Một chàng thanh niên tóc hung hung buồn bã đi lòng dòng
Giữa những cánh rừng nho nhỏ nơi bờ biển
Một thế kỷ đã qua, người ta vẫn nghe âm thanh –
Tiếng chân bước lào xào trên mặt rừng
Những thảm thông dầy, lá thông như những chiếc kim
Những mẩu gỗ của những thân cây đổ xuống
Đây là nơi chàng tuổi trẻ để cái mũ ba góc của mình
Và mấy tập thơ của thi sĩ Tẩy, Parny
1911

A ruddy youth wandered forlornly around,
A century passes, we still hear the sound—
Footsteps rustle on the forest floor.
The pine needles' thick and bristling mat
Carpets the stub of each fallen tree.
Here's where he put his three-cornered hat
And a rumpled book of poems by Parny.
1911
 
This poem is a tribute to Alexander Pushkin, 1799-1837, regarded as the greatest Russian poet, one of the four or five best poets in postmedieval Europe.
Parny: E. D. De Forger, 1753-1814, a French poet.
A.A.
Trans. Lyn Coffin
 
****
 
A dark-skinned youth wandered along these allées,
By the shores of this lake he yearned,
And a hundred years later we cherish
The rustle of steps, faintly heard.
A layer of pine needles covers
The stumps with a thick, bristly mat...
Here lay his tattered copy of Parny
And his three-cornered hat.
September 24, 1911
Tsarskoye Selo
Trans. Judith
[from "Evening"]
 
 
 
TTY's Memoriam
A ruddy youth wandered forlornly around,
In and out the alleys of trees on the shore.
A century passes, we still hear the sound-
Footsteps rustle on the forest floor.
The pine needles' thick and bristling mat
Carpets the stub of each fallen tree.
Here's where he put his three-cornered hat
And a rumpled book of poems by Parny.
1911
Anna Akhmatova
Trans. Lyn Coffin
This poem is a tribute to Alexander Pushkin, 1799-1837, regarded as the greatest Russian poet, one of the four or five best poets in post-medieval Europe.
Parny: E. D. De Forger, 1753-1814, a French poet.
Note: Bài thơ này, đi với bài Ải Tây quá đỗi OK.
NQT
 
 
Chia Tay Ải Tây
 
Tặng Thanh Tâm Tuyền
 
Mới độ nào chia tay ải Tây.
Đi đâu hay chỉ cốt rời đây?
Mây trôi, dăm mảng nhớ hư hoặc,
Gom chẳng thành câu chuyện thuận tai
Lời kiệm, quanh ba cái ý quẩn,
Tiễn đưa vừa một quãng mây bay.
Ra về thấy nhật nguyệt điên đảo,
Ray rứt chưa tròn hẹn ải Tây.
Có thật từng chia tay ải Tây?
Mây qua để bóng cổ thư này.
Tuyệt cùng ý thức như nơi tới
Tin tức ngàn thu biết hỏi ai?
Bao nhiêu đống lửa đêm quan ngoại
Gió thổi tan tro mỗi sang ngày?
Trong trời, mây ấy cũ hay mới?
Ải Tây, lần nữa, lại chia tay.
Mãi mãi còn chia tay ải Tây.
Ngày ngày mây lãng đãng qua đây.
Cõi đời giấu một phía mê tưởng
Đi nép ranh, mường tượng ải Tây.
1-2000
Tô Thùy Yên
 
****
Ba tập thơ, của TTT, TTY, và của Sebald, lạ, là có cùng 1 air.
Với TTT, là tìm lại vừa được thơ, vừa được cái chất thiền vốn là cốt lõi của thơ ông, theo nghĩa “bạo động của bạo động”, như Gấu có lần lèm bèm.
Thơ Tô Thùy Yên, theo Gấu, có sự “gò”, theo nghĩa của cụm từ “tour de force”, của Tẩy.
Cực hay, nhưng cũng cực… cực!
Cực giống Sebald, ở chỗ, không có “footnotes”, là không làm sao nắm được. Thí dụ, bài thơ tặng TTT, trên.
Sebald, thì như 1 nhà phê bình gọi ông, kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, và ông cũng nghĩ về mình, đúng như thế:
Pix:
Nhà thơ Tô Thùy Yên @
Phòng tranh Đinh Cường & Nguyễn Đình Thuần
 
