Kỷ Niệm 100 Năm Mất Chekhov (1904-2004)
Kỷ
Niệm 100 Năm Mất Chekhov (1904-2004)
Giữa địa ngục, xung quanh là biển
Chekov và Kafka
Cây vĩ cầm cho Rothschild
Giữa địa ngục, xung quanh là biển
Chekov và Kafka
Cây vĩ cầm cho Rothschild
Tolstoy,
trong "Con người cần bao nhiêu đất?", đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi
này:
"Ba tấc là đủ."
Chekhov đáp lại, trong "Những cây lý chua":
"Ba tấc là dành cho một xác chết, không phải dành cho một con người".
"Ba tấc là đủ."
Chekhov đáp lại, trong "Những cây lý chua":
"Ba tấc là dành cho một xác chết, không phải dành cho một con người".
Chekhov, Pondering
Imagine
Chekhov, at some point during the last weeks of his life, pondering old
photographs. Imagine the dying man pausing over this image of his
younger self.
Consider the writer's possible responses, the clashing combinations of
memory,
observation, obsolete opinions, the present knowledge as he looks at
himself
sitting -posing, yes, definitely posing for the camera-on the steps of
his
country home in Melikhovo, little Khiva tucked in the crook of his arm.
Perhaps
the older Chekhov would observe the younger Chekhov with irritated
amusement.
He might even wince at the pretensions suggested by the pose, since he
is an
expert critic of insincerity and has filled his fiction with misguided
poseurs-
lovers, industrialists, peasants and landowners-who treat the world as
their
showcase. See how the cane cuts neatly toward the center of the
picture, the
tips of his shoes gleam-these details might provoke him to think with
some
chagrin of the author who claimed to have ideas for 1036 stories, who
was
planning to write a novel "a hundred versts long," and who intended
someday to visit Tahiti, Chicago and the Arctic. And yet the older
Chekhov, I
believe, would forgive his younger self. Always a man who valued
modesty above
publicity, and "good literary manners" above ambition, he shows us in
his work that some form of pretension, even awkward pretension, is
necessary to
survive in a civilized society. When we lose interest in the theatrics
of
behavior, we are in danger of succumbing to pernicious boredom. At best
we end
up like Laevsky in "The Duel." At worst, we drift off with poor
Andrei Yefimich in "Ward No.6," muttering to the end, "It's all
the same to me ... I won't answer ... It's all the same." Or perhaps
Chekhov would marvel at this man a decade younger than himself,
grandson of
serfs and at the age of thirty-seven already the author of such
masterpieces as
"The Steppe" and "Three Years." Perhaps he would wonder how
he fulfilled all of the obligations that fell on him that decade, when
he
became caretaker for his parents and sister, when he served as the
doctor for
the local peasants and as squire of the village of Melikhovo and still
managed
to make the grueling trip across Siberia to the island of Sakhalin. He
might
recall his pattern of responsible moderation with more than a little
pride,
seeing in this portrait a man who devoted himself to the problems of
others and
yet could come close himself in his study for hours at a time, pick up
his pen
and hear the grass singing in his mind. It could be, though, that the
dying
Chekhov would neither wince nor marvel at this picture but turn away in
despair, comprehending more fully than ever before his own dishonesty.
Here is
Dr. Chekhov, villain of self-deception. What did it matter that he
suffered his
first bout of blood-spitting in 1884, shortly after graduating from
medical
school? What did it matter that for thirteen years, though he treated
many
victims of tuberculosis, he refused to identify the symptoms in
himself? The
disease probably would have progressed at the same speed even had he
sought
treatment earlier. But the lack of acknowledgement is troubling. If
he'd been one
of his characters, his pose of health would have revealed itself as a
lie, and
he would have seemed pathetic in his stubborn effort to make a lasting
name for
himself. Of course, this Chekhov, the Chekhov lounging on the steps of
his
Melikhovo home, collar turned up just so, will be remembered: as the
jaunty,
brilliant writer, as the modest poseur and as a dying man unable to
acknowledge
his illness because the telling would have made death sensible. He
preferred to
tell of life.
-Joanna
Scott****
Thứ Bảy 17/7/2004
Cây vĩ cầm cho Rothschild
Anton Pavlovich Tchekhov
Anton Pavlovich Tchekhov
Đó là một thị trấn nhỏ, còn tồi tệ hơn
một cái làng, trong
đó dân cư hầu như toàn ông già bà lão, chết hiếm tới mức khó chịu. Bệnh
viện và
nhà tù cần rất ít quan tài. Nói tóm lại, công việc ở đây rất chán. Giá
Iakov
Ivanovich làm nghề đóng quan tài ở trên tỉnh thì có lẽ lão đã có một
ngôi nhà
riêng hẳn hoi, và ở đó người ta gọi lão là ông Iakov Matveevich, chứ
không như
cái giống dân mách qué ở đây, gọi trống không cái tên Iakov, đã thế còn
đặt cho
lão cái biệt danh “lão Đồng”, hoạ có trời mới hiểu là gì. Iakov sống
nghèo khổ
như một gã mugic tầm thường, ngôi nhà gỗ cũ kỹ chật chội, trong đó cả
lão,
Marpha, cái bếp lò, cái giường đôi, đống quan tài và các thứ đồ đạc
khác đều
nhét vào một cái phòng duy nhất.
Iakov đóng những chiếc quan tài đẹp và
chắc chắn. Đối với
đám mugic và cánh đàn ông thị trấn, lão đóng quan tài theo kích cỡ của
bản thân
và chưa một lần nhầm lẫn, bởi vì có bói cũng không ra một người cao to,
chắc
khỏe như lão, kể cả trong nhà tù, mặc dù lão đã bẩy mươi tuổi. Đối với
đám
người có máu mặt và phụ nữ, những cỗ quan tài được đóng theo kích thước
của họ
mà lão đo rất kỹ bằng cái thước sắt. Còn quan tài đặt cho con trẻ lão
nhận một
cách miễn cưỡng, đóng chẳng theo một kích cỡ nào, và lúc nhận tiền công
bao giờ
cũng nói:
- Thật tình, tôi chả thích làm nhưng việc vặt vãnh thế này.
Ngoài nghề đóng quan tài, lão còn chơi đàn thuê để kiếm thêm chút đỉnh. Ở thị trấn, trên các đám cưới, người ta hay gọi đội nhạc Do thái tới chơi. Đội nhạc do lão thợ thiếc Moise Ilich Sakhkes làm ông bầu và thường thu về cho mình già nửa số thu nhập. Vì Iakov kéo vĩ cầm rất hay, nhất là những bài hát Nga, nên Sakhkes thỉnh thoảng vẫn mời lão chơi trong đội nhạc của mình và trả cho lão năm mươi copek một ngày, không tính những món thưởng của khách. Cứ thoạt ngồi vào ban nhạc là bao giờ người Iakov cũng đẫm mồ hôi và mặt thì đỏ gay đỏ gắt; không khí nóng nực nồng nặc mùi tỏi đến ngạt thở, tiếng violon rít lên, tiếng contrebasse khàn khàn bên tai trái, còn bên tai phải là tiếng sáo nức nở của gã Do Thái tóc hung, gầy nhom, mặt chằng chịt những đường gân xanh đỏ, mang cái tên của Rothschild, một người giàu nổi tiếng. Và gã Do Thái đáng nguyền rủa này, kể cả những lúc vui vẻ nhất, vẫn cố tình thổi sáo thật não nùng. Không có một nguyên cớ rõ ràng nào, nhưng trong người Iakov cứ dần dần tích tụ sự ganh ghét và lòng khinh bỉ đối với dân Do Thái, đặc bịêt với Rothschild; lão nhiếc móc, chửi mắng gã bằng đủ lời xấu xa, có lần còn định tẩn cả gã nữa. Rothschild giận giữ, làu bàu, nhìn lão, rít qua kẽ răng:
- Nếu không trọng cái tài của ông thì tôi đã ném ông qua cửa sổ từ lâu rồi.
Sau đó gã bật khóc. Chính vì thế người ta mời lão Đồng rất hãn hữu, chỉ trong trường hợp vắng mặt một nhạc công Do Thái nào đó.
- Thật tình, tôi chả thích làm nhưng việc vặt vãnh thế này.
Ngoài nghề đóng quan tài, lão còn chơi đàn thuê để kiếm thêm chút đỉnh. Ở thị trấn, trên các đám cưới, người ta hay gọi đội nhạc Do thái tới chơi. Đội nhạc do lão thợ thiếc Moise Ilich Sakhkes làm ông bầu và thường thu về cho mình già nửa số thu nhập. Vì Iakov kéo vĩ cầm rất hay, nhất là những bài hát Nga, nên Sakhkes thỉnh thoảng vẫn mời lão chơi trong đội nhạc của mình và trả cho lão năm mươi copek một ngày, không tính những món thưởng của khách. Cứ thoạt ngồi vào ban nhạc là bao giờ người Iakov cũng đẫm mồ hôi và mặt thì đỏ gay đỏ gắt; không khí nóng nực nồng nặc mùi tỏi đến ngạt thở, tiếng violon rít lên, tiếng contrebasse khàn khàn bên tai trái, còn bên tai phải là tiếng sáo nức nở của gã Do Thái tóc hung, gầy nhom, mặt chằng chịt những đường gân xanh đỏ, mang cái tên của Rothschild, một người giàu nổi tiếng. Và gã Do Thái đáng nguyền rủa này, kể cả những lúc vui vẻ nhất, vẫn cố tình thổi sáo thật não nùng. Không có một nguyên cớ rõ ràng nào, nhưng trong người Iakov cứ dần dần tích tụ sự ganh ghét và lòng khinh bỉ đối với dân Do Thái, đặc bịêt với Rothschild; lão nhiếc móc, chửi mắng gã bằng đủ lời xấu xa, có lần còn định tẩn cả gã nữa. Rothschild giận giữ, làu bàu, nhìn lão, rít qua kẽ răng:
- Nếu không trọng cái tài của ông thì tôi đã ném ông qua cửa sổ từ lâu rồi.
Sau đó gã bật khóc. Chính vì thế người ta mời lão Đồng rất hãn hữu, chỉ trong trường hợp vắng mặt một nhạc công Do Thái nào đó.
Iakov không bao giờ có được tâm trạng
sảng khoái bởi lão
luôn phải chịu những thất thu ghê gớm. Ví dụ, chủ nhật và những ngày lễ
làm
việc là có tội, còn thứ hai - húy nhật, chính vì thế trong một năm,
muốn hay
không, phải có tới gần hai trăm ngày ăn không ngồi rồi. Thiệt hại mới
lớn làm
sao! Này nhé, có những đám cưới lại không cần nhạc, hay Sekhkes không
mời Iakov,
thế là thiệt rồi. Cảnh sát trưởng hai năm liền ốm đau, tàn tạ và Iakov
mong chờ
lão chết từng ngày, ấy vậy mà lão lại lên tỉnh chữa bệnh rồi ngoẻo luôn
ở đó.
Này nhé, thiệt hại có khi lên tới cả mươi rúp, nếu như buộc phải đóng
một cái
quan tài đắt tiền có hoa văn phủ nhũ. Những tính toán thua lỗ thường
dày vò
Iakov vào ban đêm; lão đặt chiếc vĩ cầm lên chăn, và khi đủ mọi ý nghĩ
vớ vẩn
len vào đầu, lão lại bật giây đàn, cây vĩ cầm phát ra những âm thanh
trong bóng
tối khiến lão nhẹ lòng hơn.
Ngày mùng sáu tháng năm năm ngoái
Marpha bỗng nhiên lăn ra
ốm. Bà thở nặng nhọc, uống nhiều nước và đi đứng loạng choạng, thế mà
buổi sáng
vẫn tự mình nhóm lò, thậm chí còn đi kín nước. Tới chiều bà nằm một
chỗ. Iakov
chơi đàn suốt ngày, tối mịt mới xem đến quyển sổ ghi chép những thất
thu hàng
ngày, và vì buồn chán lão làm bản tổng kết cả năm. Tổng cộng mất tất cả
hơn
nghìn rúp. Điều đó làm lão sốc tới mức vứt toẹt quyển sổ xuống sàn và
di di
chân lên. Sau đó lão lại vớ lấy cái bàn gảy và tính toán rất lâu, thở
dài căng
thẳng. Mặt mũi lão đỏ gay và đẫm mồ hôi. Lão nghĩ hơn nghìn rúp thất
thu đó nếu
đem gửi nhà băng thì mỗi năm lãi suất cũng chẳng được là bao - có 40
rúp. Có
nghĩa 40 rúp này cũng là một mất mát nữa. Nói tóm lại, dù có xoay xở
như thế
nào, thì ở đâu cũng độc thấy mất mát, không hơn.
- Iakov! - Marpha bất
ngờ gọi lão. - Tôi chết đến nơi rồi.
Lão nhìn bà vợ. Mặt bà đỏ rực vì nóng, sáng rỡ và sung sướng khác thường. Lão Đồng quen nhìn thấy mặt bà nhợt nhạt, len lét thảm hại, giờ đây lão thấy lúng túng. Hình như bà lão đốc chứng chết thật và tỏ ra sung sướng vì cuối cùng đã vĩnh viễn rời khỏi cái nhà này, thoát khỏi đống quan tài và khỏi Iakov... Bà nhìn lên trần, đôi môi động đậy, nét mặt của bà thật hạnh phúc, như thể bà đã nhìn thấy cái chết, người giải thoát cho bà, và đang thầm thì với nó.
Trời hửng sáng, từ cửa sổ nhìn thấy rõ bình minh đang cháy rực. Nhìn bà vợ già, Iakov không hiểu sao nhớ ra rằng cả cuộc đời chưa một lần lão vuốt ve bà, chưa từng thương xót bà, chưa bao giờ nghĩ tới việc mua cho bà lấy một tấm khăn choàng nhỏ, mà chỉ la mắng bà, chửi bới vì thua lỗ, nhào tới bà với những nắm đấm. Thật ra thì chưa bao giờ lão đánh vợ cả, nhưng mỗi lần dọa nạt như thế cũng đã đủ làm cho bà sợ rúm cả người. Ngoài ra, lão còn không cho bà uống trà, sợ tốn kém, và bà chỉ uống nước trắng. Chính vì vậy nên lão hiểu được vì sao nét mặt bà giờ đây thật kỳ lạ, sung sướng và lão cảm thấy khiếp hãi.
Lão nhìn bà vợ. Mặt bà đỏ rực vì nóng, sáng rỡ và sung sướng khác thường. Lão Đồng quen nhìn thấy mặt bà nhợt nhạt, len lét thảm hại, giờ đây lão thấy lúng túng. Hình như bà lão đốc chứng chết thật và tỏ ra sung sướng vì cuối cùng đã vĩnh viễn rời khỏi cái nhà này, thoát khỏi đống quan tài và khỏi Iakov... Bà nhìn lên trần, đôi môi động đậy, nét mặt của bà thật hạnh phúc, như thể bà đã nhìn thấy cái chết, người giải thoát cho bà, và đang thầm thì với nó.
Trời hửng sáng, từ cửa sổ nhìn thấy rõ bình minh đang cháy rực. Nhìn bà vợ già, Iakov không hiểu sao nhớ ra rằng cả cuộc đời chưa một lần lão vuốt ve bà, chưa từng thương xót bà, chưa bao giờ nghĩ tới việc mua cho bà lấy một tấm khăn choàng nhỏ, mà chỉ la mắng bà, chửi bới vì thua lỗ, nhào tới bà với những nắm đấm. Thật ra thì chưa bao giờ lão đánh vợ cả, nhưng mỗi lần dọa nạt như thế cũng đã đủ làm cho bà sợ rúm cả người. Ngoài ra, lão còn không cho bà uống trà, sợ tốn kém, và bà chỉ uống nước trắng. Chính vì vậy nên lão hiểu được vì sao nét mặt bà giờ đây thật kỳ lạ, sung sướng và lão cảm thấy khiếp hãi.
Chờ cho sáng hẳn, lão mượn ngựa của
hàng xóm và chở Marpha
tới bệnh viện. Ở đó không nhiều bệnh nhân lắm, vì thế lão không phải
đợi lâu,
chỉ mất có ba tiếng. Và thật quá may cho lão, lần này tiếp bệnh nhân
không phải
là quan đốc, vì bản thân ngài cũng bị ốm, mà là viên y tá Maksim
Nikolaich,
người mà cả thị trấn kháo nhau rằng mặc dù là tay bợm rượu và thích gây
gổ, song
còn biết việc hơn đốc tờ.
- Xin chào ngài, - Iakov vừa dìu vợ vào phòng khám, vừa chào hỏi. - Xin được thứ lỗi, chúng tôi tới quấy quả ngài, Maksim Nikolaich, vì việc vặt này. Chả là bà xã chúng tôi vừa mới bị ốm. Nói thế nào nhỉ, bạn đời, như người ta thường gọi, dạ, xin lỗi ngài về cách nói năng...
Cau đôi lông mày bạc và vuốt cái ống nghe, viên y tá bắt đầu khám cho bà già. Marpha ngồi trên ghế đẩu người gập xuống, gầy gò, mũi nhọn với cái miệng há ra, nhìn nghiêng trông bà giống như con chim đang khát nước.
- Xin chào ngài, - Iakov vừa dìu vợ vào phòng khám, vừa chào hỏi. - Xin được thứ lỗi, chúng tôi tới quấy quả ngài, Maksim Nikolaich, vì việc vặt này. Chả là bà xã chúng tôi vừa mới bị ốm. Nói thế nào nhỉ, bạn đời, như người ta thường gọi, dạ, xin lỗi ngài về cách nói năng...
Cau đôi lông mày bạc và vuốt cái ống nghe, viên y tá bắt đầu khám cho bà già. Marpha ngồi trên ghế đẩu người gập xuống, gầy gò, mũi nhọn với cái miệng há ra, nhìn nghiêng trông bà giống như con chim đang khát nước.
- Rồi... Xong rồi - viên y tá chậm
chạp nói và thở dài. -
Bội nhiễm, mà cũng có thể sốt nóng. Hiện đang có dịch thương hàn ở
thành phố.
Biết làm sao được? Bà già sống thế cũng là đủ rồi, lạy trời... Bà ấy
bao nhiêu
tuổi vậy?
- Thiếu một tuổi tròn bẩy mươi, thưa
ngài Masim Nikolaich.
- Biết làm sao? Bà già sống đủ rồi. Đã
đến lúc được về với
Chúa.
- Dạ, ngài dạy thật chí lý, Masim
Nikolaich, - Iakov nói,
mỉm cười nhũn nhặn, - xin được đa tạ lòng tốt của ngài, nhưng chúng tôi
cũng
xin phép được trình bầy, mọi loài sâu bọ đều muốn sống cả ạ.
- Chứ lại à! - Viên y tá nói với cái
giọng như thể sự sống chết
của bà già phụ thuộc cả vào lão. - Thôi, thế này nhé, ông bạn, đắp khăn
nhúng
nước lạnh lên đầu bà ấy và cho bà ấy uống chỗ thuốc bột này, ngày hai
lần. Còn
bây giờ xin tạm biệt.
Căn cứ vào nét mặt của viên y tá,
Iakov hiểu rằng việc của
vợ lão hỏng rồi và chẳng có thuốc bột nào có thể cứu nổi. Lão hiểu rất
rõ rằng
Marpha sẽ chết rất nhanh, chỉ nay mai thôi. Lão khẽ nắm khuỷu tay viên
y tá,
nháy mắt và nói thầm:
- Masim Nikolaich, hay đặt giác hút
cho bà ấy?
- Không có thời giờ, không có thời
giờ. Làm ơn đưa bà ấy ra
ngoài. Đi ngay cho. Tạm biệt.
- Xin ngài
làm ơn,
làm phúc, - Iakov van nài, - Tự ngài cũng biết đấy, nếu như bà ấy bị
đau bụng
hay đau cái gì bên trong cơ, lúc đó mới dùng đến thuốc bột, thuốc nước,
đằng
này bà ấy lại bị cảm! Trong trường hợp bị cảm thì việc đầu tiên là phải
rút bớt
máu, Maksim Nikolaich.
Viên y tá đã gọi bệnh nhân tiếp theo.
Một mụ đàn bà dẫn một
đứa trẻ bước vào phòng.
- Ra ngoài đi, đi đi... - Lão cau có
nói với Iakov. - Đừng
làm vướng tôi.
- Thôi thì ít nhất ông cũng đặt cho bà
ấy một con đỉa vậy!
Được thế chúng tôi sẽ suốt đời cầu nguyện cho ông!
Viên y tá nổi đóa, gắt lên:
- Cứ lải nhải mãi! Đồ ngu...
Iakov cũng tức điên, mặt đỏ tía, nhưng
lão không nói một
lời, chỉ đỡ Marpha dậy và dìu bà ra khỏi phòng khám. Mãi tới lúc ngồi
vào trong
xe ngựa lão mới nhìn cái bệnh viện một cách nghiệt ngã và nhạo báng,
nói:
- Người ta tống bọn bay vào cả đây, lũ
nghệ sĩ! Đám nhà giàu
chúng bay đặt giác hút, còn người nghèo thì tới một con đỉa cũng không
cho.
Quân bạo chúa!
Khi về tới nhà, Marpha đứng một lúc,
tay vịn vào bếp lò. Bà
sợ rằng nếu như đi nằm thì thể nào Iakov cũng sẽ lại than vãn về tiền
nong,
thua lỗ và chửi mắng bà cứ nằm đấy, chả chịu làm việc. Còn Iakov nhìn
bà ngán
ngẩm và nhớ ra rằng ngày mai là ngày lễ Thánh Ioan, ngày kia là ngày lễ
Thánh
Nikolai Ban Phép Lạ, sau đó là chủ nhật, còn sau nữa, thứ hai - húy
nhật. Cả
bốn ngày không được làm việc, mà Marpha có thể sẽ chết vào một trong
những ngày
này; nghĩa là quan tài phải đóng ngay ngày hôm nay. Lão cầm lấy cái
thước sắt,
tiến tới bên vợ để lấy số đo của bà. Sau đó bà đi nằm, còn lão làm dấu
thánh
rồi bắt tay vào việc.
Khi đóng xong cỗ quan, lão Đồng đeo
kính và ghi vào quyển sổ
của mình: “Quan tài cho Marpha Ivanovna - giá 2 rúp 40 copek”.
Và lão thở hắt ra. Trong thời gian đó
bà già vẫn nằm, mắt
nhắm nghiền. Nhưng tới chiều, lúc chạng vạng, bỗng nhiên bà gọi chồng.
- Mình còn nhớ chứ, Iakov? - Bà vừa
hỏi, vừa nhìn lão vui
vẻ. - Mình còn nhớ cách đây năm mươi năm Chúa đã cho chúng ta một đứa
trẻ tóc
vàng? Mình với tôi khi đó thường hay ra ngồi ở bờ sông, cùng hát...
dưới một
cây liễu, - và bà cười cay đắng, nói thêm: - Con gái bé bỏng chết mất
rồi.
Iakov căng óc, nhưng không thể nào nhớ
nổi, cả đứa bé, lẫn
cây liễu.
- Bà nằm mơ đấy thôi, - lão nói.
Ông mục sư tới ban phép Mình Thánh và
xức dầu cho bà. Sau
đấy Marpha bắt đầu lảm nhảm những câu khó hiểu và tới gần sáng thì chết.
Các bà già hàng xóm
tới tắm rửa, khâm liệm và đặt bà vào áo
quan. Để khỏi phải chi phí cho người trợ tế, Iakov tự đọc lấy thánh
thi, còn về
phần mộ thì lão không phải trả một đồng nào, vì người gác nghĩa địa là
cha đỡ
đầu của lão. Bốn mugíc khiêng quan tài tới nghĩa địa cũng không lấy
tiền, vì
quý trọng Marpha. Đi sau quan tài là những bà già, những người hành
khất, hai
người tàn tật. Những người gặp trên đường đều làm dấu thánh một cách
sùng kính.
Iakov lấy làm hài lòng vì đã thu xếp công việc ổn thỏa, hết lòng, lại
không tốn
kém, không làm mất lòng ai. Khi từ biệt Marpha lần cuối, lão sờ chiếc
quan tài,
bụng nghĩ: “Cỗ quan tốt thật!”.
Nhưng trên đường từ
nghĩa địa về nhà bỗng nhiên một nỗi buồn
ghê gớm choán lấy lão. Iakov thấy mình không được khoẻ: hơi thở nóng và
nặng,
hai chân bủn rủn, khát nước. Đã thế đủ mọi ý nghĩ cứ len vào đầu. Lại
nghĩ tới
việc cả đời chưa một lần thương xót Marpha, chưa một lần âu yếm bà. Năm
mươi
hai năm sống chung dưới một mái nhà, vậy mà chưa một lần lão nghĩ tới
vợ, không
để ý, như thể bà là con mèo hay con chó. Thế mà chính bà hàng ngày nhóm
lò, nấu
nướng, kín nước, bổ củi, nằm cùng một giường với lão, khi lão từ những
đám cưới
trở về say khướt, bao giờ bà cũng sùng kính đỡ lấy cây vĩ cầm, treo lên
tường,
giúp lão đi ngủ. Bà làm tất cả những việc đó một cách thầm lặng, dáng
vẻ rụt
rè, lo lắng. Trên đường lão gặp Rothschild đang đi tới. Thằng Do Thái
vừa cười,
vừa cúi chào.
- Thế mà cháu cứ đi tìm bác mãi! - gã
nói. - Ông Moisei
Ilich gửi lời chào bác và mời bác tới ngay chỗ ông ấy.
Iakov chẳng còn bụng
dạ nghĩ tới việc đó. Lão chỉ muốn khóc.
- Để tao yên! - Lão
nói và đi tiếp.
- Thế là thế nào? -
Rothschild lo lắng, chạy lên phía trước.
- Ông Moissei Ilich giận chết! Ông ấy bảo phải đến ngay!
Iakov khó chịu bởi
thằng Do Thái thở hổn hển, mắt hấp háy,
mà sao mặt nó lại nhiều tàn nhang màu hung đỏ thế. Nhìn chiếc áo khoác
màu xanh
lá cây với những mụn vá sẫm màu và cả cái thân hình mảnh khảnh, yếu ớt
của nó
mà phát tởm.
- Sao mày cứ thọc vào
chuyện của tao thế hả, đồ tỏi lép? -
Iakov hét lên. - Đừng có bám lấy tao!
Thằng Do Thái cũng
nổi xung, quát lại:
- Xin ông bé cái
miệng đi cho, kẻo tôi cho ông bay qua bờ
giậu bây giờ!
- Xéo ngay cho khuất
mắt tao! - Iakov gào lên và nắm tay xấn
tới. - Không sao sống nổi với loài sâu bọ này!
Rotsild chết lặng vì sợ hãi, ngồi thụp
xuống, hai tay quơ
quơ trên đầu như thể đỡ đòn, sau đó nó bật dậy, ba chân bốn cẳng chạy
mất hút.
Trên bờ sông nó nhảy tưng tưng, hai tay vung vẩy, và thấy rõ cái lưng
dài, còm
nhom của nó cứ giật lên. Đám trẻ con mừng rỡ gặp dịp, chạy theo nó, la
hét:
“Thằng Do Thái! Thằng Do Thái!”. Đàn chó cũng đuổi theo nó, sủa váng
lên. Có ai
đó cười hô hố, sau đó huýt sáo, đàn chó nhâu nhâu sủa dữ hơn... Sau đó
chắc có
một con cắn Rothschild, bởi vọng lại tiếng thét đau đớn, tuyệt vọng của
nó
Iakov dạo trên bãi chăn gia súc, sau
đấy, không mục đích, lão
đi ra phía ngoài thị trấn. Đám trẻ con la lên “Lão Đồng kìa! Lão Đồng
kìa!”. A
mà con sông đây rồi. Ở đó những con giẽ giun và những con vịt trời kêu
chí
chóe. Trời nắng gắt, mặt nước phản chiếu ánh sáng làm chói cả mắt.
Iakov men
theo con đường hẹp dọc bờ sông và nhìn thấy từ bến tắm một bà béo tốt,
má đỏ
hây, đi lên, lão thoáng nghĩ: “Rõ thật, một con rái cá!” . Cách bến tắm
không
xa bọn trẻ con đang câu tôm bằng mồi thịt. Nhìn thấy lão chúng gào lên
một cách
độc địa: “ Lão Đồng! Lão Đồng!”. A mà cây liễu to lớn, già nua với cái
hốc
tướng đây rồi, và trên cây sao mà lắm tổ quạ... Bỗng nhiên trong trí
nhớ của
lão hiện lên hình ảnh một đứa trẻ tóc vàng, như sống thật, và cả cây
liễu mà
Marpha đã nói tới. Đúng rồi, nó đây rồi, chính là cây liễu đó - nó vẫn
còn
xanh, nhưng im lặng và buồn bã... Nó đã già quá rồi, cây liễu khốn khổ!
Lão ngồi dưới gốc cây và bắt đầu nhớ
lại. Ở bờ bên kia, nơi
hiện đang là cánh đồng cỏ ngập nước, trước đây là một cánh rừng bạch
dương bạt
ngàn, còn trên quả đồi trọc nổi rõ phía chân trời, ngày xưa là một rừng
thông
già xanh ngăn ngắt. Trên sông xà lan xuôi ngược. Còn bây giờ tất cả
bình địa,
bằng phẳng, và bên bờ bên kia còn mỗi cây bạch dương non trẻ, cân đối,
giống
như một cô nương, đứng trơ trọi một mình. Trên sông chỉ thấy ngỗng và
vịt,
không giống với cảnh xà lan đi lại. Có cảm tưởng khác với ngày xưa, đến
ngỗng
cũng trở nên ít hơn. Iakov nhắm mắt và trong óc tưởng tượng của lão
từng đàn
ngỗng lớn nối tiếp nhau bơi qua bơi lại.
Lão không sao hiểu nổi, tại sao lại
như thế, tại sao có đến
bốn, năm mươi năm lão không ra sông lấy một lần, mà giá có ra tới đây
thì chắc
gì lão đã để ý tới nó? Vậy mà đây là một con sông thật lớn, hoàn toàn
không
phải loại vớ vẩn; trên sông có thể lập những khu đánh bắt cá để bán cho
đám
thương gia, cho những công chức và các hàng ăn ở trên bến và sau đó
tiền thu
được đem gửi vào nhà băng; có thể dong duổi trên thuyền từ trang ấp này
tới
trang ấp khác và chơi đàn, mọi người đua nhau mời lão đi biểu diễn và
sẽ trả
tiền; cũng có thể thử vài chuyến xà lan - làm việc này còn tốt hơn chán
vạn
nghề đóng quan tài; và cuối cùng, có thể nuôi ngỗng, mổ thịt, tới mùa
đông
chuyển lên Moskva. Trời đất, mỗi con ngỗng quèn một năm cũng cho tới cả
chục
rúp. Thế mà lão đã bỏ qua, chẳng làm một việc gì như thế cả. Những tổn
thất mới
lớn làm sao! Ôi chao là thiệt hại! Mà nếu như làm tất cả cùng một lúc,
cả đánh
cá, kéo vĩ cầm, chở xà lan và giết ngỗng, thì sẽ kiếm được bội tiền!
Nhưng tất
cả những việc đó ngay cả trong mơ lão cũng không nghĩ ra, cuộc đời trôi
qua
chẳng ích lợi, chẳng vui thú gì, trôi qua vô tích sự, chẳng ra đâu vào
đâu;
phía trước không còn tương lai, mà ngoái lại đằng sau thì chẳng có gì
hết,
ngoài những mất mát, những mất mát lớn đến nỗi chỉ nghĩ tới thôi đã
thấy ớn
lạnh cả người. Mà tại sao con người ta lại không có thể sống như thế
nào đó, để
khỏi phải chịu những thiệt hại, mất mát nhỉ? Thử hỏi, vì sao người ta
lại chặt
cả cánh rừng bạch dương và đồi thông đi như thế? Vì sao những bãi thả
gia súc
quý như vậy lại bị bỏ hoang? Tại sao người ta luôn làm những việc chẳng
cần
thiết? Vì sao Iakov cả đời lúc nào cũng luôn miệng chửi bới, gầm gừ,
xấn xổ đấm
đá, bắt nạt vợ mình? Thử hỏi, cần gì phải doạ nạt, lăng mạ một thằng Do
Thái?
Vì sao mọi người lại cứ cản trở nhau, không cho nhau sống? Chính điều
này gây
biết bao tổn thất! Những tổn thất khủng khiếp! Nếu không có sự ganh
ghét, đố kỵ
và độc ác, mọi người có thể mang lại cho nhau những lợi ích lớn đến
nhường nào.
Cả buổi tối và suốt đêm lão toàn mơ
thấy đứa trẻ sơ sinh,
cây liễu, cá, những con ngỗng bị đập chết, Marpha nhìn nghiêng giống
như con
chim khát nước, khuôn mặt nhợt nhạt, thảm hại của Rothschild, và những
bộ mặt
các kiểu từ mọi phía kéo đến nói về sự thiệt hại. Lão trở mình hết bên
nọ sang
bên kia và năm lần tỉnh dậy để kéo đàn.
Đến sáng lão gắng hết sức đứng dậy để
tới bệnh viện. Cũng
vẫn Masim Nikoliaich yêu cầu đắp khăn lạnh lên đầu, uống thuốc bột, và
qua nét
mặt cùng giọng nói của viên y tá, Iakov hiểu rằng việc của lão đã hỏng
và không
một thứ thuốc bột nào có thể cứu giúp được. Trên đường về nhà lão nghĩ
cái chết
chỉ mang lại ích lợi mà thôi: khỏi phải ăn, chẳng cần uống, lại không
phải đóng
thuế, không làm mếch lòng ai, và bởi vì con người nằm dưới đất không
phải một,
hai năm, mà hàng trăm, hàng nghìn năm, do đó, nếu tính hết, thì cả một
nguồn
lợi lớn. Cuộc sống đem lại cho con người sự thiệt thòi, còn cái chết
lại cho nó
những lợi lộc. Ý nghĩ này, tất nhiên, có lý, song dù sao nó cũng xúc
phạm và
thật cay đắng: vì sao lại tồn tại trên đời một trật tự lạ lùng vậy,
cuộc sống
mà con người chỉ được hưởng một lần duy nhất, lại trôi qua chẳng chút
ích lợi
gì?
Chết lão không tiếc, nhưng khi về tới
nhà, nhìn thấy cây vĩ
cầm, tim lão thắt lại và lão bắt đầu thấy tiếc. Cây đàn này không mang
xuống mồ
được, giờ đây nó sẽ đơn côi và sẽ không tránh khỏi số phận của những
cây bạch
dương, của rừng thông già. Mọi thứ trên thế giới này đã mất đi và sẽ
còn mất
nữa! Iakov bước ra, ngồi trên bậc cửa nhà, ôm riết cây đàn vào ngực.
Trong khi
vẫn nghĩ tới cuộc sống mất mát, chẳng chút lợi lộc, lão bắt đầu kéo
đàn, bản
thân cũng không hiểu tại sao, nhưng tiếng đàn của lão vang lên rầu rĩ
và cảm
động. Những giọt nước mắt lăn trên má lão. Và lão càng nghĩ thì tiếng
hát của
cây đàn càng buồn thảm.
Thanh chốt cửa kẹt lên vài tiếng và
Rothschild xuất hiện
trong cổng. Nó mạnh bạo đi được nửa sân, nhưng khi nhìn thấy Iakov, đột
nhiên
nó khựng lại, cả người co quắp, và chắc vì sợ hãi, nó không nói, mà chỉ
làm
những động tác như thể muốn ra hiệu bằng mấy ngón tay báo giờ cho lão.
- Lại đây, đừng sợ, - Iakov dịu dàng
nói và dỗ nó lại gần. -
Lại đây nào.
Rothschild nhìn lão ngờ vực, tiến thêm
mấy bước và dừng lại
cách lão một sazen[1].
- Xin bác đừng đánh cháu! - Nó nói,
hơi chùng người xuống. -
Ông Moisêi Ilich lại phái cháu tới mời bác. Ông bảo đừng có sợ, cứ đến
nhà ông
Iakov và bảo không có bác là không xong. Thứ năm này có một đám cưới...
Vâng,
phải! Ngài Sapovalov gả con gái cho một người tử tế. Mà đám cưới to lắm
nhé,
u-u![2] - Gã Do Thái nói thêm, hấp háy một bên mắt.
- Bác không thể... - Iakov phều phào,
thở nặng nhọc - Bác
không được khỏe, anh bạn ạ.
Rồi lão tiếp tục kéo đàn, những giọt
nước mắt rỏ xuống cây
vĩ cầm. Rothschild nghe chăm chú, đứng nghiêng người về phía lão, hai
tay
khoanh trước ngực. Nỗi sợ hãi, nghi ngại trên nét mặt nó dần dần biến
thành nỗi
sầu muộn, đau khổ. Nó trợn ngược mắt, dường như đang chịu đựng một
khoái cảm
đớn đau, thì thào: “Vakhkhkh!..”. Và những giọt nước mắt từ từ chảy dài
trên má
nó, nhỏ xuống chiếc áo khoác màu lá cây.
Sau đó Iakov nằm cả ngày, buồn bã. Đến
tối, lúc ông mục sư
tới làm lễ rửa tội, hỏi lão có nhớ một tội lỗi nào nào thật đặc biệt mà
lão đã
mắc phải lúc sinh thời. Iakov cố căng cái trí não đã trở nên yếu ớt,
chợt nhớ
lại khuôn mặt bất hạnh của Marpha, tiếng thét tuyệt vọng của thằng Do
Thái bị
chó cắn, lão thều thào:
- Cây vĩ cầm cho thằng Rothschild.
- Được rồi, - Ông mục sư đáp.
Hiện cả thành phố đều thắc mắc không
biết thằng Rothschild
kiếm đâu ra cây vĩ cầm tốt thế? Nó mua hay đánh cắp được, cũng có thể
nó kiếm
được từ hiệu cầm đồ? Nó đã bỏ ống sáo từ lâu, và hiện giờ chỉ kéo vĩ
cầm. Dưới
cần đàn tuôn chảy những âm thanh não nùng giống như những âm thanh của
cây sáo
trước đây, nhưng khi nó thử chơi lại những gì mà Iakov đã chơi lúc ngồi
ở bậc
cửa, thì tiếng đàn của nó u sầu, thê lương tới mức khiến tất cả những
người
nghe đều phải khóc. Cả bản thân nó, cuối cùng thể nào nó cũng trợn
ngược mắt và
thều thào: “Vakhkhkh!”. Bài hát mới đó được người ta ưa thích đến nỗi
những
thương gia và các viên chức giành giật nhau mời Rothschild về nhà và
bắt nó
chơi đi chơi lại cả chục lần liền.
Đào Tuấn Ảnh dịch từ nguyên bản tiếng
Nga
[Trích e_Văn]
[Trích e_Văn]
_____________________
Chú thích của người dịch:
[1] Sazen bằng 2,134m
[2] Trong nguyên bản, Rothschild nói
năng không rõ ràng,
mạch lạc, tiếng Nga ngọng. Miêu tả sự khiếm khuyết của Rothschild, tác
giả muốn
nhấn mạnh tới sự thay đổi trong tâm lý của Iakov. Khi Iakov còn sống,
những
khuyết tật của Rothschild làm ông khó chịu, nhưng trước lúc ông chết,
những
khuyết tật đó làm cho ông thương xót, ân hận vì đã xử tệ với nó, song
cái chính
là ông đã nhìn thấy tài năng và sự nhạy cảm âm nhạc của nó, tâm hồn
nó...
Giữa
địa ngục, chung quanh là biển.
Vào
tháng Tư năm 1890, khi nhà văn thầy thuốc người Nga,
Chekhov, khởi sự chuyến đi thăm dảo tù Sakhaline, chẳng ai hiểu lý do
tại sao.
Chính ông cũng không thể giải thích, và đành coi đây là một "mania".
Và nó là một giai đoạn lạ kỳ nhất trong cuộc đời của ông.
"Tôi
chỉ muốn viết một, hai trăm trang, như một món nợ
đối với nghề y của mình…", ông viết cho Souvorine.
Trên
đường đi, ông nhớ tới "con quỉ bí mật" đã xúi
ông làm bao chuyện rồ dại.
Nhà
văn y sĩ của chúng ta đi trong những điều kiện khùng
điên. Không một thứ giấy tờ chính thức, ngoại trừ tấm giấy thông hành.
Chẳng có
công lệnh, giấy giới thiệu để trình cho nhà chức trách địa phương. Ông
còn sợ,
vừa đến nơi là bị đuổi về.
Chuyến
đi mất hai tháng rưỡi. Mệt nhoài. Tới Iaroslav, ông
dùng xe lửa. Tới Perm, dùng tầu đi trên sông Volga và Kama. Từ Perm tới
Tioumen, lại dùng xe lửa. Sau đó, đúng là một cuộc phiêu lưu. Mưa tầm
tã, đường
xá thê thảm, không biết tối nay sẽ ngủ nơi nao, có xe hơi đi tiếp nữa
không…
Ngay từ đầu chuyến đi, người hành khách đã ho, rồi ho ra máu… Từ
Tioumen tới
Tomsk, lạnh khủng khiếp, lại thêm gió. Sông lũ tràn bờ, lâu lâu lại
phải xuống
xe hơi, dùng thuyền vượt qua những khúc lội. Từ Tomsk tới Krasnoiark,
xe và
người lội trong bùn. Phía xa xa, là nóng, bụi, những trận cháy rừng.
Chỉ từ
sông Tình trở đi, cuộc du ngoạn mới tỏ ra dễ chịu.
Và
sau cùng, đảo tù, giữa vùng Sibérie bạt ngàn: "Chung
quanh là biển, ở ngay giữa địa ngục."
Viên
Toàn quyền cho phép nhà văn thăm viếng tất cả các nơi,
vào tất cả các nhà tù, và những thuộc địa. "Tôi chỉ không cho phép ông
một
điều, đó là tiếp xúc với tù chính trị, bởi vì tôi không có quyền." Ông
cũng đưa ra gợi ý, về tên cuốn sách tương lai của nhà văn: "Mô tả cuộc
đời
của những kẻ bất hạnh".
Chekhov
đã ở đảo tù Sakhaline ba tháng và hai ngày. Ông đã
hoàn tất một công việc với một sự chi ly, tỉ mỉ đến phát sợ. Ông cho in
tất cả
những hồ sơ (fiches), và ghi chú mọi trường hợp đi tù. Gần như chỉ một
mình,
ông hoàn tất mười ngàn hồ sơ, qua những cuộc hỏi tra cặn kẽ; lục lọi
những con
số thống kê về trồng trọt, câu cá, khí hậu, chế độ tù, tình trạng hình
sự, tử
vong, trốn trại… Như ông cho biết, thống kê chỉ là một phương tiện để
gặp gỡ
con người. Nhờ những lần hỏi tra tìm tòi như thế, bật ra câu chuyện một
người
tù, làm mồi cho một truyện ngắn. Những tác phẩm như "Tống xuất",
"Một vụ sát nhân"… là từ chuyến đi này.
Sakhaline,
trước hết, là một bản hoà tấu của tiếng động phát
ra từ những sợi xiềng, của gió, của biển. Một khí hậu cách biệt (thường
là
không độ), nơi tống xuất những con người, vì hai lý do trái ngược hẳn
nhau: để
thi hành bản án tù, và để xây dựng những thuộc địa. Một thế giới phi lý
và độc
ác.
"Tôi
viết [về] Sakhaline, và tôi buồn bực, buồn
bực" (Tháng Tám, 1891).
Cuốn sách của ông, lạnh và nhức nhối, như một báo cáo, đã đưa đến một kết quả không ngờ, là bãi bỏ những sự trừng phạt thân xác, và cải thiện điều kiện sinh sống ở trên đảo tù. Chekhov hy vọng cuốn sách của ông, một trăm năm sau, sẽ trở thành "vang bóng một thời", nhưng thảm thay, một trăm năm đã qua, vẫn còn đảo tù Sakhaline, gần như khắp nơi, trên mặt đất.
Cuốn sách của ông, lạnh và nhức nhối, như một báo cáo, đã đưa đến một kết quả không ngờ, là bãi bỏ những sự trừng phạt thân xác, và cải thiện điều kiện sinh sống ở trên đảo tù. Chekhov hy vọng cuốn sách của ông, một trăm năm sau, sẽ trở thành "vang bóng một thời", nhưng thảm thay, một trăm năm đã qua, vẫn còn đảo tù Sakhaline, gần như khắp nơi, trên mặt đất.
Có
thể do đọc báo cáo của Chekhov mà họa sĩ Lévitan đã vẽ
nên bức tranh "Đường lên Cổng Trời" (La Route de Vladimirka). Cắt
ngang đường chân trời, trơ trọi, dưới bầu trời đầy mây, con đường, chỉ
là một
lối đi bụi bặm, cứ thế mà lao mãi vào vô tận. Không một bóng người.
Nhưng tất
cả mọi người đều hiểu. Cổng Trời, hay La Vladimirka, đó là tên con
đường dành
cho những người tù, chân bị xiềng, nối đuôi nhau, tiến về Sibérie.
Ngày
nay, Sakhaline chối bỏ [không còn] nhà tù. Lạ một điều,
du khách tới đó, để tưởng nhớ Chekhov, để kỷ niệm 100 năm chuyến đi của
ông
(1990). Có một nhà bảo tàng dành cho ông ở Alexandrovsk-Sakhalinski,
trung tâm
hành chánh của đảo tù.
Biết
đâu đấy, trong số những du khách, có một người tên là
Chekhov.
Chekhov và Tolstoy.
Như
tất cả mọi người, Chekhov đã làm một chuyến hành hương
tới Iasnaia Poliana. Đó là ngày 8 tháng Tám 1895. Nhà văn của chúng ta
đi lang
thang trên những đại lộ, hai bên đường có những hàng cây bu-lô [một
loại cây
hàn đới, lá nhỏ]. Và trước mặt ông, là ai kia?
Con
người vĩ đại. Đầu đội nón, mặc áo choàng trắng, khăn vắt
vai, Tolstoy đi tắm sông, và kéo Chekhov cùng đi tới "khúc nước lười
biếng", của con sông nhỏ Voronka. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai nhà văn
là
như sau: cả hai đều khoả thân, giấu mình ở dưới nước, chỉ thò đầu lên
khỏi mặt
sông. Sau đó, họ về nhà, tại một nơi được chủ nhân gọi là "một góc nhỏ
êm
ái dành cho những câu chuyện nghiêm túc".
Chekhov
ở Iasnaia Poliana hai ngày. Bạn bè của Tolstoy đọc
cho ông nghe đoạn mở đầu tác phẩm "Phục Sinh", đang đương thời vào
lúc đó. Chekhov, vốn chuẩn xác, khui ra liền một hạt sạn. Nhân vật nữ ở
trong
truyện bị kết án hai năm lao động khổ sai tại Sibérie. Với một tội như
trong
trường hợp này, ít lắm cũng phải bốn niên. Để đáp lễ, Tolstoy vớ ngay
cuốn viết
về đảo tù Sakhaline. Ông bạn viết về, nào là cuộc sống của những tù khổ
sai,
đưa ra hàng loạt những thống kê… nhưng còn thiên nhiên? Chẳng có một
miêu tả
nào về thiên nhiên cả. Chekhov lắc đầu, tôi có tới đó để vui thú điền
viên đâu,
đây là một cuộc điều tra, và nó phải [làm cho người đọc] nhức nhối. Vẫn
không
lọt tai Tolstoy.
Nhưng
Chekhov tới Iasnaia Poliana để làm gì?
Vào
thời kỳ đó, Chekhov hết còn mê Tolstoy. Nói rõ hơn, cái
thái độ, "ai vả má phải đưa má trái cho người ta vả tiếp", tức chủ
trương "không-chống trả" (non-résistance) của Tolstoy đã hết còn
quyến rũ ông. Trước đó, đã có thời, sách Tolstoy thuộc loại gối đầu
giường,
rảnh chút nào là lôi ra ghi ghi chép chép. Ông mê lý tưởng khắc kỷ
thanh tịnh
của Tolstoy. Nhưng cứ ra khỏi ngõ là đụng đầu với nỗi đau khổ của con
người,
ông bắt đầu nổi loạn chống lại chủ nghĩa Tolstoy, nếu không muốn nói là
chống
lại Tolstoy. Bởi vì, dù thế nào, ông vẫn tiếp tục coi đây là một nhà
văn hàng
đầu.
-Khi
Tolstoy mất đi, mọi chuyện đều phó thác cho quỉ sứ, ông
nói với Ivan Bounine.
-Kể
cả văn chương?
-Ờ,
kể cả văn chương!
Ông
tuyên bố trước Lazarevski:
-Có
những người sợ, không dám làm những hành động xấu xa,
chỉ bởi vì, Tolstoy vẫn còn đang sống.
Vào
năm 1897, ông viết thư cho Souvorine, "Đúng rồi,
chúng ta là những tài năng lớn, chúng ta đại diện cho nhân loại, chúng
ta luôn
luôn có một điều gì để mà nói, nhưng nói phỉ phui, Tolstoy vừa nằm
xuống, là
chẳng ai viết nổi, dù chỉ một bài viết nho nhỏ."
Hay
là đoạn này, vào năm 1900, cho Menchikov, "Tôi lo
ngại cái chết của Tolstoy. Nếu ông mất đi, là có một khoảng trống lớn ở
trong
đời tôi. Thứ nhất, tôi chưa hề quí một người nào nhiều như quí ông ta;
tôi là
một kẻ vô thần, nhưng trong tất cả những kẻ hữu thần, chỉ có ông ta là
gần gụi
với tôi. Thứ nữa, trong đám nhà văn, nếu có một Tolstoy, như vậy không
ai cảm
thấy áy náy, rằng mình "cũng là nhà văn"!
Vả
chăng, làm sao mà không biết tới Tolstoy cho được?
Rozanov, tác giả cuốn "Bộ mặt u tối của đấng Christ", vốn là một
trong những cộng sự viên và bạn của Souvorine, có nói, "Là người Nga mà
không biết Tolstoy thì cũng buồn như là người Âu châu mà không biết dẫy
núi
Alpes."
