Anh Môn
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Alain-
Fournier
Le Grand Meaulnes
Lire Le Grand
Meaulnes, c'est aller à la
découverte d'aventures
qui exigent d'incessants retours en arrière, comme si l'aiguillon du
bonheur
devait toujours se refléter dans le miroir troublant et tremblant de
l'enfance
scruté par le regard fièvreux de l'adolescence.
Le
merveilleux de ce roman réside dans un secret mouvement de balancier où
le
temps courtise son abolition, tandis que s'élève la rumeur d'une fête
étrange
dont la hantise se fait d'autant plus forte que 1'existence s'en
eloigne irrévocablernent.
Édition de Daniel Leuwers.
Anh 1 đời
rong ruổi
Em tay bế
tay bồng
Những khám phá này làm chàng đau hơn hoạn. Năm năm sau cú sét đánh, chàng vẫn, như đỉa đói, ôm riết lấy căn bịnh, he still labelled his fixation a “sickness”. Lâu lâu nỗi buồn biến thành một trận sốt thực sự. Nhưng nói chung, nó hợp với chàng, với thứ tình yêu "chiêm ngưỡng và kính trọng", yêu từ xa, to love at a distance.
[Note: Từ
"đỉa đói" này, là của 1 nữ thi sĩ, tặng Gấu Cà Chớn.
Em phán, kiếp
trước
mi đúng là 1 con đỉa, nên kiếp này mi làm phiền ta quá, làm rộn ta quá!]
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Như “đỉa đói”,
chàng bám chặt vào hồi ức, cái giây phút mặc khải, tức là lần đầu tiên
thoáng
nhìn thấy nàng, và “ngộ” ra chân lý, quả có em tên là BHD, là Sad
Seagull ở trên
cõi đời này - trước khi nó tan hoà vào cái gọi là thời mới lớn của bất
cứ một đứa
con trai/con gái nào. Hàng năm, cứ vào ngày giờ kỷ niệm cái thoáng nhìn
thấy nàng
lần đầu đó, là chàng mò ra tòa Đại Lâu Đài, dù có những u tối - tức là
hùa theo
lẽ phải, cái hữu lý ở trên đời, làm gì có nàng ở đó. Chàng thường xuyên
trở lại
căn phòng ngày nào nàng ở, nơi nhà bà con, hy vọng bóng dáng nàng hiện
ra ở cửa
sổ. Và, như 1 tên Mít VC, đệ tử khốn khổ của Bác H, tên của nàng,
BHD, hay Sad Seagull,
luôn luôn được viết hoa, trong tất cả những thư từ viết ra.
Cú thất bại thứ
ba, đi lính, đi quân dịch may mắn thay, đem đến cho chàng hai năm thê
luơng u sầu,
thay vì trở thành 1 tên lính Ngụy!
Vào năm 1909, chàng trở lại Paris sống với bố
mẹ, tang thương, nhức nhối vì ý nghĩ, rằng, tuổi trẻ của mình thế là
hết mẹ mất
rồi, “thôi rồi, còn chi đâu em ơi”!
[Cái này thuổng lời 1 bản sến do em Lệ Quyên
ca, thần sầu, cái CD mới tậu chuyến đi Cali vừa rồi!]
Những toan tính níu kéo, “còn chi em ơi”, làm sao gặp lại nàng, chỉ càng thêm thất vọng. Vào tháng Chín 1907, sau cùng chàng được gọi tới trình diện tại căn phòng ngày nào nàng ở, trong tòa bulding, và được người gác cổng cho biết, nàng đã lấy chồng mùa đông năm trước. Hai năm sau, vẫn như đỉa đói, chàng mướn 1 anh thám tử tư, điều tra, và biết được địa chỉ của nàng, và biết thêm, nàng đã có 1 đứa con.
Anh 1 đời
rong ruổi
Em tay bế
tay bồng
Những khám phá này làm chàng đau hơn hoạn. Năm năm sau cú sét đánh, chàng vẫn, như đỉa đói, ôm riết lấy căn bịnh, he still labelled his fixation a “sickness”. Lâu lâu nỗi buồn biến thành một trận sốt thực sự. Nhưng nói chung, nó hợp với chàng, với thứ tình yêu "chiêm ngưỡng và kính trọng", yêu từ xa, to love at a distance.
Note: Từ "đỉa đói" này, là của 1 nữ thi sĩ, tặng Gấu Cà Chớn.Em phán, kiếp trước mi đúng là 1 con đỉa, nên kiếp này mi làm phiền ta quá, làm rộn ta quá!
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Mặc dù nổi
tiếng như thế đó, Anh Môn,
100 tuổi tính đến năm nay, 2013, là 1 tuyệt
tác đang
gặp hiểm nguy, bị tiêu trầm, chìm vào quên lãng. Du khách hành hương
viếng thăm
căn nhà thời ấu thơ của Alain Fournier, gần Lộ Đức, ngày càng mỏng dính
[thưa
thớt, nếu biết tiếng Mít, dịch từ “thin” của tiếng Hồng Mao].
Những ngày này độc
giả Anh, Mẽo thường chọn tiểu thuyết Tẩy, thứ có mùi triết Tẩy, hiện
sinh hiện
xiếc, [thí dụ, đến ngay Cô Tư, miệt vườn Cà Mâu xứ Mít, mà văn còn có
mùi hiện
sinh nữa là!]
Một
thập niên trước đây, Tobias Hill ghi nhận, sách sống sót nhờ một hệ
thống rỉ tai bằng tiếng Tầu,
“a barely audible system of Chinese whispers”.
Tại sao nhiều
độc giả Anh lại hờ hững với cuốn sách, được một số những nhà văn thuộc
loại số
1, được kính trọng, nể vì của Ăng Lê, trân trọng, và có ông còn nhận
tác giả của nó, là Thầy của mình, như Fowles?
Và, với những độc giả coi Anh
Môn như sách
gối đầu giường, thì là do đâu?
