mời ông chạy sang Tầu theo chúng. Ông từ chối.
Ông cụ không theo Vẹm. Chắc chắn như vậy, nếu không, bà chị, thằng em Gấu đều phải được công nhận là con liệt sĩ. Gấu có hỏi chuyện này với cô con gái Chú Cầm, cô cho biết, ông bố của cô cho biết, anh giáo Dương chỉ là cảm tình viên của Đảng.
Cái gì làm ông cụ không tin… VC?
*
1945. Cách mạng, Độc lập, Tự do, Dân chủ, Hạnh phúc... đến thăm gia đình anh rất sớm, đem cha anh đi biệt tích, để lại lá thư mời dự tiệc tất niên của một người học trò cũ, khi đó cầm đầu nhóm võ trang chiếm giữ huyện lỵ, nơi ông làm Hiệu Trưởng trường Tiểu Học.
Không ngờ đó là một cái bẫy. Trong đầu óc non nớt của anh vẫn còn giữ lại cảnh tượng, buổi sáng đám người vũ trang chận đường khám xét, chủ ý là đòi tiền mãi lộ, đòi thịt cá, con gà, con vịt, mớ rau, mớ tép... của những người dân quanh vùng đổ về thị xã những ngày họp chợ. Có thể cha anh, với tư cách một người Hiệu Trưởng, một người thầy cũ, đã khuyên bảo người cầm đầu một điều gì đó. Nhưng tôi không hiểu, khi nhà trường đã đóng cửa nhân dịp Tết, và cha anh đã đem mấy đứa nhỏ về quê ở ngay bên kia sông, mẹ anh vì tiếc phiên chợ cuối năm nên nán ở lại, tại sao tới lúc đó người học trò mới có ý định thủ tiêu người thầy cũ. Nếu có thì giờ, anh nên tra cứu tìm tòi tài liệu, xác định thời điểm đám người vũ trang bỏ chạy khỏi Việt Trì, Vĩnh Phúc, có thể anh tìm ra nguyên nhân cái chết của cha anh.
Ông không ưa người Pháp. Suốt quãng đời dạy học, ông bị đổi đi nhiều nơi. Lục Yên Châu, Vĩnh Yên (Phú Thọ) và Việt Trì (Vĩnh Phúc) là ba nơi sau cùng trên con đường trở về khúc sông định mạng. Ông như bị nó ám ảnh , dẫn dụ. Hồi nhỏ ông thường bơi từ bên này sông ra tới giữa sông, và những lần lặng sóng, tới tận bờ bên kia, tới Việt Trì, rồi lại bơi về. Có thể đám người vũ trang muốn ông theo bọn chúng, nhưng cái cảnh chận đường chiếm đoạt tiền bạc, tài sản đã làm ông bất bình, và lá thư mời là cơ hội, hoặc tội ác cuối cùng người học trò cũ hy vọng thực hiện trước khi bỏ chạy, hoặc trước khi chịu cùng một số phận như vậy.
Ông bị đám người vũ trang thủ tiêu bằng cách buộc đá bỏ xuống sông, như lời một người bạn tù nào đó kể lại. Theo lời kể, cha anh đã không giả ngu giả dại như người khác. Cái tính lì lợm, bướng bỉnh nhưng dễ tin người, di truyền tới anh, trở thành ngu ngơ, khù khờ, nếu không muốn nói là đần độn. Có lần nghe anh kể tôi thấy tội nghiệp, đời thuở nhà ai chỉ vừa nghe nói tới tên cô bạn đã nghĩ ngay đây là người của mình, rồi lặn lội lên tận Đà Lạt, tới tận khu nội trú, chỉ để nghe, ở đây có một cô sinh viên có tên như thế nhưng đã về Sài-gòn.
*
Bà cụ Gấu @ 29/8D NBK St. Saigon cc 1960

**



La rosa sin porque florece porque florece.
Die Rose ist ohne warum; sie bliihet weil sie bliihet.
[The rose has no why, it flowers because it flowers.]
La rose est sans pourquoi, fleurit parce qu'elle fleurit,
N'a souci d'elle-même, ne désire être vue.
BHD chẳng cần tại sao
La Rose est sans pourquoi




Heidegger, và Borges, cả hai đều quí BHD của Gấu.
Cả hai đều nhắc tới em.
Heidegger dành cả một chương, chương V: Bông Hồng Đen chẳng hỏi tại sao, trong cuốn Nguyên lý lý trí, Le Principe de Raison.
Borges nhắc đến em của Gấu, để kết thúc bài viết Thơ, trong cuốn Bẩy Đêm Thần Tiên, mỗi đêm ông thần tiên với một đề tài: Thần Khúc, Ác Mộng, Ngàn Lẻ Một Đêm, Phật Giáo, Thơ, The Kabbalah, Mù Lòa.

Cuốn của Heidegger, Gấu được bà xã Nguyễn Nhật Duật tặng, lần về Sài Gòn, HPA đưa đến nhà, thắp nén hương cho bạn, và sau đó được đưa đến một căn phòng ngổn ngang sách. Bà nói: Anh muốn lấy cuốn nào thì lấy.
Hỏi tính sao với chúng, bà lắc đầu, rồi thở hắt, chắc là phải bắt chước anh NTV mất thôi! [Dzui thôi mà, bởi vì khi đó, NTV chưa về Việt Nam, chưa tặng nhà nước toàn bộ thư viện của anh, do bị làm khó dễ: Đợi chúng tôi đọc hết Tàng Kinh Các của anh, gồm trên 32 ngàn cuốn, sau đó mới đánh giá sự độc hại của chúng được!]



Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’