Với
Chekhov, nếu ông yêu con người nhưng chống lại những tư
tưởng của Tolstoy, bởi vì đã từ lâu ông quá chán "sự thôi miên của tay
phù
thuỷ già". Điều này thật rõ ràng, trong một số tác phẩm của ông. "Một
câu chuyện tầm thường" ("Une banale histoire", còn được dịch ra
tiếng Pháp là "Une morne histoire"), chống Tolstoy, ngay cả trong sự
mô phỏng "Cái chết của Ivan Ilitch". Bởi vì, nếu Ilitch, sau khi biết
những nỗi khủng khiếp của cái chết, đã nhìn ra ánh sáng, nhân vật
Nicolai
Stépanovitch cũng sa xuống tận đáy cuộc đời, nhưng chẳng hề có một ảo
tưởng về
một cứu rỗi, cứ thế lạc lối trong cõi âm u, như Katia, người yêu bé nhỏ
mà anh
ta đã để mặc cho lang thang lưu lạc cùng với đám bụi đời. Tolstoy,
trong chuyện
kể "Con người cần bao nhiêu đất" ("Combien de terre l’homme
a-t-il besoin"), đã đưa ra câu trả lời: ba tấc là đủ; Chekhov đáp lại,
trong truyện vừa (nouvelle), "Những cây lý chua" ("Les Groseilliers"):
"Ba tấc là dành cho một xác chết, không phải dành cho một con người".
Tolstoy,
khi quay mình về với tông giáo, đã cho rằng Chekhov
thiếu chất "tâm linh" (spiritualité). Ông than thở, "Làm cho
Gorky vào đạo, còn có thể, với Chekhov, thật vô phương." Đối lại,
Chekhov
tuyên bố, "Tất cả những nhà hiền giả lớn lao đều đáng tởm như những
viên
đại tướng, và cũng vô lễ, vô ơn như là họ, bởi vì họ tin chắc, chẳng ai
dám
đụng tới họ. Diogène dám nhổ vào mặt người khác, bởi vì biết sẽ chẳng
xẩy ra
chuyện gì cho ông ta. Tolstoy thì cũng là một Diogène. Đâu có ai dám
xách cổ
ông ta tới đồn cảnh sát, hay tấn công ông ta trên báo chí."
Tolstoy
tỏ ra ngạc nhiên, khi thố lộ với Lydia Avilova:
-Tôi
quí ông ấy, nhưng tôi không hiểu tại sao ông ấy lại
viết kịch.
Có
lần, Chekhov đến thăm Tolstoy tại Gaspra, vùng Crimée,
trong toà lâu đài mà nữ bá tước Panine nhường cho ông. Ông nhà văn già
còn nằm
trên giường. Khi Chekhov cáo lui, ông già nói: "Hãy ôm hôn tôi".
Chekhov cúi xuống, Tolstoy ôm hôn, và thừa dịp, thì thầm vào tai
Chekhov:
"Bạn biết đấy, tôi không chịu nổi Shakespeare, nhưng những kịch của bạn
còn tồi tệ hơn nhiều."
Một
lần, vào tháng Tư năm 1887, khi Chekhov đau nặng, phải
vô bệnh viện, Tolstoy đến ngồi ngay bên giường. Ông nói gì với bệnh
nhân? Tương
lai.
"Nhiều
khi trong cái rủi có cái may: L.N. Tolstoy đã
đến thăm tôi ở bệnh viện. Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi thật thú
vị. Cực kỳ
thú vị, đối với tôi, bởi vì tôi lắng nghe nhiều hơn là nói. Chúng tôi
nói về
bất tử."
Bất
tử, bất diệt: khi cá nhân tan hoà vào với đám đông, một
đám đông to tổ bố. Chekhov không thể hiểu được [điều này], có thể là
do, một
bất tử bất diệt như thế chẳng nói lên được một điều gì đối với ông, và
Tolstoy
hoàn toàn ngạc nhiên [về thái độ của Chekhov].
Phải
mãi sau đó, thật quá trễ, bởi vì phải tới khi
"Chekhov từ giã cõi đời’, vào tháng Chín 1904, Tolstoy mới đưa ra lời
tuyên bố, với phóng viên đặc biệt của tờ Rous, tới tận Iasnaia Poliana
để phỏng
vấn ông, "Những hình thức mới mẻ đã được Chekhov sáng tạo ra, và, hãy
vứt
bỏ mọi thói khiêm nhường giả tạo, tôi xác định ở đây, điều này: về
phương diện
kỹ thuật, ông ta hơn hẳn tôi."
Và
sau đó, "Hai ngày nay, tôi đọc Chekhov, và sướng
điên lên." ("Je lis Chekhov depuis deux jours, et je suis en
extase". Nhật Ký, 29 tháng Ba, 1907).
Theo
Tolstoy, "Douchetchka" là số một, vượt hẳn
mọi truyện ngắn khác, cũng của Chekhov. (Tatiana Tolstoy cho biết, ông
đã đọc
đi đọc lại bốn lần, đọc lớn giọng, cùng trong một ngày, và khẳng định,
nó làm
cho ông sáng mắt sáng lòng – intelligent - thêm ra!)
"[Truyện
đó] giống như một dải lụa, dệt bởi một cô gái
trong trắng. Ngày xưa, có những cô gái cứ mãi mãi là những cô gái trong
trắng,
suốt cả cuộc đời của họ. Tất cả những giấc mơ, họ chuyển vào trong
những tấm
lụa mà họ dệt. Những giấc mơ về những gì thật quí giá, thật trong
trắng, và
cũng thật mơ hồ…"
Đây
là câu chuyện một người đàn bà không thể sống mà không
yêu. Bà tiếp nhận một cách thật ngây ngô, lố bịch những tư tưởng, những
thói
này tật nọ của những người đàn ông mà bà yêu. Chúng thật nhiều, mà cũng
chẳng
thể nào giống nhau. Cuối cùng, trơ trọi, bà hết còn tỏ ra tức cười nữa,
và kể
như tiêu luôn, và mọi người muốn cùng khóc với bà.
Jennifer
Tran
Giới thiệu
Chekhov và Kafka
I
Thất thu lớn
lao: Về đoạn mở đầu "Cây vĩ cầm của Rothschild", truyện ngắn của
Chekhov
Trong những
truyện cực ngắn của Kafka, "Y sĩ Đồng quê" thật đơn giản, nên cũng thật
khó hiểu. Người viết còn nhớ, trên báo Văn số đặc biệt về Kafka, thời
Trần
Phong Giao làm thư ký tòa soạn, Nguyễn Mạnh Côn đã dịch và giới thiệu
"Y
sĩ Đồng quê"; ông cho biết: dịch thì dịch, nhưng chẳng hiểu tác giả
muốn
nói gì! (Tôi viết theo trí nhớ).
Amoz Oz *, trên báo Partisan Review,
số Mùa Xuân 1999, khi đặt song song hai truyện ngắn, một của Chekhov
(Rothschild's Fiddle) và một của Kafka (A Country Doctor), đã giải
thích: thế
giới truyện Chekhov - trải ra bằng những nhận xét chi li mang tính xã
hội, bằng
nỗi sầu miên man, và bằng sự diễu cợt vị tha, cảm thông - lẽ dĩ nhiên
thật xa vời
thế giới ác mộng của Kafka, nhưng cái khế ước mở đầu hai truyện ngắn
giống
nhau. Nó làm độc giả lầm đường: đầy những lỗ hổng ở trong đó.
Ngay cái tên truyện, "(Cây vĩ cầm
của) Rothschild's Fiddle" (xuất bản lần đầu năm 1894), làm cho độc giả
lạc
đường 4 lần: Nhân vật Rothschild ở trong truyện không phải là nhà hảo
tâm nổi
tiếng. Ông ta không phải là một người chơi đàn vĩ cầm. Vĩ cầm không
thuộc về
ông ta, cho tới mãi gần cuối chuyện. Ông ta cũng không phải là nhân vật
chính,
mà là phụ, một người thổi sáo trong những đám cưới nghèo, một người
Do-thái khốn
khổ.
Cây vĩ cầm ở
tên truyện, thực ra là của một tay Yakov Ivanov, được mọi người gọi
bằng biệt
hiệu đường phố, Đồng (Bronze). Một ông già thù hận người Do-thái, tầm
thường,
vô tim, sống bằng nghề làm quan tài, và đôi khi, vì một vài đồng
kopecks, chơi
vĩ cầm trong những đám cưới cùng với đám nhạc sĩ rách rưới Do-thái.
Người ta có thể nhận ra sự tương tự
giữa đoạn mở đầu "Cây vĩ cầm..." và "Y sĩ Đồng quê" của
Kafka: giả thuyết cơ bản mở đầu, trong cả hai, bị bác bỏ, theo dòng
chuyện. Giả
thuyết sau cùng sụp đổ, để lộ ra, qua nhìn lại, một thứ giả thuyết
khác biệt hẳn.
Người đọc phải đọc lại, và phải lấy lại sự tin cậy, mọi điều, mọi
chuyện.
Đó là một
thành phố nhỏ, thê thảm còn hơn cả một làng quê. Toàn những người già,
họa hoằn
lắm mới chịu nằm xuống, thế mới bực! Hơn nữa, ít khi người ta cần tới
quan tài,
dù là ở nhà thương, hay ở nhà tù. Nói ngắn gọn, chẳng làm sao buôn bán
làm ăn ở
đây. Nếu Yakov Ivanov làm nghề đóng hòm ở một chốn thị tứ, chắc là ông
đã có được
một căn nhà, và được gọi là Ông Ivanov. Nhưng ở cái chốn tệ mạt này,
giản dị chỉ
là Yakov. Vì một lý do nào đó, ngoài đường họ gọi ông bằng biệt hiệu
Đồng. Ông
sống nghèo khổ như bất cứ một người dân quê bình thường trong một túp
lều, cùng
với bà vợ Marfa, một cái bếp, cái giường, mấy cái hòm...
.... Viên cảnh
sát địa phương bịnh dầm dề hai năm ròng, và đang chờ đi luôn. Yakov
nóng ruột,
đợi hoài đợi hủy chuyến tầu suốt của ông này. Nhưng viên cảnh sát dời
lên thành
phố chính để chữa trị, và chắc là phó thác linh hồn cho quỉ ma ở đó...
thế là mất
toi ít nhất 10 rúp, bởi vì đây là thứ hòm đắt tiền. Cứ đêm đêm Yakov
lại bị nỗi
mất mát lớn lao hành hạ. Ông để cây vĩ cầm kế bên giường và những lúc
không thể
chịu đựng nổi cơn dầy vò, ông mân mê mấy sợi dây. Cây vĩ cầm "tinh,
tinh" trong đêm tối, và ông ta cảm thấy đỡ đi.
Cái buồn dìu
dịu, cái diễu ấm áp, nhân hậu, tha thứ... thật không ăn khớp gì với
cách chọn lọc
thật lạnh lùng những chi tiết, cách nhìn thiên nhiên như một ông y sĩ
giải phẫu,
cách đo đạc thật chi ly khoảng cách giữa nhân vật và sự thực.
Những nhân vật
thường chẳng để ý, hoặc chẳng thừa nhận chân lý, sự thực, nhưng độc giả
được mời
nhận ra nó, giữa những dòng chữ. Ở đây cũng như ở trong những chuyện
khác,
Chekhov tạo một sự cân bằng thật chính xác, như một nhà hóa học cân đo
đong đếm,
giữa dị hợm (ridiculous) và nỗi đau xé ruột xé gan. Khế ước là sự đồng
cảm, giữa
người đọc và người kể, qua những con chữ. Thường xuyên người đọc phải
nhận ra bằng
cách đảo ngược. Thí dụ như những câu mở đầu: nỗi khóc than ca cẩm, về
chuyện
"hiếm" người chết ở trong làng, về chuyện người già "họa hoằn mới
chết và chuyện này thật là bực". Khế ước là từ người kể chuyện, không
phải
từ nhân vật, nhưng người đọc nhận ra, sau khi đã hết ngỡ ngàng, đây
chính là lời
than van của người làm hòm, do công việc ế ẩm. Cũng vậy, "Marfa, cái
bếp,
mấy cái hòm...", người để kế bên vật; ở đây độc giả biết, người kể đã
trộn
giọng nói của mình với giọng của "Đồng không tim".
Đồng ngần ngại
làm hòm cho con nít, "mất thì giờ vì chuyện không đâu", chi tiết này,
ngay ở đầu truyện, cho thấy đây là một con người biển lận. Nhưng tới
nửa truyện,
người đọc biết, Đồng cố xóa khỏi trí nhớ, và cuộc đời, cái chết của bé
gái độc
nhất của hai vợ chồng, 50 năm trước. Chỉ sau khi bà vợ chết, độc giả
mới hiểu,
Đồng cố làm cho trái tim của ông trơ ra, để cho ông đỡ đau.
Khế ước khởi
đầu làm độc giả lầm lạc, bởi vì người kể đã sử dụng thoải mái quan
điểm, và
luôn cả ngôn từ của người làm hòm già. Làm như vậy, người kể bắt buộc
người đọc
làm một công việc "chuyển dịch" cẩn trọng: "biển lận" còn là mật mã, để
chỉ nỗi cô đơn sâu thẳm. Ngần ngại làm hòm cho con nít là để giấu nỗi
đau mất
con. Tiếng đàn "tinh tinh' trong đêm theo điệu sáo của Rothschild, là
để
chống banh ra những vết thương.
Dần dà theo dòng truyện, người đọc nhận ra, những mất mát lớn lao Bronze than van, là về đời người phí phạm, bỏ đi, về nỗi vô thường của vô thường (vanity of vanities), tức phận người.
Dần dà theo dòng truyện, người đọc nhận ra, những mất mát lớn lao Bronze than van, là về đời người phí phạm, bỏ đi, về nỗi vô thường của vô thường (vanity of vanities), tức phận người.
Cốt truyện
giản đơn, chỉ một tí, một tẹo: chuyện một người làm hòm tại một làng
quê cố gắng
để đừng bị chết đói, lâu lâu làm thêm: chơi vĩ cầm cho đám cưới mạt.
Ông thật
thảm, thật tã, và cứ thế gầm gừ, với cả đời sống và cái chết, bằng một
trái tim
cố tìm đủ mọi cách để đanh lại; ngày này qua ngày khác: chỉ là triền
miên mất
mát thu nhập.
Ngã bịnh, vui ngấm vui ngầm: bà vợ chấp nhận cái chết sau cùng tới - như một giải thoát hằng mong đợi, để ra khỏi giếng nước mắt. Thấy vợ vui, người chồng đau lòng vì suốt đời đối sử chai đá. Ông kéo bà vợ bịnh tới nhà người y sĩ độc nhất trong làng và lạy lục - đúng ra là mà cả - hãy cứu vợ tôi. Nhưng viên y sĩ già nhẫn tâm lắc đầu, quay qua bịnh nhân khác. Hai vợ chồng về nhà, và người chồng bắt đầu đo hòm cho vợ: ông đưa thất thu vào trong cuốn sổ cái. Trong những giờ cuối cùng, bà vợ cố nhắc nhở ông chồng về đứa con đã mất, nhưng ông chẳng thể nhớ. Sau đám tang, ông cũng ngã bịnh, và hung hãn gây gổ với người thổi sáo Do-thái tới trò chuyện với ông. Ông lang thang ra bờ sông, bị những đứa trẻ ngoài đường trêu ghẹo. Ông di chúc cây vĩ cầm cho Rothschild. Sau khi ông chết, Rothschild sáng tác những giai điệu buồn từ cây vĩ cầm này.
Ngã bịnh, vui ngấm vui ngầm: bà vợ chấp nhận cái chết sau cùng tới - như một giải thoát hằng mong đợi, để ra khỏi giếng nước mắt. Thấy vợ vui, người chồng đau lòng vì suốt đời đối sử chai đá. Ông kéo bà vợ bịnh tới nhà người y sĩ độc nhất trong làng và lạy lục - đúng ra là mà cả - hãy cứu vợ tôi. Nhưng viên y sĩ già nhẫn tâm lắc đầu, quay qua bịnh nhân khác. Hai vợ chồng về nhà, và người chồng bắt đầu đo hòm cho vợ: ông đưa thất thu vào trong cuốn sổ cái. Trong những giờ cuối cùng, bà vợ cố nhắc nhở ông chồng về đứa con đã mất, nhưng ông chẳng thể nhớ. Sau đám tang, ông cũng ngã bịnh, và hung hãn gây gổ với người thổi sáo Do-thái tới trò chuyện với ông. Ông lang thang ra bờ sông, bị những đứa trẻ ngoài đường trêu ghẹo. Ông di chúc cây vĩ cầm cho Rothschild. Sau khi ông chết, Rothschild sáng tác những giai điệu buồn từ cây vĩ cầm này.
Bốn nỗi thất
vọng, lạc đường ở tên truyện (Rothschild không phải là vị hầu tước;
Rothschild
không phải là người chơi vĩ cầm; Rothschild không phải là nhân vật
trong truyện;
cây vĩ cầm không phải của ông), sau cùng trở thành đúng, một cách không
chờ đợi,
ở cuối truyện. Rothschild được thừa hưởng cây vĩ cầm trở thành giầu có;
ông
không còn là một người thổi sáo mà là người chơi vĩ
cầm, "gieo nhạc buồn của Bronze đi khắp
chốn". Người đọc lúc đầu đã tưởng rằng những sự kiện ở tên truyện là
sai,
sau mới nhận ra giá trị của chúng.
Có một nối kết
thật tinh tế giữa những người Do-thái và âm nhạc, giữa âm nhạc và tâm
hồn (linh
hồn). "Rothschild's Fiddle" gợi nhớ những câu chuyện kể Hassidic (1),
và nhân vật Bronze thuộc huyền thoại về một con người công chính tiềm
ẩn (the
myth of the hidden just man), của dân tộc Do-thái.
Độc giả phải
chuyển hai lần, những lời ca cẩm, than van "thất thu" của Bronze: một
chuyển hài, và một chuyển bi. Trong chuyển bi, có những "thất thu không
thực
hiện" cũng được đưa vào cuốn sổ cái:
Sau chót,
đây là con sông thực, không chỉ là một con suối nhỏ. Bạn có thể tới đó
câu, rồi
bán cá cho những người mua, những viên thư ký, và người coi ga, và để
tiền vào
sổ. Bạn có thể theo thuyền đi dọc con sông, ghé những nhà hàng quán
nước chơi
vĩ cầm, và đủ thứ người sẽ trả tiền cho bạn. Bạn có thể lại có một công
việc
làm ăn trên sông nước, khá hơn nghề làm hòm. Bạn có thể nuôi ngan
ngỗng, giết chúng
và đưa đi Moscow làm thực phẩm mùa đông. Có thể chỉ tiền cọc không thôi
cũng tới
10 rúp một năm. Ôi đau đớn làm sao, ông ta cứ để cho nước chẩy qua cầu,
mà chẳng
chịu động đậy chân tay. Ôi, bao nhiêu tiền bạc đã theo dòng nước trôi
đi! Nếu bạn
cứ cộng mãi vào - câu cá này, chơi vĩ cầm này, giữ tầu thuyền, giết
ngỗng - ông
ta đã làm ra biết bao nhiêu là tiền!
"Chuyển bi" là
đổi mới lớn lao của Chekhov, cả trong truyện và kịch: gỡ bỏ cái hàng
rào thủ cựu
giữa hài kịch và bi kịch, cho về vườn (canceling) cái qui ước ngặt
nghèo: rằng
những nhân vật "hạ tiện" (Chí Phèo?), cục cằn, vô học, bắt buộc thuộc
về cõi hài (comic realm), trong khi không gian bi là để dành riêng cho
những
con người phong nhã. Chỉ những kẻ phong nhã, những kẻ được soi sáng, là
có thể
đưa nạng chống trời, có quyền vác thánh giá, chống lại những biển sầu,
đại
dương nước mắt, chống lại những trục trặc của thế gian, rồi từ đó, đưa
ra một kết
luận cảm thông, có thể hiểu được, về số mệnh, phận người, cõi nhân sinh
phi lý,
hay là cái phần dơ dáy giấu sâu trong nhân vật, chính vì
nó mà họ bị kết án phải đọa đầy.
Yakov
Ivanov, biệt hiệu Bronze, vào lúc hấp hối đã vươn tới đỉnh cao của cảm
nhận bi.
Bằng con đường ngu si đần độn, qua - hoặc quá - cuộc đời vô nghĩa của
riêng
ông, ông đã loáng thoáng nhìn ra phận người:
Đời cứ thế
trôi, không lợi nhuận, không lạc thú, nó cứ thế qua đi, chẳng nhắm tới
đâu, chẳng
vì mục đích gì. Chẳng có gì để nhìn tới, và nếu bạn ngoảnh lại, chỉ là
một phí
phạm khủng khiếp tiền bạc, đủ để cho bạn làm một cuộc đổi đời tốt đẹp,
mầu mỡ.
Làm sao con người có thể sống mà không có tổn thất, phí phạm?.... Ông
kết luận
chỉ có thể có lời bằng cách chết: sẽ không phải ăn, không uống, không
đóng thuế,
không sỉ nhục người khác. Kể từ khi một người nằm trong mồ, không chỉ
một năm
mà hàng trăm, hàng ngàn năm, lợi nhuận thật bao la, vô cùng... Kết luận
như vậy
là đúng, lẽ dĩ nhiên, nhưng eo ôi, thật không thể chịu nổi. Tại sao
chuyện đời
lại được sắp xếp một cách kỳ quặc như vậy, một khi bạn chỉ có một đời
để sống,
và không có gì để phô ra, cho đời?
Khúc độc thoại
thê lương không thoát ra từ cửa miệng một người hùng (nhân vật, a hero,
so với
nhân vật, a character mà tác giả, Amos Oz dùng để chỉ Bronze), hay một
hoàng tử-triết
gia, nhưng từ cửa miệng một người nhà quê vô học, thiển cận, biển lận,
đã chiếu
một tia sáng khác lạ cho phần đầu câu chuyện. Cái biển lận, tham lam,
sự tầm
thường ti tiện không chỉ được coi như là cái vỏ sò mỏng mảnh mà người
đọc cứ lột
bỏ đi là vớ được viên kim cương, hột xoàn ở bên trong: Tham lam, biển
lận, ti
tiện, tầm phào, cái vỏ, hột xoàn, tất cả "là một và chỉ một mà thôi".
Với Chekhov, ở đây, Bronze là Hoàng tử Hamlet. Nỗi đau thê lương, ý
thức bi
đát, và công cuộc vác nạng chống trời, chống lại cái trật tự thế gian,
là từ
đáy sâu của câu chuyện bật ra.
Sau cùng, ở
đâu, và bằng cách nào Chekhov gieo những giác ngộ vô ngôn này (unspoken
understandings), giữa người viết và người đọc, ở đằng sau lưng nhân
vật? Biết
đâu đấy, chúng ta có thể nghe thấy chúng, qua những dạ khúc của người
làm hòm,
khi, cố dỗ giấc ngủ trên chiếc giường đời trơ trọi, ông ta đưa tay với
cây vĩ cầm.
Vào những giây phút như thế, Bronze biến thành cả hai: Saul (2), khật
khừ với
quỉ dữ; và David (3), người "sẽ chạm vào những sợi dây, cây vĩ cầm lại
tinh tinh trong đêm tối, và như vậy ông ta sẽ đỡ hơn" (... David, who
"would touch the strings, the fiddle would twang in the dark and he
would
feel better").
Chú thích:
(1)
Hassidim: một giáo phái thần bí cực bảo thủ thuộc Do-thái Chính thống,
thành lập
vào thế kỷ 18, chủ yếu dựa trên KABBALA (từ điển bách khoa Cassell,
1991
edition).
(2) Saul: Vị
vua đầu tiên của Do-thái, chống lại Samuel và sau cùng tự tử, khi cái
đầu hết
còn minh mẫn - as his mind became unbalanced - (từ điển bách khoa
Cassell).
(3) David: Vị
vua thứ nhì của Do-thái, người đã chơi đàn "harp" để xua đuổi nỗi buồn
cho vua Saul.
* Amoz Oz,
người Do-thái, viết văn bằng tiếng Dothái Hebrew, sinh năm 1939 tại
Jerusalem.
Năm 14 tuổi ông vào kibbutz (một làng, hoặc ấp Do-thái chuyên về canh
nông. Ấp
chiến lược của Ngô Đình Nhu là được "gợi hứng" từ những kibbutz). Sau
ông làm thầy giáo dậy học tại đây. Ông viết về những chủ đề đương đại,
nhắm vào
tội lỗi, sự bách hại, ngược đãi. Cuốn tiểu thuyết quan trọng làm ông
nổi tiếng,
viết năm 1972: "Bikha' el Sheli", tên tiếng Anh: "My
Michael" ("Michael của tôi"), được tờ New York Times đánh giá là
một "Bà Bovary" (1857, tác phẩm của nhà văn Pháp Flaubert), của văn
chương Do-thái. Những tác phẩm của ông gồm có: "Makom Aber" (1966), bản
tiếng Anh: "Elsewhere Perhaps" ("Một nơi nào đó, Có lẽ",
1973); "Har Ha-Etsah Ha-Raah" (1976), bản tiếng Anh: "The Hill
of Evil Council" ("Ngọn Đồi Của Ác Hội", 1978); "Beor
Hatkhelet Ha' aza", (1979), bản tiếng Anh năm 1995: "Under the
blazing light", "Dưới ánh sáng chói chang"; "Israel"
(1983); "A Perfect Peace" ("Một Hòa bình Hoàn hảo"), 1984.
Cuốn tiểu thuyết "To Know a Woman" ("Để hiểu một người Đàn
bà"), là chuyện một cô gái Do-thái khi còn nhỏ có bạn trai người Ả Rập.
Bị
phân chia do chiến tranh, lớn lên, cô gái lấy chồng, nhưng không làm
sao quên
được những xúc động, tình cảm đầu đời, từ mối tình thơ dại với người
bạn Ả Rập.
Đây vẫn là chủ đề cơ bản của thế kỷ 20, về một người đàn bà ngoại
tình...
II
Khúc gỗ trên
dòng suối ngập: Về đoạn mở đầu truyện ngắn "Y sĩ Đồng
quê", của Kafka
"...
Xác thân ông nằm trong nghĩa địa Do Thái Mới ở Zikov cùng với mẹ và
cha. Nghĩa
địa bỏ trống quá nửa, thế hệ đúng ra sẽ làm đầy nơi chốn này, được
chuyển tới
những trại tử thần vào những năm 1940, trong đó có ba chị em của Kafka."
Peter Haigh:
"Kafka in Prague, Summer 1996" (Ghi chú nhân một chuyến du lịch).
Strip his
clothes off, then he'll heal us,
If he doesn't, kill him dead
Only a doctor, only a doctor
If he doesn't, kill him dead
Only a doctor, only a doctor
(Lột trần
anh ta, rồi anh ta sẽ chữa chúng ta lành bịnh
Nếu anh ta không làm được, hãy giết anh ta
Chỉ là một y sĩ, chỉ là một y sĩ)
Nếu anh ta không làm được, hãy giết anh ta
Chỉ là một y sĩ, chỉ là một y sĩ)
O be joyful,
all you patients
The doctor's laid in bed beside you
(Các bệnh nhân ơi, hãy vui lên đi,
Y sĩ nằm trên giường kế bên anh)
The doctor's laid in bed beside you
(Các bệnh nhân ơi, hãy vui lên đi,
Y sĩ nằm trên giường kế bên anh)
"Y sĩ Đồng
quê"
"Y sĩ Đồng
quê" (1919), là câu chuyện một y sĩ vườn, bị đánh thức trong đêm bão
tuyết,
tới bên giường một người bịnh nặng. Viên y sĩ đáp lời, vượt vài trở
ngại kỳ cục,
tới bên giuờng, nhưng không thể giúp người bệnh. Sau cùng, ông thấy
mình
"với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, thân già lạc lõng". Ở cuối
chuyện, viên y sĩ nói: "Bị lừa! Bị lừa!" (1). Câu văn đóng chuyện đẩy
người đọc về phần mở đầu, để tìm cho ra, nơi đâu, chỗ nào, viên y sĩ đã
phạm lỗi
lầm, một và chỉ một mà thôi; một lỗi lầm chẳng thể nào sửa chữa. Nhìn
bề ngoài,
phần kết thúc câu chuyện chứa đựng một (ý hướng) đạo đức nào đó. Có vẻ
như, nếu
viên y sĩ biết sớm điều này, ông có thể tránh được lỗi lầm định mệnh
(the fatal
mistake).
Nhưng thực
ra, viên y sĩ, hay người đọc, biết được gì, ở phần cuối chuyện? Lỗi lầm
nào, và
đạo đức nào? Liệu viên y sĩ có thể (chọn lựa giải pháp) không trả lời
(cú gọi
trong đêm)? Liệu ông ta có thể biết ngay từ khởi đầu, đây chỉ là báo
động hoảng?
Có cách nào (trong câu chuyện ở đây, hoặc có lẽ, vượt quá nó) phân biệt
giữa
báo động hoảng và báo động thực? Riết ráo hơn nữa, viên y sĩ thực sự
đáp ứng lời
gọi, hay cực chẳng đã, bị văng lên đường?
Nói cho
cùng, làm gì có báo động, chẳng có chuông réo trong đêm, ở ngay đầu câu
chuyện
- chẳng có báo động hoảng, chẳng có bất cứ một thứ chi gọi là báo động.
Ở đầu
chuyện, có: một báo cáo thật chi li về một chuyện xẩy ra (hoàn toàn
mang tính sự
kiện, khả tín), theo đó, những sự cố hãi hùng xoắn xuýt vào nhau. Người
đọc thực
sự gặp trở ngại khi tìm cách xác định vị trí khởi đầu con xoắn. Như
trong nhiều
tác phẩm của Kafka, không hề có đột biến, nhưng thực tại tự nó mù mờ,
các hướng
các chiều chao đảo; một cuộc biến hóa (a metamorphosis), mọi vật dần
dần mang
những bóng dáng cơn ác mộng.
"Tôi thật
quá bối rối; tôi phải bắt đầu một chuyến đi khẩn cấp; một con bệnh ngặt
nghèo
đang đợi tôi, tại một làng cách mười dặm đường; giữa con bệnh và tôi,
là cơn
bão tuyết dầy đặc; tôi có một chiếc xe ngựa, loại nhẹ, bánh xe lớn,
đúng thứ xe
dùng nơi đường quê; người choàng áo lông, túi dụng cụ cầm tay, tôi ở
sân, sẵn
sàng cho cuộc hành trình; nhưng không có ngựa để mà có, không có ngựa.
Ngựa của
tôi đã chết trong đêm, do kiệt lực vì những mệt mỏi của mùa đông băng
giá này;
người tớ gái đang đầu làng cuối xóm, cố mượn một con ngựa; nhưng chỉ là
tuyệt vọng,
tôi biết, và tôi bơ vơ đứng đó, tuyết dầy thêm trên người, mỗi lúc thêm
khó
khăn cử động. Người tớ gái xuất hiện tại cổng, một mình, và vẫy vẫy cây
đèn; lẽ
dĩ nhiên, làm sao có người cho mượn ngựa cho một cuộc hành trình như
thế? Một lần
nữa, tôi đi quanh sân; không có lối ra; trong cơn bối rối ngán ngẩm,
tôi đá cái
cửa ọp ẹp khu chuồng heo đã bỏ hoang từ lâu. Cửa bật tung, đập qua đập
lại
quanh bản lề. Một luồng hơi có mùi ngựa tỏa ra. Bên trong, một cây đèn
chuồng
le lói đong đưa trên một sợi dây. Một người đàn ông co rúm người ở khu
đất thấp,
đưa bộ mặt ngây ngô, thực tình. "Tôi sẽ đóng ngựa?", anh ta hỏi, và
bò bốn chân ra phía ngoài. Tôi không biết nói sao, và khom người nhìn
coi còn
có gì trong chuồng. Người tớ gái đứng kế bên tôi. "Ông chủ không bao
giờ
biết, sẽ kiếm thấy gì, ở trong chính căn nhà của mình," cô nói và cả
hai
chúng tôi đều cười. "Ơ này, Anh ơi, ơ này, Chị ơi!" người giữ ngựa gọi,
và hai con ngựa, những con vật lớn lao, hông hùng dũng, chân lẳn vào
mình, đầu
con nào cũng thật cân đối, thâm thấp như đầu lạc đà, con này tới con
kia, chỉ mấy
cú lắc mông đã chiếm trọn lỗ cửa mở rộng. Nhưng ngay khi đứng thẳng,
những cái
cẳng dài và thân hình của chúng tỏa hơi nồng nặc. "Hãy giúp anh ta một
tay," tôi nói, và người tớ gái sốt sắng lo việc thắng ngựa vào xe.
Nhưng
cô gái vừa tới gần, người chăn ngựa túm lấy, đè mặt anh lên mặt cô. Cô
kêu lên
và chạy trở lại phía tôi. Hai hàm răng anh ta hằn dấu máu trên mặt cô
gái.
"Đồ súc vật," tôi giận dữ la lên, "anh có muốn ăn roi
không?", nhưng chợt nghĩ ra, đây là một người lạ, tôi không biết anh ta
từ
đâu tới, lại tự ý giúp đỡ tôi trong khi mọi người khác đã làm tôi hụt
hẫng. Như
biết được ý nghĩ của tôi, anh không coi lời hăm dọa là trọng, lại bận
rộn với mấy
con ngựa, hài lòng xoay lưng về phía tôi. "Hãy lên xe!", anh ta nói
sau đó, và quả đúng như vậy, tất cả đã sẵn sàng. Một cặp ngựa tuyệt
vời, tôi
quan sát, đúng là chưa bao giờ được ngồi đằng sau một chiếc xe như vậy,
và vui
vẻ trèo lên. "Nhưng tôi là người cầm cương, anh đâu biết đường", tôi
nói. "Lẽ dĩ nhiên" anh ta nói, "vả chăng, tôi không đi với ông,
mà ở lại với Rose." "Không", Rose la lên, chạy trốn vô nhà, linh
cảm sẽ chẳng thoát khỏi số; tôi nghe tiếng dây xích cửa, tôi nghe tiếng
cài
then, tôi còn nhìn thấy cô gái tắt đèn nơi hành lang và tất cả các
phòng, mong
sao không bị phát hiện. "Anh đi với tôi," tôi nói với người chăn ngựa,
"nếu không tôi sẽ không đi, dù khẩn cấp cỡ nào. Tôi sẽ không đổi cuộc
hành
trình với giá cô gái". "Đi nào!" anh ta nói; anh ta vỗ tay; cỗ
xe bật lên như một khúc gỗ trên dòng suối ngập; tôi còn nghe tiếng cánh
cửa chịu
thua, vỡ từng mảnh dưới những cú đập của người chăn ngựa, rồi mắt mù
tai điếc
vì cơn bão, tôi không còn bất cứ cảm giác."
Cái tên truyện
giới thiệu với chúng ta, người kể chuyện xưng tôi, mặc dù anh chưa hề
nói một lời:
một y sĩ đồng quê. Rồi anh trình bầy tất cả mọi chi tiết khởi đầu, theo
giọng
"đây chỉ là sự kiện" (a matter-of-fact tone), y hệt một báo cáo cảnh
sát; như thể anh đang xác minh trước quan tòa, như thể anh phải tự bào
chữa, bảo
vệ, trước những cáo buộc hình sự.
Tình cảnh của
anh: hết sức bối rối. Vấn đề của anh: một chuyến đi khẩn, một người
bịnh nặng,
một làng cách mười dặm đường, một cơn bão tuyết, không ngựa, không hy
vọng có
được một con ngựa. Những biện pháp anh đề ra: 1- Cho người làm đi mượn
ngựa, mặc
dù chẳng một chút cơ may. 2- Đứng ở sân nhà, trong tuyết, sẵn sàng, đợi
chờ
chuyến đi; để, nếu người làm mượn được ngựa, sẽ chẳng mất đi đâu một
phút, một
giây. 3- Lại đi lòng vòng quanh sân. 4- Đá bung cửa chuồng heo bỏ
hoang, biết
đâu tìm thấy gì ở đó. 5. Khi ngựa và người xuất hiện, chẳng mất thì giờ
hỏi tra
về sự xuất hiện lạ thường này. 5- Tỏ thái độ khi cô đầy tớ gái bị xúc
phạm,
nhưng không trì hoãn chuyến đi, người bịnh nặng mới là quan tâm hàng
đầu. 6-
Thay đổi mối quan tâm hàng đầu, khi nhận ra người giữ ngựa sẽ làm nhục
Rose,
quyết định không bỏ mặc cô gái. 8- Khi người giữ ngựa làm cho hai con
vật lồng
lên, không điều khiển được chúng, và chiếc xe bị kéo đi "như một khúc
gỗ
trên dòng suối ngập" ("like a log in a freshet").
Không một phiên tòa nào có thể kết tội
viên y sĩ, về hành vi, cách xử sự của ông, trong bất cứ tình huống,
biến động.
Tuy nhiên, ngay từ khởi đầu, cho tới cuối câu chuyện, những câu hỏi
trung tâm vẫn
chưa được trả lời. Hơn thế nữa, chúng chưa từng được hỏi.
Thực sự, viên y sĩ bị cáo buộc vì
cái gì? Đâu là những lời tố giác, buộc tội ông
phải chiến đấu trong tuyệt vọng để phản bác?
Chúng từ đâu mà ra? Ai
buộc tội ông? Ai kết án ông, ở cuối chuyện (phải): "Trần trụi, phơi
người
ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với
cặp ngựa
ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the
frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly
horses,
old man that I am, I wander astray.") Và
vì tội (sin) gì?
Chừng 1/3
chuyện, là về những toan tính của viên y sĩ nhằm tự chống đỡ trước cáo
buộc, vốn
chẳng có, trước một bên nguyên chẳng hề xuất hiện ở trong chuyện. Thêm
vào
"lời xin lỗi" (apology) ở đầu chuyện, thật hữu lý, và cũng thật vững
vàng, một "biện hộ khác" xuất hiện sau đó như một lời than van, tự
thương thân, khác biệt hẳn biện hộ khởi đầu.
"Tôi là
y sĩ quận lỵ, làm bổn phận của tôi tới cùng, gần như quá sức tôi. Tôi
được trả lương
tồi, nhưng tôi rộng lượng, giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên tôi còn phải
lo cho
Rose, và sau cùng tên chăn ngựa có thể không có lỗi; tôi cũng vậy, tôi
chỉ muốn
chết. Tôi làm gì ở đây trong cái mùa đông vô tận này! Ngựa của tôi thì
chết, vậy
mà chẳng một người nào trong làng cho tôi mượn một con khác. Tôi phải
lấy ngựa
từ nơi nuôi heo; nếu sự tình cờ không để đôi ngựa ở đó, chắc là tôi
phải đóng
xe bằng mấy con heo... Đâu phải đây là lần đầu tôi bị kêu ra khỏi nhà
vì một
chuyện vô ích, tôi đã quen với nó rồi, cả cái quận lỵ biến cuộc đời tôi
trở
thành khốn khổ khốn nạn với cú gọi đêm, nhưng lần này có lẽ tôi phải hy
sinh
Rose... thật là đòi hỏi quá đáng..."
Trái ngược với
biện hộ ngắn ngủi ở đầu chuyện, khúc độc thoại ở đây cho thấy, không
phải toan
tính nhằm thuyết phục, mà là cố gắng làm mủi lòng. Có lẽ, một độc thoại
vượt
quá cơn tuyệt vọng, chán ngán, kể từ lúc người nói, ở đoạn đầu, đã tỏ
ra mong ước
được chết (ngay sau khi Rose được an toàn), ở đoạn cuối, anh nhìn lại
chuyến đi
thăm người bịnh - và cả đời mình - như là một thất bại vô phương sửa
chữa.
Đoạn mở đầu
là một biện hộ, vững vàng, không thể chê trách được, ít ra ở bề ngoài.
Một biện
hộ bi thảm: nó hầu như là một câu dài, với nhiều mệnh đề, xác định bằng
dấu chấm
phẩy. Lời khai của viên y sĩ, là thì hiện tại, như một buổi phát thanh
trực tiếp
("at the moment she went to him and here, yes, the groom grabs her and
knocks his face against hers. The girl lets out a shriek and flees
toward
me."), có vài chuyển tiếp giữa dòng (mid-sentence transitions) từ quá
khứ
qua hiện tại như thế.
Viên y sĩ đá
cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải thoát) -
trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi chuồng
heo. Như sự
xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của Gogol, sự xuất
hiện của
người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu tả hầu
như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân", hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào
mình..." Cắn vào má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì
vậy
mà viên y sĩ gọi anh là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm
phạm cô gái thực sự mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa
nhà
tôi long ra từng mảnh dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc,
tên
chăn ngựa đóng vai quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề
nghị một
chuyện trao đổi ma quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi
lên, dụ khị
(offering) thân chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này;
nhưng, cái mà
con quỉ lấy đi còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ
không đổi
chuyến đi với cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa,
"định
mệnh đã an bài"!
Ở đầu chuyện,
là một số gắng nhằm giải quyết vấn đề di chuyển - làm sao tới bên
giường một
người bệnh ngặt nghèo, tại một làng cách đó mười dặm đường, một cơn bão
tuyết
trong đêm - cuối cùng hóa ra là một "vụ việc" (affair), với đầy tủi hổ,
nhục nhã, và tội lỗi: ngựa của viên y sĩ chết vì bị hành quá mức, ông
ta không
thể bảo vệ cô gái, ông ta cũng thất bại không cứu nổi người bịnh. Có lẽ
chính
vì vậy mà đoạn mở đầu mang cái vỏ một lời xin lỗi (sự thực, cả câu
chuyện là một
lời xin lỗi). Hỡi ơi, đây chỉ là một lời xin lỗi phi lý, xin lỗi theo
kiểu vòng
vo Tam quốc, giống như trong chuyện dân gian: "Có một lỗ hổng ở trong
cái
xô của tôi": điều thứ nhất không thể thực hiện vì thiếu điều thứ hai,
điều
thứ hai bị ngăn chặn (thực hiện) vì những trói buộc ở điều thứ ba... và
cứ như
thế. Đạt được điều thứ nhất là đạt được tất cả, khốn nỗi...
Hãy thử thực
hiện câu chuyện "Y sĩ Đồng quê" theo kiểu trên, xem sao:
-Nếu mọi
chuyện đều sẵn sàng cho chuyến đi - bao gồm cả chuyện "một chiếc xe nhẹ
với
những bánh xe lớn" - tại sao ông không đi?
Bởi vì không có ngựa.
-Ngựa đâu?
Chết đêm hôm qua.
-Tại sao ngựa chết?
Vì những mệt mỏi mùa đông băng giá.
-Tại sao ngựa mệt mỏi trong mùa đông băng giá?
Bởi vì cả quận lỵ biến đời tôi trở thành khốn khổ khốn nạn với cú gọi đêm.
-Tại sao cú gọi này lại nặng nề đối với ông, hơn là những cú khác?
Lần này "chắc tôi phải hy sinh Rose"
-Như vậy tại sao ông bỏ mặc cô gái? Tại sao ông để tên chăn ngựa cắn cô ta?
Tôi đã trách anh ta, tôi dọa quất roi anh ta.
-Tại sao ông không quất?
Bởi vì ngay lập tức tôi nhớ ra "người đàn ông này là người lạ; tôi không biết anh ta từ đâu tới".
-Tại sao ông nhận sự giúp đỡ từ một người lạ khi ông không biết gốc gác người đó?
Bởi vì anh tự ý giúp tôi thoát ra khỏi khó khăn trong khi tất cả mọi người làm tôi hỏng cẳng.
Tại sao những người khác làm ông hỏng cẳng?
"Cả quận lỵ biến đời tôi thành khốn nạn".
-Tại sao ông không ngăn tên giữ ngựa phá cửa, và rồi xâm phạm cô gái?
Tôi đã cố. Tôi ra lệnh cho anh ta đi với tôi, nếu không "tôi sẽ không đi, dù khẩn cấp cỡ nào".
-Nếu vậy, tại sao ông không huỷ chuyến đi?
Bởi vì tên giữ ngựa bất thình lình vỗ tay ra hiệu cho ngựa vùng lên, chiếc xe bị kéo đi, "như khúc gỗ trên dòng thác".
-Tại sao ông phó mặc tính mạng của ông vào một tên chăn ngựa?
Bởi vì có một người bịnh ngặt nghèo đang đợi tôi, tôi lại không có ngựa.
Bởi vì không có ngựa.
-Ngựa đâu?
Chết đêm hôm qua.
-Tại sao ngựa chết?
Vì những mệt mỏi mùa đông băng giá.
-Tại sao ngựa mệt mỏi trong mùa đông băng giá?
Bởi vì cả quận lỵ biến đời tôi trở thành khốn khổ khốn nạn với cú gọi đêm.
-Tại sao cú gọi này lại nặng nề đối với ông, hơn là những cú khác?
Lần này "chắc tôi phải hy sinh Rose"
-Như vậy tại sao ông bỏ mặc cô gái? Tại sao ông để tên chăn ngựa cắn cô ta?
Tôi đã trách anh ta, tôi dọa quất roi anh ta.
-Tại sao ông không quất?
Bởi vì ngay lập tức tôi nhớ ra "người đàn ông này là người lạ; tôi không biết anh ta từ đâu tới".
-Tại sao ông nhận sự giúp đỡ từ một người lạ khi ông không biết gốc gác người đó?
Bởi vì anh tự ý giúp tôi thoát ra khỏi khó khăn trong khi tất cả mọi người làm tôi hỏng cẳng.
Tại sao những người khác làm ông hỏng cẳng?
"Cả quận lỵ biến đời tôi thành khốn nạn".
-Tại sao ông không ngăn tên giữ ngựa phá cửa, và rồi xâm phạm cô gái?
Tôi đã cố. Tôi ra lệnh cho anh ta đi với tôi, nếu không "tôi sẽ không đi, dù khẩn cấp cỡ nào".
-Nếu vậy, tại sao ông không huỷ chuyến đi?
Bởi vì tên giữ ngựa bất thình lình vỗ tay ra hiệu cho ngựa vùng lên, chiếc xe bị kéo đi, "như khúc gỗ trên dòng thác".
-Tại sao ông phó mặc tính mạng của ông vào một tên chăn ngựa?
Bởi vì có một người bịnh ngặt nghèo đang đợi tôi, tôi lại không có ngựa.
Ở đây có
bóng dáng vòng vo câu chuyện "bà
già đi chợ đàng trong, mua năm cây mía vừa cong vừa dài; bà già đi chợ
đàng
ngoài, mua năm cây mía vừa dài vừa cong" (còn được truyền tụng như sau:
Mẹ
em đi chợ đường trong, mua em cây mía vừa cong vừa dài; mẹ em đi chợ
đường
ngoài, mua em cây mía vừa dài vừa cong).
Cũng vẫn một
"mẫu mã" như trên, là đoạn viên y sĩ gặp người bịnh, đoán bịnh lầm.
Thoạt đầu, ông không nhận ra vết thương của cậu bé, rồi không thể giúp
nó...
Vậy thì đâu
là "khế ước mở đầu", người đọc được yêu cầu chấp nhận?
Thoạt kỳ thuỷ,
là mong ước người đọc: tin tưởng người kể chuyện-y sĩ, tỏ ra có cảm
tình với
con người đạo hạnh đã đáp ứng lời gọi trong đêm bão tuyết, đi chữa một
bịnh
nhân... Những đòi hỏi khẩn cấp, hình huống ngặt nghèo, lời khai, lời
xin lỗi...
của viên y sĩ khiến người đọc nhận ra ý nghĩa việc viên y sĩ quyết định
sử dụng
đôi ngựa. Ngay cả vụ tấn công cô gái cũng không đủ để hoãn cuộc hành
trình, và
độc giả hài lòng với việc trách móc "qua loa" của viên y sĩ.
Chỉ tới khi
đôi ngựa lồng lên (bi kịch bắt đầu!), người đọc mới băn khoăn tự hỏi,
phải
chăng hoàn cảnh (thực sự) ở trong tầm tay, ngay từ khởi đầu. Những
quyết định của
viên y sĩ có thực sự là những quyết định? Cả một chuỗi lo toan tính
toán, quyết
định như thế, cuối cùng hóa ra chỉ là một cơn "hoang tưởng" hãi hùng
của viên y sĩ: ông ta đã bị lừa. Ông ta đã đáp ứng một báo động hoảng.
Không phải
chỉ viên y sĩ bị lạc đường, mà luôn cả độc giả cũng bị "văng lên
đường",
theo với ông!
Bởi vì nói
cho cùng, chẳng có báo động hoảng, ông ta đã "bị" lên đường, ngược lại
ý muốn của ông.
"Y sĩ Đồng
quê", dù hiểu thế nào đi chăng nữa, không phải là câu chuyện của tội
lỗi
và trừng phạt. Càng chẳng phải một câu chuyện ngụ ngôn về chuyện chuyển
hướng lầm,
chọn lầm (taking the wrong turn, making the wrong choice). Thảm kịch
của viên y
sĩ không phải là do hậu quả của những hành động, và thất bại của ông.
Chuyện
"xin lỗi" chỉ là nói cho vui. Khế ước mở đầu chỉ là đối tượng của một
khế ước thực, khế ước ngầm. Theo những điều kiện của khế ước ngầm này,
viên y
sĩ đã có tội, "ngay từ tiên thiên, tiên nghiệm" (à priori). Ông ta đã
bị kết tội, kết án ngay từ khởi đầu, mặc dù sự vô tội của ông. Ông ta
có tội
ngay cả trước khi bắt đầu những lời than van, xin lỗi, tự kiểm thảo bản
thân.
Ngay từ "thoạt kỳ thuỷ", ông ta chẳng khác nào "một khúc gỗ
trên dòng suối ngập". Ông ta có tội, bởi vì "tội lỗi của người đàn
ông" (a man's guilt) luôn luôn nằm sẵn đó, đợi ông.
Cô gái Rose
hình như đã nói ra những điều kiện thực sự của tờ khế ước, của Kafka:
"Bạn
chẳng thể nào biết điều bạn đang tìm, trong chính căn nhà của mình".
Tội lỗi ngồi
thu lu đằng sau "cánh cửa ọp ẹp của cái chuồng heo đã bỏ hoang từ bao
nhiêu năm tháng...".
(Theo bài viết
của Amoz Oz trên Partisan Review, số Mùa Xuân, 1999).
Chú thích:
(1). Bản tiếng
Anh: "Betrayed! Betrayed!" (Bị phản bội); bản tiếng Pháp của Claude
David, (nhà xb Gallimard, tủ sách Folio, 1990: "Dupé! Je suis dupé!"
(Bị lừa! Tôi bị lừa!).
Jennifer
Tran chuyển ngữ, và giới thiệu.
Comments
Post a Comment