Old Diaries

 OLD Diaries


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
11 12 14 15


 Thơ Mỗi Ngày 

The Terms

The child crying in the night
Across the street
In one of the many dark windows
That, too, to get used to,
Make part of your life.
Like this book of astronomy
Which you open with equal apprehension
By the light of table lamp,
And your birdlike shadow on the wall.
A sleepless witness at the base
Of this expanding immensity,
Simultaneous in this moment
With all of its empty spaces,
Listening to the child crying in the night
With a hope,
It will go on crying a little longer

Charles Simic: New and Selected Poems

Điều khoản

Đứa trẻ khóc trong đêm
Dọc theo con phố
Trong một trong rất nhiều cửa sổ tối,
Điều đó, thì cũng mi phải chấp nhận và làm quen thôi
Vì nó làm thành một phần đời của mi đấy
Như cuốn sách thiên văn,
Mà mi đang mở ra coi,
Bên ngọn đèn ngủ
Với, cũng cùng 1 sự trân trọng như vậy.
Cái bóng của mi
Giống như 1 con chim
Trên tường.
Một nhân chứng mất ngủ
Ở nền
Của cái vô cùng cứ phình mãi ra
Cùng lúc
Trong khoảnh khắc này,
Với tất cả những không gian trống trơn của nó,
Lắng nghe đứa trẻ khóc
Với niềm hy vọng
Nó sẽ khóc lâu hơn,
Thêm lên
Một tị.

A Wall

That's the only image
That turns up.

A wall all by itself,
Poorly lit, beckoning,
But no sense of the room,
Not even a hint
Of why it is I remember
So little and so clearly:

The fly I was watching,
The details of its wings
Glowing like turquoise.
Its feet, to my amusement
Following a minute crack-
An eternity
Around that simple event.
And nothing else; and nowhere
To go back to;
And no one else
As far as I know to verify.

Charles Simic: New and Selected Poems

Bức Tường

Chỉ mỗi nó, mò ra

Một bức tường, chính nó
Tối lù mù, gật gà gật gù
Không thấy “phòng” đâu cả
Không làm sao cảm thấy, “phòng”, dù chỉ 1 tí
Ui chao tớ chỉ nhớ có thế
Một tí như thế, thật là rõ ràng
Con ruồi mà tớ đang ngắm nghía:

Những chi tiết về hai chiếc cánh của nó
Rực sáng, như ngọc lam
Mấy cái chân của nó nữa, mới thích thú làm sao
Rồi “crắc” một phát,
Là thiên thu
Quanh sự kiện đơn giản đó.
Rồi chẳng gì nữa, chẳng đâu nữa
Để mà trở lại,
Và chẳng một ai khác, khác
Như là tớ biết
Để kiểm chứng

Ui chao, quái quỉ làm sao, bài thơ ngớ nga ngớ ngẩn một cách tuyệt vời này, và những cụm từ, no one else, to go back to… làm GCC nhớ tới 1 hình ảnh, trong bài viết của GCC, nhờ gặp lại cô bạn ở nơi xứ người mà viết ra được.

Một hình ảnh làm Gấu Cái rất ư là bực bội, “anh đâu còn nơi nào để mà trở về”!

Một blogger, tìm tài liệu về Camus, trên net, mò ra trang Tin Van, rồi mò ra bài viết. (1)
GCC làm quen, cô Bắc Kít này hỏi, viết hồi nào vậy.
-Mậu Thân

Cầm Dương Xanh

Anh yêu em, như một người thân thương ruột thịt, mỗi lần anh trở về; bởi vì, ngoài em ra, đâu còn nơi nào để mà trở về?

Hà, hà!

Viết như 1 viên gạch, để viết tiếp, ấy là bởi vì còn mấy kỷ niệm thần sầu khác nữa, về cô bạn, và về cái vụ, nhờ gặp lại nơi quê người, mà nhớ ra được!

Sách Báo

*

10 Questions with Judy Blume

Cuốn "Cho tôi xin một chiếc vé đi tuổi thơ" của Nguyễn Nhật Ánh vừa được dịch và điểm trên một tờ báo văn học có tiếng ở Mỹ: Anjali Vaidya on Ticket to Childhood: A Novel (Los Angeles Review of Books 28-5-15) - Xin lỗi các nhà phê bình Việt Nam nha: Tôi ít khi thấy một bài phê bình nào bằng tiếng Việt, về một tác giả Việt Nam, mà sâu sắc và có kiến văn rộng rãi như bài phê bình này!
Source

Note: Phán như thế, thì ít ra cũng dịch bài điểm sách ra tiếng Mít, để cho độc giả cùng đánh giá.
Gấu, tò mò, đọc bài viết, và có ý kiến ý cò, không đúng.

Tờ Điểm Sách LA thực sự cũng không có tiếng, so với, thí dụ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB.
Thứ nữa, tác giả so “Cho tôi 1 vé đi…. “ của NNA, là cùng dòng với "Hoàng Tử Bé" của St Ex.
Cái này thì đại nhảm, vưỡn theo GCC!
Cuốn của St Ex, tuy viết cho con nít, nhưng thực sự là dành cho đám già, và có thể, còn có tí khùng.
Bởi thế Giàng Búi mới quá mê, và bèn dịch!
NNA đâu có tí nào... khùng?

Tuy nhiên, vấn đề là, ở xứ Mít như hiện nay, đàn bà con nít thì đều bị nhà nước dùng vào món hàng xuất khẩu, đều cực “bất hạnh”, dùng từ của Thầy Kuốc, cái trò “vừa nhắm mắt vừa mở cửa”, “cho tớ 1 vé…. đi thiên đàng”, nó giống như nhục mạ họ, và nhà văn, hoặc là mù, hoặc là giống như con lừa, thấy con hổ, bèn chúi đầu vô bụi, chân sau đá lia lịa. Mê đọc ngôn tình, mê hiện thực huyền ảo, mê sách sex, mê sách dành cho con nít, là tự đánh lừa chính mình, theo GCC.

Cái gì gì, sau Lò Cải Tạo mà còn làm thơ thì thật là dã man. [Văn chương Việt Nam 25 năm vừa qua là phiên bản nhiệt đới gió mùa của câu văn khét tiếng của Adorno: "Còn làm thơ sau Auschwitz thì thật man rợ". Blog NL]


Viết lại/Đợp Lại "Kẻ Xa Lạ" của Camus/Chủ nghĩa Thực Dân Thuộc Địa của Tẩy. Phản điều tra Meursault
New Algerian fiction
Stranger and stranger
An biting Algerian response to French colonialism

Camus vs Meursault, Phản Điều Tra

*

FOREWORD

Albert Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror

Our twentieth century is the century of fear.... We live in terror.

-ALBERT CAMUS,

"The Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)

I have always believed that if people who placed their hopes in the human condition were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there will be only one honorable choice: to wager everything on the belief that in the end words will prove stronger than bullets.

Tôi luôn luôn tin rằng, nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người -  khùng, thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin, sau cùng chữ mạnh hơn đạn.

-ALBERT CAMUS,

"Toward Dialogue" (Combat, November 30, 1946)

Nadine Gordimer chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:

Non-fiction - Camus at "Combat": Writing  1944-1947 by Albert Camus, edited by Jacqueline Levi-Valensi (Princeton): editorials and other texts, letters, published at high personal risk by Camus in what began as an underground newspaper during the German of Occupation of France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of passionate conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes Camus's creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider. As editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the Occupation and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that destroy themselves owing to the heavy price they eventually exact when they seek to become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria what held good for other colonial empires as well: "The failure to peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II ... a serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho người viết, trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng viết, chứa trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách quan, trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng tạo của Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch Kẻ Xa Lạ.  Vừa là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước Pháp bị] Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông chẳng còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên chúng ta, nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ chúng, và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần trong thực tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là tốt, không chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực dân thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa thực dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại nghiêm trọng, nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo, có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là những gợi ý của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao tránh khỏi cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra một lời giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp ngựa để thắng cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh Miền Nam, và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng chẳng ai cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở tung, và con quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến, chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương, trong hồn, trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe nanh múa vuốt xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi chuồng heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của Gogol, sự xuất hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn chân", hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ gọi anh là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng mảnh dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao đổi ma quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị (offering) thân chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ lấy đi còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi chuyến đi với cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an bài"!
Tchekhov và Kafka

Bạn cũng có thể hình dung ra con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp cho anh bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made in China’, và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu, núi đâu, gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?


Note: Mới đọc một stt của Thầy Kuốc:

Nguyễn Hưng Quốc

9 hrs ·

ĐIỂM NÓNG
Trong nửa sau thế kỷ 20, Việt Nam là điểm nóng nhất trong cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản. Đầu thế kỷ 21, Việt Nam, một lần nữa, lại trở thành một điểm nóng nhất trong cuộc chiến tranh lạnh giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới: Trung Quốc và Mỹ.

Nói về vị trí của Việt Nam trên bản đồ thế giới, hầu hết các cuốn sách giáo khoa về địa lý đều cho đó là một vị trí ngã ba của các nền văn minh lớn. Trên thực tế, từ góc nhìn địa chính trị, chúng ta chỉ thấy toàn là những bất hạnh. Bất hạnh trong cuộc chiến tranh 1954-75 thì đã rõ. Còn những bất hạnh sắp tới trên Biển Đông thì chưa ai biết được.

— with Tuan Nguyen.

Theo GCC, không phải như thế.

Nước Mít, lúc thoạt đầu chỉ có xứ Bắc Kít, tức đồng bằng sông Hồng. Rồi ăn hoài, đẻ hoài, bị ngăn chặn ở phía Bắc bởi anh Tẫu thành ra cứ phải mở mãi ra phía Nam. Trong lịch sử làm nên cái bất hạnh của nó, là lịch sử của không biết bao nhiêu giống dân khác bị giống Bắc Kít làm thịt.
Đến khi hết các giống dân khác, thì làm thịt thằng em ruột của nó.

Cái bất hạnh nếu có, thì nằm trong máu Bắc Kít.
Thằng Tẫu là kẻ thù ngàn đời của nó. Vậy mà nó dâng cả vợ con cho Tẫu, để làm thịt cho bằng được thằng em ruột của mình.

Sử gia mũi lõ coi trường hợp của xứ Mít, sự tạo thành của nó, và kết quả như bây giờ, là sự…  trả thù của địa lý.

Vết thương hình chữ S, với xứ Mít

*

Karnow, trong bài viết về Bác Hồ, trong số báo đặc biệt của Time, có nhắc đến câu trả lời của Võ Tướng Quân, về cuộc chiến Mít. Đánh, kéo dài trăm năm, ngàn năm, vưỡn đánh, chết hàng trăm triệu, cũng bỏ. Và ông ta cho rằng Võ Tướng Quân, có thể là tướng giỏi, nhưng đếch tiếc mạng người!

Gấu cũng nghĩ như vậy, nhưng sau đó, nhận ra là, VNG, khi trả lời Karnow, không phải với tư cách 1 vị tướng, mà chỉ như 1 tên Bắc Kít, với giấc mộng tuyệt vời của giống dân này, được ông Trời sinh ra để hoàn thành nó. Đây là cái "thème" Savior biến thành Devil mà Tin Văn lèm bèm hoài, thuổng từ D.M. Thomas, khi viết tiểu sử Solzhenitsyn.

Tương tự, khi Bùi Tín trả lời Dương Văn Minh, chúng ông lấy sạch rồi, mi còn gì mà bàn giao: từ trái tim “đen thui” của ông bật ra câu này, như ao ước của Võ Tướng Quân, chẳng khác! 

V/v “chẳng khác”, D.M. Thomas giải thích, Quỉ và Chúa đổi chỗ cho nhau. Giấc mơ đẹp giải phóng thống nhất đất nước biến thành cơn điên khùng ăn cướp Miền Nam, rồi cứ thế, cứ thế, ăn cướp cả nước, biến đất Mít cái hậu môn của thế giới, anus mundi, biến thế giới thành bãi đánh hàng!

Đâu chỉ một Võ Tướng Quân, mà bất kỳ 1 tên Bắc Kít đều mong xả thân vì chiến thắng Miền Nam. Vì giấc mơ tuyệt vời nhờ nó mà có giống Mít.

Cái kết quả sau cùng làm 1 tên Mít nào, có lương tâm, là đều nhận ra. Giấc mộng đẹp chính là Quả Lừa Lớn, Sự Trả Thù của… địa lý: Vết thương hình chữ S!

Bao nhiêu giống dân bị Mít làm cỏ, mới có giấc mộng lớn/quả lừa lớn đó! (a)

Thầy Kuốc có biết gì đâu. Gấu đã chứng tỏ nhiều lần, Thầy cực dốt, nhờ số phận run rủi mà lên Thầy, cũng 1 thứ Xuân Tóc Đỏ của thời đại. Có lần Thầy phán, gì thì gì, dân Mít phải biết ơn VC, nhờ VC mà thắng cả hai thằng đế quốc đầu sỏ!
Đau nhất, là thắng nó, thành ra đất nước mới ra nông nỗi như vầy. Đau nhất, như Gấu đã nhiều lần lèm bèm, vì cả hai thằng đều không muốn gây chiến, mà VC bắt buộc chúng phải gây chiến. Làm gì có 1 chế độ chính trị nào thực sự yêu đất nước của mình, mà lại như lũ VC.
Gấu biểu tên già NN ra nghĩa địa Ngụy sám hối, là vì lý do đó. Phải có 1 tên làm 1 việc như thế, như 1 nghi lễ cầu xin ông Trời tha thứ cho dân Mít, may ra mới có sự thay đổi.


Viết

*

*

Người Đức Trầm Lặng.
The New Yorker, Dec 1 2014

Note: Bà này, cũng 1 thứ “Bắc Kít”, nói theo ngôn ngữ cà chớn của GCC, nhưng sao quá tuyệt vời, khiến Gấu cứ băn khoăn hoài, làm sao những xứ CS khốn nạn của họ, như Liên Xô, như Ba Lan, như Đông Đức, lại sản xuất ra, nào là Brodsky, nào là Milosz, nào là 1 “em” như em này, trong khi xứ Bắc Kít, toàn thứ xái xảm gì đâu!
Có 1 câu thật tuyệt, trong bài biết, có thể giải thích phần nào thắc mắc của Gấu:
"Cái tính tự phê và tởm lợm chính mình của người Đức”, “The German self-criticism and self-loathing”, là 1 phần của sự thành công của câu chuyện.
Cả hai cái tính quí báu này, Bắc Kít đéo có!
NQT

Cái tít ở bià số báo mới thú: Những tính toán lạnh lùng - y chang gái Bắc, y chang BHD, phải viết thế mới đúng -  của người đàn bà quyền lực nhất thế giới, “The cool calculations of the world’s most powerful woman”: Bằng cách nào Angela Merkel handles - “xoa đầu, cho ăn bánh, ăn kẹo, ru ngủ hai anh đực" - Putin và Obama, và giữ cho Âu Châu “in line”.
Trong hai anh đực, Bà cưng Obama hơn.
Bà có gì giống…  GCC, không coi Đông Âu/Bắc Kít là nhà, mê nắng Miền Nam, “I never felt that GDR was my home country... I have a relatively sunny spirit.”
“Tôi luôn có cảm tưởng đời tôi là 1 quãng nắng, I always have the expectation that my path throught life would be relatively sunny, no matter what happened”.
Bài khá dài, không biết cho có cho đọc free không.


New James Bond novel Trigger Mortis resurrects Pussy Galore

Pussy asks 007 “not in a gangster’s voice, or a Lesbian’s, but in a girl’s voice, ‘Will you write to me in Sing Sing?’” Bond looks into her “deep blue-violet eyes that were no longer hard, imperious”, and says: “They told me you only liked women.” Pussy replies: “I never met a man before,” and Bond’s mouth “came ruthlessly down on hers”.

*

Đài Liên Lạc VTD/thoại  Quốc Tế, 5 Phan Đình Phùng Saigon. GCC đứng chống nạnh

GCC đợp hai trái mìn Claymore của VC ở nhà hàng ni Mỹ Cảnh, đúng thời gian đang mê…  007.

Sau khi rời nhà thương Grall, với cái tay bó bột, bác sĩ hẹn 2 tháng sau trở lại cắt băng khánh thành cái tay mới,  thay vì trở về nhà, nằm dưỡng thương, thì trở lại Đài VTD, số 5 Phan Đình Phùng, vì công việc làm thêm “part time” cho UPI, làm sao bỏ, thế là, 1 tay băng bột, 1 tay gửi Radiophoto, và cả cái body thì vẫn hoàn thành trách nhiệm của 1 tên chuyên viên kỹ thuật của Đài.

Đúng thời gian đó, hai chuyên viên Mẽo, qua Việt Nam, giúp Bưu Điện làm tốt mạch viễn liên, phục vụ lính Mẽo trong dịp Noel. Một, tên Pool, từ Đài nhận tin, Reception Center, ở Oakland California, GCC còn nhớ, quá nhớ, vì tay này đúng dân kỹ thuật. Một, chuyên về business. Chuyến đi của anh này, là tìm cách làm ăn với xứ Mít, vì vào lúc đó, Mẽo vừa đ quân vô Miền Nam [GCC ăn mìn là do VC chào mừng Mẽo đổ bộ]


Tự Do Viết

Văn chương và im lặng

Văn chương Việt Nam 25 năm vừa qua là phiên bản nhiệt đới gió mùa của câu văn khét tiếng của Adorno: "Còn làm thơ sau Auschwitz thì thật man rợ".

Không phải ngay sau 1975, mà dường như có khoảng chờ đợi mười lăm năm, quãng mười lăm năm để mọi thứ chất độc có sẵn bắt đầu phát tác, để biến dòng máu trở thành dòng máu độc tím ngắt bệnh hoạn. Phong cảnh văn chương Việt Nam 25 năm vừa rồi đến lúc đòi hỏi phải được thấu hiểu, hiểu một cách đau đớn và tàn nhẫn: câu hỏi chính yếu không phải Văn chương để làm gì? mang hương vị của Saint-Germain-des-Prés, mà là Thế quái nào mà vẫn có văn chương được?

Phải cảm nhận được từ trong sâu thẳm (vì là chuyện dòng máu), khi những ảo tưởng lúc đầu đã tan biến như bọt biển, như bình minh dịu dàng ngay sau đó bị mặt trời hung bạo gần xích đạo đốt sạch, phải ý thức được rằng sa mạc của miền nhiệt đới nghĩa là thiêu đốt, hoang vu và độc địa.

Phải cảm nhận được rằng mọi thứ đều lệch lạc, và mọi hành động của ta chỉ có thể tiếp tay cho tình trạng lệch lạc kia. Sự khô cằn ấy không có cứu rỗi, còn không có đến một ảo ảnh ốc đảo. Không có văn chương và nhà văn đích thực khi không có sự thấu hiểu phong cảnh chung: hãy nhìn lại thời của các nhà thơ viết ra Kiều, Cung oán, Chinh phụ, họ cũng phải có cảm nhận đau đớn tột cùng, cũng đã phải làm một công việc mênh mông như biển, là gột rửa sự bẩn thỉu của dòng máu.

Chỉ có nhà văn lớn khi nhà văn ấy biết im lặng.

Ở ranh giới của sự thoái hóa dòng máu chung, thật ra đã có sẵn một phương thuốc, nhưng phương thuốc ấy đã không được hiểu, bị lờ đi, trong đà cuốn của dòng máu bệnh: bệnh hoạn thì mới mạnh mẽ, điều ấy không thể khác. Phương thuốc đã nằm ngay trong Nỗi buồn chiến tranh: trong cuốn tiểu thuyết ấy, nỗi buồn mới là quan trọng, nó chính là phương thuốc trị bệnh cho máu, nhưng người ta lại tưởng quan trọng là phần chiến tranh. Một cơ hội đã bị bỏ qua, một cách còn thảm khốc hơn cả cuộc chiến tranh. Không biết buồn, con người đã không biết dùng sa mạc của nỗi buồn để chống lại sa mạc của phong cảnh chung.

25 năm ấy, chỉ vài người tạo ra được một thứ văn chương không nhiễm bẩn, đấy là khi họ ý thức được rằng phải tạo ra một thế giới riêng hẳn, không có gì chung với tất cả, chỉ tiếp giáp tối thiểu, để có thể ngăn chặn ngay từ đầu dòng máu bẩn. Những người ấy lạc loài tự nguyện: Nguyễn Ngọc Tư của một cõi đồng bằng miền Tây, Nguyễn Bình Phương với một miền đồi núi phía Bắc, và Bùi Ngọc Tấn trong thế giới tù tội.

Và một số, rất ít, rất khác nhau, nhưng chung nhau ở một đặc điểm mà tôi tin là rất ít người nhận ra: những nhà văn rất mỏng, có sự tồn tại thoáng qua. Sự thoáng qua này, rồi sau đó là biến mất và im lặng, không tố cáo, mà là một sự nhận ra đầy buồn nản, sự hiểu ra rằng thế quái nào mà lại có văn chương. Xuất hiện với mầm mống đầy đủ cho những sự nghiệp văn chương đồ sộ, nhưng họ nhanh chóng biến mất, quay hẳn lưng lại với văn chương, bỏ đi - để giũ cho sạch thứ máu bẩn đã ám vào mình. Mỗi người là vài tập truyện ngắn: đó là trường hợp của Phan Triều Hải, Đỗ Phước Tiến, Ngô Phan Lưu và Nguyễn Nguyên Phước. Ở chiều ngược lại là những văn chương phun trào, những vòi nước thế quái nào lại đặt vào giữa vùng sa mạc, thi nhau tưới nước lên cát. Những sự tồn tại như thế cũng hợp lý, vì sự tồn tại nào cũng hợp lý hết: văn chương Nguyễn Đình Tú tồn tại là để sau này người ta thấy một thời văn chương Việt Nam có thể ngớ ngẩn như thế nào.

Nhưng rồi cũng đến hạn, máu độc cũng sẽ dần loãng, mấy năm sắp tới chắc chắn sẽ rất nhiều bất ngờ.

Blog NL

Thế quái nào mà vẫn có văn chương!

Tks

NQT






 

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’