Bài thơ thần sầu của TTY, với Gấu, là bài ông làm tặng bạn ông là thi sĩ TTT, Ải Tây. Đọc, lần ghé Tiểu Sài Gòn, thường là tác túc nhà họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, nhưng do Đinh Cường và đấng bạn thân của ông, là thi sĩ NXT cũng ghé thăm Tiểu Sài Gòn, nên anh đề nghị Gấu qua ở bên ông bạn Bạn, nhờ thế thoát chết ở Phước Lộc Thọ. Vụ này cũng tuyệt lắm, thư thả biết về nó, dù đã lèm bèm hơn 1 lần, trên Tin Văn 
Nhà bạn Bạn có tập thơ của TTY. 
 
Khi thấy tôi cầm tập thơ Thắp Tạ của Tô Thùy Yên, chủ nhà ngạc nhiên, ông kiếm ở đâu ra vậy.
Tôi tìm hoài mà không thấy!
Câu nói của ông làm Gấu Cà Chớn hết hy vọng chôm, hoặc mượn tập thơ, thực sự cũng không phải của ông, mà của 1 tay nào đó, như trang đầu có thủ bút của tác giả cho thấy.
Bèn lấy cái máy hình ra bấm vài pô:
 
 
Il ritorno d'Ulisse
 
Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin
For all his encounters in scattered spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen
Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery
Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners
Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)
Sebald
 
Note: Bài thơ này làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.
 
Ta Về 
 
Trở về sau 1 chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra
Trong tất cả những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra.
Và rồi thì có bà ngoại Tây Bán Nhà của bà vợ Penelope của hắn
Bà chặn đường đếch cho hắn đi qua cổng vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn kíu nước, hà, hà!
Tất nhiên rồi, chắc chắc là có lũ con nít
– không phải lũ con nít nhếch nhác kéo nhau coi lũ tù Ngụy đi qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, cười đùa với khách lạ
Những hy vọng ẩn giấu của chúng
thì vẫn quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi
(Nhưng ý nghĩ thì tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)
 
Ba tập thơ, của TTT, TTY, và của Sebald, lạ, là có cùng 1 air.
Với TTT, là tìm lại vừa được thơ, vừa được cái chất thiền vốn là cốt lõi của thơ ông, theo nghĩa “bạo động của bạo động”, như Gấu có lần lèm bèm.
Thơ Tô Thùy Yên, theo Gấu, có sự “gò”, theo nghĩa của cụm từ “tour de force”, của Tẩy.
Cực hay, nhưng cũng cực… cực!
Cực giống Sebald, ở chỗ, không có “footnotes”, là không làm sao nắm được. Thí dụ, bài thơ tặng TTT, trên.
Sebald, thì như 1 nhà phê bình gọi ông, kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, và ông cũng nghĩ về mình, đúng như thế:
 
Ghost Hunter
Eleanor Wachtel [CBC Radio’s Writers & Company on April 18, 1998]:
 
Sebald viết một kinh cầu cho một thế hệ, trong Di dân, The Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát, và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng 1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting, và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?
WG Sebald: Nó là một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction. Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi này….
EW: Một nhà phê bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông có nghĩ về mình như thế?
WGS: Ðúng như thế. Yes, I do. I think it’s pretty precise… (1)
Riêng về tập Qua Đất qua Nước, thì có câu của Walter Benjamin, như 1 vinh danh thật là tuyệt vời dành riêng cho ông:
"To perceive the aura of an object we look at," wrote Walter Benjamin, referring more to the work of art than to landscapes, "means to invest it with the ability to look at us in return"
"Để cảm nhận hào quang của vật mà chúng ta nhìn vô", W. Benjamin viết - ông muốn qui nhiều về nghệ phẩm hơn là về phong cảnh - "có nghĩa là đầu, tự nó, tiêm chích nó, cái khả năng nhìn trở lại chúng ta".
Cali Tháng 11, 2012
Wed, Dec 19, 2012
MERRY CHRISTMAS
Ong TRU chi HONG va gia dinh.
Noel 2012
NDT
Chúc hai bạn Thuần & Hương mọi điều tốt lành trong Mùa Giáng Sinh và Năm Mới
Xin gửi lời chúc đến tất cả bạn bè Cali & SJ & SD
Take care, plse.
Thân
NQT và gia đình 
 
