NÓI CHUYỆN THƠ
NÓI CHUYỆN THƠ
Jorge Luis Borges
Di Giovanni:
June 1968
"Nói
cho cùng, tất cả chúng ta đều cố gắng là thi sĩ.
mặc dù những thất bại, tôi vẫn tiếp tục muốn là
một thi sĩ." Borges mở đầu buổi nói chuyện, cho
một số sinh viên tại đại học Columbia, vào mùa
xuân năm 1971. Ông lúc này đã mù, và phải nhờ
đến người bạn, và cũng là người chuyên dịch ông.
'Tôi nghĩ những nhà thơ trẻ
thích bắt đầu bằng một điều cực kỳ khó khăn -
thơ tự do. Và đây là một lỗi lầm lớn. Nếu bạn
tính làm một bài sonnet, thí dụ vậy, bạn có ảo
tưởng, thực sự đã có một cái gì đó: cái khung
của bài thơ. Cái khung có trước, cho dù dòng thơ
đầu tiên chưa được viết ra. Rồi bạn chỉ việc
kiếm từ có vần có điệu. Chúng làm mọi chuyện trở
nên dễ dàng hơn. Nói như vậy, không có nghĩa là
tôi thích một bài sonnet, hơn là một bài thơ tự
do. Nếu bạn lấy một vài trang đẹp nhất, trong Lá
Cỏ của Whitman, rồi hỏi tôi, liệu chúng có hơn,
một bài sonnet của Shakespeare, hay Keats, hoặc
Yeats, tôi cho một câu hỏi như vậy, là vô nghĩa.
Tôi thích cả hai. Tại sao lại phải bỏ một, nếu
có thể giữ cả ? Nhưng sự khác biệt là như thế
này: Nếu bạn làm một bài thơ vần, bạn đã có sẵn
một vóc dáng, và người đọc có thể tham dự vào
vóc dáng đó; trong lúc nếu bạn làm thơ tự do,
mọi chuyện là do bạn. Kỹ năng của bạn phải cao.
Lẽ dĩ nhiên, nếu bạn là Walt Whitman, nội lực
thâm hậu chỉ muốn bật ra thôi, bạn cứ làm thơ tự
do, và đây là một điều đáng làm. Chuyện này đâu
xẩy ra cho nhiều người trong số chúng ta. Tôi đã
gặp phải lỗi lầm này, khi in tập thơ đầu. Tôi
đọc Whitman, và tưởng chuyện dễ. Bởi vậy lời
khuyên của tôi đối với những nhà thơ trẻ, là hãy
bắt đầu bằng những thể thơ cổ điển; chỉ sau đó,
mới trở thành cách mạng được. Tôi nhớ một nhận
xét của Oscar Wilde - một nhận xét đầy chất tiên
tri. Ông nói: "Nếu không có thơ vần, chúng ta
đều trở thành thiên tài". Đây là chuyện đang xẩy
ra ngày hôm nay, ít ra là tại xứ tôi. Hầu như
ngày nào tôi cũng nhận được những cuốn thơ của
những thiên tài hoặc mấp mí thiên tài: nghĩa là
những cuốn thơ hình như chẳng có một chút ý
nghĩa nào đối với tôi. Ngay cả những ẩn dụ ở
trong đó, tôi không thể nào nhận ra được. Ẩn dụ
đề nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Nhưng
trong những cuốn thơ đó, tôi chẳng nhìn thấy bất
cứ một nối kết nào. Tôi đã phạm vào lầm lẫn
thiên tài như vậy, trong tập đầu, tập hai cũng
vậy, và có lẽ ngay cả tập ba; và rồi tôi khám
phá ra, có một điều gì thực sự huyền ảo, và
không thể nào cắt nghĩa được, về một bài sonnet:
Nó có thể đẻ ra đủ thứ, đủ loại thơ, khác nhau.
Nói tóm lại điều tôi muốn nói
ở đây: chạy đường dài, để phá luật, bạn phải
biết về luật. Chuyện hiển nhiên, nhưng mặc dù
hiển nhiên, có vẻ như hầu hết các nhà thơ trẻ
của chúng ta không hiểu - thì hãy để riêng mấy
nhà thơ già ra một bên, như tôi chẳng hạn. Còn
một chuyện lý thú nữa là: tại sao tôi thỉnh
thoảng lại làm thơ tự do, đôi lúc lại thơ vần.
Những bài thơ của tôi đã được làm ra như thế nào?
Tôi có thể đang xuống phố, hay đang lên xuống
cầu thang ở Thư viện Quốc gia - Tôi đang nghĩ
tới Buenos Aires - và bất thình lình tôi biết có
chuyện gì đó sắp sửa xẩy ra... Rồi thì tôi ngồi
xuống. Tôi để tâm đến điều sắp xẩy ra. Có thể là
một câu chuyện, có thể một bài thơ, hoặc tự do,
hoặc thơ vần. Điều quan trọng, lúc này, là đừng
can thiệp một cách thô bạo. Chỉ sợ tham vọng,
không sợ Thần Thi, Bà Chúa Thơ, hoặc tiềm thức -
nếu bạn thích huyền thoại học hiện đại - đến với
chúng ta. Rồi thì, đúng lúc - nếu tôi đừng tự
lừa rối, hoặc đừng làm rối mù mọi chuyện - tôi
có được một dòng, có khi chỉ một ý niệm mơ hồ -
một "thoáng nàng", có lẽ vậy - nàng thơ. Rồi một
chút mờ mờ ảo ảo đó tụ lại, và tôi nghe có tiếng
nói trong tôi. Nhịp của tiếng nói đó cho biết,
có nên làm thơ, rằng đây là một bài thơ tự do,
hay thơ vần.
Còn một cách khác, tôi nghĩ
nó không tốt, đó là có rắp tâm trước. Trò này,
tôi cũng đã thử rồi. Cách đây một hai ngày, bất
thình lình, tôi nhận ra mình có một rắp tâm, về
một bài thơ. Nhưng hãy còn quá sớm để làm bất cứ
điều gì. Phải đợi thời gian, trái chín sẽ rụng
thôi. Tất cả chỉ để nói lên một điều: Thi ca
được trao cho thi sĩ. (Poetry is given to the
poet). Tôi không nghĩ, một nhà thơ cứ thích là
ngồi xuống, rồi viết. Nếu anh ta làm vậy, chẳng
có gì ra hồn được viết ra. Tôi làm hết sức, để
thoát khỏi sự cám dỗ đó. Tôi vẫn thường tự hỏi,
với sự kinh ngạc thực sự, làm sao tôi viết nổi
một vài tập thơ! Nhưng tôi thường để những bài
thơ kỳ kèo, nài nỉ tôi, và đôi lúc, chúng thật
bướng bỉnh, trơ trẽn. Rồi tôi nghĩ, "nếu mình
không viết ra, nó cứ làm khổ mình hoài; cách tốt
nhất là viết nó ra". Mỗi lần như vậy, tôi theo
đúng lời khuyên của Horace, là để nó qua một bên,
chừng một tuần lễ, hay mười ngày. Và, lẽ tự
nhiên, tôi kiếm ra những lỗi, và tôi sửa. Sau
vài lần như vậy, tôi biết là không thể nào làm
tốt hơn. Nếu tiếp tục, chỉ làm hại bài thơ. Thế
là tôi in nó.
In thơ hả? Tại sao? Alfonso
Reyes, nhà thơ Mexico vĩ đại nhất, nói với tôi:
"Chúng ta phải in những gì chúng ta viết, bởi vì
nếu chúng ta không làm, chúng ta cứ tiếp tục
thay đổi nó, với đủ mọi biến điệu, và chúng ta
chẳng thể nào đi xa hơn điều này." Bởi vậy, điều
tốt nhất, là in ra, rồi lo chuyện khác.
Tôi biết rất ít, về tác phẩm
của riêng tôi, theo kiểu nằm lòng, bởi vì, tôi
không thích điều tôi viết. Sự thực, tôi cảm thấy,
cái cõi riêng của mình được diễn tả thật tuyệt
vời, ở thơ "người", bởi vì tôi biết mọi sở đoản
của tôi, mọi khiếm khuyết của tôi; tôi biết dòng
thơ "lạ" này yếu, và cứ như thế. Tôi đọc thơ
người theo kiểu khác: không bao giờ nhìn thật
gần. Và bây giờ, trước khi chúng ta đọc một bài
thơ của tôi, có ai có câu hỏi nào không? Tôi rất
cảm ơn những câu hỏi, và cũng nên nói thêm, tôi
không thích sự nhất trí.'
Q: Về thơ vần, ông có
nghĩ là, tất cả tùy thuộc vào loại thơ mà ông đã
trưởng thành?
Borges: Câu hỏi thật
kỳ cục. Có vẻ như ông có quá ít tò mò, về quá
khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh, thì đó là một
truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền
thống. Tại sao không theo truyền thống thật dài,
thật xuất sắc của những nhà thơ sonnet, thí dụ
vậy? Tôi nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể
thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà thơ làm thơ tự
do hay, nhưng rất nhiều nhà thơ bậc thầy, ở
những thể thơ khác. Ngay cả Cummings cũng có
nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số
bài. Tôi không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá
khứ. Nếu làm vậy, ông sẽ gặp rủi ro khi khám phá
ra những điều đã được khám phá rồi. Điều này là
do sự thiếu tò mò. Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá
khứ? Không tò mò về những bạn thơ thế kỷ này?
Thế kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng là gì
đối với ông? Hay là Milton? Thật sự tôi không
thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi của
ông.
Q: Liệu chúng ta có
thể đọc những nhà thơ quá khứ, rồi diễn giải
những gì học được, bằng thơ tự do?
Borges: Điều tôi không
hiểu được, đó là, tại sao ông lại muốn bắt đầu,
bằng một điều thật khó, thí dụ như thơ tự do?
Q: Nhưng tôi thấy
không khó.
Borges: Well, tôi
không biết thơ bạn làm, thật khó mà nói. Vấn đề
có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc thì khó. Trong
hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ
nhiên, có những ngoại lệ. Thí dụ Whitman,
Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những lập
luận của thơ tự do, đó là người đọc biết, đừng
trông mong lấy ra được từ đó một thông tin nào;
hoặc phải tin vào một điều gì đó - khác với một
trang thơ xuôi, vốn thuộc về văn chương của tri
thức, chứ không phải văn chương của quyền lực.
Q: Ông có nghĩ, có thể
tạo ra những thể thơ mới?
Borges: Lý thuyết có
thể đúng. Nhưng điều tôi muốn nói, và chưa nói
ra được, đó là bắt buộc phải có một cấu trúc; và
nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như
vậy vẫn dễ dàng hơn. Phải có cấu trúc thôi.
Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi
(prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó
trở thành thơ (verse)." Stevenson cũng nói đại
khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ xuôi
là do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể
thơ cổ điển - "bạn mong một điều, thế là bạn có".
Nói ngắn gọn, sự khác biệt
giữa một sonnet của Keats, với một trang thơ tự
do của Whitman, thí dụ vậy, đó là bài sonnet,
cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm -
trong khi nếu bạn thử làm một bài thơ như
"Children of Adams" hay "Song of Myself", bạn
phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng
bạn. Không có cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình
dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể chịu nổi một
chuyện như thế đâu. Vậy thì bây giờ, hãy làm một
bài. Có lẽ chúng nên bắt đầu với "Tháng Sáu
1968". Bài thơ có tính tự thuật, ít ra tôi
nghĩ, nó là vậy. Tôi cảm thấy hạnh phúc, khi
đang viết bài thơ, nhưng có thể tôi không cảm
thấy hạnh phúc, như tôi đã nghĩ. Bạn tôi, Norman
Thomas di Giovanni sẽ đọc bản dịch của ông, và
chúng ta sẽ ngừng để bàn luận, ở một số đoạn.
Tháng Sáu 1968
Vào một buổi chiều vàng,
hay trong sự lặng lẽ mà biểu tượng của nó
có thể là một buổi chiều vàng,
một người đàn ông xếp sách của anh ta
lên kệ,
cảm thấy mùi giấy, da thuộc, vải bìa
và sự hài lòng
do thói quen, và sự gọn gàng, ngăn nắp.
Stevenson và ông bạn Scotsman kia, Andrew Lang,
bằng con đường huyền ảo, sẽ tiếp tục câu chuyện dang dở,
bởi những đại dương, và cái chết,
và Alfonso Reyes sẽ hài lòng được chia sẻ một khoảng không gần kề với Virgil.
(Sắp xếp thư viện là làm nghệ thuật phê bình,
theo đường lối thầm lặng và khiêm tốn).
Người đàn ông, vốn mù,
biết ông ta chẳng còn đọc được
những cuốn sách mà ông ta đang xếp,
chúng cũng chẳng giúp ông viết cuốn sách,
cuối cùng có thể biện minh ông ta,
nhưng vào buổi chiều có lẽ vàng,
ông ta mỉm cười với số mệnh kỳ lạ của mình
và cảm thấy một hạnh phúc đặc biệt,
đến từ những điều mà chúng ta quen biết và yêu thương.
hay trong sự lặng lẽ mà biểu tượng của nó
có thể là một buổi chiều vàng,
một người đàn ông xếp sách của anh ta
lên kệ,
cảm thấy mùi giấy, da thuộc, vải bìa
và sự hài lòng
do thói quen, và sự gọn gàng, ngăn nắp.
Stevenson và ông bạn Scotsman kia, Andrew Lang,
bằng con đường huyền ảo, sẽ tiếp tục câu chuyện dang dở,
bởi những đại dương, và cái chết,
và Alfonso Reyes sẽ hài lòng được chia sẻ một khoảng không gần kề với Virgil.
(Sắp xếp thư viện là làm nghệ thuật phê bình,
theo đường lối thầm lặng và khiêm tốn).
Người đàn ông, vốn mù,
biết ông ta chẳng còn đọc được
những cuốn sách mà ông ta đang xếp,
chúng cũng chẳng giúp ông viết cuốn sách,
cuối cùng có thể biện minh ông ta,
nhưng vào buổi chiều có lẽ vàng,
ông ta mỉm cười với số mệnh kỳ lạ của mình
và cảm thấy một hạnh phúc đặc biệt,
đến từ những điều mà chúng ta quen biết và yêu thương.
Di Giovanni:
June 1968
On a golden evening,
or in a quietness whose symbol
might be a golden evening...
Borges: Trọn điểm của bài thơ, đó là niềm hạnh phúc khác thường tôi cảm thấy, khi trở lại với những cuốn sách của riêng tôi và xếp nó lên kệ. Tôi tự nghĩ thật khéo léo khi làm việc đó. Sự kiện người đàn ông (người đó là tôi) mù thấp thoáng suốt bài thơ.
or in a quietness whose symbol
might be a golden evening...
Borges: Trọn điểm của bài thơ, đó là niềm hạnh phúc khác thường tôi cảm thấy, khi trở lại với những cuốn sách của riêng tôi và xếp nó lên kệ. Tôi tự nghĩ thật khéo léo khi làm việc đó. Sự kiện người đàn ông (người đó là tôi) mù thấp thoáng suốt bài thơ.
Di Giovanni: Tôi phải
nhắc nhở bạn một điều, chuyện này xẩy ra ngay
sau khi bạn trở về sau một năm ở Harvard, và bạn
đang có phòng ở mới. Trở lại với những cuốn sách
của bạn sau một thời gian vắng mặt dài chắc chắn
là thú vị lắm.
Borges: Lẽ dĩ nhiên.
Tôi vừa trở lại thành phố quê hương. Tôi lại
được sờ vào những cuốn sách. Tôi cảm thấy chúng,
tuy nhiên không còn đọc được.
Di Giovanni:
On a golden evening,
or in a quietness whose symbol
might be a golden evening...
On a golden evening,
or in a quietness whose symbol
might be a golden evening...
Borges: Đây loáng
thoáng sự mù loà. Tôi đâu biết chiều vàng, bởi
vì tôi đâu nhìn thấy. Tôi nói gần nói xa đến sự
mù lòa. Hạnh phúc, và sự mù loà là những đề tài
chính của bài thơ. Bạn thấy đấy, "in a
quietness whose symbol might be a golden evening".
Nói cho cùng, tôi chỉ biết, trời bữa đó xấu.
Di Giovanni:
...a man sets up his books
on the waiting shelves,
feeling the parchment and leather and cloth...
...a man sets up his books
on the waiting shelves,
feeling the parchment and leather and cloth...
Borges: Bạn lại thấy ở
đây, sự gợi ý, người đàn ông mù. Nhưng bạn không
biết hiển nhiên điều đó. Không có gì được nói,
về những cuốn sách, hay những dòng chữ, Người
đàn ông đang vui với những cuốn sách, không phải
bằng mắt, nhưng với những ngón tay.
Di Giovanni:
... and the satisfaction given by
the anticipation of a habit
and the establishment of order
... and the satisfaction given by
the anticipation of a habit
and the establishment of order
Borges: Khi tôi xếp
những cuốn sách lên kệ, tôi biết rồi tôi sẽ nhớ
chỗ, và ngày này sẽ đứng đây, cho bao nhiêu ngày
hạnh phúc sẽ tới. Còn một điều nữa, đây chỉ là
bắt đầu, việc làm hôm nay sẽ tiếp tục, tương lai
là chuyện có thể, biết đâu đấy...
Di Giovanni:
Stevenson and that other Scotsman, Andrew Lang...
Stevenson and that other Scotsman, Andrew Lang...
Borges: Họ là những
tác giả ruột của tôi, và là bạn.
Di Giovanni:
... will here pick up again, in a magic way,
the leisured conversation broken off
by oceans and by death...
... will here pick up again, in a magic way,
the leisured conversation broken off
by oceans and by death...
Borges: Bởi vì
Stevenson chết trước Andrew Lang. Andrew Lang đã
viết một bài tuyệt vời về ông ta, trong cuốn
sách Những Cuộc Phiêu Lưu Giữa Những Cuốn
Sách. Họ là bạn bè gắn bó với nhau, và tôi
nghĩ họ đã có những lần trò chuyện văn chương
thật sôi nổi. Tôi thật sự yêu mến, như thể quen
biết họ. Nếu phải làm một bản danh sách những
bạn bè, tôi sẽ để cả hai vào. Mặc dù có thể họ
không ưa bộ vó của tôi, nhưng chắc là cũng khoái,
khi nghĩ họ được yêu mến, qua tác phẩm, bởi một
tay Nam Mỹ làng nhàng, chia lìa hẳn với họ, về
thời gian và nơi chốn.
Di Giovanni:
... and Alfonso Reyes surely will be pleased
to share space close to Virgil.
... and Alfonso Reyes surely will be pleased
to share space close to Virgil.
Borges: Tôi nhắc tới
Alfonso Reyes bởi vì ông là một trong những
người bạn tuyệt vời tôi có được. Khi tôi còn là
một thanh niên ở Buenos Aires, Reyes tiên đoán
tôi sẽ là một nhà thơ. Nên nhớ, ông ta đã thực
sự nổi tiếng. Đã làm mới văn xuôi Tây Ban Nha,
và là một nhà văn rất tuyệt vời. Tôi nhớ tôi
thường gửi bản thảo cho ông, và ông đọc, không
chỉ những gì đã được viết ra, mà luôn cả những
gì tôi toan tính viết. Virgil được nhắc tới, bởi
vì ông ta đứng thế cho thơ ca. Chesterton, một
nhà hiền giả khôn ngoan đã nói về một người bị
buộc tội bắt chước Virgil, rằng món nợ đối với
Virgil là món nợ đối với thiên nhiên. Đây không
phải là vấn đề đạo văn. Virgil có ở đây, như có
ở mọi thời. Nếu chúng ta lấy ra một dòng thơ của
Virgil, chúng ta nên nói là chúng ta lấy một
dòng từ mặt trăng, từ bầu trời, hoặc từ cây cối.