Do cách viết, do văn phong, giản dị, "viết như không viết"?
Một
câu chuyện
tình thời mới lớn không làm sao quên được, mang chất hoài cổ, lãng mạn,
vãi linh
hồn?
Với những fans khác, tình tiết ly kỳ, tính thơ của ngôn ngữ?
Rất
nhiều độc
giả bị hớp hồn bởi cái gọi là “buồn vào hồn không tên”, một nỗi
u hoài,
bi ai, toát ra từ một thứ thơ xuôi, như 1 nhà phê bình nhận
xét, “như
sương mù bên trên bãi tha ma”.
Một phần, còn do cuộc đời của chính
tác
giả, một cuộc đời lãng mạn, và cái chết trẻ của ông, và câu chuyện về
người đàn
bà đã gợi hứng cho ông.
*
-Em tìm để
từ biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng
của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn...
Kiệt lặng người....
TTT: MCNK
There is
among all your memories one which
has
now been lost beyond recall.
J.L. Borges: Limits
Trong tất cả
hồi ức của mi, có một, mất tăm, tích, không làm sao nhớ lại được.
Gấu không
làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà
phê
Sarbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm
sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong,
anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng hồ, nói trễ
quá, phải
trả xe cho người bạn….
A brief
encounter
Một cuộc gặp
gỡ ngắn ngủi
Toàn thể cuộc
đời của Henri Fournier, bây giờ được biết nhiều qua bút danh, trải qua
chỉ trọn
một buổi chiều có nắng, vào năm 1905, được miêu tả trong cuốn tiểu sử
thật có
giá trị của Robert Gibson,
“Tuổi Trẻ Chấm Dứt”
“The End of Youth”. Rời phòng triển lãm hội họa ở tòa Đại Lâu Đài, ở
Paris, Henri
Fournier, khi
đó 18 tuổi, thoáng nhìn thấy một thiếu nữ đi bộ cùng với
1 người
đàn bà lớn tuổi hơn. Trúng đòn liền, anh đi theo họ, qua con sông tới
cánh cửa
một căn phòng bên Tả Ngạn, và sau đó, cứ có dịp là mò tới bên ngoài tòa
nhà, đâu
có dám gõ cửa, và thế là cứ trồng cây si, dọc những con phố xung quanh.
Mười ngày sau, thấy cô ra khỏi nhà, để đi
lễ, bèn đánh bạo tới gần. Tuy bẽn lẽn, nhưng cũng khoai khoái vì có
người hâm mộ,
cô gái bằng lòng đi sóng đôi, lững thững dọc bờ sông Seine.
Chàng khoe với
nàng [thú nhận đúng hơn chứ, nhỉ] chàng là [hay sẽ là]... Gấu Nhà
Văn, con
trai của
một ông hiệu trưởng trường làng [ông cụ của GNV quả là hiệu trường
trường quận,
huyện, thị xã, bảnh hơn ông via Henri Fournier]. Nàng cho chàng biết,
tên nàng
là Bông Hồng Đen, hay Hải Âu Buồn, hà, hà, [sự thực Yvonne de
Quiévrecourt], và
nàng ở Paris nơi nhà một người bà con, và sẽ rời thành phố ngày hôm sau.
Và nàng ra lệnh,
hãy chia tay, khi cả hai đi tới cầu Pont
des Invalides.
Nàng đi, chàng đứng lại
nhìn, và thấy nàng ngoái lại nhìn, hai lần.
Bao nhiêu
năm sau chàng cố "giải mã" hai lần ngoái lại này:
Hay là nàng muốn thằng ngu được chiêm ngưỡng khuôn mặt nàng thêm, hai lần nữa?
"Khi em đi vô cổng trường, rồi anh đừng có đứng lại lâu vì em sẽ biết anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm cười nhìn anh, lũ bạn vô lớp lại có chuyện để nói….”
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Anh
Môn
Cô gái ở tòa lâu đài Grand Palais
Ám ảnh thời mới lớn gợi hứng cho nhà văn cổ điển Tẩy bị thế nhân mắt trắng dã vờ
Sal
Paradise, nhân vật của Jack Kerouac trong “Trên Đường”, mang theo cùng
với anh ta chỉ
một cuốn sách trong chuyến viễn du kéo dài ba năm lòng vòng nước Mẽo.
Trên chuyến
xe buýt Greyhound tới St Louis, anh ta sản xuất ra một ấn bản cũ, bản
nhì, phó
bản, của “Anh Môn”, mà anh ta chôm từ một quầy sách ở Hollywood.
Bị quyến rũ bởi phong cảnh Arizona, anh ta quyết
định không đọc nó gì hết
Đó là số mệnh
của cuốn truyện của Alain-Fournier, một trong những tiểu thuyết phổ
thông nhất
của Pháp, trong thế giới nói tiếng Anh.
Được yêu thật là nhiều nhưng ít được đọc
gần như cả một thế kỷ, lạ kỳ, sôi nổi, không làm sao an ủi nổi, cuốn
tiểu thuyết
đã “điểm nhãn” – như điểm nhãn rồng, trong 1 truyền thuyết về 1 họa sĩ
chuyên vẽ
rồng, nhưng không điểm nhãn, vì điểm nhãn vô, là nó bay mẹ đi mất - cho thế giới giả tưởng.
Henry Miller vinh danh
nhân vật chính; Scott Fitzgerald chôm cái tít cho “Đại [gia] Gatsby”
của ông
[nhiều người còn phán, chẳng chỉ thế, mà nhà văn Mẽo còn dựng nhân vật
chính của
mình, Nick Carraway, từ nhân vật của Alain Fournier]. John Fowles thú
nhận, nó ảnh
hưởng lên tất cả những gì ông viết ra. “Tôi biết, cuốn sách có nhiều
'faux-pas',”
[thuổng chữ của Gấu Cà Chớn, khi thổi bạn quí của hắn, qua cuốn Mù Sương], ông thở
dài não nuột, như muốn
rũ khỏi mọi ám ảnh của cuốn truyện, “nhưng nó lẽo nhẽo bám theo hết cả
cuộc đời của tôi”.
Quái 1 cái, là TTT, hẳn là phải đọc, không phải "Đại (gia) Gát By”, của Scott Fitzgerald, mà là Tender Is The Night, cũng của ông, được Mặc Đỗ dịch ra tiếng Mít là Cuộc Tình Bỏ Đi [tuyệt cú mèo, đặt tít như thế, chứ đâu có "mù chữ Mít", như đám Hậu Vệ, Da Mùi!]
Đọc Một Chủ Nhật Khác, không làm sao mà không nhớ tới Cuộc Tình Bỏ Đi.
-Anh
có biết tại sao em đến tìm anh không?
Kiệt khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.
-Em tìm để từ biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi
không còn
được gặp anh, em muốn...
Kiệt lặng người.... Oanh cúi mặt như người phạm lỗi...
-Em nghĩ thiệt giỏi. Kiệt chua chát, ngấm ngầm, cay đắng...
Ui
chao, chẳng lẽ Sad Seagull của GNV, lập lại những cảnh này, bữa gặp ở
Tiểu Sài Gòn?
Xác
Bụi
Nguyễn Ngọc Tư
Nhu luôn chứng tỏ sự có mặt của mình bằng cái mùi giấm bâng quơ, mà nói thiệt, có thanh thoát lãng mạn gì cho cam, nó cứ chua lè chua loét. Trong mớ vũ khí mà Nhu vẫn thường tấn công vào những lúc em chập chờn nửa mê nửa ngủ, chỉ có hoa bần là mát lành nhất, nhưng cũng mỏng manh nhất. Nhu cần thứ gì đó xộc thẳng vào tim óc em, để cái nhớ phải nhảy dựng lên, chong lên ý nghĩ tìm Nhu, phải tìm Nhu.
Đầu năm Tẩy,
đọc truyện tình của Cô Tư, tuyệt thật.
Cái tít mới
lại càng tuyệt. (1)
"Bản của Tư gửi", như thường lệ, có tí “hỏi ngã” chưa được chỉnh, Gấu Cà Chớn bèn bệ về, đánh bóng lại, post lên, để lấy hứng, viết về "mà nói thiệt, có thanh thoát lãng mạn gì cho cam":
Gấu cũng có 1 vài kỷ niệm cà chớn như vậy với BHD!
Hà, hà!
Không phải do đọc Xác Bụi mà nhớ ra: Vẫn nhớ, vẫn tâm niệm, sẽ có ngày viết ra, nhưng lại tiếc, sợ… thế nhân mắt trắng dã, đọc không ra, lại còn về hùa với đám đệ tử Thầy Kuốc, chửi thằng cha Gấu Cà Chớn, cứ cái gì đính đến BHD là bệ về thờ, như... vết bàn chân trên mặt ruộng của bà vợ của 1 nhân vật của Võ Phiến!
Hà, hà!
Nhưng đọc Xác Bụi mà không lôi câu thơ thần sầu Brodsky đã từng trích dẫn, thì cũng nhảm, đại nhảm
"Hãy nhớ
Gấu Cà Chớn nhe", hạt bụi thì thầm. (2)
"Remember
me,"
whispers the
dust.
("Hãy
nhớ đến tôi,"
Hạt bụi thì
thầm.)
Peter Huchel (thi sĩ Đức)
[Joseph Brodsky trích dẫn, trong "Ca ngợi buồn phiền", "In Praise of Boredom"]
Chừng đó
thôi cũng đủ, chúng cứ đay đi đay lại thời con gái của em. Đôi khi mùi
tương
thoảng qua mặt, em mắc cười nghĩ Nhu chơi trò này thiệt nhảm. Nhưng em
vẫn
không kìm được rùng mình như vẫn luôn rùng mình mỗi khi Nhu ào về mang
theo một
cảm giác thân thiết gợi nhớ về mối tình đã cũ.
Nhu vẫn thường
về trong chiêm bao của em, trong nhân dạng thằng con trai mười chín
tuổi. Trẻ
hoài. Nhu đu nhánh bần, nói vói xuống, “ê, nhớ anh không?”. Hoặc thò
đầu ra khỏi
đám bông lau trắng xốp thở dài sườn sượt, “ở đây lạnh quá chừng”. Hoặc
khọt khẹt
ho, “rễ cây nó xuyên qua cổ anh rồi”.
- Đừng quên
anh, Dịu!
[To U. GNV]
(1) Cái tít
trên Sầu Riêng, Blog của Cô Tư, cũng thú lắm: Món gì giữa hai ngón chân cái?
Làm GCC nhớ "danh
ngôn thần sầu": Đàn bà ưa gãi ngứa giữa hai ngón chân, nhất là giữa hai
ngón chân
cái!
Hà, hà!
Nhà văn Nguyễn Đông Thức cho rằng, cộng Nguyễn Ngọc Tư và nhiều nhà văn hiện nay viết về “Văn minh miệt vườn” cũng không thể bằng Sơn Nam. (1)
Phán như thế
thì thật là nhảm.
Sơn Nam, cốt của ông, là 1 tên VC nằm vùng, chính báo chí VC sau 30 Tháng Tư cũng đã ban cho ông cái nick, “nhà văn của nhiều thời”, cũng 1 thứ cắc kè, thời Ngụy sống cũng bảnh, mà thời sau 30 Tháng Tư, cũng vẫn bảnh, và khi chết, đếch có đất chôn, phải nhờ 1 nhà hằng tâm hằng sản, thí cho một vuông đất.
Nghĩa là nhà
nước VC coi ông như 1 múi chanh vắt sạch!
Cũng 1 thứ tà lọt như Osin mà thôi.
Vả chăng, thời
của Sơn Nam là của 1 Miền Nam còn đang khai phá.
Thời của "Rừng Bất
Tận". Dân
tình thời đó, còn đầy chất giang hồ, nghĩa khí.
Truyện hay nhất của ông, với
GCC, là Hình Bóng Cũ
Khác hẳn thời của NNT, sau
Cách Mạng
VC thành công, thời của "Cánh Đồng Bất Tận", chiều chiều bướm lượn, dầy
như muỗi rừng
Cà Mâu thời Sơn Nam.
Ông nhà văn VC nằm vùng này, tâm địa kém lắm.
Ghen với
cả 1 đứa con nít viết văn, bởi vì so với tuổi của ông Cô Tư chỉ là 1
đứa con nít.
- Cô Tư viết hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng bất tận” không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Sơn Nam
Nguồn
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Anh Môn
Le Grand Meaulnes & Yvonne de Quiévrecourt, the woman and the legend
The girl at
the Grand Palais
The
adolescent obsession that inspired an influential yet neglected French
classic
Dec 22nd
2012 | from the print edition
Hà Nội là
cái quái gì!
Tôi còn Mai Thảo
yêu vỡ Hà Nội khi về
Thanh Tâm
Tuyền
Le Grand
Meaulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên,
là “bản gốc”, cho
nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả
cuốn Bảng
Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn
nổi tiếng Mẽo,
Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn,
trước khi viết Gatsby? “Bạn nào
biết, làm
ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm
phiền tôi
lắm lắm…”.
Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác
giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác
giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có
cả một
câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên
là Miền
Đã Mất, The Lost Domaine,
như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một
lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
"Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi
nó bị thực
tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm
thực tại
bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
[I like the marvelous only when
it is strictly
enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].
Fowler viết: Tôi ngờ rằng, Miền
Đã Mất (Anh
Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh
phúc
hơn nhiều,
nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.
Đúng là ao ước về một độc
giả
lý tưởng, người
yêu lý tưởng: Hãy chiêm ngưỡng, nhưng nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ
rằng, “sờ”
vào đó, hoặc quá nữa, mở nó ra, là một việc làm báng bổ, phạm thánh!
Một cuốn
sách như thế, một nhan sắc như thế, là để thờ phụng chứ không phải để
sàm sỡ!
Tuy nhiên, Fowles nói, nếu độc
giả Anh ngữ, muốn
tìm hiểu, có thể đọc cuốn “Anh Môn” của
Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản văn tiếng Pháp,
của nhà
xb Grant and Cutler, London, 1986.
Le Dur Désir De Durer: Ao ước cương cứng được trường tồn.
Frédéric
Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ
“de”,
“de” là từ tiếng Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa
là ao ước
một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ
tôi với”,
nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh
Môn: Tôi
không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.
Như tác giả
của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je
cherche
l’amour” [Tôi tìm tình yêu].
Ở miền nam, Anh Môn có một vị
trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của
Xanh Tếch
[Saint-Exupéry]. Ông
bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái
ngôi sao thất
lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội!
Người
tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như tôi hiểu được, qua lời kể
của bà
xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện viễn liên, sau khi Gấu tôi
được tin
anh mất, và xin được số điện thoại của gia đình. Gia đình không còn ở
con hẻm
đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6 nữa, mà rời về Phú Nhuận.
Cô con
gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.
Chị cho biết,
thời gian trước khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm, chứ không
như những
ngày đó đâu. Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê thơ, và rất quí
mến anh
Hiến. Họ định ra một tạp chí Thơ,
y như hồi các anh làm tờ Tập San Văn
Chương,
nghĩa là kéo nhau ra quán tối ngày.
Anh Hiến mất cũng tại một quán cà
phê. Chị
bùi ngùi nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện gục xuống, giá mà
mấy người
bạn để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh, thì chắc không sao.
Họ cuống
lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách nhiệm, hối chở ngay
tới bệnh
viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh Hiến có một bài thơ
về Hà Nội.
Tôi hỏi: Anh
Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.
Hỏi bài thơ,
không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì bài thơ
cũng chỉ ở
trong đầu anh Hiến…
Chuyện như thế này:
Vào những
ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh cứ
lẩm nhẩm ở
trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám bạn bè
mới quen,
anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi xong
chưa, anh
nói chưa xong, chưa được…
Rồi anh mất,
và bài thơ đi luôn cùng với anh.
Lạ một điều
hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là hay đó,
chẳng ai nhớ,
dù chỉ một từ, một hình ảnh….
Nghe kể lại, tôi biết, anh nhớ
tới thằng bạn
Hà Nội đã đi xa, và những ngày đầu hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập
San Văn
Chương.
Cũng là những ngày hai đứa
luôn nói về Thơ,
Và, lẽ tất
nhiên, về Huế.
Và Hà Nội.
Frédéric
Beigbeder viết: Có thứ tình kiểu cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ
tình
thăng hoa kiểu Stendhal; Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một
chiều (coup
de foudre unilatéral). Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy!
Yêu thì đẹp,
nhưng trường kỳ được yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như
vậy, một
người đau khổ, và một người buồn bực. Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ,
nghĩa là kẻ
đi tìm tình yêu, chứ đừng làm một kẻ buồn bực.
Và như tất cả
những cuốn tiểu thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi một điều
thật là ác
nghiệt, rằng, những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa Lạ của
Camus, Ông
Hoàng Nhỏ của Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond
Radiguet, 20
tuổi…
Alain-Fournier, trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng Saint-Rémy,
ngày 22
tháng Chín năm 1914.
Fowles đọc Anh Môn hồi còn
trẻ, và sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của
riêng
mình, Magus, dưới bùa chú của
Anh Môn [“ảnh hưởng rất nhiều bởi Anh
Môn”: very
much under its influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên]. Hơn
thế nữa,
ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác giả
của nó.
“Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình gần
gụi với
Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”
Cũng là thường
tình, theo ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của một cuốn
sách mà
bạn đọc vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn cay đắng
khắc
nghiệt hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời với
mối tình
đầu tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa chú,
bởi vì,
trong rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ bạn đã
từng
say mê, bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ
sao…
Con
gái thấy chó đái cũng cười: Vấn đề trên thực
sự không liên quan tới văn chương mà tới tuổi đầu đời, khi con người
[còn] ngạc
nhiên vì sự tự nhiên của sự vật: thời đại hoàng kim của nhà văn đếch
cần văn
chương [écrivain sans littérature]. Nếu ao ước có nghĩa là ao ước một
vì sao đã
mất, điều mà Fournier chỉ ra, chính là một trong những phát giác cay
đắng nhất
của tuổi trẻ. Cái cô con gái nhìn chó đái cũng cười, vào một buổi tắm
sông, cảm
thấy, rồi nhìn thấy một dòng nước nong nóng, hồng hồng chảy từ trong
mình xuống
hai bên đùi, biết rằng mình đã ra khỏi tuổi thơ, và biết thêm một điều,
về sự mất
mát do thời gian trôi qua đi và không hề trở lại, rằng không thể tắm
hai lần
trong một dòng sông… Đó là cái tuổi mà chúng ta biết rằng chúng ta
chẳng thể
làm mọi điều mà chúng ta mơ mộng, rằng nước mắt là bản chất của mọi
chuyện ở
trên đời, “buồn hay vui đều cần tới nó” như cô viết trong truyện ngắn
Những Dòng
Sông [Thảo Trần]….
Nói gắn gọn: đột nhiên, chúng ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn nằm ở ngay trái tim của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó [… that the satisfaction of the desire is also the death of the desire].
Em cứ hẹn
nhưng em đừng đến… nhé!
Như bài thơ
mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như Hà Nội
chẳng bao giờ tới được…
Merde!
NQT
Nếu phải đặt
vào thế tam giác, với ba đỉnh, Gatsby-Le
Grand
Meaulnes-Một Chủ Nhật Khác, thì MCNK bảnh nhất, vì cái nền của
nó, là
cuộc
chiến Mít. Trong đời thực, Alain-Fournier,
trung
uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng Saint-Rémy, ngày 22 tháng Chín
năm 1914.
Kiệt nhân vật của MCNK thì bị lầm là VC và bị bắn chết, khi đang ở nhà
thương,
mò ra rừng Đà Lạt, ngó thông, nhưng
TTT, sĩ quan VNCH thì chết vì bịnh ở Mẽo.
Nếu coi
cuộc chiến khốn kiếp là Ngày Hội
Nhân Gian thì Một Chủ
Nhật Khác lại bảnh nhất trong những cuốn bảnh nhất, so với Anh
Môn Vĩ
Đại và Gatsby Vĩ Đại!
GCC thực sự không tin, cõi văn Mít lại có 1 cuốn như Một Chủ Nhật
Khác.
Khủng nhất, là đoạn Kiệt tiễn Hiền đi, rồi lại trở về, với vợ con, với
cuộc
chiến, để... chết.
Như vậy là Kiệt đã đi tới cõi
bên kia, lo xong cho Hiền, rồi lại trở lại cõi
bên này.
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về
Thơ của Gấu
Gấu ngờ rằng nơi mà Kiệt đưa
Hiền tới, rồi trở về, để chết, cùng
với cuộc chiến, là Lost Domain, Miền Đã Mất, ở trong Le
Grand
Meaulnes.
Bài Giáng cũng có một cõi Lost Domain của ông,
là thời gian 15 năm
chăn dê, vui đùa với chuồn chuồn, châu chấu, trước khi trở về đời, làm
Ông
Khùng giữa cõi Bọ.
Hậu thế sau này, có thể sẽ coi Một Chủ Nhật Khác, là tác phẩm
số 1 của
thời đại hoàng kim Miền Nam VNCH, hẳn thế!
Hơn thế, chứ sao lại hẳn thế!
Note: Khi ông anh nhà thơ của
Gấu chưa đi xa, nhân vớ được 1 bài
tên NYRB, phạng Malraux tơi bời, của tay Simon Leys, Gấu bèn chơi luôn,
đi một
đường trên tờ Văn Học của NMG.
Ông chủ báo thú quá, [người đã từng khệ nệ mang bộ SCML, [hay MBD]
đến tặng TTT, nhân lần ông ghé thăm 1 ông bạn của ông, tại Tiểu Sài
Gòn, nhưng
TTT, khi ra về, vờ luôn bộ sách, chắc là nặng quá, ông ngại cầm về!],
bèn cho
đăng liền. Người thú, vì chưa có ai dám dùng từ nặng nề như thế để chỉ
ông anh
của Gấu, “trí thức làm dáng”, mà lại là chính thằng em của ông!
Một mũi tên bắn tới hai con chim: “Trí thức làm dáng” là từ TTT dùng để
phạng
Mặc Ðỗ, khi đọc Siu Cô Nương.
Sau Mặc Ðỗ lại dùng đúng những từ này, để đập TTT, qua hình ảnh 1 số
nhân vật
trong Ung Thư.
Gấu nhớ ông chủ chi địa nhận
xét, trong cả hai trường hợp [TTT
& MD] thì đều đúng cả. (1)
Bài trên Người Kinh Tế về Anh Môn rất
tuyệt. TV sẽ chuyển ngữ, sau.
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Nhớ Những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết bằng Gấu chết.
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Anh Môn
Trong Sổ Tay,
NB, dưới cái tít “Halo and Horn” [nghĩa của cụm từ này cũng
giống như “pro
& contra” của Sến Cô Nương, “halo”, chào mừng, “horn”, cái sừng, để
đâm cho mi
1 phát!] của tờ TLS, số Jan 4, 2013, điểm những nhân vật văn chương
xuất hiện theo
dòng thời gian, JC [người phụ trách] viết, thì cũng là 1 cách để đánh
giá, ai còn
ai mất [chìm vào quên lãng đúng hơn], và nếu 2012 là năm tưởng niệm
John Cheever,
vẫn ngon cơm [GCC không hề biết đến ông này], và sự mất giá của
Lawrence
Durrell [ông
này thì lại rất rành, BHD chẳng đã mang 1 cuốn của ông đến tặng Gấu
đúng ngày
sinh nhật, lần thứ 30 mà cũng là lần thứ nhất, sau khi thoát chết vì
mìn VC, cùng với lời đề tặng, bằng tiếng
Tẩy, "Je
serai ta femme", và, em quên béng liền sau đó, cả Gấu lẫn lời đề
tặng], và
phán, 1 năm
ủ ê, và phán tiếp, năm tới 2013, chắc là khá hơn.
Quả thế, 1913
là năm Albert Camus ra đời.
Cho tới nay, chàng vẫn là số 1, a great
force in
world literature một “thế lực” lớn - từ này thuổng của 1 thi
sĩ - trong văn
chương thế giới,
một “haloed figure” so với đồng hương, kẻ
thù của chàng, a horned counterpart, là Sartre. Cả
hai đều rành nhiều môn võ công giang hồ, viết giả tưởng,
kịch, triết, và báo chí, [cả hai đều còn là editor]. Sự nổi danh dài
dài
của
Camus là nhờ giả tưởng, và trong khi Satre vưỡn được coi là triết gia,
thì
Camus, "thôi rồi, anh ơi".
“Hồi này, bạn có đọc Kẻ Nổi Loạn
của ông ta
không”? JC
đặt câu hỏi cho độc giả, và tự trả lời, "cuốn này đúng là second-hand
patchwork, đồ bá láp. Và nếu bạn ý muốn phản biện, thì chúng tôi, TLS,
sẽ rất hân
hạnh!"
Vẫn theo JC,
những tiểu luận đầu tay của Camus có vẻ như bị lơ là, bỏ qua, chúng
thật chói
sáng, và là những tác phẩm suy tư, meditative works, về Algeria, và
được xb tại
đây vào thập niên 1930. Hai tác phẩm [thần sầu], Noces [Mít, tờ Văn
trước 1975,
Trần Thiện Đạo, hình như vậy, dịch là Giao
Cảm] và L’Envers et
l’endroit, [hình
như cũng đã được tờ Văn dịch, Bề mặt
và bề trái], cả hai đều bị chế ngự [dominated] bởi
mặt trời.
Nhưng cái chói sáng nhất của chúng đối với độc giả, vẫn theo JC, là sự
thông minh
ở tác phẩm đầu tay của 1 kẻ tập tành viết, the debutant’s intelligence.
Và, bây giờ,
tới lượt Le Grand Meaulnes & Yvonne de
Quiévrecourt, và Sad Seagull & GNV, "chói sáng" cùng với năm
2013!
Kẻ nào viết
rõ ràng thì có độc giả. Kẻ nào viết hũ nút thì có
thợ “còm”.
Hand-made
gift from TV Reader
Tks. NQT
Henri
Alain-Fournier là tiền thân của Camus, trong vai trò người hùng của
tuổi trẻ.
Cuốn Anh Môn xb năm 1913:
Mặc dù nổi
tiếng như thế đó, Anh Môn, 100 tuổi tính đến năm nay, 2013, là
1 tuyệt
tác đang gặp hiểm nguy, bị tiêu trầm, chìm vào quên lãng. Du khách hành
hương
viếng thăm căn nhà thời ấu thơ của Alain Fournier, gần Lộ Đức, ngày
càng mỏng
dính [thưa thớt, nếu biết tiếng Mít, dịch từ “thin” của tiếng Hồng
Mao].
Những ngày này độc giả Anh, Mẽo thường chọn tiểu thuyết Tẩy, thứ có mùi
triết Tẩy,
hiện sinh hiện xiếc, [thí dụ, đến ngay Cô Tư, miệt vườn Cà Mâu xứ Mít,
mà văn
còn có mùi hiện sinh - cái gì ở giữa hai ngón cái - nữa là!]
Một thập niên trước đây, Tobias Hill ghi nhận, sách sống sót nhờ một hệ
thống rỉ
tai bằng tiếng Tầu, “a barely audible system of Chinese whispers”.
Tại sao nhiều độc giả Anh lại hờ hững với cuốn sách, được một số những
nhà văn
thuộc loại số 1, được kính trọng, nể vì của Ăng Lê, trân trọng, và có
ông còn
nhận tác giả của nó, là Thầy của mình, như Fowles?
Và, với những độc giả coi Anh Môn như sách gối đầu giường, thì
là do
đâu?
Do cách viết, do văn phong, giản dị, "viết như không viết"?
Một câu chuyện tình thời mới lớn không làm sao quên được, mang chất
hoài cổ,
lãng mạn, vãi linh hồn?
Với những fans khác, tình tiết ly kỳ, tính thơ của ngôn ngữ?
Rất nhiều độc giả bị hớp hồn bởi cái gọi là “buồn vào hồn không tên”,
một nỗi u
hoài, bi ai, toát ra từ một thứ thơ xuôi, như 1 nhà phê bình nhận xét,
“như
sương mù bên trên bãi tha ma”.
Một phần, còn do cuộc đời của chính tác giả, một cuộc đời lãng mạn, và
cái chết
trẻ của ông, và câu chuyện về người đàn bà đã gợi hứng cho ông.
*
-Em tìm để từ
biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được
gặp anh,
em muốn...
Kiệt lặng người....
TTT: MCNK
There is
among all your memories one which has now been lost beyond recall.
J.L. Borges: Limits
Trong tất cả hồi ức của mi, có một, mất tăm, tích, không làm sao nhớ
lại được.
Gấu không
làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà
phê
Starbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong, anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng
hồ, nói
trễ quá, phải trả xe cho người bạn….
To love a
scene so much and yet to miss someone so essential to it was doubly
heartbreaking
Damned to Fame, the Life
of Samuel
Beckett
Đó là do yêu quá yêu cái cảnh buổi sáng ngồi cà phê Starbucks với Sad Seagull, và nhớ đến phát khùng Sad Seagull mà hình ảnh của cô đóng chặt vĩnh viễn vào cái buổi sáng lần đầu tiên gặp mặt đó, và như câu phán ở trên, nỗi đau như được nhân gấp đôi lên, và càng thêm chán chường những ngày còn lại, quá vô vị, nhàm chán…
Buổi sáng hôm đó, em lo hết. Tất tả đi kiếm chỗ ngồi, sau cùng kiếm được 1 cái bàn ở ngoài trời, thật gió, thật lạnh [Cali mấy bữa đó, lạnh sợ còn hơn cả Canada!], rồi tất tả xếp hàng mua cà phê, tất tả bưng ra, Gấu già ngồi 1 chỗ, chẳng làm gì hết, ngắm em tất tả…. Em chừa cái ghế có cái cột che gió cho Gấu già, ngồi kể chuyện tuổi thơ của em, Gấu lắng nghe, thật cảm động, đến quên cả cái chuyện em rét run, anh chàng Mít, cũng đứng tuổi, ngồi bàn kế, thừa cơ em đứng dậy, bèn kéo cái ghế của em vào 1 chỗ khuất gió, rồi gật gù nhìn Gấu thông cảm, ra ý, đúng ra mi phải làm việc đó, nhưng thôi già rồi, ta làm giùm!
Những cuộc
tình rồi cũng tới, làm sao không. Chàng có 1, dài và ồn, với 1 em thợ
may. Một,
với 1 bà hàng xóm. Em tỏ tình trước, bằng cách ném 1 cánh diều, một con
nhạn,
hay 1 “bản tin” [chữ của băng Hậu Vệ], từ cửa sổ nhà nàng bay qua, và
đậu ngay
trước mặt chàng, nơi hành lang. Chồng nàng biết được, hăm làm thịt tình
địch.
Nhưng làm
sao so được với thánh nữ... Sad Seagull!
Với nàng, chàng biết, phải có những cử chỉ, hành động lớn lao, vĩ đại
nhất mới
hy vọng “thắng cuộc” [chữ này thuổng của tà lọt Osin]. Cuối năm 1912,
chàng khệ
nệ mang bức thư tình đem dâng cho người đàn bà đã hành hạ chàng 7 năm
trời: Em
cho anh độc nhất 1 con đường để đến với em, và đó là con đường văn
chương: Mi
phải trở thành… Gấu Nhà Văn, được toàn thể người đời biết tới! Một cuốn
“tỉu thết”
dài đang hoàn tất, viết về Em, chỉ về Em, người mà anh chỉ nhìn thấy ở
trong những
giấc mơ, chỉ được gặp 1 lần độc nhất ở Quận Cam, sẽ ra đời vào Mùa Xuân
này!
Sự thực,
tham vọng trở thành Gấu Nhà Văn thì không bật ra từ cú sét đánh bên
ngoài tòa Đại
Lâu Đài – cho dù dữ dội cỡ nào – nhưng chúng được nung nấu nhiều năm
trước đó,
trong căn nhà trường học của ông bố, nơi chàng và cô em/bà chị cùng
quần thảo mớ
sách, cuốn nào cuốn nấy đều quăn góc chẳng khác chi “tai chó”, và chúng
đều là
phần thưởng học sinh giỏi của cả hai. Nhưng cho dù vậy, Anh
Môn, cuốn tiểu thuyết được trình làng vào Mùa Thu năm sau, quả
là có hình bóng của… Hải Âu Buồn, là
trái tim của nó.
Đoạn trên, Gấu
Cà Chớn dịch từ bài viết của The
Economist.
Bạn phải nghe chính
chàng, Alain Fournier/GNV nói về Anh
Môn/Sống và Đọc MCNK ở Quận Cam, thì mới càng
thêm cảm khái.
Hà hà!
Trong bài viết The Lost Domaine of Alain-Fournier, 1986, được in trong Wormholes, [Lỗ Giun, 1 từ của giới khoa học thiên văn, theo kiểu Lỗ Đen, Big Bang...] Fowles trích thư của Alain-Fournier, viết cho bạn mình là Rivière, vào năm 1910, “Tớ đang viết 1 cuốn tiểu thuyết hoang đường dựa trên 1 em có thực. Cái này đem sức mạnh đến cho cái kia” [Nguyên văn: that he was “working on the imaginary, fantastic part of my book and on the simply humane one. Each gives me strength for the other”].
Bài của Fowles cũng thần
sầu. Gấu Cà Chớn sẽ giới thiệu, cùng loạt bài
viết về Sad
Seagull.
Trong bài viết
của Fowles, chúng ta biết thêm 1 chi tiết, chàng và nàng đi dạo dọc
sông Seine
chừng 1 tiếng đồng hồ!
Nàng rất thông cảm với cú sét đánh trúng ngay chàng,
nhưng nói, vô hy vọng, rằng, chúng ta cư xử như hai đứa con nít,
"behaving like children".
Nhưng, "như 1 đứa
con nít”, chính là mục đích viết văn của Alain-Fournier, [và của Gấu Cà
Chớn, tất
nhiên], vì vẫn theo Fowles, trong bài viết đã dẫn:
… "behaving
like children" was ominously close to Fournier's own view of why wanted
to
write: to convey the vivid and magical innocence of the child’s
perception of
life, to arrest the past.
Viết, nếu bạn
phải, bởi vì bạn cảm thấy thích viết; chớ khi nào, bởi vì bạn cảm thấy
phải viết
[never because you feel you ought to write].
Đừng bao giờ
viết vì bị bản năng nóng, hot instinct, cắn vào đít, vào tay, vào chỗ
ấy...,
gây ngứa, bắt phải viết. Bạn chỉ có thể viết do kinh nghiệm lạnh, by
cold
experience. Đó là lý do nhiều tiểu thuyết gia phải đợi qua bốn bó,
[after the
age of forty], mới gãi bật ra được tất cả những tác phẩm bảnh của họ
[do all
their best work].
Nhớ chưa, đừng
viết vì ngứa. (1)
Bởi vì, có khi ngứa là do di chứng của giang mai, cũng nên!
Hà, hà!
Lại có ông,
cứ mong được người đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ
than: đây là
nghiệp của tôi.
Ông khác thì
nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu được.
Ôi ngứa thì
gãi, nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp.
Scott
Fitzgerald ra đời lúc 3:30 pm, ngày 24 Tháng Chín, 1896, tại 481 Laurel
Av,
thành phố S. Paul, Minnesota. St Paul là nơi TTT rời Quận Cam, để sống,
và để
được chôn tại đó, [TTT mất ngày 22 tháng Ba 2006, hưởng thọ 70 tuổi.
Fitz mất
vì đau tim, khi mới 44 tuổi].
Theo Gấu Cà
Chớn, TTT hẳn có đọc Tender Is the Night,
"Cuộc Tình Bỏ Đi", của Fitz, trước khi viết MCNK. Đọc tóm tắt
sau đây về Tender, thì chúng ta có thể
tưởng tượng ra, nếu ở cái nền của Tender,
là xã hội Mẽo, thì với MCNK, là cuộc chiến Mít:
Tender is
the Night was published on 12 April 1934, and the first printing
(7,600 copies)
sold out, as did two more, totaling an additional 8,000 copies. The
novel
reached the middle of the bestseller lists for two months, but earned
its
author only about $5,000, which did not relieve his debts. It is
remarkable
that, with the tragic conditions of Zelda's confinement, his own ill
health and
alcohol dependency, he was able to continue writing stories and short
essays.
The reviews of the novel were mixed: because of the passage of so many
years
since the publication of Gatsby,
expectations ran high for the new work. But most critics felt that
there were
structural weaknesses in the novel: Rosemary Hoyt's point of view in
the
opening is not sustained throughout the novel. The chronology seemed
confusing
to some, and many agreed that there was insufficient cause for Dick
Diver's
deterioration. But, once again, critics whom Fitzgerald respected
recognized
the brilliance of his work. As he had with Gatsby, Gilbert Seldes
praised the
novel unreservedly; Fitzgerald, he wrote, 'has stepped again to his
natural
place at the head of the American writers of our time' (New York
Evening
journal, 12 April 1934, Critical Reputation, p. 86).
Burton
Rascoe, in Esquire, called it
Fitzgerald's 'maturest' novel, his 'rich, Celtic, romantic imagination'
having
been 'subjected to the discipline of reflection and selection' (Critical Reputation, p. 86). Robert
Benchley, an old friend, called it 'a beautiful piece of work', and
said that
he hadn't had a book take hold of him in that way for years (Correspondence,
p. 358). Zelda praised
the book too as a 'tragic and poetic personal drama against the
background of
the times we matured in' (Correspondence,
p. 353).
Fitzgerald
later revised the novel to make the chronology clearer, but the
response when
it was published after his death was mixed, many feeling that the
earlier
version was superior.
Tender is the Night is the story of Dick
Diver, a young
psychiatrist, who is seduced by the loveliness of the wealthy young
Nicole
Warren, whom he has been hired to treat. Eventually they marry, and
Dick
becomes part of the Warren establishment, used and ultimately discarded
by
Nicole after she has been cured and the Warren family no longer needs
his
services. But the bare outline of the story cannot describe the power
of the
novel: a picture of expatriate Americans and the wealth that ultimately
corrupts; an examination of America and its history; and a poignant
tale of
loss, particularly moving in its reflection of the Fitzgerald’s own
lives. The
novel achieves a genuinely tragic dimension as it traces the decline of
Dick
Diver, which affectingly mirrors Fitzgerald's sense of his own eroded
hopes.
[Penguin Books]
Chân dung tự họa, self-portrait, by Zelda,"Đảo Xa", [bà vợ khùng] của Fitz "Cuộc tình bỏ đi" là câu chuyện của Dick Diver, 1 bác sĩ tâm thần, trẻ, bị quyến rũ bởi sự cô đơn của một cô gái nhà giầu Nicole mà anh được mướn để trị bịnh cho ẻn. Sau đó, họ lấy nhau, và Dick trở thành 1 món đồ trong cơ ngơi nhà vợ, được sử dụng, và sau cùng bị đá đít, khi bên vợ đếch cần đến anh nữa.
Nhưng 1 tóm tắt trần trụi như thế đếch nói được cái gì về “sức mạnh” [đừng lầm với từ “thế lực” của 1 thi sĩ] của cuốn tiểu thuyết: 1 bức tranh về đám Mẽo lưu đầy, xa xứ, và của cải sau cùng làm hư ruỗng họ, một cái nhìn chăm soi vào nước Mẽo và lịch sử của nó, một câu chuyện nhức nhối về mất mát, và đặc biệt là rất ư thương cảm, phản chiếu cuộc đời của chính gia đình Fitz.
Cuốn tiểu thuyết đạt đến đỉnh cao chói lọi của nó, khi vẽ lại cuộc “vấp ngã” [thuổng của thi sĩ dởm NHT] của Dick Diver, và với nó, là cảm quan của riêng Fitz, về hy vọng và cứu chuộc.
Ui chao, thê lương thật, nhưng làm sao so được với cái chết của trung uý Kiệt, bị chính 1 sĩ quan VNCH làm thịt, vì tưởng là VC!
Comments
Post a Comment