 
Trong chuyến đi Cali tháng 11, do nhà NDT có khách ghé thăm, lại dặn chỗ trước, Gấu phải qua nhà bạn Bạn tá túc. Lúc đầu ngại lắm, vì nghe thiên hạ đồn, ông này khó lắm, tưởng dzậy mà không phải dzậy đâu, đừng tưởng bở!
Không ngờ thật là tuyệt vời, và Gấu cứ gật gà gật gù, phải như thế chứ! Không lẽ Gấu nhận lầm người… quân tử!
Hà, hà!
Gấu ruột ngựa, cũng chẳng giấu. Ông cười, gật gù, quả có phần đúng, tôi khôn quá. Khôn “vừa vừa” như Bắc Kít, mà còn bị ông chửi tơi bời hoa lá cành, nữa là 1 thằng Quảng Nôm thứ cực kỳ Quảng Nôm như tui!
Và thế là, được dịp, ông bèn nói về những ngày đi tù VC, và cái khôn của ông, để sống sót Cái Ác Bắc Kít.
Nghe, thì lại như thấy đang đọc (Một ngày trong đời) One Day in the Life of Ivan Denisovich của Solzhenitsyn.
 
 
ISRAEL HOROVITZ
A REMEMBRANCE OF SAMUEL BECKETT
Samuel Beckett, một thoảng nhớ...
 
 
Samuel Beckett had strict rules for living. We'd met for a drink one night, just after Gill and I were married (her first marriage, my third). "One wife!" he scolded. "That's all a man is meant to have! Yeats only had one, Joyce only had one-I'll only have one."
Samuel Beckett had his heroes . . . and I knew that I would never be listed among them.
My most important memories of Beckett aren't memories of a superb writer, but of a superb friend. I was first attracted to Beckett because of his writing, but he quickly became for me one of those few men we painstakingly choose, against mother's will, to serve as father.
When I saw Sam last, some months ago, he'd grown as frail as old paper.
He was living in a room in an old people's home in the rue Remy-Dumonce, a few doors from his (holistic) doctor's house. I was stunned to realize that Beckett was now living like a character of his creation. To reach Beckett's room one had to pass through something called "the recreation room." Two dozen elderly French sat in a row like sparrows on a telephone wire, watching an obnoxious song-and-dance man via an outdated black-and-white television set. I broke into their shared reverie and asked where Beckett could be found. Nobody seemed to know him. I found the home's office. I was directed through a small courtyard to the rear of the block, where I saw a tiny ground-floor room with window blinds partly drawn. Beckett was inside, dressed in a tattered old robe, working with pen and ink at a bridge table. I stopped and stared a while, for some reason remembering Beckett's shock, twenty-two years before, at discovering that I didn't know Yeat’s "Sailing to Byzantium." Before I left the table that night, Yeast’s poem had passed from Mr. Beckett's memory to my memory, along with Sam's small scholarly note of caution: "I don't totally approve of that 'Soul clap its hands' part!"
Samuel Beckett's final room was seedy, small, sad: a bed, a bedside table, bridge table and a matching chair, a television set "for sporting events." It was prisonlike, pathetic. My initial impulse was to pick him up and run, carrying him out, away, to some time past. It's taken me nearly a year to let it go, to accept that this was his choice. We talked for a few hours. He asked the usual questions about my children, about my work, about Gill's recent marathons, did I need any money, or was I okay?
My turn. I asked about the state of his health. He understood his particular illness, explaining the mechanics of it as might a scientist. His brain wasn't getting proper circulation of blood. But when he detailed the sensation - how the problem was manifest in his particular body - he was all writer: succinct and artfully clear. "I am standing in quicksand."
When I left Sam the last time, I knew that I might never see him alive again. I organized my life so that I could return to Paris and be close by him for six weeks, starting in January. I underestimated the quicksand by nearly a month.
Say something of the man and let it go. What Beckett said of Joyce is finally what I say of Beckett: "He never wrote about something. He always wrote something."
I worry that the world will over-saint Sam and overlook the most important, most obvious truth: with his life Mr. Beckett proved that it was actually possible, even in our own inferior century, for a writer to work and to live with a great seriousness, a great caring and a great integrity. What Samuel Beckett was possible. Not a saint - at times not even totally tasteful - but ever an artist: clear-voiced, responsible, in line with the best. Beckett was, professionally, from youth onward, an old crab. And with good cause. Around him, the quality of Life was odious, and the quality of Death an unsatisfying alternative.
The Paris Review Spring 1997: Theater
Bài ai điếu Beckett này, GCC đã đi một đuờng phỏng dịch, khúc đầu. Vớ lại được số báo, thì lại tiếc khúc sau, bèn chơi luôn toàn bài.
Cũng là 1 cách viết về ông bạn Quảng Nôm.
A superb friend!
Một ông bạn thần sầu!
Lần này, do ở nhà ông bạn thần sầu, thành thử Gấu vờ 1 số bạn văn, bởi là vì ông bạn thần sầu này có vẻ chẳng ưa đám viết lách, theo như GCC lờ mờ nhận ra!
Sinh viên gốc Á ở Mỹ là quá thông minh nên bị kỳ thị? Asians: Too Smart for Their Own Good? (NYT 19-12-12)
Source
 