Và lẽ dĩ nhiên, tôi biết Reyes, ở thiên đường
riêng, ông ta sẽ hài lòng khi thấy mình cận kề
Virgil. Dù sao, tôi nghĩ sự sắp xếp những cuốn
sách trong thư viện - theo đường hướng dung hòa,
khiêm tốn nhất - là một loại phê bình văn học.
Di Giovanni: Thì cũng
vẫn những dòng đó, trong bài thơ, Borges... (To
arrange a library is to pratice, in a quiet and
modest way, the art of criticism.)
Borges: Đúng vậy, tôi
thật sự không thể bịa đặt. Tôi lại rớt trúng nhà
văn nho nhỏ Nam Mỹ, Borges.
Di Giovanni:
The man, who is blind...
The man, who is blind...
Borges: Bây giờ bạn
biết rõ sự kiện người đàn ông mù. Chúng ta có
thể gọi đây là nhóm chữ chủ yếu, sự kiện trung
tâm - ý nghĩ về hạnh phúc trong sự mù lòa. Tôi
không nói người đàn ông thì mù, nói vậy quá sỗ
sàng, quá khẳng định. Nhưng, "tiện đây, nghe qua
rồi bỏ, ông ta mù", nói như vậy hiệu quả hơn,
tôi nghĩ vậy. Đó là một giọng nói khác. Như thể
cực chẳng đã, bạn phải đưa ra chi tiết đó.
Di Giovanni:
... knows that he can no longer read
the handsome volumes he handles
and that they will not help him write
the book which in the end might justify
him...
... knows that he can no longer read
the handsome volumes he handles
and that they will not help him write
the book which in the end might justify
him...
Borges: Vào lúc đó,
tôi có quá nhiều kế hoạch viết. Tôi hy vọng viết
một cuốn về Cổ Thi Anh, và có lẽ một cuốn tiểu
thuyết, hay một tập truyện. Cùng lúc, tôi nghi
ngờ, liệu sau cùng tôi có thể làm được như vậy.
Dù sao những toan tính, tôi muốn nói, những cuốn
sách đó, cũng là một sự khuyến khích mang tính
bạn bè.
Di Giovanni: Nhưng bạn
đã viết hai cuốn sách, kể từ bài thơ này.
Borges: Well, I am
sorry. Tôi xin lỗi. Tôi không thể tránh được, ba
chuyện viết lách - đúng là một thói quen xấu!
Tôi có một câu chuyện nhỏ, không thể kể với tất
cả nhưng với từng người thì được, chuyện tâm
tình mà. Tôi nhớ đã nói về một ngọn lửa xưa của
tôi. Nàng là một người đàn bà đẹp nhất Buenos
Aires. Tôi yêu nàng, nhưng nàng luôn luôn ruồng
rẫy tôi. Lần đầu tiên, nàng làm một cử chỉ, có
nghĩa như vầy: "Không! Đừng đề nghị chuyện hôn
nhân với tôi". Khi mọi chuyện đã kết thúc, giữa
hai đứa có cả kho chuyện cười. Một lần tôi bảo
bà ta: "Chúng mình quen nhau vậy là đã lâu lắm
rồi, nào bây giờ..." Tôi đang tính đổi qua giọng
cải lương. Thế là bà ta nói: "Không, tôi chỉ là
một thói quen xấu." Và tôi có thói quen xấu viết
lách. Tôi không thể ngừng được.
Di Giovanni:
... but on this evening that perhaps is golden...
... but on this evening that perhaps is golden...
Borges: Một nhắc nhở
khác, về sự mù lòa.
Di Giovanni:
... he smiles at his strange fate
and feels that special happiness...
... he smiles at his strange fate
and feels that special happiness...
Borges: Bởi vì mù và
cảm thấy thích thú vì sở hữu những cuốn sách là
một số mệnh lạ lùng.
Di Giovanni:
... which comes from things we know and love.
... which comes from things we know and love.
Borges: Cả bài thơ nói
chung, mang tính tự thuật. Nên thử lần nữa, trên
cùng kinh nghiệm. Nhưng lần này, tôi nói, "mình
sẽ phóng thêm ra, và quên hẳn bản thân mới được;
một chuyện thần tiên, hay ngụ ngôn - có lẽ theo
kiểu Kafka." Tôi thì tham vọng cùng mình, và bây
giờ vẫn vậy! Dù sao cuối cùng tôi cũng viết được
một bài thơ Trung Hoa dởm. Bạn thấy, đây là một
bài thơ Trung Hoa, vì rất nhiều chi tiết. Vẫn
kinh nghiệm "June 1968", đây là một hóa thân.
Độc giả tình cờ có thể không thấy. Nhưng tôi
biết chúng là một - lời nói danh dự.
Người Giữ Những Cuốn
Sách
Sừng sững nơi đây: Những khu
vườn, những miếu đền và lý do của những miếu đền;
đúng: âm nhạc, đúng: những từ;
hình sáu điểm sáu mươi-bốn; những buổi lễ; chúng là sự uyên thâm độc nhất
ông trời dành cho con người;
sự dẫn dắt của vị thượng hoàng
mà luật lệ tuyệt hảo đã được phản chiếu trong vũ trụ,
vốn phản chiếu người,
cho nên những con sông giữ lấy bờ
và những cánh đồng từ bỏ trái của chúng;
thấp thoáng bóng kỳ lân bị thương,
một kỷ nguyên đóng lại;
những luật pháp thiên thu bí ẩn;
sự hài hòa của thế giới.
Những điều này, hay ký ức của chúng thì ở đây trong những cuốn sách,
tôi ngắm chúng trong ngọn tháp của tôi.
Trên những con ngựa bờm xờm,
người Mông cổ từ miền Bắc đổ xuống,
làm cỏ những binh đoàn
được Thiên Tử ra lệnh trừng phạt tội phạm thượng của họ.
Họ cắt cổ, đưa lên dàn hỏa,
giết kẻ dữ, người lành,
giết kẻ nô lệ bị xiềng vào cửa căn nhà người chủ,
sử dụng đàn bà rồi ruồng bỏ.
Và cứ thế họ phi ngựa về phương Nam,
ngây thơ như hổ báo,
độc ác như dao găm.
Hừng đông, cha của cha tôi đã cứu những cuốn sách.
Bây giờ chúng ở trong ngọn tháp, nơi tôi nằm,
gọi về những ngày đã thuộc về những người khác,
những ngày xa vời vợi, những ngày của quá khứ.
Trong mắt tôi không có những ngày. Những kệ sách
vươn cao, vượt quá những năm tháng đời tôi,
những lớp bụi, và giấc ngủ quanh tháp.
Sao cứ tự huyễn mình?
Sự thực là tôi chẳng bao giờ học đọc,
nhưng thật dễ chịu khi nghĩ rằng,
tưởng tượng, hay quá khứ chi chi đó, đều như nhau,
đối với kẻ gần kề miệng lỗ,
từ ngọn tháp ông ta nhìn xuống nơi xưa kia vốn là một thành phố,
nay trở thành một vùng hoang dại.
Ai cấm tôi mơ mộng, đã có một thời, khi tôi giải ra sự uyên thâm,
và những con chữ với bàn tay thận trọng?
Tên tôi là Hoàng. Tôi là người giữ những cuốn sách -
những cuốn này có lẽ là những cuốn cuối cùng,
bởi vì người ta chẳng biết gì về Thiên Tử
hay là về số phận của Đế Quốc.
Nơi đây, trên những kệ cao,
cùng một thời gian gần và xa,
bí mật và có thể thấy được, như những vì sao.
Đây sừng sững - những khu vườn, những miếu đền.
đúng: âm nhạc, đúng: những từ;
hình sáu điểm sáu mươi-bốn; những buổi lễ; chúng là sự uyên thâm độc nhất
ông trời dành cho con người;
sự dẫn dắt của vị thượng hoàng
mà luật lệ tuyệt hảo đã được phản chiếu trong vũ trụ,
vốn phản chiếu người,
cho nên những con sông giữ lấy bờ
và những cánh đồng từ bỏ trái của chúng;
thấp thoáng bóng kỳ lân bị thương,
một kỷ nguyên đóng lại;
những luật pháp thiên thu bí ẩn;
sự hài hòa của thế giới.
Những điều này, hay ký ức của chúng thì ở đây trong những cuốn sách,
tôi ngắm chúng trong ngọn tháp của tôi.
Trên những con ngựa bờm xờm,
người Mông cổ từ miền Bắc đổ xuống,
làm cỏ những binh đoàn
được Thiên Tử ra lệnh trừng phạt tội phạm thượng của họ.
Họ cắt cổ, đưa lên dàn hỏa,
giết kẻ dữ, người lành,
giết kẻ nô lệ bị xiềng vào cửa căn nhà người chủ,
sử dụng đàn bà rồi ruồng bỏ.
Và cứ thế họ phi ngựa về phương Nam,
ngây thơ như hổ báo,
độc ác như dao găm.
Hừng đông, cha của cha tôi đã cứu những cuốn sách.
Bây giờ chúng ở trong ngọn tháp, nơi tôi nằm,
gọi về những ngày đã thuộc về những người khác,
những ngày xa vời vợi, những ngày của quá khứ.
Trong mắt tôi không có những ngày. Những kệ sách
vươn cao, vượt quá những năm tháng đời tôi,
những lớp bụi, và giấc ngủ quanh tháp.
Sao cứ tự huyễn mình?
Sự thực là tôi chẳng bao giờ học đọc,
nhưng thật dễ chịu khi nghĩ rằng,
tưởng tượng, hay quá khứ chi chi đó, đều như nhau,
đối với kẻ gần kề miệng lỗ,
từ ngọn tháp ông ta nhìn xuống nơi xưa kia vốn là một thành phố,
nay trở thành một vùng hoang dại.
Ai cấm tôi mơ mộng, đã có một thời, khi tôi giải ra sự uyên thâm,
và những con chữ với bàn tay thận trọng?
Tên tôi là Hoàng. Tôi là người giữ những cuốn sách -
những cuốn này có lẽ là những cuốn cuối cùng,
bởi vì người ta chẳng biết gì về Thiên Tử
hay là về số phận của Đế Quốc.
Nơi đây, trên những kệ cao,
cùng một thời gian gần và xa,
bí mật và có thể thấy được, như những vì sao.
Đây sừng sững - những khu vườn, những miếu đền.
Di Giovanni:
The Keeper of the Books
Here they stand: gardens and temples
and the reason for temples...
The Keeper of the Books
Here they stand: gardens and temples
and the reason for temples...
Borges: Bạn thấy đấy,
những khu vườn, miếu đền làm nghĩ tới một điều
chi hoang xưa, man rợ.
Di Giovanni:
Exact music and exact words;
the sixty-four hexagrams...
Exact music and exact words;
the sixty-four hexagrams...
Borges: Tôi đang nghĩ
đến The Book of Changes,1 hay I Ching, và những
hình sáu điểm, mỗi cái có sáu hàng.2
Di Giovanni:
... ceremonies, which are the only wisdom
that the Firmament accords to men....
... ceremonies, which are the only wisdom
that the Firmament accords to men....
Borges: Đây là tôi
đang cố làm người Trung Hoa. Bạn có hình sáu
điểm, những buổi lễ, và ông trời.
Di Giovanni
... the conduct of that emperor
whose perfect rule was reflected in the world,
which mirrored him...
... the conduct of that emperor
whose perfect rule was reflected in the world,
which mirrored him...
Borges: Đây là từ
Khổng Tử - bản dịch, lẽ dĩ nhiên.
Di Giovanni:
... so that rivers held their banks
and fields gave up their fruit;
the wounded unicorn that's glimpsed again...
... so that rivers held their banks
and fields gave up their fruit;
the wounded unicorn that's glimpsed again...
Borges: Đây là tiểu sử,
hoặc truyền thuyết về Khổng Tử. Hình như khi bà
mẹ ông sanh, kỳ lân xuất hiện (tôi đã nhìn thấy
hình con kỳ lân đó), và sông bắt đầu chảy từ
sừng kỳ lân. Thời gian qua đi, kỳ lân trở lại,
và Khổng Tử lúc đó biết rằng số mình đã hết.
Chúng ta cũng nghĩ tới Mark Twain và Sao Chổi
Halley. Đây là những điều kỳ diệu xuất hiện và
biến mất cùng lúc - kỳ lân và Khổng Tử, sao chổi
và Mark Twain.
Di Giovanni:
... marking an era' s close...
Borges: "kỷ nguyên đóng lại" có vẻ quá đương đại. Thời tôi người ta nói "đem cho chó". Chiếu theo sự kiện, một xứ sở luôn bị đem cho chó, nhưng, bằng một cách nào đó, lại được cứu vớt.
... marking an era' s close...
Borges: "kỷ nguyên đóng lại" có vẻ quá đương đại. Thời tôi người ta nói "đem cho chó". Chiếu theo sự kiện, một xứ sở luôn bị đem cho chó, nhưng, bằng một cách nào đó, lại được cứu vớt.
Di Giovanni:
... the secret and eternal laws;
the harmony of the world.
... the secret and eternal laws;
the harmony of the world.
Borges: Cái này thì "Tầu"
đặc, và lại có tính tiên tri, tôi nghĩ vậy.
Di Giovanni:
These things or their memory are here in books
that I watch over in my tower.
These things or their memory are here in books
that I watch over in my tower.
Borges: Tôi trở lại
với bài thơ đầu, nguỵ trang làm một người Trung
Hoa.
Di Giovanni:
On small shaggy horses,
the Mongols swept down from the North...
On small shaggy horses,
the Mongols swept down from the North...
Borges: Phải là ngựa
nhỏ, bởi vì nếu tôi viết "On high shaggy
horses", coi bộ huy hoàng, hùng vĩ quá. Ngựa
con, cho chắc ăn.
Di Giovanni:
... destroying the armies
ordered by the Son of Heaven to punish their desecrations.
... destroying the armies
ordered by the Son of Heaven to punish their desecrations.
Borges: Ở đây, tôi
muốn độc giả cảm thấy thương hại vì Thiên Tử,
người đã đưa quân đội đi trừng phạt những người
Mông Cổ, thay vì vậy, lại bị đánh bại.
Di Giovanni:
They cut throat...
They cut throat...
Borges: Tôi phải xin
lỗi tất cả về chuyện cắt cổ ở đây. Tôi vốn dân
Argentine, và đây là một thói quen.
Di Giovanni:
They cut throat and sent up pyramids of fire,
slaughtering the wicked and the just,
slaughtering the slave chained to his master's door...
They cut throat and sent up pyramids of fire,
slaughtering the wicked and the just,
slaughtering the slave chained to his master's door...
Borges: Hình như đây
là một thói quen ở dân Đông phương. Trong Chuang
Tzu có nói về một người bị xiềng vào cửa. Rồi
trong Salammbô của Flaubert, khi Hannibal bước
vào gặp những kho tàng của ông ta, trong có
người nô lệ bị xiềng.
Di Giovanni:
... using the women and casting them off.
And on to the South they rode,
innocent as annimals of prey,
cruel as knives.
Borges: Vâng, tôi nghĩ họ giống chó sói hơn là người.
... using the women and casting them off.
And on to the South they rode,
innocent as annimals of prey,
cruel as knives.
Borges: Vâng, tôi nghĩ họ giống chó sói hơn là người.
Di Giovanni:
In the faltering dawn
my father's father saved the books.
Here they are in this tower where I lie
calling back days that belonged to others,
distant days, the days of the past.
In the faltering dawn
my father's father saved the books.
Here they are in this tower where I lie
calling back days that belonged to others,
distant days, the days of the past.
Borges: Một cái tháp
vì có thể chỉ có nó là còn sau khi cả ngôi làng
bị huỷ diệt. Từ tháp, ông ta có thể nhìn thấy
nhiều điều. Và bây giờ tôi đi tới sự kiện là ông
ta không thể nhìn.
Di Giovanni:
In my eyes there are no days. The shelves...
In my eyes there are no days. The shelves...
Borges: Bạn thấy đấy,
ông ta luôn luôn nói dối.
Di Giovanni:
... stand very high, beyond the reach of my years,
and leagues of dust and sleep surround the towe
... stand very high, beyond the reach of my years,
and leagues of dust and sleep surround the towe
Borges: Nguyên bản,
tôi viết "leuas de polvo y sueno", ở estancia
của Alicia Jurado. Bà sau đó đã sử dụng làm nhan
đề một cuốn sách.
Di Giovanni:
Why go on deluding myself?
The truth is that I never learned to read,
but it comforts me to think
that what's imaginary and what's past are the same...
Why go on deluding myself?
The truth is that I never learned to read,
but it comforts me to think
that what's imaginary and what's past are the same...
Borges: Tôi trở nên
quá lỗi thời mất rồi. Chỉ thích mấy trò hấp hối.
Tôi nói về một người đàn ông, như bị mù, như bị
mất khả năng đọc sách, và rồi tệ hại hơn nữa,
ông ta mù chữ, và chẳng bao giờ có thể đọc. Số
phận của ông ta tồi tệ hơn của tôi. Tôi ít ra
còn đọc Stevenson, nhưng người đàn ông không thể
đọc những cuốn sách về sự uyên thâm của ông ta.
Di Giovanni:
... that what's imaginary and what's past are the same
to the man whose life is nearly over,
who looks out from his tower on what once was city
and now turns back to wilderness.
... that what's imaginary and what's past are the same
to the man whose life is nearly over,
who looks out from his tower on what once was city
and now turns back to wilderness.
Borges: Ông ta biết
điều đó, tuy rằng thực sự không nhìn thấy.
Di Giovanni:
Who can keep me from dreaming
that there was a time when I deciphered wisdom
and lettered characters with acareful hand?
My name is Hsiang...
Who can keep me from dreaming
that there was a time when I deciphered wisdom
and lettered characters with acareful hand?
My name is Hsiang...
Borges: Tôi có cái tên
từ Chuang Tzu, nhưng chẳng biết đọc ra sao.
Di Giovanni:
... I am the keeper of the books -
these books which are perhaps the last,
for we know nothing of the Son of Heaven
or of the Empire's fate.
... I am the keeper of the books -
these books which are perhaps the last,
for we know nothing of the Son of Heaven
or of the Empire's fate.
Borges: Đây lại là ý
nghĩ về mạt kỳ của văn minh.
Di Giovanni:
Here on the shelves they stand,
at the same time near and far,
secret and visible, like the stars.
Here on the shelves they stand,
at the same time near and far,
secret and visible, like the stars.
Borges: Tôi lại nói về
sự hiện diện bí ẩn của những cuốn sách mà bạn đã
có trong bài thơ đầu. Bài thơ thứ nhì này có thể
được coi như một loại ngụ ngôn, nhưng tôi vẫn
đang viết nó từ kinh nghiệm riêng tư.
Di Giovanni: Và dòng
thơ chót:
Here they stand - gardens, temples.
Here they stand - gardens, temples.
Borges: Với sự ngạc
nhiên, tôi thấy đây thực sự là một bài thơ hay -
cho dù tôi là tác giả. Tôi tự hỏi các bạn nghĩ
sao về nó?
Q: Liệu ông ta vẫn có
thể nhìn thấy những khu vườn, những miếu đền, từ
bên trong tháp?
Borges: Không, ông ta
không thể. Cả ngọn tháp đã bị huỷ diệt. Đây là ý
nghĩa: bên trong những cuốn sách, một trật tự đã
mất vẫn có thể tìm được lại - văn minh. Tôi nghĩ
về văn minh, trong bài thơ này, như là nó đã bị
huỷ diệt bởi những người Mông Cổ. Còn nữa, rằng
trật tự đó - văn minh Á châu, nơi tất cả câu
chuyện đã xẩy ra, hãy giả dụ, một thế kỷ trước
đó, hay hơn - vẫn còn ở trong những cuốn sách,
duy có điều: không ai có thể giải mã được chúng,
bởi vì người đàn ông này là người độc nhất còn
sống, và ông ta mù.
NQT dịch [có bỏ đi một
vài đoạn]
_____
(Nguồn : Tin Văn
Comments
Post a Comment