Skip to main content

Garcia Marquez Tribute

 GGG by Prospero
GGM by New Yorker
GGM Tribute



Mát Két ở Việt Nam
Dying For Love
Chết Vì Tình

Tin Văn đã có một bài viết về cuốn Nhớ Bướm Buồn, của Garcia Marquez, "lồng" vào bài của Hai Lúa, nhân lần được chiêm ngưỡng Bướm Buồn Vạn Tượng.

Đi được vài kỳ, gây "phản cảm" [gây sốc] đành phải ngưng. Ngưng luôn phần dịch cuốn truyện.

Nay có hai bài điểm cuốn trên. Một của Alberto Manguel, trên The Guardian, và một của John Updike, trên Người Nữu Ước. Alberto Manguel chê, nhạt, thiếu muối, ít hồ [little of substance]. Còn Updike thì truy đến tận cùng, cái thú mê con nít của nhà văn nhớn này, ở trong những tác phẩm trước, thí dụ như trong Trăm Năm Cô Đơn, đoạn tả Aureliano Buendía đi thăm một bướm còn quá trẻ, không thể làm ăn gì được trước những vẻ đẹp đã bị lạm dụng tối đa của khách làng, bèn bỏ ra ngoài phòng, bèn chỉ muốn khóc, bèn yêu liền cô bé, và hôm sau đi đến một quyết định là sẽ lấy nàng làm vợ  [Aureliano does not take advantage of her overexploited charms, and leaves the room “troubled by a desire to weep.” He has—you guessed it—fallen in love: He felt an irresistible need to love her and protect her. At dawn, worn out by insomnia and fever, he made the calm decision to marry her in order to free her from the despotism of her grandmother and to enjoy all the nights of satisfaction that she would give the seventy men.

John Updike coi, tác phẩm của Garcia Marquez, là về một thứ bệnh, trầm luân, vô phương cứu chữa, nếu lậm vào nó: bệnh yêu và chết vì nó. [The works of Gabriel García Márquez contain a great deal of love, depicted as a doom, a demonic possession, a disease that, once contracted, cannot be easily cured].
*
Coetzee, đọc Bướm Buồn, truy tìm nguồn của nó, ở trong Tình Yêu Thời Tổ Tả, và từ đó, truy lên ngọn nguồn của nó, từ Dostoevsky.
*
Tình Yêu Thời Thổ Tả chấm dứt khi Florentino Ariza sau cùng tái hợp người yêu mà anh chờ đợi suốt đời, cả hai xuống tầu rong ruổi dọc theo con sông Magdalena River, trên tầu cắm ngọn cờ vàng báo động dịch tả. Chàng và nàng đều hơn bẩy bó.
Và để được tái hợp với người yêu Fermia, Florentino phải cắt đứt mối tình già dê mắc dịch của mình với cô bé 14 tuổi, mà anh già dê mắc dịch này đã dẫn dụ cô bé vào con đường tội lỗi [nàng tỏ ra là một cô học trò rất thông minh, học một hiểu mười]. Cô bé sau đó tự tử, mang bí mật xuống mồ cùng với mình.
Coetzee viết, América Vicuna, cô bé bị dụ dỗ rồi bị bỏ rơi bởi một anh già, là một nhân vật bước thẳng ra từ Dostoevsky. Cái khung đạo đức của Tình Yêu Thời Thổ Tả, một tác phẩm khá mùi mẫn, tất nhiên, nhưng cũng khôi hài chẳng kém, với chút gia giảm của thời tiết mùa thu lá bay, quả là không đủ rộng, để chứa nổi, chỉ một nhân vật là cô bé này. Đây là ý định của Garcia Marquez, chỉ muốn coi cô như là một trong những tình nhân của Florentino, và ngoài vài giọt nước mắt cá sấu kín đáo dành cho cô bé, khi nghe tin cô tự tử, tác giả đã vờ đi những hậu quả của cái chết của cô bé lên anh già. Thực sự, tác giả cũng không biết phải xoay sở ra sao, nếu phải viết tiếp. Những câu văn, những đoạn tả cảnh anh già dụ khị cô bé làm chúng ta nhớ đến một nàng Lolita của Nabokov: anh già từ từ, vô tư lột dần từng mảnh vải trên người cô bé, như những trò chơi con nít, trước tiên là đôi giầy xinh xinh của con gấu nhỏ… rồi tới cái quần dài của con thỏ xinh xinh… và nụ hôn nhè nhẹ của cha già dành cho con chim nhỏ xíu...
Một cách nào đó, Bướm Buồn bắt đầu ở chỗ chấm dứt là cái chết của cô bé con trong Tình Yêu Thời Thổ Tả.