Nhân nói đến thông minh của Mít. Cái tít tiếng Anh, được ông “thông minh” này dịch ra tiếng Việt, đếch đúng ý của nó. Tiếng Việt kêu là láu cá vặt, khôn lỏi, khôn có lợi cho mình, khôn ăn người….
Samuel Beckett, một thoảng nhớ...
Về cái chuyện sống, Sam đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng tôi có hẹn nhậu, liền sau khi Gill và tôi lấy nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai, ba, lần thứ ba.
Một vợ là đủ rồi. Ông gật gù, lèm bèm. Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn ông cần có. Yeats một, và chỉ một mà thôi, như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. – Tôi cũng sẽ chỉ có thế.
Sam có những người hùng của ông… và tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong số đó.
Những hồi ức quan trọng nhất của tôi về Beckett thì không phải về 1 nhà văn thần sầu, số dách, tuyệt cú mèo. Những mà là một người bạn thần sầu. Tôi biết đến ông, là qua những gì ông viết - Tình cờ gặp ở Factory Bistro. Một tay nào đó, đứng xớ rớ đó, giới thiệu. Ông nói, tôi đọc ông nhiều rồi, nay mới gặp - nhưng liền đó, với tôi, ông trở thành một trong số ít ỏi, mà chúng ta cẩn thận chọn, ngược hẳn ý bà mẹ, để phục vụ, như là ông via của mình.
Lần gặp chót, cách đây chừng vài tháng, thì ông mỏng và trong suốt như... 1 anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
Ông sống trong 1 phòng của 1 cái nhà dành cho đám người già ở đường Remy-Dumonce, chỉ cách nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh" của ông chừng vài nhà. Tôi sững sờ khi nhận ra, ông sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới được căn phòng của ông, người ta phải đi qua 1 cái gì được gọi như là "phòng giải trí" của người già. Chừng một, hoặc hai tá ông già bà lão Tẩy ngồi một dọc, giống như đám chim sẻ trên sợi dây điện, coi 1 màn ca hát nhảy múa thật là cà chớn, của một người đàn ông trên màn hình của 1 cái TV đen trắng, ở xứ Bắc Kít, khi chưa giải phóng được Miền Nam để… nhận hàng, dù là bơ thừa canh cặn Yankee mũi lõ bỏ lại. Tôi nhảy bổ vào giấc mơ chiến thắng Miền Nam của đám già đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi phòng của bạn quí của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như chẳng có ai biết ông.
Cái này là dịch loạn, sorry!
Thì cũng giống Thầy Kuốc dịch “Cái Chết của Tác Giả”, của Roland Barthes!
Hà, hà!
Có 1 điều GCC cứ thắc mắc hoài, về Quảng Nôm, qua ông bạn Bạn: Ông dặn đi dặn lại GCC, mi phải cảm ơn “con vợ” Bắc Kít của ta đấy nhé, không là ta ngượng lắm đấy.
Với bà ấy, phải là bạn thế nào thì ta mới rước về nhà.
Nhớ nhé!
Mà thế thực. Trong mấy ngày ở đó, GCC được đối xử thật là thân tình. Nghe Gấu than, thèm thịt đông, dưa chua quá, ghé Hà Nội, tên bồi lắc đầu, món này ít người order quá, delete mất rồi.
Ghé Nguyễn Huệ, có, có, dở như hạch!
Thế là bà đi mua thịt tươi, đúng thứ làm đông lạnh [Bạn biết phải thứ thịt gì rồi mà, phải không?]
Tuần lễ 7 ngày, đi làm 7 ngày, vậy mà vẫn lo đủ hai món đông lạnh dưa chua cho bạn của chồng.
Bảnh thật! Tuyệt thật!
Tks again. Many Tks.
NQT
Cái này tôi hỏi riêng ông, đừng nói với ai nhé.
OK. Go ahead!
Tui nghi cái tay Quảng Nôm, cùng quê với ông, tiến sĩ dởm quá!
Không, thiệt đấy!
Thiệt sao... kỳ dzậy!
There is among all your memories one
which has now been lost beyond recall.
J.L. Borges: Limits
Trong tất cả hồi ức của mi, có một,
mất tăm, tích, không làm sao nhớ lại được.
Gấu không làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà phê Sarbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong, anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng hồ, nói trễ quá, phải trả xe cho người bạn….
 
*****
 
Trường Sa hành
 
Toujours il y eut cette clameur
toujours il y eut cette fureur... (1)
Saint-John Perse: Exil
 
 
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Mùa đông bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần,
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.
Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3. 1974
(Tạp chí Văn, Sài Gòn)
[Blog Phạm Xuân Nguyên]
(1)
Luôn luôn tiếng la ó đó
Luôn luôn, cơn giận dữ đó
Saint-John Perse: Lưu Vong
When Saint-John Perse named one of his poems Exile, Blanchot says, "he named the poetic condition as well... The poem is exile and the poet who belongs to it belongs to the dissatisfaction of exile. He is always lost to himself, [hors de lui-même], outside, far from home [hors de son lieu natal]; he belongs to the foreign, the outside which knows no intimacy or limit, and to the separation which Holderlin names when in his madness he sees rythm's infinite space.
Khi Saint-John Perse đặt tên một trong những bài thơ của ông, là Lưu Vong, Blanchot giải thích, đó là ông còn đặt tên cho số phận thơ… Thơ là lưu vong và thi sĩ thuộc về sự bất bình lưu vong. Anh ta luôn luôn ở ngoài anh ta, ở ngoài nơi sinh, thuộc cõi lạ, cõi ngoài, một cõi không thân quen hay giới hạn, thuộc về sự chia lìa, phân ly, Hiu Quạnh Lớn như là Holderlin gọi, khi, trong cơn điên, nhà thơ nhìn thấy cõi vô cùng của nhịp điệu.
[Cái note này, thấy trong hồ sơ cũ, chỉ có vậy… Gõ Google, ra trang này]
Có vẻ như những dòng trên, viết về Thơ Ở Cõi Ngoài, Xứ Xở Của Kẻ Lang Thang Thi Sĩ, Đêm Khác, Other Night, là, để 'giải thích' bài thơ của TTY?
Nhưng, liệu ông có tiên tri ra được nỗi tù đầy, và lưu vong sau đó, khi đứng trước cơn la hét, giận dữ của biển, và chắc hẳn, còn là của ông?

 
 
 
 
 

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư