Adam Zagajewski & Dã Viên


 
1
2
Zaga on Rilke

 

The House

Do you still remember what the house was like?
The house-a pocket in a snowstorm's overcoat,
houses, low and bulging like Egyptian vowels.
Sheltered by green tongues of trees-
the most faithful was the linden, it shed
dry tears each fall.
Outmoded dresses dangled in the attic
like hanged men. Old letters flamed.
The old piano dozing in the parlor,
a hippo with black and yellow teeth.
On the wall a cross from a failed uprising
hung crookedly, and a photo
of a sad girl-a failed life.
The air smelled like vermouth,
bitter and sweet at once.
Houses, houses, where are you,
under what ocean, in what memory,
beneath the roof of what existence?
While the wind was opening windows, a deep blue
past sneaked into the rooms
and stifled the muslin curtains' breathing.
The fire was death's intended
and brought her bouquets of pale sparks.

Adam Zagajewski

Nhà

Bạn vưỡn nhớ nhà như thế nào chứ?
Nhà - một cái túi trong cái áo choàng là trận bão tuyết,
Những nhà, thấp, lồi ra, như những nguyên âm trong tiếng Ai Cập
Ðược che chở bởi những tàng lá xanh - trung thủy nhất là linden,
Mỗi thu thả xuống những giọt lệ khô.
Những chiếc áo dài cổ lỗ đong đưa trong căn gác xép
Như những tên treo cổ.
Những lá thư cũ cháy bừng bừng thành ngọn lửa.
Cây dương cầm ngủ gà gật nơi phòng khách,
Con hà mã với những chiếc răng trắng và vàng.
Trên trường vặn vẹo một cây thập tự, từ cuộc nổi dậy thất bại,
Một bức hình của 1 cô gái buồn - một cuộc đời thất bại.
Không khí có mùi vermouth,
Vừa đắng lại vừa ngọt.

Nhà, nhà, lũ mi ở đâu?
Dưới biển trời nào, trong hồi ức nào?
Dưới mái đời nào?

Trong khi gió mở toang những cửa sổ,
Một màu xanh sẫm tràn qua, chui vô những căn phòng
Bóp nghẹt hơi thở của những bức màn mỏng.
Lửa là hậu ý của thần chết
Với bó hoa lửa của nó.


A MORNING IN VICENZA

In memoriam Joseph Brodsky, Krzysztof Kieslowski

The sun was so fragile, so young,
that we were a little scared; a careless move
might scratch it, just a shout-if anyone
had tried-might do it harm; only the rushing swifts,
with wings hard as cast-iron,
were free to sing out loud, because they'd spent their brief,
uneasy childhoods in clay nests
alongside siblings, small, mad planets,
black as forest berries.

In a small cafe the sleepy waiter-the night's last shadows
met beneath his eyes-searched for change
in his vast pocket, and the coffee smelled of solemn
printer's ink, of sweetness, Arabia. The sky's blue
promised a long afternoon, an endless day.
I saw you as if for the first time.
And even the Palladio columns seemed
newborn, they rose from waves of dawn
like Venus, your elder companion.

To start from scratch, to count the losses, count the dead,
to start a new day without the two of you, first you
whom we buried twice and lamented twice,
you lived two times as strongly as the rest, on two continents,
in two languages, in the world and in imagination-then you,
with your chiseled face, the gaze that amplified
objects and hearts (always too small).
You both are gone, and so from now we'll lead a double life,
at once in shadow and in light, in bright sunshine
and the cool of stony halls, in mourning and in joy.

Adam Zagajewski: Without End

Một buổi sáng ở Vicenza

Tưởng nhớ Joseph Brodsky, Krzysztof Kieslowski

Mặt trời mới mỏng manh làm sao
trẻ măng thế nào
khiến chúng ta sờ sợ; chỉ một cử động bất cẩn,
có thể làm xước nó, chỉ cần 1 tiếng la - nếu ai đó tính thử - đủ làm nó bị thương;
chỉ có những con én vội vã với cánh cứng như sắt, tha hồ hót ỏm tỏi,
bởi là vì đã trải qua tuổi thơ ngắn ngủi, khó khăn,
trong những cái tổ bằng đất nện, cùng với những chị em ruột của chúng,
những “mad planets”, đen, như dâu rừng.

Trong 1 tiệm cà phê nhỏ, người bồi ngái ngủ -
những cái bóng sau cùng của đêm đọng dưới mắt-
tìm tiền lẻ trong túi rộng thùng thình,
và cà phê có mùi mực của cái máy in trang trọng,
của sự ngọt ngào, Arabia. Bầu trời xanh hứa hẹn một buổi chiều dài,
một ngày không tận cùng.
Tôi nhìn thấy bạn lần đầu tiên.
Và ngay cả những cây cột Palladio hình như cũng mới sinh ra,
chúng từ sóng biển lúc rạng đông nhô lên, như Venus,
người bạn đường lớn tuổi của bạn. 

Khởi từ vết xước, đếm những mất mát, những người chết,
bắt đầu một ngày mới không có cả hai bạn,
thứ nhất, bạn, người mà chúng ta chôn cất hai lần và khóc hai lần,
Bạn, người sống hai thời, mạnh mẽ như đám còn lại, trên hai lục địa,
trong hai ngôn ngữ, trong thế giới và trong tưởng tượng –
và rồi thì tới bạn, với khuôn mặt sắc cạnh,
với cái nhìn làm hăm hở sự vật, và những trái tim [luôn luôn quá nhỏ].
Cả hai bạn thì đều đã đi xa, và kể từ bây giờ chúng ta sẽ “chơi”
một cuộc đời kép, liền lập tức,
trong bóng dâm và trong ánh sáng, trong ánh mặt trời rạng rỡ,
và trong cái mát lạnh của những sảnh đường bằng đá,
trong tưởng niệm và trong niềm vui.



Zagajewski

MUTE CITY

Imagine a dark city.
It understands nothing. Silence reigns.
And in the quiet bats like Ionian philosophers
make sudden, radical decisions in mid-flight,
filling us with admiration.
Mute city. Blanketed in clouds.
Nothing is known yet. Nothing.
Sharp lightning cleaves the night.
Priests, Catholic and Orthodox alike, rush to shroud
their windows in deep blue velvet,
but we go out
to hear the rain's rustle
and the dawn. Dawn always tells us something,
always.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Thành phố câm

Tưởng tượng một thành phố tối
Nó không hiểu cái chó gì. Im lặng ngự trị
Và trong trầm lắng, những chú rơi, như những triết gia Ionian,
làm những cú quyết định bất thần, cơ bản, giữa đường bay,
khiến chúng ta tràn đầy cảm phục.

Thành phố câm. Trùm mền trong những đám mây.
Chưa biết cái chó gì hết. Chưa.
Ánh sáng sắc bén chẻ đêm .
Thầy tu, Ky Tô và Chính Thống giáo như nhau,
chạy vội che cửa sổ bằng 1 lớp màn nhung xanh đậm, thật đậm,
nhưng chúng ta bèn đi ra bên ngoài
để nghe tiếng rì rào của mưa
và rạng đông. Rạng đông luôn nói với chúng ta một điều gì đó,
luôn luôn là vậy.

A MORNING IN VICENZA

In memoriam Joseph Brodsky, Krzysztof Kieslowski

The sun was so fragile, so young,
that we were a little scared; a careless move
might scratch it, just a shout-if anyone
had tried-might do it harm; only the rushing swifts,
with wings hard as cast-iron,
were free to sing out loud, because they'd spent their brief,
uneasy childhoods in clay nests
alongside siblings, small, mad planets,
black as forest berries.

In a small cafe the sleepy waiter-the night's last shadows
met beneath his eyes-searched for change
in his vast pocket, and the coffee smelled of solemn
printer's ink, of sweetness, Arabia. The sky's blue
promised a long afternoon, an endless day.
I saw you as if for the first time.
And even the Palladio columns seemed
newborn, they rose from waves of dawn
like Venus, your elder companion.

To start from scratch, to count the losses, count the dead,
to start a new day without the two of you, first you
whom we buried twice and lamented twice,
you lived two times as strongly as the rest, on two continents,
in two languages, in the world and in imagination-then you,
with your chiseled face, the gaze that amplified
objects and hearts (always too small).
You both are gone, and so from now we'll lead a double life,
at once in shadow and in light, in bright sunshine
and the cool of stony halls, in mourning and in joy.

Adam Zagajewski: Without End

EPITHALAMIUM

FOR ISCA AND SEBASTIAN

Without silence there would be no music.
Life paired is doubtless more difficult
than solitary existence-
just as a boat on the open sea
with outstretched sails is trickier to steer
than the same boat drowsing at a dock, but schooners
after all are meant for wind and motion,
not idleness and impassive quiet.

A conversation continued through the years includes
hours of anxiety, anger, even hatred,
but also compassion, deep feeling.
Only in marriage do love and time,
eternal enemies, join forces.
Only love and time, when reconciled,
permit us to see other beings
in their enigmatic, complex essence,
unfolding slowly and certainly, like a new settlement
in a valley or among green hills.

It begins from one day only, from joy
and pledges, from the holy day of meeting,
which is like a moist grain;
then come the years of trial and labor,
sometimes despair, fierce revelation,
happiness and finally a great tree
with rich greenery grows over us,
casting its vast shadow. Cares vanish in it.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

Bài ngợi ca hôn nhân

Không có im ắng làm sao có âm nhạc
Đời hai đứa mí nhau thì rõ ràng căng hơn là trơ cu lơ một mình
Như con thuyền trên biển rộng
với những cánh buồm trải dài mãi ra, thật khó xoay sở, lèo lái
so với cùng con thuyền lơ tơ mơ ở bến đỗ, nhưng nói cho cùng, thuyền hai cánh buồm, là để cho gió và chuyển động
đâu có phải để nằm ườn, trong cái vẻ ù lì bất động, lặng câm của nó.

Một cuộc nói chuyện qua những năm tháng, bao gồm những giờ phút âu lo, nóng nẩy, cáu giận, và ngay cả thù ghét
Và cũng còn là của thông cảm, của cảm nghĩ sâu xa.
Chỉ trong hôn nhân mà tình yêu và thời gian,
những kẻ thù thiên thu, vĩnh viễn, mới có thể chung sức.
Chỉ tình yêu và thời gian, khi được hòa thuận, cho phép chúng ta nhìn những sinh vật khác
Trong cái yếu tính bí ẩn, đa dạng của chúng, từ từ phơi mở, chắc thật, như lập nghiệp mới, ở thung lũng, hay giữa những con đồi xanh

Nó bắt đầu, chỉ một ngày, từ niềm vui và sự cam kết, từ một ngày thánh của gặp gỡ,
Như mầm hạt ẩm ướt
Qua những năm thử thách, gian nan, qua lao động, đôi khi, chán nản, mặc khải ác liệt,
hạnh phúc và sau cùng một cây lớn,
xanh rợp vượt lên chúng ta
phủ bóng rộng của nó. Bao chăm sóc lặn vào trong đó.

TREATISE ON EMPTINESS

In a bookstore I accidentally ended up at the section on Tao, or
more precisely, by the Treatise on Emptiness.
I rejoiced, since that day I was perfectly empty.
What an unexpected meeting-the patient finds the doctor,
the doctor doesn't speak.

Adam Zagajewski

Luận về Lủng

Trong một tiệm sách, vào lúc tính chuồn, tôi thấy mình ở khu Tao, hay
chính xác hơn, vớ được cuốn Luận về Lủng.
Tôi sướng điên lên, thế là từ này mình hoàn toàn trống rỗng.
Đúng là 1 cuộc gặp gỡ không chờ đợi –
Bịnh nhân kiếm thấy bác sĩ,
Bác sĩ đếch thèm phán cái chó gì cả
Đoan

Ngọt quá –
Thành phố lịm đi
Một đứa trẻ gầy gò, vừa mới ló ra với đời
Và một con chó
Và tôi, một tên lính trong 1 cuộc chiến không nhìn thấy
Và 1 con sông mà tôi yêu
Đoan nở rộ

SEPARATION


I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings, minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.

And for us? No elegies, no sonnets about parting,
 a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.

 Xa cách

Tôi đọc mà phát thèm thơ những người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa dở như hạch.

Và cho chúng ta ư? Không bi khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.




Adam Zagajewski

HOLY SATURDAY IN PARIS

But maybe it's just
the feast day of spring rain:
boats cruise the gutters
with sails made of yesterday's paper,
otherwise known as Le Monde.
The butchers are about to rub their eyes,
and the city will awaken, sad and sated.
Someone once saw the earth split open
and swallow up a bit of future.
Luckily the rip was insignificant
and may still be stitched.
Some birds began to stammer.
Let's go someplace else, you say,
where monks sing
their songs poured from lead.
Alas, in the Arab quarter
a cloud, two-headed like the tsarist eagle,
bars the road.
And two-headed doubts,
slim as antelopes,
barricade the damp street.
Lord, why did you die?

Thứ Bẩy Thánh Ở Paris

Nhưng có thể đúng là lễ hội mưa xuân:
Thuyền băng trên máng xối
Với những cánh buồm làm bằng tờ báo ngày hôm qua
Còn có tên là Thế Giới.
Mấy tay đồ tể, bạn của HPNT, dụi mắt
Và thành phố sẽ thức giấc, buồn, và kễnh bụng, đến phát chán.
Một người nào đó nhìn thấy trái đất nứt ra, và đợp một mẩu tương lai.
May mắn làm sao, vết nứt chẳng đáng kể,
Và vưỡn có thể khâu lại được.
Vài chú chim bắt đầu hót cà lắp
Hãy kiếm chỗ khác, em biểu Gấu,
Nơi mấy đấng thầy tu hát
Những bài ca của họ ứa ra, từ chì.
Hỡi ơi, ở khu Ả Rập
Một đám mây, hai-đầu, như con chim ưng của Nga hoàng
chặn đường.
Và những hồ nghi hai-đầu, mảnh khảnh như những con linh dương
ngăn con phố ẩm ướt.
Chúa ơi, sao Ngài ngỏm?


Adam Zagajewski

Antenas in the Rain

Note: bài thơ này, quên chưa dịch, hà hà.

“Những cột ăng ten trong mưa”, nhiều câu tuyệt quá!

The salesgirl in a shoe store on the rue du Commerce, Vietnamese,
she tells you kneeling, I come from boat people.
I switched on the shortwave radio: someone sobbing in Bolivia.
Christ's face in S. Luigi dei Francesi.
One thing is sure: the world is alive and burns.
He read Holderlin in a dingy waiting room.
Boat people-the only nation free of nationalism.
[Thuyền nhân - quốc gia độc nhất đếch cần chủ nghĩa quốc gia!]

ELEGY FOR THE LIVING

The joy of the moment turns suddenly
into a black hood with openings
only for eyes, mouth, tongue, grief. More grief.
The living see off their days
that flee
like negatives, exposed once
but never developed. 

The living exist, so light-mindedly, so nonchalantly,
that the dead are abashed.
They smile sadly: Children,
we were like you, just the same.
Above us, robinias blossomed,
and in the robinias, nightingales sang.

Bi khúc cho người sống

Niềm vui khoảnh khắc bất thình lình
biến thành 1 cái mũ chụp đầu có những lỗ hổng
Chỉ dành cho
Mắt
Mồm
Lưỡi
Và nỗi đau. Nhiều nỗi đau.
Người sống nhìn ngày đi
Như những tấm phim
Ðã 1 lần được phơi
Nhưng chẳng bao giờ được rửa. 

Người sống hiện hữu, tất nhiên, nhưng bông lông,
cà chớn, hời hợt, chẳng ra làm sao cả,
khiến người chết xấu hổ, nhục nhã.
Người chết bèn cười buồn: Lũ nhỏ kia ơi,
Chúng ta thì cũng như chúng mi, y hệt như vậy.
Trên đầu chúng ta, hoa robinia nở rộ
Và trong đám robonia,
những con sơn ca ca hát.

Adam Zagajewski: Without End

 

NOTO

TO GEORGIA AND MICHAEL

Noto, a town that would be flawless
if only our faith were greater.

Noto, a baroque town where even
the stables and arbors are ornate.

The cathedral's cupola has collapsed, alas,
and heavy cranes surround it

like doctors in a hospital
tending the dangerously ill.

Afternoons town teenagers
gather on the main street

and bored stiff, whistle
like captive thrushes.

The town is too perfect
for its inhabitants.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

NOTO

Noto, thành phố kể như tuyệt hảo
Nếu niềm tin của chúng ta
Tuyệt hảo hơn

Noto, thành phố baroque
Nơi ngay cả những chuồng trâu bò, những lùm cây
Thì cũng hoa mỹ.

Than ôi, vòm nhà thờ sụp đổ
Và những cần trục nặng nề vây quanh

Như bác sĩ trong bịnh viện
Chăm sóc một căn bịnh hiểm nguy

Ðám con nít mười mí của thành phố, vào xế trưa
Tụ tập nơi con phố chính

Và ngán ngẩm, uể oải,
Huýt sáo
Như những con chim hét bị giam giữ

Thành phố thì quá tuyệt hảo
Cho những cư dân của nó.


*

*

I Walked Through the Medieval Tovvn

 

I walked through the medieval town
in the evening or at dawn,
I was very young or rather old.
I didn't have a watch
or a calendar, only my stubborn blood
measured the endless expanse.
I could begin life, mine
or not mine, over,
everything seemed easy,
apartment windows were partway open,
other fates ajar.
It was spring or early summer, warm walls,
air soft as an orange rind;
I was very young or rather old,
I could choose, I could live.

Tôi đi qua một thành phố Trung Cổ

Tôi đi qua một thành phố Trung Cổ
vào một buổi chiều hay buổi rạng đông
Tôi thì trẻ măng, hoặc khá già. Tôi không có đồng hồ
hay tấm lịch, mà chỉ có một dòng máu cà chớn, cứng đầu,
đo sự trương nở vô cùng.
Tôi có thể lại bắt đầu cuộc đời, đời của tôi,
hay đếch phải của tôi,
mọi thứ xem ra dễ dàng,
cửa sổ của những căn phòng thì hé mở,
những số mệnh khác khục khặc.
Xuân, hay đầu hè,
tường ấm áp
không khí nhẹ, mềm như vỏ cam
Tôi thì thật trẻ, hay khá già,
Tôi có thể chọn,
Tôi có thể sống.

Adam Zagajewski



1. WITHOUT BAGGAGE

To travel without baggage, sleep in the train
on a hard wooden bench,
forget your native land,
emerge from small stations
when a gray sky rises
and fishing boats head to sea.

Adam Zagajewski

1. Không hành lý

Viễn du không hành lý, ngủ trên xe lửa
Trên băng ghế gỗ cứng,
Quên mẹ quê hương đi
Ló ra từ 1 ga nhỏ
Khi bầu trời xám dâng lên,
Và những thuyền đánh cá hướng ra biển

Anthology

That evening I was reading an anthology.
Scarlet clouds grazed outside my window.
The spent day fled to a museum.

And you-who are you?
I don't know. I didn't know
if I was born for gladness?
Sorrow? Patient waiting?

In dusk's pure air
I read an anthology.
Ancient poets lived in me, singing.

Adam Zagajewski

 
Tuyển tập thơ

Buổi chiều, tôi ngồi đọc một tuyển tập thơ
Mây đỏ lướt lướt bên ngoài cửa sổ
Ngày qua đi bèn chạy vô viện bảo tàng

Còn anh – anh là ai?
Tôi không biết. Tôi không biết
Mình sinh ra, vì vui?
Buồn? Kiên nhẫn chờ đợi?

Trong không khí tinh khiết của buổi hoàng hôn
Tôi đọc một tuyển tập thơ
Những nhà thơ xưa cũ sống ở trong tôi, hát.
Adam Zagajewsk

THE SOUL

We know we're not allowed to use your name.
We know you're inexpressible,
anemic, frail, and suspect
for mysterious offenses as a child.
We know that you are not allowed to live now
in music or in trees at sunset.
We know-or at least we've been told-
that you do not exist at all, anywhere.
And yet we still keep hearing your weary voice
-in an echo, a complaint, in the letters we receive
from Antigone in the Greek desert.

Linh hồn

Chúng tôi biết chúng tôi không được phép sử dụng tên của bạn
Chúng tôi biết, bạn thì không thể diễn tả,
hoại huyết, mỏng mảnh, và đáng nghi vì những xúc phạm bí ẩn, như một đứa trẻ.
Chúng tôi biết bạn bây giờ không được phép sống
trong âm nhạc, hay trong cây cối vào lúc mặt trời lặn
Chúng tôi biết - hoặc ít ra chúng tôi được biểu cho biết -
Bạn chẳng hiện hữu cái con mẹ gì hết, nói cho cùng, ở bất cứ nơi đâu.
Tuy nhiên, chúng tôi vưỡn nghe tiếng của bạn, rất ư là rã rời, kiệt quệ -
trong một tiếng vọng, một lời phàn nàn,
trong những lá thư mà chúng tôi nhận được từ Antigone, ở sa mạc Hy Lạp.

          
HOUSTON, 6 P.M.

Europe already sleeps beneath a coarse plaid of borders
and ancient hatreds: France nestled
up to Germany, Bosnia in Serbia's arms,
lonely Sicily in azure seas.

It's early evening here, the lamp is lit
and the dark sun swiftly fades.
I'm alone, I read a little, think a little,
listen to a little music.

I'm where there's friendship,
but no friends, where enchantment
grows without magic,
where the dead laugh.

I'm alone because Europe is sleeping. My love
sleeps in a tall house on the outskirts of Paris.
In Krakow and Paris my friends
wade in the same river of oblivion.

I read and think; in one poem
I found the phrase "There are blows so terrible ...
Don't ask!" I don't. A helicopter
breaks the evening quiet.

Poetry calls us to a higher life,
but what's low is just as eloquent,
more plangent than Indo-European,
stronger than my books and records.

There are no nightingales or blackbirds here
with their sad, sweet cantilenas,
only the mockingbird who imitates
and mimics every living voice.

Poetry summons us to life, to courage
in the face of the growing shadow.
Can you gaze calmly at the Earth
like the perfect astronaut?

Out of harmless indolence, the Greece of books,
and the Jerusalem of memory there suddenly appears
the island of a poem, unpeopled;
some new Cook will discover it one day.

Europe is already sleeping. Night's animals,
mournful and rapacious,
move in for the kill.
Soon America will be sleeping, too. 

Houston, 6 P.M.


Âu Châu thì đã ngủ, ở bên dưới một tấm khăn tồi tàn của những biên cương
và những thù hận cũ mèm; Pháp ghì chặt Đức, Bodnia trong vòng tay Serbia,
một mình Sicily trong biển xanh ngát màu da trời

Ở đây, là buổi chiều xẩm tối, đèn đã thắp,
Và mặt trời tôi tối nhạt nhòa dần.
Tôi thì một mình, đọc tí tí, nghĩ tí tí.
Nghe nhạc tí tí.

Tôi ở một nơi có tình bạn
Nhưng không có bạn, nơi thích thú tăng trưởng
chẳng cần tới huyền bí, kỳ diệu
nơi những người chết cười.

Tôi thì một mình, bởi là vì Âu Châu ngủ.
Tình yêu của tôi ngủ trong 1 tòa nhà cao ở ngoại vi Paris
Ở Krakow và Paris, những bạn bè của tôi
lội qua cùng 1 con sông của sự lãng quên

Tôi đọc và suy nghĩ; trong một bài thơ tôi kiếm thấy câu này:
“Có nnhững cú khủng khiếp…  Đừng hỏi”. Tôi không.
Một trực thăng làm vỡ sự im lắng của buổi chiều tối.

Thơ kêu gọi chúng ta tới một cuộc đời cao hơn
Nhưng cái thấp hơn thì mới hùng hồn,
Thảm thiết hơn cả ngôn ngữ Ấn-Âu
Mạnh mẽ hơn những cuốn sách và những ghi chép của tôi

Ở đây không có sơn ca, hay chim hét
Với cái giọng buồn bã, ngọt ngào của chúng
Chỉ có giống chim nhại, bắt chước mọi tiếng người hiện đang còn cống 

Thơ vời chúng ta tới với đời, với sự can đảm
Khi đối diện với bóng tối ngày một lớn rộng.
Liệu bạn có thể ném 1 cái nhìn trầm mặc xuống Trái Đất
như 1 nhà phi hành gia hoàn hảo?

Thoát ra khỏi sự biếng nhác vô hại, Hy Lạp của những cuốn sách và Jerusalem của hồi nhớ,
ở đó, bất lình lình xuất hiện 1 hòn đảo của một bài thơ, không người ở,
Một đấng tân Cook nào đó, sẽ khám phá ra nó, một ngày nào đó.

Âu Châu đã ngủ.
Những loài vật của đêm, ảm đạm, và tham ăn
Tiến vô, cho một trận làm thịt.
Chẳng mấy chốc Mỹ Châu cũng sẽ ngủ.



Adam Zagajewsk

READING MILOSZ

I read your poetry once more,
poems written by a rich man, understanding all,
and by a pauper, homeless, an emigrant, alone. 

You always want to say more
than we can, to transcend poetry, take flight,
but also to descend, to penetrate the place
where our timid, modest realm begins. 

Your voice at times persuades us,
if only for a moment,
that every day is holy

and that poetry, how to put it, rounds our life,
completes it, makes it proud
and unafraid of perfect form. 

I lay the book aside
at night and only then the city's normal tumult starts again,
somebody coughs or cries, somebody curses. 

-Adam Zagajewski
(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

The New York Review of Books, 1 March, 2007

Đọc Milosz 

Tôi đọc thơ ông, thêm một lần nữa,
những bài thơ viết bởi một người giầu có, thông tuệ,
và bởi một người nghèo mạt hạng, không nhà cửa, di dân, cô độc. 

Ông luôn muốn nói nhiều hơn
chúng tôi có thể nói,
để chuyển hóa thơ, để cất cánh,
nhưng cũng để hạ cánh, dấn sâu vào khoảng đất
nơi cõi đời của chúng ta, dụt dè, chơn chất, bắt đầu. 

Tiếng nói của ông, nhiều lần, chỉ trong một khoảnh khắc,
khiến chúng tôi ngộ ra một điều là,
mỗi ngày, một ngày, mọi ngày, thì thiêng liêng. 

và rằng, thơ, thể hiện điều đó, bằng cách,
 quanh quẩn bên đời ta,
hoàn tất nó, làm cho nó tự hào, hãnh diện,
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào, cho thơ. 

Tôi để cuốn sách qua một bên.
Đêm, và chỉ tới lúc đó, cái xô bồ, thường lệ, của thành phố lại khởi động,
một người nào đó ho, hay là, một người nào đó, nguyền rủa.

NQT chuyển dịch

Subject: Brodsky

SUBJECT: BRODSKY

Please note: born in May,
in a damp city (hence the motif: water),
soon to be surrounded by an army
whose officers kept Holderlin
in their backpacks, but, alas, they had
no time for reading. Too much to do.

Tone-sardonic, despair-authentic.
Always en route, from Mexico to Venice,
lover and crusader, who campaigned
ceaselessly for his unlikely party
(name: Poetry versus the Infinite,
or PVI, if you prefer abbreviations).

In every city and in every port
he had his agents; he sometimes sang his poems
before an avid crowd that didn't catch
a word. Afterwards, exhausted, he'd smoke a Gauloise
on a cement embankment, gulls circling overhead,
as if above the Baltic, back home.

Vast intelligence. Favorite topic: time
versus thought, which chases phantoms,
revives Mary Stuart, Daedalus, Tiberius.
Poetry should be like horse racing;
wild horses, with jockeys made of marble,
an unseen finish line lies hidden in the clouds.

Please remember: irony and pain;
the pain had lived long inside his heart
and kept on growing-as though
each elegy he wrote adored him
obsessively and wanted
him alone to be its hero-

but ladies and gentlemen-your patience,
please, we're nearly through - I don't know
quite how to put it; something like tenderness,
the almost timid smile,
the momentary doubt, the hesitation,
the tiny pause in flawless arguments.

[Bản in trong Eternal Enemies]

Đề tài: Brodsky

Làm ơn ghi: sanh Tháng Năm
tại một thành phố ẩm [từ đó, mô típ: nước],
liền sau đó,
bị vây hãm bởi một đạo quân,
sĩ quan của nó, trong ba lô, đều có thơ Holderlin,
nhưng than ôi, đâu có thì giờ đọc.
Quá nhiều điều làm. 

Âm điệu - mỉa mai, chán chường - chân thực.
Anh một đời rong ruổi  -
từ Mexcio tới Venice,
người tình, kẻ không ngừng cổ võ cho đảng của mình
[tên là: Thơ Chống Vô Cùng
hay TCVC, nếu bạn thích viết tắt] 

Tại  bất cứ một thành phố, bất cứ một cảng,
ông đều có nhân viên; đôi khi ông ngâm thơ của mình, trước đám đông mù tịt,
mệt nhoài, ông hút điếu Gauloise, [ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông, mà lòng mình phơi trên kè đá]
đứng trên con đê xi măng, hải âu vần vũ ở trên đầu, cứ như là đang trên bờ biển Baltic, nơi quê nhà. 

Thông minh rộng. Đề tài ruột: thời gian
chống lại tư tưởng
rượt đuổi những bóng ma
làm sống lại Mary Stuart, Daedalus, Tiberius.
Thơ phải nên giống như đua ngựa: ngựa hoang, jô kề bằng đá cẩm thạch,
và đích tới là một đường không nhìn thấy, nằm ẩn trong những đám mây. 

Làm ơn nhớ rằng: hóm và đau;
cái đau trụ từ lâu ở trong tim ông
cứ thế lớn mãi - như thể
mỗi khúc bi ca mà ông viết, yêu ông
ám ảnh, và muốn ông, chỉ ông thôi,
là người hùng của nó. 

nhưng quí bà quí ông, xin làm ơn kiên nhẫn,
chúng ta kể như tới nơi rồi - nhưng thật khó nói:
một điều gì như là sự dịu dàng, một nụ cuời e thẹn,
một hồ nghi chốc lát, một sự ngại ngùng, một chút ngưng gọn gàng
trong dòng luận bàn không sai sót.
 

(1) Gấu có một bài viết, cứ ấp ủ mãi, mà không làm sao viết ra được, cho đến lúc thấy cái tít kỷ niệm 5 năm talawas !
Bài viết liên can đến một bài hát, Gấu nghe, lần đầu trong đời, những ngày ở trại lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ. 

Chuyện Tình Buồn. 

Có hai tay ca bài này thật là tới, một là bạn thân của Gấu, Sĩ Phú, và một, Tuấn Ngọc.

Năm năm trời không gặp,
Được tin em lấy chồng.....

Anh một đời rong ruổi,
Em tay bế tay bồng..

Chả là, trước khi bị tóm, bị tống đi lao động cải tạo, một buổi tối, Gấu nhớ cô bạn quá, mò tới con hẻm ngày xưa, đứng thật xa nhìn vô căn nhà, lúc đó cũng đã tối, thành thử cũng chẳng ai thèm để ý, và Gấu thấy cô bạn ngày nào đang đùa với mấy đứa con, đứa bò, đứa nằm dưới sàn nhà, tay cô thì bận một đứa nữa.

Cảnh này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc là lại hiện ra, ngay cả những ngày sắp sửa đi xa như thế này....
Thế mới thảm !
Thế mới nhảm !
Thế mới chán !

NQT 


VACATION

The dark hair of summer. Beech leaves as tense
as the strings on a child's violin.
Rain, disoriented in the interminable drains
of a village church, blubbers.
Rembrandt, young, still unafraid,
watches from a postcard.
The sea lashes the rock so furiously
that someone mutters: war's coming.
Yesterday's sun still cools in the bricks.
Two cyclists in stiff capes
are crossing the bridge.
A green lightning of chickadees
glistens in the garden. The asphalt steams humbly
as though a barber had left his shaving bowl on it.
You sigh with relief: it's only
the weary pilgrims come home,
bearing the sugared bread of forgetfulness, exaltation,
silence. 

Nghỉ Hè

Tóc tối mùa [màu] Hè.
Lá sồi căng như sợi dây đàn vi-ô-lông của 1 đứa trẻ.
Mưa - loạn xà ngầu, vô phương hướng,
trong những mương rãnh, liên chi hồ điệp, ở nhà thờ làng-
nức nở.
Rembrand, trẻ, đếch sợ,
nhìn từ 1 tấm bưu thiếp
Biển điên cuồng quất mỏm đá,
khiến Gấu bật miệng: chiến tranh [VC Bắc Kít] tới rồi!
Mặt trời ngày hôm qua [thời VNCH] vưỡn mát ơi là mát trên những phiến gạch.
Hai đấng đạp xích lô trong áo choàng cứng ngắc
băng con cầu
Một tía chớp xanh của 1 chú chim chích,
sáng lên ở trong vườn.
Nhựa đường bốc lên thật khiêm tốn,
như thể một đấng thợ cạo đã để tí xà bông cạo râu lên đó.
Bạn thở hắt ra 1 phát, ra vẻ hài lòng, thỏa mãn:
Chỉ là những người hành hương mệt mỏi trở về nhà,
mang ánh mì tẩm đường, của lãng quên, phớn phở,
im lặng.

A TALK WITH FRIEDRICH NIETZSCHE

 
Most highly respected Professor Nietzsche,
sometimes I seem to see you
on a sanatorium terrace at dawn
with fog descending and song bursting
the throats of the birds.

Not tall, head like a bullet,
you compose a new book
and a strange energy hovers around you.
Your thoughts parade
like enormous armies.

You know now that Anne Frank died,
and her classmates and friends, boys, girls,
and friends of her friends, and cousins
and friends of her cousins.

What are words, I want to ask you, what
is clarity and why do words keep burning
a century later, though the earth
weighs so much?

Clearly nothing links enlightenment
and the dark pain of cruelty.
At least two kingdoms exist,
if not more.

But if there's no God and no force
welds elements in repulsion,
then what are words really, and from whence
does their inner light come?

And from where does joy come, and where
does nothingness go? Where is forgiveness?
Why do the incidental dreams vanish at dawn
and the great ones keep growing?

Adam Zagajewski: Without End

Lèm bèm với Nietzsche

Nietzsche, triết gia vĩ đại,
Một bữa Gấu thấy ông ta ngồi
ở sân thượng nhà an dưỡng
vào lúc sáng tinh mơ, sương mù la đà, chim ca hát

Cao, đầu giống như viên đạn,
Ông ta soạn một cuốn sách mới
Và nội lực ở trong người ông
tỏa ra thành một màn sương khói chung quanh ông
Tư tưởng của ông diễn hành như những binh đoàn tiếp nối nhau,
[như trong câu hát của PTD, những binh đoàn kéo nhau  ra tiền tuyến,
đường ra trận mùa này đẹp lắm….]

Ông ta biết Anne Frank thì đã chết
Cùng bạn học, bạn bè, trai, gái,
bạn của bạn cô bé, và bà con của cô

Những từ là cái gì, tôi muốn hỏi ông ta,
cái gì thì là sự trong sáng, rõ ràng,
và tại sao những từ vẫn tiếp tục bốc cháy cả 1 thế kỷ sau đó,
mặc dù trái đất thì đã quá nặng?

Rõ ràng là chẳng có gì kết nối sự sáng ngời thông tuệ,
với nỗi đau đen của sự độc ác
Ít ra có hai vương quốc hiện hữu
Nếu không muốn nói là còn nhiều, nhiều lắm.

Nhưng, nếu không có Chúa và không có sức mạnh
nối những phần tử xô đẩy nhau thì
những từ thực sự nghĩa là gì, và
từ đâu mà chúng có được thứ ánh sánh nội ở trong chúng?

Và niềm vui đến từ đâu, và từ đâu hư vô đến?
Sự tha thứ thì ở đâu, ở đâu có thứ của hiếm đó?

Và tại làm sao những giấc nhỏ, tình cờ,
như của Gấu thì lại biến mất vào lúc rạng đông,
Trong khi những giấc mộng lớn ăn cướp Miền Nam của VC,
thí dụ, thì cứ vưỡn còn hoài, và còn tiếp tục lớn lên mãi?

Referendum

Ukraine held a referendum
on independence.
It was foggy in Paris, the weatherman
predicted a cold and cloudy day.
I was angry at myself, at my
narrow, fettered life.
The Seine was trapped between embankment walls.
Bookstores showcased
a new edition of Schopenhauer's

Douleurs du monde.
Parisians wandered through the city
hidden in warm loden coats.
Fog infiltrated lips and lungs
as if the air were sobbing,
going on about itself, about the cold dawn,
how long the night is,
and how ruthless stars can be.
I took a bus toward the Bastille,
razed two hundred years ago,
and tried to read poems
but didn't understand a thing.
What comes after will be invisible
and easy.
Whatever is hesitates between irony
and fear.
Whatever survives will be blue
as a guillotine's eye.

Adam Zagajewski: Myticism for Beginners

Trưng cần dân ý

Ukraine tổ chức trưng cầu dân ý
về độc lập
Paris sương mù. Nhà khí tượng tiên đoán,
một ngày lạnh và có mây.
Tôi bực với chính tôi
Bực cái đời của tôi, sao chật hẹp, sao trói buộc
Con sông Seine thì bị mắc bẫy giữa những bức tường “embankment” (1)
Mấy tiệm sách khoe ấn bản mới Những nỗi đau của thế giới, của Schopenhauer.
Đám “Pa ri diêng” lang thang trên những phố phá của họ,
giấu mình trong những chiếc áo ấm.
Sương mù chui vô môi, chui vô phổi,
như thể không gian đang xụt xùi,
lèm bèm về chính nó, về buổi sáng sớm lạnh,
về đêm chưa qua mà trời cũng chưa vội sáng,
về những ngôi sao, chúng có thể tàn nhẫn tới mức nào.
Tôi chơi 1 đường xe buýt tới ngục Bastille,
cháy rực hai trăm năm trước đây.
và cố đọc thơ
nhưng đếch hiểu cái chó gì.

Chuyện xẩy ra sau đó thì sẽ vô hình,
và dễ dãi.
Bất cứ gì gì thì ngần ngại giữa khôi hài
và sợ hãi
Bất cứ gì gì sống sót thì sẽ xanh
như mắt máy chém

*

Hi bác G:

Nhân đọc hai bài thơ của A.Z, có những câu thật hợp tâm tình, nhất là hai khổ cuối:

Bạn chỉ là 1 hình ảnh, một giấc mộng
Bạn làm bằng trọn một nỗi nhớ mong;
Khi bạn biến mất, thì cũng vậy, những đám mây.
Bạn chỉ còn là 1 hồi tưởng trong màu đen. 

Bạn sẽ ám ảnh những con sông quê
Những bóng cây
Nhưng sau cùng bạn té xuống
Chìm vào đất, đất, đất.

Xin gửi bác một bài thơ viết cách đây ít lâu, mời bác đọc cho vui nhé:

Bên một dòng thơ cổ xưa

sông khơi dòng trên tấm toan thời xa
cây xanh lục hai bên bờ, thuyền buồm giữa dòng,
cánh tay quăng lưới vào khoảng không
đêm xóm cồn, trăng soi, cá quẫy nước
những con người thời xưa, khăn
áo lạ lẫm
 
chợ họp bến sông, ồn ã rạng đông
sương còn lạnh áo người khua tay chèo
trưa, theo gió nam, một tiếng ru thời gần, nghe quen
nhắn người đi xa trở về, con ve kêu mùa hạ
(rằng, biết mấy thu nguôi lòng)
 
tìm lại người chuyện trò, cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau về, nhấp ch
én rượu bên bãi dâu, trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa..
                                           Huế, 11.2011
Dã Vi
ên

Tks. NQT

Câu thơ đầu của bạn làm Gấu nhớ đến Borges, và đoạn vừa đọc, trong Ngón Thơ, This Craft of Verse, và cũng đã chôm 1 câu đưa lên Tin Văn.
Borges nhắc đến câu thơ của Tennyson, trong 1 bài thơ làm khi mới 13, 14 tuổi, dục bỏ, destroy, nhưng may sao còn 1 câu: Thời gian trôi nửa đêm, Time flowing in the middle of the night. Và Borges khen cậu bé Tennyson chọn chữ cực khôn. Nửa đêm, im ắng, người ngủ, tuy nhiên sông vưỡn trôi không 1 ti
ếng động...

Bữa nay, lạ làm sao đọc lại, thì nó lại bật ra dòng thơ của Apollinaire:
Đêm tới, giờ đổ,
Ngày đi ta ở!

Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure 

Cũng trong đoạn trên, trong bài viết về "Ẩn dụ", Borges nhắc tới 1 cuốn tiểu thuyết, giản dị có cái tên, Of Time and the River [còn cái bài hát cùng tên, thật tuyệt Gấu thật mê, khi mới lớn, Nat King Cole ca (1) ].
Thời gian, dòng sông, cả hai cùng trôi…
Và tất nhiên, Borges bèn lôi câu nổi tiếng của triết gia Hy Lạp: Chẳng ai có thể tắm hai lần trong cùng dòng sông, No man steps twice into the same river.

Nhưng đến đây, thì Borges đổi giọng:
Ở đây, chúng ta có cái khởi đầu của sự ghê rợn. Here we have the beginning of terror.
Bởi là vì lúc thoạt đầu, at first, chúng ta nghĩ đến dòng sông trôi, những giọt nước khác nhau…
Và rồi chúng ta được làm ra để mà nghĩ rằng, chúng ta là con sông, và chúng ta cũng “phiêu” như là con sông!

Tuyệt!

And we are made to feel that we are the river, that we are as fugitive as the river.

Hai dòng thơ của Apollinaire, ngược hẳn lại:

Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở

Và rồi:

L'amour s'en va comme cette eau courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente

Tình bỏ đi như nước sông chảy
Tình bỏ đi
Đời sao chậm như rùa
Và hy vọng mới hung bạo làm sao!
*

Về bài thơ của bạn, Gấu mê mấy dòng cuối:

tìm lại người chuyện trò, cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau về, nhấp chén rượu bên bãi dâu, trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa.

Tuyệt. Nhất là dòng cuối, "gieo neo về" (1) "bến vắng chưa xa".
Thơ bạn rất lạ, tuy cùng trong không khí thơ Tàu.
Tks

NQT

(1)

Hãy để ý đến những "connotations", gia nghĩa, của cụm từ “gieo neo về”: "gieo neo" có nghĩa của "gieo neo", “gieo” lại có nghĩa của “gieo”; cũng thế, là "neo", trong "neo thuyền", từ đó, nó bèn kéo ra cái "bến vắng chưa xa, chưa xưa"!

Tuyệt cú!

Trở lại với Borges.

Tiếp theo đó, ông nhắc tới những dòng thơ Manrique:

Nuestras vidas son los ríos
que van a dar en la mar
qu’es el morir.

Bản tiếng Anh:

Our lives are the rivers
that flow into that sea
which is death

Và ông phán:

Lẽ tất nhiên, đằng sau ẩn dụ, the stock metaphor, còn âm nhạc nặng nề, the grave music, không làm sao dịch được:

Nuestras vidas son los díos
que van a dar en la mar
qu’es el morir
allí van los senoríos
derechos a se acabar
e consumir

Adam Zagajewski

DUTCH PAINTERS

Pewter bowls heavy and swelling with metal.
Plump windows bulging from the light.
The palpability of leaden clouds.
Gowns like quilts. Moist oysters.
These things are immortal, but don't serve us.
The clogs walk by themselves.
The floor tiles are never bored,
and sometimes play chess with the moon.
An ugly girl studies a letter
written in invisible ink.
Is it about love or money?
The tablecloths smell of starch and morals.
The surface and depths don't connect.
Mystery? There's no mystery here, just blue sky,
restless and hospitable like a seagull's cry.
A woman neatly peeling a red apple.
Children dream of old age.
Someone reads a book (a book is read),
someone sleeps, becoming a warm object
that breathes like an accordion.
They liked dwelling. They dwelt everywhere,
in a wooden chair back,
in a milky streamlet narrow as the Bering Strait.
Doors were wide open, the wind was friendly.
Brooms rested after work well done.
Homes bared all. The painting of a land
without secret police.
Only on the young Rembrandt's face
an early shadow fell. Why?
Tell us, Dutch painters, what will happen
when the apple is peeled, when the silk dims,
when all the colors grow cold.
Tell us what darkness is. 

Những họa sĩ Hà Lan

Những chén thiếc nặng căng phồng kim loại
Những cửa sổ mũm mĩm lồi ra từ ánh sáng
Những đám mây chì chắc nịch, sờ mó được
Những chiếc áo choàng giống như những tấm mền. Sò, hến tèm nhẹp
Những vật này thì bất tử, nhưng đếch phục vụ chúng ta.
Những chiếc guốc tự chúng đi
Những viên ngói sàn chẳng bao giờ buồn chán
Và đôi khi chơi cờ tướng với mặt trăng.
Một cô gái xấu xí nghiên cứu một bức thư
viết bằng mực vô hình
về tình hay về tiền?
Những tấm khăn bàn dậy mùi hồ và đạo đức
Bề mặt và những bề sâu không nối kết
Bí ẩn ư? Làm gì có bí ẩn ở đây, chỉ bầu trời xanh,
hoài hoài, hiếu khách, như tiếng kêu của 1 con hải âu
Một người đàn bà khéo léo gọt 1 trái táo đỏ
Trẻ con mơ giấc mơ già.
Một người nào đó đọc 1 cuốn sách (một cuốn sách được đọc)
một người nào đó ngủ (trở thành 1 vật ấm áp)
thở, như cây đàn accordion.
Chúng thích trú ngụ. Chúng trú ngụ mọi nơi,
đằng sau chiếc ghế gỗ
trong con suối nhỏ hẹp như Eo Bering
Cửa mở rộng, gió thân thiện
Những chiếc chổi nghỉ sau khi làm việc tốt
Nhà cửa bóc trần. Bức tranh của 1 miền đất đếch có mật vụ.
Chỉ bộ mặt trong bức tranh Rembrand trẻ
Một cái bóng sớm sủa té xuống. Tại sao?
Hãy nói cho chúng ta biết, những họa sĩ Hà Lan, chuyện gì sẽ xẩy ra
Khi trái táo gọt xong, khi những tấm lụa tối đi
Khi tất cả những màu sắc trở thành lạnh lẽo
Hãy nói cho chúng ta biết, bóng đen là cái chó gì? 

TO MYSELF, IN AN ALBUM

 

The grayish cloud flows fast,
the petals of peonies unfold,
nothing links you to this earth,
nothing binds you to this sky. 

Distant gardens loom in the heat,
a cat yawns on a porch,
you walk a street of lindens,
but you don't know which town's. 

You can't remember in which country
gleam airy starlings,
evening's step gently approaches,
rosebuds play hide-and-seek. 

You're only an image, a dream,
you're made up wholly of yearning;
when you vanish, so will clouds,
you'll be a memory in sepia. 

You'll haunt rural rivers,
and the shadows of trees,
but finally you'll subside, drowning
in the earth, in the earth, in the earth. 

Về chính tớ, ở trong 1 tập album 

Mây xám trôi nhanh
Những cánh mẫu đơn mở ra
Chẳng có cái gì móc tớ với trái đất này
Chẳng có gì nối tớ với bầu trời này. 

Những cánh vườn xa xa mờ mờ trong cái nóng
Một con mèo ngáp 1 cái ở dưới cổng
Bạn đi lêu bêu trong con phố có những cây đoan,
Nhưng bạn đếch biết nó thuộc thành phố nào. 

Bạn đếch có nhớ trong xứ sở quái quỉ nào
Những con sáo đá lộng gió sáng loé lên
Và,
Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa

BHD chơi trò hú tìm. 

Bạn chỉ là 1 hình ảnh, một giấc mộng
Bạn làm bằng trọn một nỗi nhớ mong;
Khi bạn biến mất, thì cũng vậy, những đám mây.
Bạn chỉ còn là 1 hồi tưởng trong màu đen. 

Bạn sẽ ám ảnh những con sông quê
Những bóng cây
Nhưng sau cùng bạn té xuống
Chìm vào đất, đất, đất.
*

Hi bác G:

Nhân đọc hai bài thơ của A.Z, có những câu thật hợp tâm tình, nhất là hai khổ cuối:

Bạn chỉ là 1 hình ảnh, một giấc mộng
Bạn làm bằng trọn một nỗi nhớ mong;
Khi bạn biến mất, thì cũng vậy, những đám mây.
Bạn chỉ còn là 1 hồi tưởng trong màu đen. 

Bạn sẽ ám ảnh những con sông quê
Những bóng cây
Nhưng sau cùng bạn té xuống
Chìm vào đất, đất, đất.

Xin gửi bác một bài thơ  viết cách đây ít lâu, mời bác đọc cho vui nhé:

Bên một dòng thơ cổ xưa

sông khơi dòng trên tấm toan thời xa
cây xanh lục hai bên bờ, thuyền buồm giữa dòng,
cánh tay quăng lưới vào khoảng không
đêm xóm cồn, trăng soi, cá quẫy nước
những con người thời xưa, khăn
áo lạ lẫm
 
chợ họp bến sông, ồn ã rạng đông
sương còn lạnh áo người khua tay chèo
trưa, theo gió nam, một tiếng ru thời gần, nghe quen
nhắn người đi xa trở về, con ve kêu mùa hạ
(rằng, biết mấy thu nguôi lòng)
 
tìm lại người chuyện trò, cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau về, nhấp ch
én rượu bên bãi dâu, trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa..
                                           Huế, 11.2011
Dã Vi
ên

Tks. NQT

Câu thơ đầu của bạn làm Gấu nhớ đến Borges, và đoạn vừa đọc, trong Ngón Thơ, This Craft of Verse, và cũng đã chôm 1 câu đưa lên Tin Văn.
Borges nhắc đến câu thơ của Tennyson, trong 1 bài thơ làm khi mới 13, 14 tuổi, dục bỏ, destroy, nhưng may sao còn 1 câu: Thời gian trôi nửa đêm, Time flowing in the middle of the night. Và Borges khen cậu bé Tennyson chọn chữ cực khôn. Nửa đêm, im ắng, người ngủ, tuy nhiên sông vưỡn trôi không 1 ti
ếng động...

Bữa nay, lạ làm sao đọc lại, thì nó lại bật ra dòng thơ của Apollinaire:
Đêm tới, giờ đổ,
Ngày đi ta ở!

Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure 

Cũng trong đoạn trên, trong bài viết về "Ẩn dụ", Borges nhắc tới 1 cuốn tiểu thuyết, giản dị có cái tên, Of Time and the River [còn cái bài hát cùng tên, thật tuyệt Gấu thật mê, khi mới lớn, Nat King Cole ca (1) ].
Thời gian, dòng sông, cả hai cùng trôi…
Và tất nhiên, Borges bèn lôi câu nổi tiếng của nhà thơ Hy Lạp: Chẳng ai có thể tắm hai lần trong cùng dòng sông, No man steps twice into the same river.

Nhưng đến đây, thì Borges đổi giọng:
Ở đây, chúng ta có cái khởi đầu của sự ghê rợn. Here we have the beginning of terror.
Bởi là vì lúc thoạt đầu, at first, chúng ta nghĩ đến dòng sông trôi, những giọt nước khác nhau…
Và rồi chúng ta được làm ra để mà nghĩ rằng, chúng ta là con sông, và chúng ta cũng “phiêu” như là con sông!

Tuyệt!

And we are made to feel that we are the river, that we are as fugitive as the river.

Hai dòng thơ của Apollinaire, ngược hẳn lại:
Đếm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở

Và rồi:

L'amour s'en va comme cette eau courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente

Tình bỏ đi như nước sông chảy
Tình bỏ đi
Đời sao chậm như rùa
Và hy vọng mới hung bạo làm sao!
*

Về bài thơ của bạn, Gấu mê mấy dòng cuối:

tìm lại người chuyện trò, cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau về, nhấp chén rượu bên bãi dâu, trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa.

Tuyệt. Nhất là dòng cuối, "gieo neo về", "bến vắng chưa xa".
Thơ bạn rất lạ, tuy cùng trong không khí thơ Tàu.
Tks

NQT

Trở lại với Borges.

Tiếp theo đó, ông nhắc tới những dòng thơ Manrique:

Nuestras vidas son los ríos
que van a dar en la mar
qu’es el morir.

Bản tiếng Anh:

Our lives are the rivers
that flow into that sea
which is death

Và ông phán:

Lẽ tất nhiên, đằng sau ẩn dụ, the stock metaphor, còn âm nhạc nặng nề, the grave music, không làm sao dịch được:

Nuestras vidas son los díos
que van a dar en la mar
qu’es el morir
allí van los senoríos
derechos a se acabar
e consumir

 


11.5.2013
Thơ Mỗi Ngày

Đọc lại thơ Adam Zagajewski

Out Walking

Sometimes out walking, on a country road
or in a quiet green forest,
you hear scraps of voices, perhaps they're calling you,
you don't want to believe them, you walk faster,
but they catch up quickly,
like tame animals.

You don't want to believe them, then later
on a busy city street
you're sorry you didn't listen
and you try to summon up
the syllables, the sounds, and the intervals between them.

But it's too late now
and you'll never know
who was singing, which song,
and where it was drawing you.

Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners

Dã Ngoại

Đôi khi tản bộ ngoài trời, trên con đường quê
Hay trong 1 cánh rừng xanh im ắng
Bạn nghe như có tiếng người, giống như những mảnh vụn,
và những tiếng nói đó đang gọi bạn
Bạn không muốn tin và bạn bước nhanh hơn lên
Nhưng chúng bắt kịp bạn thật lẹ
Như những con vật đã được thuần hóa

Bạn không muốn tin, và sau đó,
Trên một con phố bận rộn
Bạn than thở, bạn xin lỗi,
rằng bạn đã không chịu lắng nghe
Và bạn cố chắp nối, vá víu, những mảnh vụn,
Những âm thanh, những quãng ngừng giữa chúng 

Nhưng quá trễ mất rồi
Và bạn sẽ chẳng bao giờ biết
Ai hát, và bài hát nào,
Và nó kéo bạn đi đâu.

 

AIRPORT IN AMSTERDAM 

In memory of my mother 

December rose, pinched desire
in the dark and empty garden,
rust on the trees and thick smoke
as if someone's loneliness were burning.

Out walking yesterday I thought again
about the airport in Amsterdam-
the corridors without apartments,
waiting rooms filled with other people's dreams
stained with misfortune. 

Airplanes struck the cement
almost angrily, hawks
without prey, hungry. 

Maybe your funeral should have been held
- here-hubbub, bustling crowds,
a good place not to be. 

One has to look after the dead
beneath the airport's great tent
We were nomads again;
you wandered westward in your summer dress,
amazed by war and time,
the moldering ruins, the mirror
reflecting a little, tired life. 

In the darkness final things shone:
the horizon, a knife, and every rising sun.
I saw you off at the airport, hectic
valley where tears are for sale.
December rose, sweet orange:
without you there can be
no Christmases. 

Mint leaves soothe a migraine ...
In restaurants you always
studied the menu longest ...
In our ascetic family
you were the mistress of expression,
but you died so quietly ...

The old priest will garble your name.
The train will halt in the forest.
At dawn snow will fall
on the airport in Amsterdam. 

Where are you?
There where memory lies buried.
There where memory grows.
There where the orange, rose, and snow lie buried.
There where ashes grow.

Adam Zagajewski:
Without End
*
 

Phi trường AMSTERDAM 

Tưởng nhớ Mẹ 

Hoa hồng vào Tháng Chạp, ước muốn trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang cháy

Trong lúc lang thang ở ngoài trời ngày hôm qua, tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những người khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi

Phi cơ cào xiết trên nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo

Có lẽ đám tang của mẹ nên được tổ chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.

Một con người nên lo lắng đến những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái áo dài mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.

Trong bóng tối, những sự vật sau chót sáng chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng Sinh.

Những chiếc lá bạc hà làm dịu cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn thật lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....

Vị linh mục già sẽ lắp bắp xướng tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam

Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.

Adam Zagajewski
Without End

[Note: Bài thơ này, nguyên được in trong Mysticism for Beginners]

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’