A tribute to Gabriel García Márquez

Cuốn tiểu thuyết, trong một vài phương diện, không chỉ đưa quê hương Colombia, mà luôn cả đại lục của GM lên bản đồ văn học.
Trăm Năm Cô Đơn chẳng khác gì tiếng kèn clarion cry, từ vùng văn hóa ở bên dưới Bắc Chí Tuyến, Tropic of Cancer, ăn mừng [celebrate] những huyền thoại sáng tạo của nó. Đúng là quá cỡ thợ mộc, 1 thứ công trình xây dựng quốc gia, về một thế giới còn dzin, [núm vú còn đỏ tươi, hà, hà], nơi sự vật và sinh vật được đặt tên, vì trước đó, chưa có. Giả tưởng của GM phản chiếu - như Vargas Llosa quan sát cái sự viết lách của miền Mỹ Châu La Tinh nói chung - lịch sử bạo lực của miền này, những biến động thực, kỳ quái như bất cứ điều gì được tìm thấy, trong cái hoang dại nhất của những cuốn tiểu thuyết.
Vào đầu thập niên 1960, Borges của Buenos Aires bắt đầu được dịch rộng rãi, và ông, cùng với nhà thơ Chilean, Pablo Neruda, phất lên ngọn cờ văn học của vùng Nam Mỹ này. Borges thật sống động trong vai mở ra sự nghiệp tiểu thuyết của GM. Vào nghề bằng nghiệp ký giả, GM cho biết, ông bắt đầu viết tiểu thuyết, trong khi chung quanh ông, đầu giường dưới gối, đều là sách của Borges
Tuy nhiên, vài truyện ngắn lớn lao của Borges, viết vào thập niên 1940, tiên đoán mầu sắc và phong cảnh của những dòng văn của nhà văn người Colombia, GM. Rõ nhất, là cái khí hậu ẩm ướt của miền đất nhiệt đới toát ra từ những câu chuyện của GM. Ông được coi là người sáng lập ra cái gọi là chủ nghĩa hiện thực thần kỳ. Gerald Martin, người viết tiểu sử của GM, thì lại đưa ra cắt nghĩa khác, nó là từ chủ nghĩa siêu thực mà ra, khi tiểu thuyết gia Cuba, Alejo Carpentier cố tìm 1 từ tương đương của chủ nghĩa này, cho mảnh đất Mỹ Châu La Tinh. Rushdie cũng nghĩ như vậy, trong bài viết về GM. Prospero, người viết bài  mà GCC đang dịch, cho rằng, Borges là người phịa ra nó. Vẫn theo ông, không hẳn đúng như thế. Borges là người với chủ thuyết cấp tiến của ông, mở đầu óc cho những viết trẻ, trong lãnh thổ giả tưởng của riêng họ, nhưng nhà văn Á Căn Đình này, cả đời chưa hề viết 1 cuốn tiểu thuyết, bị đóng cứng vào cái vô cùng, thiên thu, bất tử, như Naipaul chửi ông, hay dùng chữ của Prospero, quá rành nghề và bị đóng cứng ở trong văn chương, và như thế nào, những tác giả, từ tất cả các nền văn hóa giao lưu móc nối với nhau: Borges không thực sự quan tâm tới “cái là lạ” và chủ nghĩa siêu thực. Mỹ học của Borges thì thật là khắc nghiệt.
Ngược hẳn lại, GM mang tới sự buông thả của một vũ hội cho nghệ thuật kể chuyện, một cái đà phóng tới cho miền đất Chilean, và cùng với chúng, là 1 tình yêu lớn lao dành cho nhân vật, và cho sử thi gia đình: Tất cả cùng nhau sáng tạo một thứ chủ nghĩa hiện thực bậc cao. Cái gọi là “thần kỳ” ở trong tiểu thuyết của GM, điều đặc biệt được ca ngợi nhất, thực sự gồm những mánh giả tưởng bậc cao. Cấu trúc của dòng kể, tính biên niên của chúng, giống những gì được kiếm thấy trong Đỉnh Gió Hú – không phải 1 cuốn sách dở để bạn đừng theo đó để mà viết, bất kể bạn thuộc truyền thống nào. Sử thi lạ thường giữa thế kỷ 19 của Emily Bronte, thì có phần, partly, là từ những gì mà con người không thể trốn chạy – gia đình của họ và cái gọi là “mã” sinh học. Trăm Năm Cô Đơn chẳng phải là 1 bi kịch về hệ phả ư?

Bài viết của Prospero, thật tuyệt, và lạ, khi ông nhìn ra sự giống nhau giữa Trăm Năm Cô ĐơnĐỉnh Gió Hú.

 William Faulkner: The Sanctuary of Evil
Mario Vargas Llosa

Looking for the Patriarch

Gabriel García Márquez: A Life

When Gabriel Garcia Marquez finished writing One Hundred Years of Solitude in August 1966, he was almost forty, the father of two young boys, and so broke that he didn't have enough money to send the manuscript from Mexico City to his prospective publisher in Buenos Aires. The anecdote is famous, one of many that have contributed to Garcia Marquez's carefully molded public image as a literary populist and everyman genius. In his admiring biography of the writer, Gerald Martin reports:
The package contained 490 typed pages. The counter official said: "Eighty-two pesos." Garcia Marquez watched as [his wife] Mercedes searched in her purse for the money. They only had fifty and could only send about half of the book: Garcia Marquez made the man behind the counter itake sheets off like slices of bacon until the fifty pesos were enough. They went home, pawned the heater, hairdryer and liquidizer, went back to the post office and sent the second tranche.

Khi GGM viết xong cuốn Trăm Năm Cô Đơn vào tháng Tám, 1966, ông kể như đủ bốn bó, bố hai thằng con trai còn nhỏ, và rách đến nỗi không có đủ tiền để gửi bản thảo, từ Mexico City tới nhà xb ở Buenos Aires.

Giai thoại nổi tiếng này là một, trong rất nhiều, cùng góp phần tạo nên hình ảnh trước công chúng, về một ông nhà văn bình dân, một thiên tài của bất cứ một người. Trong cuốn tiểu sử thật tuyệt về nhà văn,
Gerald Martin viết:

Gói bản thảo gồm 490 trang đánh máy. Tay ngồi quầy Bưu Điện phán, 82 pesos, GM nhìn bà vợ moi móc tiền từ cái ví: Chỉ đủ gửi một nửa bản thảo. Thế là nhà văn nhớn bèn ra lệnh cho tay ngồi quầy thiến từng trang bản thảo, cho đến khi tới con số 50 pesos. Hai vợ chồng về nhà 'chà đồ nhôm, chôm đồ nhà', đem ra chợ trời và trở lại Bưu Điện, gửi tiếp những trang bản thảo còn lại.

Trong Phong Thần Bảng, Dernier inventaire avant liquidation, gồm 50 cuốn, do độc giả chọn, Frédéric Beigbeder bình, số 1 là Kẻ Xa Lạ của Camus, Trăm Năm Cô Đơn đứng thứ 33.

Beigbeder viết, TNCD thường được so sánh với Don Quixote, nhưng đúng ra là phải so với Thánh Kinh, bởi vì trong đó cũng có Genèse, Exode, Déluge, và Apocalypse của nó. Một cuốn Bible latino. Cuốn sách ra đời, 1967, giống như một trận động đất, và người ta có thể nói, nó cắt đôi lịch sử văn học thế giới của thế kỷ, trước, và sau, nó. (1)

V/v cú Vargas Llosa thoi Garcia Marquez, người viết tiểu sử của GM viết:

Tình bạn giữa họ chấm dứt khi Vargas Llosa thoi Garcia Marquez đến bất tỉnh, ở hành lang một rạp hát, do GM lăng nhăng với bà vợ của ông. VL phán, đây là cú đấm nổi tiếng nhất trong lịch sử Mỹ Châu La Tinh, “the most famous punch in the history of Latin America”, nhưng không đưa ra lý do.
Chỉ đến khi VL được Nobel, thì ông, hoặc ai đó có chứng kiến vụ việc, mới xì ra nguyên nhân, bà vợ, nghe tin chồng có bồ, bèn chạy đến bạn than thở, ông an ủi ra sao khiến ông chồng phát điên lên!

*

In the port I had bought a good supply of the least expensive cigarettes, made of black tobacco and a cheap paper that could have been used to wrap packages, and I began to smoke the way I did in those days, using the butt end of one cigarette to light the next, as I reread Light in August: at the time, William Faulkner was the most faithful of my tutelary demons.

V/v Một tên bất lương:
Ngay trang 7, cuốn Hồi Ký, Sống để kể chuyện do chính ông viết, là GM đã thú nhận, Faulkner là 1 trong những con quỉ-sư phụ hành hạ thời mới lớn của ông. Chẳng những là 1 đệ tử trung thành, mà còn bắt chước 1 nhân vật trong Nắng Tháng Tám, hút thuốc lá, lấy mẩu điếu thuốc vừa hút hết, châm điếu tiếp.

*

Trên Books, số tháng Ba, 2013, có bài về Garcia Marquez và cái phóng sự đầu tay của ông, về 1 vụ đắm thuyền.
Nghiệp văn nghiệp báo của ông bắt đầu từ đó.



A tribute to Gabriel García Márquez

Garcia Marquez: Poet of a magical Latin American world

Thời gian Gunter Grass "xưng tội trước bàn thờ", có dư luận bắt ông trả lại Nobel văn chương. Một ông nhà văn Tây phán, nếu thế, thì phải đòi lại, cả cái của Garcia Marquez.

Không hiểu ảnh hưởng rất lớn của Garcia Marquez lên những nhà văn Việt Nam, là theo kiểu tốt hay là xấu.
Tốt, thì không thể, hoặc chưa thể, vì, cho tới nay, chúng ta chưa đọc được một tác phẩm nào nói lên được cái tính nhiệm mầu, như của Garcia Marquez, theo như Rushdie dẫn giải. Cũng có, nhưng là đồ dởm, thí dụ như Rung Chuông Tận Thế.
Còn nếu xấu, thì hãy coi chừng bể mặt!
Bởi vì "đạo đức", như mắm mì Rosa phán, "là vấn đề thời gian", già như mấy ông, ông nào cũng nghĩ là mình xứng đáng... bị thoi!
[But "morality", as Rosa, the brothel-keeper, observes, "is a question of time", and now the old man believes he deserves such a gift.]
*

Gấu biết một người không phải nhà văn, nhưng rất mê trở thành nhà văn, và rất mê Garcia Marquez.
Anh này, một cách nào đó, đã ngộ ra được cái "tinh thần Garcia Marquez", và áp dụng đúng vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.
*

1 giờ sáng

Luồng gió lạnh tẩm đầy thứ sương sớm ẩm độc của miền núi theo nhau ùa xuống thung lũng Sikiew. Bóng đen sẫm của khối núi phía sau Trại đè nặng lên mớ lều lùn tịt. Ánh trăng mầu huyết dụ rùng mình giữa đám lá cây. Một con cú từ họng núi xa, nhắm căn lều vỗ cánh loạn xạ. Tiếng đập cánh làm một con chó hoang rướn cổ tru dài. Con cú đảo một vòng quanh lều, rúc lên một hồi. Một con mèo đen, từ một xó xỉnh nào, bỗng nhẩy xổ lên mặt bàn. Mấy chiếc ly giật mình kêu loảng xoảng. Ngọn đèn cầy chao nghiêng, rỏ xuống mặt bàn mấy giọt nến làm dấu.

Đột nhiên nhận ra sự hiện diện của đám người ngồi quanh bàn, con cú đảo về phía núi, đầu ngoái lại như tiếc rẻ. Câu chuyện đang từ đề tài muôn thuở, thanh lọc, bỗng chuyển qua điềm triệu. Một anh chàng trung niên, cựu sĩ quan, quả quyết chính mắt nhìn thấy một con cú khổng lồ trên nóc dinh Độc Lập, đúng đêm 30 tháng Tư năm nọ. Nó cứ rúc lên từng hồi. Mọi người rướn dài cổ, há hốc mồm... "Hỡi các anh em binh sĩ, sĩ quan, hãy buông súng đầu hàng!" (1)

Looking for the Patriarch

Gabriel García Márquez: A Life

The Paris Review:

- Ông nói, " Đạo đức là cấu trúc. Tôi chỉ có một sự tò mò lớn lao là hiểu biết những con người, một ao ước lớn lao là khai phá". Ông tính đem đến cho cái từ "đạo đức" này một ý nghĩa chi?
Naipaul: Một nhà văn mất mẹ nó ý thức đạo đức ở trong tác phẩm chẳng là gì dưới mắt tôi, tôi chẳng thèm quan tâm tới thứ nhà văn này.
-Evelyn Waugh? Tay này có một tham vọng đạo đức?
Naipaul: Làm gì có. Nếu có, thì đó là cơ hội.
-Proust?
Naipaul: Bạn đặt trọng tâm đạo đức tác phẩm của ông ta vào chỗ nào? Một thứ kịch xã hội?
-Ông thực quá khắt khe với Proust.

Bà vợ, Nadira Naipaul, [tố thêm]:
-Còn Gabriel Garcia Marquez? Một thằng cha bất lương, bạn của lũ bạo chúa. Salman Rushdie hả? Một gã thủ dâm trí thức.

- Vào năm 1967, trong cuốn Lần Viếng Thăm Thứ Nhì, một thứ phóng sự về Ấn Độ, ông đã từng nói: "Tất cả những tự thuật Ấn Độ đều được viết bởi, vẫn chỉ có một người: dở dang". Phải chăng, đây là định nghĩa Willie? [nhân vật chính trong Nửa Đời Nửa Đoạn, La Moitié d'une vie, tác phẩm của Naipaul].
- Vâng, đúng như vậy. Cám ơn đã để ý tới điều này.

[Tạp Chí Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín 2005. Naipaul trả lời phỏng vấn].

Nhận xét của bà vợ Naipaul về Garcia Marquez, một thằng cha bất lương, malhonnête, không hiểu có phải là do đã đọc đoạn sau đây, khi Garcia Marquez nhận xét về ảnh hưởng của Faulkner ở nơi ông.

Tôi không chắc, vào thời gian đó, tôi đã đọc Faulkner hay là chưa, nhưng bây giờ, tôi hiểu rõ điều này: kỹ thuật độc nhất để mà sử dụng vào nơi chốn, con người, hồi ức như vậy, chính là kỹ thuật của Faulkner, chỉ có nó mới có thể giúp tôi viết ra những gì đang nhìn thấy. Không khí, vẻ tàn tạ, cái nóng tại ngôi làng thật chẳng khác gì mấy, so với những gì tôi cảm nhận ở Faulkner. Đó là một đồn điền trồng chuối, và cũng là nơi cư ngụ của cả lố người Mỹ thuộc công ty trái cây: đâu có khác gì khung cảnh một Miền Nam Sâu Thẳm của Faulkner. Những nhà phê bình đã chỉ ra ảnh hưởng của Faulkner ở nơi tôi, nhưng đây là một sự trùng hợp thì đúng hơn: Tôi tìm ra chất liệu văn chương để mà đánh vật với nó, cũng cùng một cách mà Faulkner đã tìm ra và xử sự, với chất liệu tương tự.

Chuyện nghề

Vargas Llosa, cũng nhận xét y chang GM, nhân 1 xen thực sự xẩy ra ở 1 nơi chốn quê hương của ông - nó bước ra từ Faulkner - nhưng cái kết luận, thì ngược hẳn với GM – nó tiên đoán xen GM bị ăn đấm sau này, phân biệt đức hạnh giữa hai nhà văn, hai bạn quí:

He wrote in English, but he was one of our own
Vargas Llosa: Faulkner in Laberinto
Ông ta viết bằng tiếng Anh, nhưng đúng là 1 người của chúng tôi

Ai đọc, thì cũng thấy GM ảnh hưởng Faulkner. Nếu về văn phong, thì cuốn Mùa Thu của vị Trưởng Lão, rõ nhất, câu văn dài lòng thòng, quấn vào nhau, câu nọ chưa hết thì câu kia, câu khác, đã bắt đầu, chừng vài trang sau, lại trở lại với câu văn bỏ dở.

Như 1 bè rau muống, 1 anh bạn làm UPI, tay Lộc, nhận xét văn của GCC, khi Gấu tặng anh cuốn Những Ngày Ở Sài Gòn.
Tình cảnh của GCC khi đọc Faulkner, đúng là Ơ Rơ Ka, Kiếm Thấy Rồi, của Archimede, khi kiếm ra luật tỉ trọng!

Nhận xét của bà vợ Naipaul, về Rushdie, cũng tiên đoán đức hạnh của ông này, sau này, khi ông viết cuốn Hồi Ký, trong đó, ông tỏ ra vô ơn, với 1 số người đã vì ông mà khốn khổ, có người bị mất mạng vì cuốn Quỉ Thi

Tâm hay Tài, cái nào hơn cái nào?
Đây là 1 vấn nạn về kỹ thuật viết, chứ không phải là thứ tâm tài của đời thường. Một khi bạn ngồi xuống viết, là bạn đụng với nó.

Tâm tới đâu thì tài tới đó, có thể nói như vậy. Kim Dung, qua miệng nhà sư già, quét dọn Tàng Kinh Các, chùa Thiếu Lâm đã từng giải thích vấn nạn này, nhưng theo GCC, ông mượn Mạc Xịt, võ công [hành, praxis] và Phật pháp [lý thuyết, theory], rong ruổi bên nhau, kiềm chế lẫn nhau, quyện vào nhau, khi có được con người hoàn toàn, l’homme total, thì hai thứ đó triệt tiêu lẫn nhau.
Sở dĩ nhà sư của Nhất Hạnh, trong “Cửa Tùng Đôi Cánh Gài”, hạ sơn, xuống đời, hành đạo, bị quỉ nhập lúc nào không hay, là do phần đạo hạnh yếu quá!
Bởi thế mà cuối cùng lại phải trở về chùa, tu luyện lại!

Câu Nguyễn Du phán, tâm bằng ba tài, không mắc mớ gì đến đạo đức ở ngoài đời, mà là đạo đức của văn chương, tức kỹ thuật viết.
Cũng câu đó, được Kafka lập lại, qua câu phán nổi tiếng của ông, nhưng phải nhờ đến Roland Barthes & Marthe Robert, thì chúng ta mới hiểu ra được:
Kỹ thuật chính là linh hồn của văn chương, [the being of literature is nothing, but its technique].

This is what Marthe Robert tells us: that Kafka's meaning is in his technique.

For the (sterile) old question: why write? Marthe Robert's Kafka substitutes a new question: how write? And this how exhausts the why: all at once the impasse is cleared, a truth appears. This is Kafka's truth, this is Kafka's answer (to all those who want to write): the being of literature is nothing, but its technique.

Với câu hỏi đã cạn hết nghĩa, cũ mèm, “Tại sao viết”, Marthe Robert, qua cuốn "Kafka" của bà, thay bằng câu hỏi mới: “Viết thế nào”. Cái “how” làm cạn kiệt cái “why”, tuyệt lộ được khai thông, một sự thực xuất hiện. Sự thực của Kafka. Câu trả lời của Kafka (cho những ai muốn viết): hữu thể của văn chương chẳng là gì hết, mà chỉ là kỹ thuật của nó.

Hà, hà!

Thầy Kuốc đếch bao giờ viết văn mà cứ vu vơ về viết văn!
Phải viết, thì mới biết làm sao đi hết biển!

Có thể nói, cả hai ông Nobel văn chương, Garcia Marquez và Vargas Llosa, đều là đệ tử của Faulkner.
Nếu nói về tài, GM bảnh hơn cả Thầy, ở cái chỗ, ông nổi hơn, nhiều độc giả hơn Thầy. Nhưng đó chính là chỗ khác biệt giữa Thầy và trò. Faulkner không hề muốn nổi tiếng như GM.
Kundera chẳng đã trích dẫn lời của Faulkner, chỉ muốn lịch sử gạch bỏ tên ông sau khi ông chết. Vargas Llosa, một cách nào đó, học được đạo hạnh của Thầy, và hơn Thầy ở chỗ, ông dấn thân hơn Thầy vào cuộc đời.
Thầy thì vẫn vậy, nhưng hai đệ tử, mỗi ông 1 khác, trong cái gọi là lẽ xuất sử, như Đông phương từng gọi.
Vargas Llosa có hai bài về Thầy. Trên Tin Văn đã post một bài, viết về cuốn Giáo Đường, cuốn hay nhất của Faulkner, nhưng bị chính Faulkner ruồng bỏ, vì cái chất vô đạo đức của nó!
Còn bài nữa, cũng ngắn, Tin Văn post luôn, cho đủ đôi.
Bài này chửi bố GM, khi chối bỏ Thầy!

FAULKNER IN LABERINTO

Faulkner's world was really not his alone. It was ours.
Thế giới của Faulkner thực sự không phải của ông thôi. Nó còn là của chúng ta.
He wrote in English, but he was one of our own.
Ông viết bằng tiếng Anh nhưng đúng là 1 trong chính chúng ta.
It was only when Paris discovered Faulkner and authors like Malraux and Sartre proclaimed his genius to the four winds that the southern novelist gained the right to citizenship in his own country. His country then accepted him for reasons similar to those of the French, as a brilliant, exotic product.
Chỉ tới khi Paris khám phá ra Faulkner, và những tác giả như Malraux và Sartre khen um đi khắp bốn trời, thiên tài Faulkner mới được quê hương của ông chấp nhận và ban cho quốc tịch.
Khi ông mang Nobel về cho xứ của ông, ông vẫn còn bị chửi! Tờ Nữu Ước Thời Báo cảnh cáo độc giả thế giới năm châu, đừng nghĩ Mẽo chỉ có hai món ăn chơi, là làm thịt da đen và loạn luân!



Garcia Marquez: Poet of a magical Latin American world

Tình Yêu Và Những Quỷ Dữ Khác

Thời gian Gunter Grass "xưng tội trước bàn thờ", có dư luận bắt ông trả lại Nobel văn chương. Một ông nhà văn Tây phán, nếu thế, thì phải đòi lại, cả cái của Garcia Marquez.

Không hiểu ảnh hưởng rất lớn của Garcia Marquez lên những nhà văn Việt Nam, là theo kiểu tốt hay là xấu.
Tốt, thì không thể, hoặc chưa thể, vì, cho tới nay, chúng ta chưa đọc được một tác phẩm nào nói lên được cái tính nhiệm mầu, như của Garcia Marquez, theo như Rushdie dẫn giải. Cũng có, nhưng là đồ dởm, thí dụ như Rung Chuông Tận Thế.
Còn nếu xấu, thì hãy coi chừng bể mặt!
Bởi vì "đạo đức", như mắm mì Rosa phán, "là vấn đề thời gian", già như mấy ông, ông nào cũng nghĩ là mình xứng đáng... bị thoi!
[But "morality", as Rosa, the brothel-keeper, observes, "is a question of time", and now the old man believes he deserves such a gift.]
*

Gấu biết một người không phải nhà văn, nhưng rất mê trở thành nhà văn, và rất mê Garcia Marquez.
Anh này, một cách nào đó, đã ngộ ra được cái "tinh thần Garcia Marquez", và áp dụng đúng vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.
*

1 giờ sáng

Luồng gió lạnh tẩm đầy thứ sương sớm ẩm độc của miền núi theo nhau ùa xuống thung lũng Sikiew. Bóng đen sẫm của khối núi phía sau Trại đè nặng lên mớ lều lùn tịt. Ánh trăng mầu huyết dụ rùng mình giữa đám lá cây. Một con cú từ họng núi xa, nhắm căn lều vỗ cánh loạn xạ. Tiếng đập cánh làm một con chó hoang rướn cổ tru dài. Con cú đảo một vòng quanh lều, rúc lên một hồi. Một con mèo đen, từ một xó xỉnh nào, bỗng nhẩy xổ lên mặt bàn. Mấy chiếc ly giật mình kêu loảng xoảng. Ngọn đèn cầy chao nghiêng, rỏ xuống mặt bàn mấy giọt nến làm dấu.

Đột nhiên nhận ra sự hiện diện của đám người ngồi quanh bàn, con cú đảo về phía núi, đầu ngoái lại như tiếc rẻ. Câu chuyện đang từ đề tài muôn thuở, thanh lọc, bỗng chuyển qua điềm triệu. Một anh chàng trung niên, cựu sĩ quan, quả quyết chính mắt nhìn thấy một con cú khổng lồ trên nóc dinh Độc Lập, đúng đêm 30 tháng Tư năm nọ. Nó cứ rúc lên từng hồi. Mọi người rướn dài cổ, há hốc mồm... "Hỡi các anh em binh sĩ, sĩ quan, hãy buông súng đầu hàng!" (1)

Bài đầu tiên, của tên nhà văn Ngụy, sau 1975, “sa đích văn nghệ”, trước 1975, là điểm cuốn Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez, đăng trên tờ Thanh Niên.

Nhận ra liền, Thầy của GM là Faulkner, và TNCD, là từ Âm Thanh và Cuồng Nộ mà ra: Nếu Faulkner đập nát thời gian, và xây dựng lại nó, bằng ý thức của 1 tên khùng, thì GM cũng đập nát thời gian, và xây dựng lại, bằng những vòng tròn đồng tâm, đồng hiện, những nhân vật trùng tên, Gấu đã từng phán như thế, trong bài điểm sách đăng trên tờ Thanh Niên.

[Trong bài tưởng niệm của Prospero, dưới đây, cũng nói tới thời gian chuyển động theo vòng tròn - In “One Hundred Years of Solitude” time moves in circles-. Vào thời gian đó, Gấu ghiền và chẳng có tí đọc điệc gì hết. Thế mới thú, chứ đâu có như bây giờ, nét niếc, báo Tây báo Tiếc!]

Bài điểm sách, Gấu thật thú, vì gặp lại Faulkner, nhưng trên thực tế, nó là 1 thứ cò mồi, để tìm cách làm 1 chân tà lọt, hay bất cứ 1 chân gì khác, ở báo Thanh Niên. Khi bài được đăng, là Gấu Cà Chớn đi một bức trường thư, xin được làm việc cho "Cách Mạng", gửi Huỳnh Tấn Mẫm, Trùm tờ Thanh Niên, nhờ bạn quí Butor Mít đưa giùm.
Vụ này nhà thơ Đại Hàn Quan Đô Chung rất rành. Anh còn nhận xét với Nguyễn Mai, cái thư, đúng là 1 tác phẩm văn học. Qua Nguyễn Mai, Gấu hân hạnh được hầu rượu nhà thơ tại nhà Nguyễn Mai!
Anh rất quí Gấu. Đó là thực tình, và tình thực.

Đếch thằng nào trả lời, I mean, Trùm VC nằm cùng HTM + Mít Butor.
Chúng quá rành Gấu, ghiền!
Sau đó, GCC thử xin việc ở tờ Công An TP/HCM, khi nhờ Hoàng Yên Di, anh bạn cùng làm với Ông Nhàn, nhà xb Vàng Son, cũng là bạn của NTK, giới thiệu/xin gặp Huỳnh Bá Thành, cũng 1 đấng VC nằm vùng, kèm 1 bài viết. Anh ta không gặp GCC, nhưng nhờ Hoàng Yên Di đưa cho Gấu tí tiền đi chích, và nói, bài không hợp với báo CA.
Bảnh nhất, “người” nhất, là tờ Tuổi Trẻ.
Gặp gỡ, đề nghị viết thường trực....  Chuyện này lèm bèm rồi.

Gabriel García Márquez

Poet of a magical Latin American world

AS HE later told it, Gabriel García Márquez, who has died at his home in Mexico City, made the most important decision of his life as a writer at the age of 22 when he joined his mother on a journey by steamer and rickety train to Aracataca, a small town surrounded by swamps and banana plantations in the heart of Colombia’s Caribbean coastal plain. Their purpose was to sell his grandparents’ house, where the author was born and had spent most of his first eight years, brought up by his maternal grandparents.

That trip to Aracataca revived memories that bore fruit in “One Hundred Years of Solitude”, the novel that brought García Márquez worldwide fame and a Nobel prize. From its first sentence—"Many years later, as he faced the firing squad, Colonel Aureliano Buendía was to remember that distant afternoon when his father took him to discover ice”—it transported the reader to a magical world of tropical fantasy. Aracataca became Macondo, where rains could last five years or deliver yellow flowers. Colonel Buendía was derived from his maternal grandfather, Colonel Nicolás Márquez, who had fought in the Liberal rebellion of 1899-1902 know as the War of the Thousand Days.

In “One Hundred Years of Solitude” time moves in circles and the absurd is routine, as the modern world eddies in invention and tragedy around a forgotten tropical Eden. In its colourful exaggeration, its joyful jumbling of the comic and the tragic, and its celebration of the extraordinary lives of ordinary people, the novel came to epitomise Latin American “magical realism”, even if the roots of the genre lay with the Argentines, Jorge Luis Borges and Julio Cortázar.

García Márquez’s first steps as a writer were as a poet and a journalist, and those talents underlay his extraordinary gift for storytelling. Unlike many writers of Spanish, he preferred short, simple sentences, and they gave his writing a limpid intensity. Yet success was a struggle. Seized with the inspiration that would turn a long unfinished novel about his grandparents’ house into “One Hundred Year of Solitude”, he locked himself away in his house for nine months, exhausting his modest savings and pawning his car only for the manuscript to be rejected by several publishers. The story goes that his wife, Mercedes Barcha, pawned their liquidiser to raise the postage to send the manuscript to Buenos Aires, where it was accepted.

The rest of his oeuvre was relatively slight, the material largely drawn from the same world of the Colombian Caribbean in novels such as “Love in the Time of Cholera” and “Chronicle of a Death Foretold”. In a modulation of theme, he wrote a historical novel about Simón Bolívar’s last, defeated days (“The General in his Labyrinth”) and returned to journalism, of which he was an accomplished exponent, with “News of a Kidnapping”, a powerful account of the horror inflicted on Colombia by the drug war.

Though he installed himself in Mexico City in 1961, Gabo, as he was dubbed, was indelibly a man of the Colombian Caribbean, with its bohemian, macho culture of sex, rum and political strife. Fame brought him political prominence. His critics said that he had a weakness for power. Gabo loves presidents. My wife likes to tease him by saying that even a vice-minister gives him a hard-on,” one of his friends told the New Yorker.

His memoir of his early life (“Living to Tell the Tale”) suggested a man more committed to friendship than ideology. He was attracted to dictators of the left. He was a close and uncritical friend of Fidel Castro, accepting the gift of a house in Havana. (He also kept a house in the walled colonial city of Cartagena, his spiritual home.) In 1999 he wrote perceptively of Hugo Chávez that he saw in him “two opposite men”, one who had an extraordinary opportunity to save his country and the other “a conjuror who might enter history as just another despot”.

Gabo remained loyal to his roots in founding a journalism foundation in Cartagena. His later years were marred by lymphatic cancer and then Alzheimer’s disease. When he turned up in a bar in Cartagena during the Hay literary festival in 2010 he had become an amiable but spectral figure.

It was not García Márquez’s fault if magical realism became a sterile canon, practised with success by writers of much lesser talent. But younger novelists were surely right when they criticised him for projecting to the world an archaic vision of Latin America, as an exotic and provincial place, incapable of successful modernisation, development and democracy.

On the other hand, Macondo still co-exists with the modern world in many parts of Latin America. García Márquez captured as nobody else has the region’s joyous absurdity, the central place it grants to family and friendship and its exuberant cocktail of sex and tragedy, of pleasure and feud.

Cái PC của GCC, bị con bọ "Con tim nhỏ máu", the Heartbleed, tấn công, phải nhờ người clean. Trong khi chờ, thì đọc tin Garcia Marquez mất. Bèn nghĩ đến giao tình người đọc và tác giả, và, để quên trang TV, bèn lôi Calos Fuentes, An A to Z of a Life ra đọc.
Vần F, ông dành cho Faulkner, Thầy của GM.
Đọc bài viết thì Gấu mới nhận ra GM không thể nào vượt được Faulkner. Bài cũng ngắn, TV sẽ đi kèm đây, cũng là 1 cách tưởng niệm vị Thầy của dòng văn học hiện thực huyền ảo Mỹ châu La tinh.

Gabriel Garcia Marquez, lần đầu viết gần ba trăm trang bản thảo, đọc lại, ông vứt bỏ vì thấy giống tác phẩm của một tác giả khác. Viết lại, ông lấy luôn bộ khung cuốn "Absalom, Absalom!" của W. Faulkner làm bệ phóng, và lần này thành công, một tác phẩm lớn xuất hiện.

Đọc "Trăm năm cô đơn", độc giả thấy ngay tác phẩm thoát thai từ Faulkner. Cũng một thành phố giả tưởng. Cũng một kỹ thuật tiểu thuyết qui chiếu về một siêu hình học của thời gian.

Trong Âm Thanh và Cuồng Nộ, Faulkner đập nát thời gian rồi xây dựng lại theo ký ức của một tên khùng, G. Garcia Marquez, cũng "mánh" đó, [mà sau này Sartre đưa ra thành lề luật: Mọi kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui về một siêu hình học của tiểu thuyết gia], nhưng, thay vì ký ức của một thằng khùng, thì dùng những vòng tròn thời gian đồng tâm, những nhân vật cùng tên, tạo dựng thế giới Macondo từ những huyền thoại và thực tế Nam Mỹ (dòng văn chương hiện thực huyền ảo). Nhưng tác phẩm Trăm Năm Cô Đơn hoàn toàn là của G. Garcia Marquez. Faulkner không thể viết như vậy được, ông bị chết cứng như nhân vật của ông trong hai lần địa ngục, hay là hai thảm kịch của nước Mỹ, đặc biệt là của Miền Nam nước Mỹ: Da đen và loạn luân.


Gabriel García Márquez in Monterrey in 2007
Gabriel García Márquez

Gabriel García Márquez dies aged 87

Speaking to the Paris Review in 1981 he explained how he decided his writings about his childhood were "more political" than the "journalistic literature" he had been engaged with. He wanted to return to his childhood and the imaginary village of Macondo he had created in Leaf Storm, but there was "always something missing". After five years he hit upon the "right tone", a style "based on the way my grandmother used to tell her stories".

"She told things that sounded supernatural and fantastic, but she told them with complete naturalness," García Márquez said. "When I finally discovered the tone I had to use, I sat down for 18 months and worked every day."

*

Ông này, tài gấp ba tâm! Naipaul gọi là tên bất luơng. Updike thì khui ra cái tật mê con nít. GCC, trong 1 bài viết, đã coi ông bảnh hơn thầy là Faulkner.
Không đúng.

Faulkner bảnh hơn nhiều, ở cái sự kiện, ít người đọc được ông. Và ông cũng chưa từng ngồi hầu đờn nhà độc tài miệt vườn, như…. Fidel Castro!
Tên của ông, phải viết là Garcia Marquez. Viết Marquez không thôi, là viết trật. Tiếng Mít cũng thế thôi, Hà Thanh, thí dụ, làm sao giống Thái Thanh?
Khánh không, thì làm sao biết là Khánh Ly?

April 18, 2014

Gabriel García Márquez: An Appreciation


At the beginning of “One Hundred Years of Solitude,” Macondo’s patriarch, José Arcadio Buendía, wants to move the idyllic yet isolated community he founded to another, more accessible location. And, since no one else wants to go with him, he decides that he and his wife, Úrsula, and their son should leave by themselves.
“We will not leave,” his wife says, reminding him that Macondo was their son’s birthplace.

“We have still not had a death,” he tells her. “A person does not belong to a place until there is someone dead under the ground.” To which his wife replies, “If I have to die for the rest of you to stay here, I will die.”

This was the first thing that came to mind when I heard that Gabriel García Márquez had died. I have always loved that scene. For anyone who’s been forced, or has chosen, to start a new life in a new place, these words seem to provide at least two possible markers by which one can begin to belong. By Úrsula’s definition, it is through life. By her husband’s, it is through death.

Đó là điều tôi nghĩ tới khi nghe tin ông mất. Tôi thật mê cái xen trên. Với 1 kẻ bắt buộc phải chọn, bắt đầu 1 đời mới, ở 1 nơi mới, qua ông chồng, là qua cái chết, với bà vợ, là qua cuộc đời

"Nơi chốn không chết như con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi chẳng còn chi được giữ lại, về một thời nó đã là..." , W. Trévor viết về miền thơ ấu (Ái Nhĩ Lan) của ông.
Tôi chỉ muốn thêm vô: "... chẳng còn chi được giữ lại, cho một con người ngày xưa đã từng ở đó."
Tôi cũng có đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành phố. Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn, (Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm một đất lành khác. Anh giải thích: "con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất có một người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một cái mả, tôi sẽ ra đó nằm."

Còn nhớ một cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông bà mình làm sao ngủ yên ?...

Note: Bài viết này, qua phôn NMG, khi Người còn sống, được 1 đấng độc giả Bắc Kít, ra đi từ Miền Bắc, ở Đông Âu, cũng là 1 nhà văn, nhân Tết Ta, phôn chúc Tết tờ Văn Học, khen “nhặng xị cả lên”, phán, thằng cha Gấu đã làm được 1 cuộc hôn nhân, giữa văn học và chính trị.

Tks. I know your name. But no way to say here, without your permission. NQT

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư