Khu Chợ Đũi, Huỳnh Phan Anh, và tôi
HPA tại nhà, ở 1 con hẻm đường Trần Quí Cáp, 2001 or 2002
HPA & Phạm Năng Cẩn tại 1 tiệm thịt chó ở khu cầu Thị Nghè, Sài Gòn, cc 2001
GCC & HPA @ Nhà Thờ Thánh Tâm Paris, 1999
Hồi mới tới Sài-gòn, nơi chốn đầu tiên mà tôi làm quen, là khu chợ Vườn Chuối.
Chuyến đó ở
trên tầu Rắn Biển, Marine Serpent
hơi lâu, vì phải đợi ngài Hồng Y
Spellman ghé
thăm và ban phước lành cho đồng bào di cư.
Trong khi chờ
đợi, chẳng biết làm gì, họ kéo nhau lên boong, ăn hột vịt lộn từ mấy
chiếc ghe
nhỏ chuyền lên, ngắm thành phố, làm con tầu khổng lồ nghiêng hẳn sang
một bên.
Xưa quá rồi
Diễm ơi, nhưng sao thỉnh thoảng vẫn mơ thấy những con sóng đuổi theo
con tầu
như cố níu kéo, mấy bà Bắc-kỳ hè nhau mở cánh cửa khoang tầu thay vì
nhẹ nhàng
vặn vô lăng, mấy đấng đàn ông đứng ngay trên boong "mở cửa sổ ngó xuống
biển",
gió tạt vào mấy anh lính thuỷ hạm đội 7 ở phía dưới.
(A, thì ra
đó là lý do tại sao nước biển mặn. Cả triệu con người chứ ít ỏi gì!
Nhân vật
Nguyễn của nhà văn thèm giang hồ, nhân một chuyến đi xa, đành soi
gương, vuốt
tóc, bằng bãi nước anh ta vừa thải, đám di cư còn "cơ may" tới được
Miền Nam, đâu có suốt đời phải "phóng uế" nơi đất người; phải có
"căn phần" mới được như Tôn Ngộ Không đi khắp ta bà, tận cùng thế giới,
tè một "phát" mà vẫn chưa ra khỏi bàn tay của quê nhà, ôi cái thú ăn,
ngủ, đụ, ị, ở nơi quê hương, dân lưu vong dễ gì có được!)
Dải đất hình
chữ S xa xa, dọc theo con tầu, lúc ẩn lúc hiện...
Chuyến đó đi
một mình. Bà cụ cố vớt vát được đồng nào hay đồng đó, ở những phiên chợ
Trời mọc
lềnh khênh suốt thành phố Cảng. Chúng mới được di cư từ Hà-nội xuống.
Thủ đô
lúc này đã được tiếp quản, nhưng Hải-phòng còn chút ân huệ 300 ngày.
Chả là, ông
anh rể lấy bà chị họ, làm nhân viên Nha Thông Tin, sở làm ngay kế bên
Bờ Hồ;
khi xẩy ra vụ di cư, ông nhẩy qua quân đội, lãnh chức sĩ quan đồng hóa,
và lo
việc tiếp rước đồng bào tại đầu cầu Hải-phòng. Bà mẹ và đứa em ở lại đi
chuyến
chót, cùng ông anh. Cho thằng em vào trước lo việc học.
Rời con tầu,
mỗi người được phát 300 đồng. Những chuyến trước, tiền di cư "tính
liền",
nhưng chuyến đó, chỉ nhận được một mẩu biên nhận, mấy ngày sau tới Tổng
Uỷ Di
Cư, ở đường Trần Hưng Đạo đổi lấy tiền mặt.
Nếu không đến
nhà bà chị ở khu Vườn Chuối, biết đâu lại có dịp tái ngộ người bạn
Hà-nội, Đỗ
Tiến Đức ở Nhà Hát Lớn thành phố, hoặc quen Viên Linh ở khu lều di cư
Phú Thọ,
ngay khúc trường đua.
Xưa quá rồi
Diễm ơi.
Trường Nguyễn
Trãi khi đó bị xóa sổ. Đây là nói về trường Nguyễn Trãi di cư, như Chu
Văn An
di cư, không phải trường Nguyễn Trãi sau này, ở miệt Khánh Hội.
Mò đến Hồ Ngọc
Cẩn; thầy giám thị phán, "mê Hà-nội vào trễ, học lại lớp cũ."
Tiếc một năm
đèn sách, đành nhẩy ra trường tư. Ngày ngày lãnh trách nhiệm xách một
thùng nước
cho bà chị có sạp bún chả tại chợ Vườn Chuối, rồi băng con hẻm cắt
ngang Phan
Đình Phùng, Trần Cao Vân, Hồng Thập Tự. Trường Văn Lang của thầy Nguyễn
Khắc
Kham nằm trong một con hẻm ở đường Ngô Tùng Châu, kế nhà thờ Huyện Sĩ.
Nhà của Huỳnh
Phan Anh nằm ngay đầu con hẻm ăn ra đường Hồng Thập Tự, Khu Chợ Đũi.
Nhà
"cô bé" [BHD], cũng kế đó. Gần ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng.
Trường học của
cô bé, trường Kiến Thiết cũng kế đó, cách con hẻm "Huỳnh Phan Anh"
vài chục bước chân.
Khu này vốn
nổi tiếng vì mấy tiệm sách cũ, Huỳnh Phan Anh và tôi đã từng lục lọi
những số
báo nrf, những cuốn tiểu thuyết đen, série noire.
Ít người
Sài-gòn quên được món cơm xá xíu ngay đầu con hẻm Kiến Thiết.
Mấy đứa em của
Huỳnh Phan Anh có đứa học chung với cô bé.
Đó là những
chuyện sau này.
Tôi ở khu chợ
Vườn Chuối tới năm học Đệ Nhị, rồi qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ bà cô mỗi
tháng từ
Pháp gửi tiền về, cộng thêm tiền làm nghề "trợ giáo". Mãi sau này,
khi quen cô bé, tôi mới lại lảng vảng ở khu đầu đường Lê Văn Duyệt -
Phan Đình
Phùng.
Rồi khi quen
Huỳnh Phan Anh, mới trở lại con hẻm cũ.
*
Tôi "biết"
Sài-gòn, phần lớn là qua "ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả"
dậy tôi chơi banh bàn, bi da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên
mất
tên, [Huỳnh Kỳ?], ở khu Ngô Tùng Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là
nơi hai đứa
nhiều ngày đứng suốt buổi, khi ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau
băng qua
đường, leo lên gác xép ngủ.
Nhà Huỳnh
Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn ăn "dã chiến", khi
ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói ngọng. Mấy chị em là nguồn
kinh tế của
hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả dậy tôi "xóm" nghĩa là gì.
Sau này học
trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn
tôi đã từng
căn dặn chớ mò tới.
Cái trò đọc
sách trong một quán chệt, chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà
(hồng
trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi.
Và hai đứa
chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa
trước đọc Buồn
Nôn, La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville,
"một
mình
mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao
cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy,
như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường".
Tôi cũng có
những kinh nghiệm y hệt như vậy.
Qua anh tôi
có được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng,
Hoàng Ngọc
Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng
tác" với báo Điện Tín, là do anh.
Thân nhất,
có lẽ là lúc anh đang học Sư Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được
thư. Anh
vốn là một con người rất cứng rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những
lá thư là một Huỳnh Phan Anh "đích thực", đối với tôi.
Lần đầu tiên
tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một
người bạn.
Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la, rống dọc
theo những
con dốc.
Lần đó, tôi
có cảm tưởng sống lại Hà-nội, và mơ hồ hiểu được tâm trạng của những
người lính
lê dương nhớ nhà, say sưa giữa thành phố, giữa cuộc chiến "không phải
của
họ".
Với Huỳnh
Phan Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ
có một
bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho anh
hiểu: tại
sao bỏ vào Nam.
Nhưng câu hỏi
đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.
Cuốn truyện
đầu tay của tôi là cuốn mở đầu nhà xuất bản Đêm Trắng do anh chủ
trương. Thoạt
tiên "gạ" ông Nguyễn Đình Vượng, nhưng gặp Trần Phong Giao cản đường.
Của đáng tội,
thư ký tòa soạn báo Văn không tin cuốn sách sẽ bán được. Tác giả cuốn
sách cũng
nghĩ vậy. Huỳnh Phan Anh "xúi", thì bỏ tiền ra in, tao làm nhà xuất
bản.
Anh nhờ Nguyễn Đồng làm bìa. In 2000, đến nhà phát hành Sống Mới, gặp
ngay
Nguyên Vũ, hình như đang là tác giả có sách bán chạy nhất lúc đó. Anh
nói vô,
ông chủ mua cho 300 cuốn. Còn lại bán lai rai, cũng thu đủ vốn.
Khi đọc tên
tác giả, tác phẩm: đứng hàng thứ bẩy, trong danh sách 12 nhà văn phản
động đồi
truỵ, trên báo Tin Sáng, ngay sau khi Việt Cộng vào Sài-gòn, (đây là
danh sách
đầu tiên, sau được bổ sung thêm, thành 19, rồi cả Miền Nam, trừ mấy anh
nằm
vùng, tất nhiên), tôi sợ, (có), hãnh diện, (có), nhưng thật sự ngạc
nhiên. Bởi
vì tôi không thể tin, cuốn sách được mấy ổng chiếu cố kỹ đến như vậy.
Tôi không
tin cuốn sách còn, nếu có chăng, may ra ở trong thư viện.
Đã bao lần
tôi cầu mong nó quên tôi, như tôi quên đã quên nó.
NQT
Comments
Post a Comment