Old Tin Van




Whatever Happened
Whatever happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish. 
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers.
Adam Zagajewski
Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra 
Bất cứ cái chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi. 
Nhưng chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu. 
Search

I returned to the town
where I was a child
and a teenager and an old man of thirty.
The town greeted me indifferently
but the streets' loudspeakers whispered:
don't you see the fire is still burning,
don't you hear the flame's roar?
Get out.
Find another place.
Search for it
Search for your true homeland. 
Adam Zagajewski 
Tìm 
Tôi trở về thành phố
Nơi tôi đã sống như một đứa bé
Và một thằng bé
Và một ông già 30 tuổi
Thành phố dửng dưng đón tôi
Nhưng cái loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy lửa vẫn cháy,
Mi không nghe ngọn lửa gào?
Cút cha mày đi!
Tìm một nơi chốn khác
Tìm nó.
Tìm quê hương thực sự của mi. (1)

Tôi nhìn bức hình
Tôi nhìn bức hình thành phố tôi ra đời
nhìn những khu vuờn xum xuê, những con phố soắn vòng, những ngọn đồi,
những mái nhà thờ Thiên Chúa, những vòm nhà thờ Chính Thống,
nơi Chúa Nhật, những giọng nam trầm cất lên mạnh mẽ
khiến hàng cây lối xóm run lên bần bật như trong cơn bão;
Tôi liếc nhìn và tôi không làm sao quay đi, nước mắt ràn rụa,
và bất thình lình, tôi ngộ ra rằng thì là họ vẫn còn sống.
như thế chẳng có gì xẩy ra, họ vội vã chạy tới những buổi diễn thuyết,
đợi xe lửa, lấy xe điện màu xanh da trời, kiểm tra lịch trình, nghe nhạc,
đọc báo hàng ngày, sống trong hối hả, trong sợ hãi, luôn luôn trễ,
có tí bất tử ở trong rất cả, nhưng họ đâu biết,
một tên trễ trả tiền mướn phòng, một tên khác sợ bị phổi,
tên thứ ba không thể hoàn tất luận án về Kant,
không hiểu sự vật là gì trong chính chúng
bà tôi vẫn tới Brzuchowice, mang một cái bánh
trên hai cánh tay duỗi dài, và chúng không rủ xuống,
trong một tiệm thuốc Tây, một đứa bé trai nhút nhát đòi thuốc chữa nhút nhát,
một cô gái ngắm nghía hai cái vú còn nhỏ của mình trong một tấm gương,
ông anh em bà con của tôi đi ra công viên liền tù tì sau khi ra khỏi bồn tắm,
và không hề biết rằng, liền tù tì sau đó anh ta bị cảm lạnh, sưng phổi,
nhiệt tình đôi khi bật ra vào mùa đông, những ngọn đèn vàng tạo những vùng sáng tròn ấm cúng;
vào Tháng Bẩy, lũ ruồi huyên náo ăn mừng ánh sáng lớn mùa hè,
và vo ve những điệu nhạc ca tụng hoàng hôn,
những cuộc tàn sát xẩy ra, những cuộc nổi dậy,
những cuộc tống xuất, lưu đầy,
chế độ Đệ Tam Reich độc ác nhập vào những bộ quân phục
mật vụ NKVD khùng xâm lăng, những ngôi sao đỏ hứa hẹn
tình bạn nhưng có nghĩa là bội phản,
nhưng họ không nhìn thấy điều này, họ hầu như không nhìn thấy
họ có quá nhiều điều để làm,
họ cần phơi khô than cho mùa đông, tìm một vị bác sĩ tốt,
đống thư không trả lời cao dần, màu mực vàng phai dần
cái đài chơi trong phòng, món đồ mua sau cùng của họ,
nhưng họ vẫn ưu tư về đời thường và cái chết
họ không có thì giờ,
họ xin lỗi,
họ viết những lá thư dài và những tấm bưu thiếp ngắn ngủn.
họ luôn luôn trễ, trễ đến tuyệt vọng,
như chúng ta, y chang chúng ta, y chang tớ.

Adam Zagajewski
THE LAST TOAST
I drink to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Anna Akhmatova

Bữa nhậu chót 
Ta uống mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt chúng ta
và cũng chẳng thèm thử .
Note: Trang thơ này đang Top Hit, nhờ cái link của thi sĩ NTT, khi giới thiệu NBS (1)
Người đầu tiên giới thiệu thơ NBS, ở Miền Nam, là TTT, trong 1 bài viết trên tờ Thời Tập của Viên Linh.
Đó lần đầu tiên GCC biết thơ NBS
GCC còn nhớ hai câu ông trích:
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến thành mây bay 
Mật khu Lê Hồng Phong
Tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
Còn ngại hành quân động Thái An
Cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu nước lính hoang mang
Ðêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng buồn bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu 
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Vung (3) tiền mua vội một ngày vui 
Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoát đã ở phương tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến thành mây bay
Linh hồn ta sẽ thành đom đóm
Vơ vẩn trong rừng động thái an
Miền Bắc sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm những đám sương tàn

Mấy bài thơ sau đây, GCC thấy trên Blog của "em của Gấu", là CM, bèn bệ về TV (2)

(3) GCC nhớ, lần đầu đọc, là “đốt”:
Đốt tiền mua vội một đêm vui



THE SOUL
We know we're not allowed to use your name.
We know you're inexpressible,
anemic, frail, and suspect
for mysterious offenses as a child.
We know that you are not allowed to live now
in music or in trees at sunset.
We know-or at least we've been told-
that you do not exist at all, anywhere.
And yet we still keep hearing your weary voice
-in an echo, a complaint, in the letters we receive
from Antigone in the Greek desert.
Adam Zagajewski

Linh hồn
Chúng tớ biết chúng tớ đếch được phép sử dụng tên của bạn.
Chúng tớ biết bạn thì không thể diễn tả được,
thiếu máu, mảnh khảnh, đáng ngờ,
trước những xúc phạm bí ẩn, như một đứa trẻ.
Chúng tớ biết bạn bây giờ không được phép sống
trong âm nhạc, hay trong cây cối vào lúc mặt trời lặn.
Chúng tớ biết – hay ít ra, chúng tớ được bảo -
Bạn chẳng hề hiện hữu, ở bất cứ chỗ nào.
Và tuy nhiên chúng tớ vẫn nghe tiếng nói quan hoài của bạn
– trong một tiếng vang, một lời phàn nàn, trong những lá thư chúng tớ nhận được,
từ một nàng Antigone, ở sa mạc Hy Lạp.
IF I WERE TOMAZ SALAMUN
If I were Tomaz Salamun,
I'd always be happy, I think.
I'd dance on the Small Market Square until all hours
to a melody no one could place.
I'd play Mahler's Fifth gaily on the accordion.
What's the use, I'm an introvert,
who returns books late to the library
and sometimes envies life's heroes-
the bronzed lifeguards on August's beaches.
I could go on.
But one thing is certain: I'm not Tornaz Salamun.
Tomaz came blessed with two imaginations,
Slovenian and Mexican, and he juggles them
with heart-stopping swiftness,
while I'm an eternal student of stenography,
struggling to understand how death enters the house
and how it leaves, and then returns,
and how it is defeated by a small freckled girl
reciting Dante from memory
- though I also seek the flame of rapture
pretty much everywhere, even in the budget theater
the train, and almost every cafe
(but more unites than divides us).
If I were Tomaf Salamun,
I'd ride wild on an invisible bicycle,
like a metaphor sprung from a poem's cage,
still not certain of its freedom,
but making do with movement, wind, and sun.

Adam Zagajewski: Unseen Hand
Nếu tôi là Tomaz Salamun
Nếu tôi là Tomaz Salamun
Tôi lúc nào cũng sung sướng, tôi nghĩ.
Tôi sẽ khiêu vũ ở Công Trường Chợ Nhỏ cho tới mọi giờ
với một giai điệu mà chẳng ai có thể chê.
Tôi sẽ chơi Bài Thứ Năm của Mahler
một cách thật là vui vẻ trên chiếc đàn gió
Để làm cái gì, tôi là 1 kẻ nhút nhát, lúc nào cũng co rúm lại
một gã luôn luôn trả sách trễ cho thư viện
và đôi khi thèm cuộc đời của những vị anh hùng –
những kẻ cứu hộ bằng đồng ở bờ biển Tháng Tám
Tôi có thể tiếp tục.
Nhưng một điều chắc chắn: Tôi không phải là Tornaz Salamun
Tornaz Salamun tới với đời được chúc phúc với hai trí tưởng tượng,
Slovenian và Mexican, [là 1 tên Slovania và 1 tên Mễ], và anh tung hứng với chúng
với một sự mau lẹ làm đứng tim.
trong khi tôi là tên sinh viên muôn đời của môn tốc ký
chiến đấu hùng hục để hiểu làm sao cái chết đi vô nhà,
và như thế nào nó đi ra, và rồi trở lại,
và như thế nào, nó bị đánh bại bởi một cô gái nhỏ mặt tàn nhang
đọc Dante từ trí nhớ
- mặc dù tôi cũng tìm ngọn lửa mê ly
gần như ở mọi nơi, ngay cả ở trong những rạp hát quốc doanh,
xe lửa, và hầu như ở mọi tiệm cà phê
(xum vầy thay vì chia rẽ chúng ta)
Nếu tôi là Tornaz Salamun
Tôi sẽ cưỡi một chiếc xe đạp vô hình,
làm 1 chuyến đi hoang dại
như một ẩn dụ phóng ra từ cái chuồng bài thơ,
và vưỡn chưa biết là mình được tự do,
nhưng loay hoay, hì hục với chuyển động, với gió và ánh mặt trời.
I LOOK AT A PHOTOGRAPH
I look at a photograph of the city where I was born,
at its lush gardens and winding streets, at the hills,
the Catholic roofs, the domes of Orthodox churches,
where on Sunday the basses sing so mightily
that neighboring trees sway as in a hurricane;
I gaze at the photograph, I can't tear my eyes away,
and suddenly I imagine that they're all still alive
as if nothing had happened, they still scurry to lectures,
wait for trains, take sky-blue trams,
check calendars with alarm, step on scales,
listen to Verdi's arias and their favorite operetta,
read newspapers that are still white,
live in haste, in fear, are always late,
are a bit immortal, but don't know it,
one's behind with the rent, another fears consumption,
a third can't finish his thesis on Kant,
doesn't understand what things are in themselves,
my grandmother still goes to Brzuchowice carrying
a cake on her outstretched arms and they don't droop,
in the pharmacy a shy boy requests a cure for shyness,
a girl examines her small breasts in a mirror,
my cousin goes to the park straight from his bath
and doesn't guess that soon he'll catch pneumonia,
enthusiasm erupts at times, in winter yellow lamps
create cozy circles, in July flies loudly celebrate
the summer's great light and hum twilit hymns,
pogroms occur, uprisings, deportations,
the cruel Wehrmacht in becoming uniforms,
the foul NKVD invades, red stars
promise friendship but signify betrayal,
but they don't see it, they almost don't see it,
they have so much to do, they need
to lay up coal for winter, find a good doctor,
the unanswered letters grow, the brown ink fades,
a radio plays in the room, their latest buy, but they're
still wearied by ordinary life and death,
they don't have time, they apologize,
they write long letters and laconic postcards,
they're always late, hopelessly late,
the same as us, exactly like us, like me.
Adam Zagajewski
Tôi nhìn bức hình
Tôi nhìn bức hình thành phố tôi ra đời
nhìn những khu vuờn xum xuê, những con phố soắn vòng, những ngọn đồi,
những mái nhà thờ Thiên Chúa, những vòm nhà thờ Chính Thống,
nơi Chúa Nhật, những giọng nam trầm cất lên mạnh mẽ
khiến hàng cây lối xóm run lên bần bật như trong cơn bão;
Tôi liếc nhìn và tôi không làm sao quay đi, nước mắt ràn rụa,
và bất thình lình, tôi ngộ ra rằng thì là họ vẫn còn sống.
như thế chẳng có gì xẩy ra, họ vội vã chạy tới những buổi diễn thuyết,
đợi xe lửa, lấy xe điện màu xanh da trời, kiểm tra lịch trình, nghe nhạc,
đọc báo hàng ngày, sống trong hối hả, trong sợ hãi, luôn luôn trễ,
có tí bất tử ở trong rất cả, nhưng họ đâu biết,
một tên trễ trả tiền mướn phòng, một tên khác sợ bị phổi,
tên thứ ba không thể hoàn tất luận án về Kant,
không hiểu sự vật là gì trong chính chúng
bà tôi vẫn tới Brzuchowice, mang một cái bánh
trên hai cánh tay duỗi dài, và chúng không rủ xuống,
trong một tiệm thuốc Tây, một đứa bé trai nhút nhát đòi thuốc chữa nhút nhát,
một cô gái ngắm nghía hai cái vú còn nhỏ của mình trong một tấm gương,
ông anh em bà con của tôi đi ra công viên liền tù tì sau khi ra khỏi bồn tắm,
và không hề biết rằng, liền tù tì sau đó anh ta bị cảm lạnh, sưng phổi,
nhiệt tình đôi khi bật ra vào mùa đông, những ngọn đèn vàng tạo những vùng sáng tròn ấm cúng;
vào Tháng Bẩy, lũ ruồi huyên náo ăn mừng ánh sáng lớn mùa hè,
và vo ve những điệu nhạc ca tụng hoàng hôn,
những cuộc tàn sát xẩy ra, những cuộc nổi dậy,
những cuộc tống xuất, lưu đầy,
chế độ Đệ Tam Reich độc ác nhập vào những bộ quân phục
mật vụ NKVD khùng xâm lăng, những ngôi sao đỏ hứa hẹn
tình bạn nhưng có nghĩa là bội phản,
nhưng họ không nhìn thấy điều này, họ hầu như không nhìn thấy
họ có quá nhiều điều để làm,
họ cần phơi khô than cho mùa đông, tìm một vị bác sĩ tốt,
đống thư không trả lời cao dần, màu mực vàng phai dần
cái đài chơi trong phòng, món đồ mua sau cùng của họ,
nhưng họ vẫn ưu tư về đời thường và cái chết
họ không có thì giờ
họ xin lỗi
họ viết những lá thư dài và những tấm bưu thiếp ngắn ngủn.
họ luôn luôn trễ, trễ đến tuyệt vọng
như chúng ta, y chang chúng ta, y chang tớ.


Cái trang web này, GCC chẳng đọc được 1 nửa chữ, vậy mà cũng giới thiệu...  Tin Văn, qua server cho biết.
Gõ Google: Tiếng Czech.
Bạn ra lệnh cho Google dịch trang net tiếng Czech, thì cũng ra được nội dung của nó, không hoàn hảo, tất nhiên, nhưng bảnh hơn rất nhiều, so với… dịch loạn! (1)
Chứng cớ: Bữa trước trên trang Hậu Vệ, có 1 vị so sánh bản dịch ra tiếng Mít, thơ Rimbaud, của HPA, bạn quí của GCC, với của Google. Kết quả, bản của Google bảnh hơn!
*&
Note: Hai cuốn đều mới ra lò, 2011.
Cuốn của Woolf là bài cũ lượm lại, in thành sách.
Cuốn của Viện Sĩ Ưu Tú Nhân Dân [tuy rất thù chủ nghĩa toàn trị] & Nghiên cứu sinh & Thầy & Enfant terrible [Vargas Llosa gọi ông] cũng... được: Thơ của Tư tưởng từ Cổ Hy Lạp tới...Celan.
Chắc cũng giống thơ…. tán gái của Mít thôi.
Chưa chắc đã hách hơn thơ DTL!
Hà, hà!
Toute pensée commence par un poème.
(Every thought begins with a poem.)
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Il y a toujours dans la philosophie une prose littéraire cachée, une ambiguité des termes.
(There is always in philosophy a hidden literary prose, an ambiguity in the terms used.)
-Sartre: Situations IX, 1965
On ne pense en philosophie que sous des métaphores.
(In philosophy one thinks only metaphorically.)
-Louis Althusser: Éléments d'autocritique, 1972
Nhưng có lẽ cái nick tuyệt nhất dành cho Vị Viện Sĩ Ưu Tú của Nhân Dân, là của Ben Hutchinson, khi điểm cuốn mới nhất của G. Steiner, trên tờ TLS, số 30 Tháng Ba, 2012:
Hãy Nghe Thầy Cả Nói
Hear The High Priest.
The question of style is thus at the heart of the argument. Much of Steiner's previous work has circled around this issue without quite addressing it directly: the pioneering theoretical speculations on translation in After Babel (1975), the wager on the metaphysical resonance of art in Real Presences (1989), the distinction between "invention" and "creation" underlying Grammars of Creation (2001). In this sense, The Poetry of Thought represents the culmination of a life-time's work: in both philosophy and literature, asserts Steiner, "style is substance". The title of the book plays on the slippage between the subjective and objective genitive, evoking both the poetry inherent in thought and poetry about thought. Over the course of the book, Steiner identifies a range of stylistic aspects common to both, from rhythm and repetition to dialogue and aphorism, from fragment and setting to counter-factual verb forms such as the subjunctive and the future. While the comparative methodology allows him to juxtapose French pluperfects with German prepositions, the music of language, Steiner argues, is universal: Claude Levi-Strauss's claim that "the invention of melody is the supreme mystery of man" recurs throughout Steiner's ceuvre, itself a kind of musical motif. If this new book opens with the concession that language has neither the performative power of music nor the elegant precision of mathematics, it is language, for Steiner, that defines the human.

Câu chuyện văn phong thì ở ngay trái tim của mọi luận cứ. Đa phần tác phẩm của Steiner, trước cuốn này, thì đều chàng vàng chung quanh vấn đề văn phong, tuy không trực tiếp bàn thẳng vô: những ức đoán mang tính lý thuyết, khai phá về dịch thuật trong “Sau Babel”, 1975; cú đánh cược về cộng hưởng siêu hình của nghệ thuật trong “Hiện Diện Thực”, 1989, sự phân biệt giữa “phát minh” và “sáng tạo” làm nền cho “Văn Phạm của Sáng Tạo”, 2001. Theo nghĩa đó, “Thơ của Tư Tưởng” là tụ đỉnh của trọn đời viết lách suy tưởng của Steiner: Trong cả hai, triết học và văn học, “văn phong là bản chất”.


*

Nous ne parviendrons qu’aux larmes.
Je voudrais écrire des poèms comme un dieu de colère
16 Mars 2011, 4h30
Chúng ta chỉ tới được cái chuyện vãi linh hồn
Ta muốn viết những bài thơ giống như 1 vị thần giận dữ
Thực sự mà nói, tôi cũng hơi e ngại, nhà thơ Nhật Ryôichi Wagô tâm sự.
Tôi không biết những người bị nạn có chấp nhận những bài thơ của tôi không.
Tôi tự hỏi, liệu họ có coi cái trò làm thơ “ngay ở Lò Thiêu” [ở Fukushima, nơi xẩy ra Sóng Thần và động đất], không thể chịu nổi, hay, tởm quá?
Những tình cảm của tôi được ném ra liền sau tai họa, không bẽn lẽn, e thẹn, sans pudeur, giống như nổi cáu, irritation
Trích báo Looks, số đặc biệt về Nhật Bản, một năm sau Sóng Thần, bài viết “Fuite Poétique à Fukushima” [Chạy trốn thơ ca ở Fukushima]
Bạn có thể vô www.booksmag.fr, để nghe những bài thơ của Ryôichi Wagô, được Ryuchi Sakamoto phổ nhạc
W.G. SEBALD'S MENTAL WEATHER

A new documentary explores his wanderings

W.G. SEBALD'S MENTAL WEATHER
Posted by Simon Willis, January 26th 2012
When I left the office the other afternoon for a screening of a new documentary, the sky was grey and overcast: good weather for watching any movie, perfect for one about W.G. Sebald. His book "The Rings of Saturn" (1995 in German, 1998 in English) records a walk he took around East Anglia in 1992, during which the author meditates on everything from herring fishing to the Holocaust. Darkness is always falling in Sebald's books, or clouds casting a shadow or "veils of mist" drifting in from the sea.
Grant Gee's excellent new film, "Patience (After Sebald)", which is released in Britain tomorrow, retraces the journey. The film combines grainy and blustery footage of Covehithe, Southwold, Dunwich and Somerleyton with voice-overs from writers and artists interpreting the book's web of associations. There are also audio recordings of Sebald himself. At one point he talks about fog and mist, and how much he admires the ability of Victorian novelists "to make of one phenomenon a thread which runs through a whole text."
That applies to Sebald's work too. Weather in "The Rings of Saturn" is more than mood. It's also a method of blurring what he sees, and a metaphor for the unbidden path the book takes. In the film, the author and academic Robert Macfarlane describes Sebald's work as "a vanishing of stabilities". It's not unlike a phrase Macfarlane used in a recent piece about mist for Intelligent Life. Mist, he wrote,  is “trickster weather…it turns familiar landscapes strange, dampens sounds, blurs vision".
In one passage in the book, which is explored in the film, Sebald takes a walk on Dunwich Heath in weather which is "uncommonly sultry and dark". After a while—during which he thinks about Britain's forests, charcoal and the relationship between combustion and creativity—he finds himself back where he began, lost among the crisscrossing tracks. "The low, leaden sky; the sickly violet hue of the heath clouding the eye...I cannot say how long I walked about in that state of mind, or how I found a way out."
"Patience (After Sebald)" is released in Britain on January 27th
Khi tôi rời văn phòng vào một buổi xế chiều, lo sàng lọc một tài tiệu mới, bầu trời khi đó thì xám xịt, đầy mây đen, đúng thứ tuyệt, để nằm dài coi phim, và, vớ đúng một phim về W.G. Sebald, thì quả là tuyệt cú mèo, như thằng cha Gấu vẫn thường xuýt xoa. Cuốn sách của ông, "The Rings of Saturn" (bản tiếng Đức, 1995, tiếng Anh, 1998) viết về cái lần ông tản bộ East Anglia, vào năm 1992, và trong khi tản bộ ông trầm tư về mọi điều mọi thứ, từ đi câu cá “herring” cho tới Lò Thiêu.
Bóng tối luôn phủ xuống những cuốn sách của Sebald, hay, mây làm thành 1 cái bóng, hay một bức “màn sương”, lừng khừng từ biển trôi dạt về.
Cuốn phim mới thần sầu của Grant Gee vẽ lại chuyến đi đó. “Nhẫn nại, (Theo Sebald)” ["Patience (After Sebald)”], sẽ trình làng ở Anh, ngày mai [27 Tháng Giêng, 2012].
Gồm những thước phim của Covehithe, Southwold, Dunwich and Somerleyton, lồng tiếng của những nhà văn, nghệ sĩ dẫn giải "lưới sách". Có những đoạn là tiếng nói, audio recordings, của chính tác giả. Có 1 khúc, ông lèm bèm về sương mù, sương muối, và thú nhận trước bàn thờ, ông mới mê làm sao, những nhà văn thời kỳ Victoria, ở điều này: cái khả năng thần kỳ của họ: “biến một hiện tượng thành 1 dải, chạy dài xuyên suốt trọn bản văn”

Đây là thủ pháp “rắn nằm trong cỏ”, "đếch biết đâu là đầu, đâu là đuôi", của Đông Phương ta. Rắn thì cũng 1 loại rồng, đúng không?

Trên blog của HHT có trích từ sách coi tướng của VTL, giai thoại “Song Long Nhiễu Nguyệt”, nói về hai sợi râu [râu với lông thì cũng rứa], dài ơi là dài:

Tướng của cô ta ẩn bên trong, không bong ra ngoài. Cô có hai sợi râu rồng, kéo thẳng ra thì dài tới đầu gối, để tự nhiên thì soăn lại từng vòng tròn nằm hai bên. Tướng ấy sách gọi là Song Long Nhiễu Nguyệt, Hai Rồng Nằm Ấp Mặt Trăng.

Độc giả TV tự kiếm đọc, Gấu không dám viết ra ở đây, sợ Gấu Cái chửi, mi già rồi, đừng tục tĩu quá.
Đương nói chuyện Lò Thiêu, vậy mà mi cũng đem chuyện dơ dáy chêm vô!
Hà, hà!
Nhưng điều Sebald phán, về tiểu thuyết thời Victoria ở Anh, thì cũng áp dụng ngay bong vô của ông. Thời tiết ở trong "The Rings of Saturn" thì còn quá cả cái gọi là “tâm trạng, tính khí”, mood. Đây cũng là một phương pháp viết: Làm mờ những gì ông nhìn thấy. Và còn là một ẩn dụ về một lối đi không mời mọc, tạ từ khách, theo đó, cuốn sách lầm lũi đi mình ên. Trong cuốn phim, tác giả, nhà khoa bảng Robert Macfarlane miêu tả tác phẩm của Sebald thì như là một sự “biến mất sự vững vàng, tại vị”. Như ông phán, trong 1 bài viết mới đây cho Intelligent Life, sương mù thì một thứ “khí hậu bịp bợm… nó biến những phong cảnh quen thuộc trở thành lạ lẫm, kỳ quặc, làm ẩm ướt âm thanh, tiếng động, làm mờ viễn ảnh, tầm nhìn”.
Bạn đọc, thấy lại từ "ẩm ướt", và có phải là nó liên quan tới cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo, và tất nhiên, tới hai sợi râu rồng dài ơi là dài?
Trong 1 đoạn của cuốn sách, được thăm dò, thám hiểm ở trong phim, Sebald làm 1 cú lang thang tại Dunwich, và thời tiết vào lúc đó thì “oi bức, âm u thật không giống ai, không giống bất cứ 1 lúc nào khác, nghĩa là rất ư là khác thường”. Sau một lúc – trong 1 lúc đó, thì ông nghĩ về những khu rừng của Ăng Lê, than củi, và sự liên hệ giữa đốt cháy và sáng tạo - ông thấy mình ngược trở lại, đúng ở nơi bắt đầu, thất lạc giữa những lối đi trùng lấp, “những con đường rừng chẳng dẫn tới đâu”. “Trời thì thấp, xám xịt một màu chì, cái màu tím bịnh hoạn của cái nóng làm mù mắt… Tôi không thể nói chừng bao lâu tôi lêu bêu trong trạng thái của cái đầu như thế, và bằng cái nào tôi lại mò ra lối ra”.

Sebald, [mi lại tự thổi rùi], là do TV khám phá ra, với độc giả Mít. Còn nhớ, khi đó, Gấu bị một đấng bạn văn VC rất thân, rất quí, và rất đội ơn, mail mắng vốn, Lò Thiêu thì mắc mớ gì đến xứ Mít, tại sao anh cứ lải nhải hoài về nó?
Sau này, thì Gấu hiểu ra, anh bạn mình bị nhột. Và khi giới thiệu S, người Gấu đề tặng là anh bạn này.
Sebald quả đúng là 1 típ Ðức tốt, The good German. Chẳng mắc mớ gì tới tội ác Lò Thiêu, nhưng không làm sao cư ngụ ở Ðức được, và đành kiếm 1 xó ở Anh cho qua ngày đoạn tháng. Viết văn bằng tiếng Ðức, nhưng, như những nhà phê bình chỉ ra, tiếng Ðức của ông cũng bị lệch pha so với dòng chính, nước mẹ có coi ông là đứa con thì coi bộ cũng hơi bị kẹt.
Ông viết về mình, khi được nhà nước đưa vô Văn Miếu:
Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi có giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo. Nhưng, chính vì những nghi hoặc như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng hy vọng.
Chúng ta chưa có 1 nhà văn nào ở vào được vị trí của Sebald để mà nhìn vô cuộc chiến, mà chỉ có những... thiên tài khùng điên ba trợn, trốn lính, bợ đít VC.
Thê thảm chẳng kém, chẳng có 1 tên Bắc Kít "tốt" nào như Sebald.
Ðề tài chủ yếu của những cuốn sách của W.G  Sebald là hồi tưởng: đau đớn làm sao, sống có nó; nguy nàn làm sao, sống không có nó, với quốc gia cũng như với cá thể.
You do not have to be an exile to be perceived as a Nestbeschmutzer (one who dirties his own nest) in the German-speaking world - but it helps.
Ðâu cần phải lưu vong để cảm nhận tâm thức của kẻ ỉa đái vô nhà của mình, nhưng, quả là nó có giúp ích!
Vừa mới đây, Gấu nhận được 1 mail cùa 1 độc giả, nhân đọc TV thấy làm PR cho 1 bài viết về Sebald trên tờ Ðiểm Sách London, Gấu thật mừng.
Hóa ra Sbald cũng đã được độc giả Mít để ý tới:
Chào bác,
Em hâm mộ Sebald nhưng không vào được bài bác nói trên LRB. Bác có thể vui lòng đăng bài James Wood viết về Austerlitz lên Tin Văn được không ạ? Cảm ơn bác.
Một độc giả Tin văn,
Tks. NQT


Bước Ngoặt Thế Kỷ
 Đúng ra nó phải bảnh hơn phần còn lại, thế kỷ 20 của chúng ta
Nhưng nó chẳng có thời giờ để chứng tỏ điều đó
Những năm của nó thì được đếm trên nửa đầu ngón tay
bước đi của nó, chệnh choạng
hơi thở của nó, ngắn ngủn.
Có nhiều chuyện, đúng ra không được xẩy ra,
xẩy ra.
Điều đúng ra sẽ tới, đếch tới
hoặc, chưa tới
Mùa xuân đúng ra là đã phải ở trên đường đi của nó
Và hạnh phúc nữa chứ, trong số những cái khác.
Sợ hãi đúng ra là phải rời bỏ rừng núi, thung lũng
Sự thực đúng ra là phải hoàn tất, trước khi dối trá bò tới
Một số bất hạnh, không may, vận rủi….
đúng ra là phải không được lại xẩy ra
Thí dụ như chiến tranh, và đói khát, và thế thế.
Cái sự không thể phòng vệ của những kẻ không phòng vệ
Đúng ra phải được tôn trọng
Cũng thế, sự tin cậy và cái giống như sự tin cậy
Bất cứ kẻ nào muốn vui chơi với thế giới này
thì đều đối diện với một nhiệm vụ bất khả
Ngu đần thì không “funny”,
Khôn ngoan thì không “cheerful”.
Hy vọng thì không còn là cũng cô gái trẻ
vân vân và vân vân. Than ôi.
Chúa sau cùng tin ở con người:
Tốt và mạnh.
Nhưng tốt và mạnh thì vẫn là hai con người khác nhau. 
Làm sao sống - một kẻ nào đó hỏi tôi trong 1 bức thư
Một kẻ mà tôi cũng muốn hỏi cùng một điều đó
Hỏi đi hỏi lại, hỏi hoài hỏi mãi
Và như trên cho thấy
Có những câu hỏi khẩn thiết hơn là những câu cà chớn, ngù ngờ.
Wistawa Szymborka

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư