Simone Weil Tribute

 

Tribute
L'autre Simone
Trang Simone Weil
Bad Friday
Đọc & Dịch Weil
Thánh Simone - Simone Weil


100 năm ngày sinh
S.W
1
2


A Genius of the Spiritual Life

100 năm ngày sinh của Simone Weil

"Don't expect friendship. Friendship is a miracle."
Simone Weil


Đừng trông mong tình bạn. Tình bạn là một phép lạ.
Ui chao đọc một cái là lại thấy nhớ ơi là nhớ mấy đấng bạn quí của Gấu!
Mỗi ông là một phép lạ!
*
Chắc chắn một điều, Milosz viết Cầm Tưởng từ những kinh nghiệm ông đã từng trải qua, kể luôn cả cái kinh nghiệm cay đắng của một nhà văn nhà thơ bị rứt ra khỏi tiếng nói mẹ đẻ. Nhưng đây mới là điều tuyệt vời: Cầm Tưởng đã được gợi hứng từ những tư tưởng của một vị thánh, một bậc nữ lưu số một của thế kỷ 20: Simone Weil.

Cầm Tưởng

Cách đây vài năm, tôi trải qua rất nhiều buổi chiều tại căn phòng của gia đình bà, nhìn ra những khu vườn Luxembourg Gardens, tại cái bàn đầy vết mực từ cây viết của bà, nói chuyện với bà mẹ, một người đàn bà tuyệt vời, ở vào tuổi tám mươi.
Albert Camus, cái ngày được Nobel văn chương, đã trốn đám phóng viên, bằng cách trú ẩn trong căn phòng này.
Milosz: Sự quan trọng của Simone Weil
Nhân tưởng niệm 100 năm ngày sinh của Simone Weil, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Steiner về bà, Thứ Sáu Xấu, Bad Friday [March 2, 1992]. Trong cuốn Steiner ở tờ Người Nữu Ước.
*

Nam nay ky niem 100 ngay sinh cua Simone Weil, cac nha xb ra ca chuc quyen sach ve ba - co 1 chi tiet cam dong: Camus kinh phuc S. Weil, sau khi duoc giai Nobel, ve di tham mo^. Simone.
Bac khoe khong?

*
Prodigieuse anecdote pour terminer: Il vient d’apprendre que la première chose que Camus a faite à son retour du prix Nobel, c’était d’aller se recueillir sur la tombe de Simone Weil. Prodigieuse anecdote pour terminer.
Một giai thoại tuyệt vời để kết thúc... Mắt nhà thơ đỏ hoe: Milosz vừa được biết, vừa đi lãnh Nobel về là Camus ra mộ Simone Weil để thăm viếng .
[Nhờ Milosz mà tôi hiểu ra được rằng], để cho lời dối trá trở thành sự thực, thì cứ phải để chính nạn nhân nói ra 'sự thực' đó!
*

Après le déjeuner dont il est question ici, tandis que Kundera rejoint ses étudiants des Hautes Etudes, Milosz devient prolixe et tout excité à l’idée de parler de Simone Weil. Il m’apprend quelque chose qui, je crois, est encore ignoré. Il avait décidé de traduire un livre de Raymond Aron, qui lui aussi l’avait bien reçu à Paris. Mais, au milieu de son travail, il a décidé de s’arrêter en découvrant qu’il n’était décidément pas suffisamment d’accord avec le livre qu’il traduisait, et que son univers était décidément plus proche de celui de Simone Weil et de Camus que de celui d’Aron. Au moment de me quitter, ce poète au port impérial a, me semble-t-il, les yeux humides. Il vient d’apprendre que la première chose que Camus a faite à son retour du prix Nobel, c’était d’aller se recueillir sur la tombe de Simone Weil. Prodigieuse anecdote pour terminer. Ils sont à Paris et ils sont jeunes. Ils n’osent pas encore penser qu’ils ont du génie. Ils ne sont pas reconnus. Ils en souffrent. Ils renient le stalinisme. On le leur fera payer. Ils se rencontrent. Camus, Milosz et Octavio Paz passent quelques soirées ensemble. Plus tard, bien plus tard, ils auront tous les trois le prix Nobel... 

Personnellement, et entre bien d'autres choses, je dois à Milosz d'avoir compris ce qu’étai l'importance réelle de l'aveu dans la discipline totalitaire. On s’est demandé pourquoi, dans les procès de Moscou, de Budapest, de Prague et d’ailleurs, les procureurs mettaient tant d’acharnement à obtenir que les accusés se chargent de fautes qu’ils n’avaient pas commises. Pourquoi surtout leur fallait-il persuader leurs accusés et le monde entier qu’ils demeuraient tout de même quelque part coupables? C’est Milosz qui le premier montre que, pour que ce mensonge devienne vérité, il était indispensable qu’il fût confirmé avec éclat par les victimes elles-mêmes.

http://hebdo.nouvelobs.com/hebdo/parution/p20040819/articles/a247752.htm
Ses idées (S. Weil) ont influencé beaucoup de penseurs, parmi lesquels Susan Sontag, Alfred Kazin et Czeslaw Milosz.  Le New York Times a décrit Simone Weil comme “l'un des esprits les plus brillants et originaux de France du vingtième siècle » mais   son plus grand admirateur était sans aucun doute Albert Camus qui a joué un rôle majeur dans la publication de son ouvrage après la guerre.
Những tư tưởng của bà ảnh hưởng tới nhiều tư tưởng gia, trong số đó có Susan Sontag, Alfred Kazin và Czeslaw Milosz. Tờ NY Thời Báo miêu tả bà, “một trong những tinh thần sáng chói nhất, uyên nguyên nhất của nước Pháp thế kỷ 20”, nhưng người ngưỡng phục bà nhất chắc chắn phải là Albert Camus, ông đã giữ một vai trò chủ chốt trong việc xuất bản tác phẩm của bà thời kỳ sau chiến tranh.

http://www.linestreet.net/frbackground.html
Tks. NQT
*
Trong tình bạn tuyệt vời giữa Camus và Milosz, có sự kính trọng của cả hai với S. Weil.  Khi Milosz bỏ chạy quê hương Ba Lan của ông, xin tị nạn tại
Paris, không ai thèm chơi với ông, ngoài Camus, như Milosz kể lại trong một entry, trong cuốn ABC của ông. Nhân đây, post bài viết, cũng là một cách tưởng niệm Weil nhân 100 năm ngày sinh của bà.
*

Camus, Albert
Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con người tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết,  nói theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir, xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi có một đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái bản tiếng Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của ông ta, ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng Văn học Âu châu, họ in Cướp Chính Quyền [The Seizure of Power], và liền theo đó, Cái Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn thấy nó được bầy ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy chay, vì những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra khỏi kho  - cùng lúc đó, có người đem cho tôi, bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ hợp đồng vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi Quê [Native Realm], qua bản dịch của Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban ngoại văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên Đảng Cộng Sản Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y hệt như thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị của những di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in. Nhưng sau đó, là rã đám.
Tôi nhớ một lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô thần như tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra, chỉ ít lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi hỏi ông, về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ con cái như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant, ông ta không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được dậy dỗ theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng tiếp cận truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín ngưỡng.
Thế là tôi bèn trả lời Camus, đại khái như trên.
Milosz
*
But perhaps the deepest sense of Milosz’s political impact lies elsewhere; following in the great Simone Weil’s footsteps, he set forth a model of thought linking metaphysical passion with responsiveness to the plight of the simple man.
Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường.
Trí tuệ và những bông hồng
Thánh Simone

Sự câm lặng.
Chuyện xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con gái vào trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy nhiên bà phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ mi bằng lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà không biết sáu anh em còn một cô em gái. Cô bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi ngày họ có mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy người anh cho biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình họ sáu chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.
Trong sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được nói.
Cô bắt tay ngay vào việc.
Rồi một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một nhan sắc. Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua đổi ý, khi quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ sai người bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc, chỉ là sự câm lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm cụi cúi xuống manh áo đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ, nhưng đành phải kết tội chết. Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối cùng của thời hạn nghiệt ngã. Khi sáu con thiên nga xuất hiện, cô ném sáu chiếc áo lên mình chúng và lời nguyền hết linh. Cậu út, vì chiếc áo chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh thiên nga.
Trên đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm [Jakob Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả Những Chuyện Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân gian].
 Và sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.
Bà cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có những tư tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà tin rằng, những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử chọn lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau khi cẩn trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.
Chúng ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên mình những con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã bị trù yếm; cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến dạng đâu phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương của cô em. Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể họ sẽ phải trải qua đau khổ, rồi mới được trở lại làm người. Trong câu chuyện, họ nhận điều xấu cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện sẽ khác hẳn, nếu cô em gái đi tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy dược thảo cứu họ, chứ không phải cô em. Chúng ta tưởng rằng những chiếc áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy. Chính cô em gái, bằng khổ nạn mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu năm, không được cười, không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm cho nó trở nên vô hiệu.
Im lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở đây, sự câm nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông vua, những lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ khó khăn, cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ gai đâu phải để đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá trị biểu tượng, chính hành động “không hành động” (không nói không cười), hay dùng từ của Simone Weil, chính cái gọi là hư vô của hành động (le néant d’action) mang trong nó, đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của tư tưởng đông phương.
Bài học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác phẩm của Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI: “Chủ đề về sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên nga.” Và vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong “sổ tay ở Luân Đôn”, bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ tích: “Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những người anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng, một hợp đồng của Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án: chỉ tới được sự thực bằng [hành động] câm lặng.”
Tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.
Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá khứ”?
*
Cái sự được đọc S. Weil, của Gấu, là nhờ Steiner mà ra. Nhưng cuối đời nhìn lại, mới thấy, sự tình không đơn giản như vậy.
Có thể nói, Gấu "được đọc" Weil, là nhờ PCT!
Trong Hố Thẳm, hình như vậy, hay trong một bài viết nào đó tình cờ Gấu đọc được, thiên tài PCT chê Weil. Gấu ngu quá, tin liền.
Sau này ngẫm ra, đúng là nhờ ông, mà Gấu không đọc Weil suốt cuộc chiến, và chỉ đến khi thoát ra được, và, phải về già, phải trải qua đủ thứ trên đời rồi, thì mới "được đọc", và "đọc được" Weil.


BIOGRAPHIES
La vérité sur la « vierge rouge » (1)
Sainte ou folle à lier? Quatre livres relancent la polémiique autour de Simone Weil.
PAR JULIE MALAURE
Élève d'Alain, raillée par Georges Bataille, cette normalienne agrégée de philo était plus à gauche que Marx et Trotski, et plus illuminée que Thérèse d'Avila et Ignace de Loyola réunis. Pour dresser le portrait de Simone - faucille, marteau, auréole -, rien ne vaut l'excellente biographie de Christiane Rancé. On y découvre un laideron myope, maigre comme un clou, la gauloise au bec, trinquant au gros rouge avec des casseurs de pierres dans un bistrot de province. Syndicaliste tonitruante ou simple ouvrière chez Renault; observatrice du nazisme en Allemagne ou maquisarde en Espagne, Simone était, dans tous ses combats, une Jeanne d'Arc à la lucidité terrifiante, mouchant tout adversaire de raisonnements fulgurants et sans concession. Celle qui souffrait d'empathie envers toutes les déchirures, dormant à même le sol pour communier avec ceux qui n'ont pas de lit, est morte d'inanition en 1943, à seulement 34 ans, parce que manger à sa faim au regard de l'état de l'humanité lui semblait une «escroquerie». Alors, sainte ou folle?
«Simone Weil. Le courage de l'impossible », de Christiane Rancé (Seuil, 256 pages, r8 €).
"Simone Weil. Le ravissement de la raison", textes choisis et présentés par Stéphane Barsacq (Points, 92 pages, 5 €).
«Chez les Weil, André et Simone», de Sylvie Weil (Buchet-Chastel, 272 pages, r8 €).
[Trích báo Le Point, 12 Février 2009]
(1) Vierge Rouge: Đây là "nick" của S. Weil, có từ hồi còn đi học, không có nghĩa "thánh nữ đỏ", như đoạn tiếp theo sau, ngụ ý: "tả hơn của Marx và Trotski."
Tout au long de sa vie d'écriture, de l'École normale supérieure au début des années trente, où le directeur la surnomma
'la vierge rouge' pour le soutien ardent qu'elle apportait aux plus faibles, jusqu'aux derniers jours emprunts d'une ultime crise mystique, Simone Weil a lutté contre la misère sociale, a soutenu la condition ouvrière et a défendu politiquement, philosophiquement, spirituellement, la cause de la liberté face à l'oppression. Son style est incandescent, et elle avait l'amour du théâtre, écrivant même une pièce restée inédite. Laure Adler, puisant des fragments dans la correspondance avec son frère, dans certains écrits philosophiques et politiques, propose, avec la comédienne Anouk Grinberg, une lecture mise en espace. Un parcours dans l'oeuvre et la vie de Simone Weil qui cherche à faire entendre sa voix d'insoumise.
D'après des fragments de textes écrits par Simone Weil
Lecture proposée par Laure Adler
Avec Anouk Grinberg
Tuy nhiên, nick trên quả là có liên quan tới thợ thuyền:
Reçue septième à l'agrégation de philosophie, Simone Weil est nommée en 1931 enseignante à la ville du Puy, où elle ne tarde pas à se créer une réputation de dangereuse agitatrice. Les samedis après-midi, elle dispense des cours d'économie à des ouvriers ou des cheminots de la ville. Titre d'une des conférences : "aperçus sur le marxisme". "Le 15 décembre, à la demande de chômeurs, elle fait partie d'une délégation qui vient voir le maire du Puy pour lui présenter une liste de revendications" ("L'insoumise", Laure Adler). La bourgeoisie et les industriels de la ville s'inquiètent du pouvoir de nuisance de cette jeune prof de philo qui se mêle aux classes populaires, mais n'arrivent pas à obtenir son départ : ses élèves qui l'adorent ont gagné leurs parents à leur cause. La "vierge rouge" est née.
 

*
No English word exactly conveys the meaning of the French malheur. Our word unhappiness is a negative term and far too weak. Affliction is the nearest equivalent but not quite satisfactory. Malheur has in it a sense of inevitability and doom.
Emma Craufurd [dịch Weil qua tiếng Anh]: Waiting for God
Không có từ tiếng Anh nào tương đương với từ tiếng Tây, malheur, bất hạnh. Cái từ unhappy, không được vui, thì đúng là một từ tiêu cực, và yếu xìu. Trong từ bất hạnh, nó có cái nghĩa [điều] "không thể nào tránh được", và, "trầm luân", bị trời đầy, số kiếp là như vậy.
*
Thế kỷ 20 có ba vị “nữ thần” của nó, đó là Simone de Beauvoir, Hannah Arendt và Simone Weil. George Steiner tự hỏi, cho tới nay, liệu có một triết tưởng nào (a philosophic imagination), ở trong số những bậc nữ lưu, xứng đáng để kế bên của Simone Weil? Ông tin rằng, người ta phải có một chiều sâu tâm lý của Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới hiểu nổi Weil. Hai nỗi đau lớn của bà: thân phận con người, tên nô lệ của con quái vật nhà máy, và thân phận người dân xứ thuộc địa, đặc biệt là xứ Đông Dương.
Hannah Arendt thì cố gắng tìm cho ra duyên do cái ác, của thế kỷ hung bạo, trong khi dò tìm những cội nguồn của chủ nghĩa toàn trị.
Còn Simone de Beauvoir?
Những năm tháng của S. de Beauvoir thực sự bắt đầu cùng với sự xuất hiện tác phẩm Giới Tính Thứ Nhì (Le Deuxième Sexe), vào năm 1949. Và nó bắt đầu một cách thật là thê thảm!
Tinh thần không có giới tính
*
Vết thương không thể lành, nhưng con người vẫn cố chữa trị, làm sao không? Giọng văn bỡn cợt ảnh hưởng Maurois, nói trạng ảnh hưởng miền Nam. Nhưng Maurois không phải là người học trò duy nhất, hiểu thầy nhất của Alain. "Học trò cưng"của ông, phải là Simone Weil. Như Zweig, bà tự huỷ bằng cách tuyệt thực vào năm 1943. Trong bài viết "Thánh Simone - Simone Weil" (trong No Passion Spent, nhà xb Yale University, 1996), G. Steiner cho rằng khí hậu thế kỷ của chúng ta sẽ không thể hiểu được nếu bỏ qua phần đóng góp của Simone de Beauvoir, Hannah Arendt, nhưng trên hết vẫn là Weil. Trong cuộc thoại với những người chết (những nghiên cứu về những người như Weil), chúng ta cần đi sâu vào một Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới có thể hiểu được một người như Weil. Bà đã từng đưa ra nhận xét, ngay phút đầu tiên những binh đoàn Đức Quốc Xã tiến vào Paris: đây là một ngày trọng đại, cho Đông Dương (cho tất cả những dân tộc bị Pháp đô hộ), thấy hết sự thuần khiết lạnh lùng, của một câu châm ngôn khắc kỷ. Trong lúc dân tộc của bà đi vào lò thiêu, Weil đã từ chối rửa tội, vì "Ca-tô-giáo La-mã vẫn quá Do-thái" (Roman Catholicism was still too Jewish).
Khi đọc Alain, Võ Phiến không nhìn ra một Weil ở phía sau. Do đó, ông không đọc được Đỗ Long Vân, một người cũng say mê Alain. Cuộc sống ẩn dật, từ chối mọi đặc quyền của Đỗ Long Vân (suốt đời sống ẩn dật, khi bị bắt đi trình diện nhập ngũ đã không trưng bằng cấp, giấy tờ chứng minh giáo sư đại học, bằng lòng làm binh nhì...) có thể bị coi là không bình thường, nhưng chưa trầm trọng như Weil: ngay cả người thân của bà, André Weil, cũng kết luận, tính khí của bà vượt quá mức bình thường. Còn tướng de Gaulle nói thẳng thừng: người đàn bà này khùng.
Đỗ Long Vân, theo tôi, không chọn con đường tự huỷ, có lẽ vì đã đọc, rất mê, và đã từng viết về Kim Dung, và đã nhận ra, chỉ ở trong thế rỗng ruột (hư trúc), mới giải được ván cờ ma quái. Hư Trúc (nhân vật trong chuyện chưởng của Kim Dung) khi đi nước cờ, không hề nghĩ chuyện thua thắng: đấy mới là vấn đề. Võ Phiến khi đọc Zweig, không thấy Dostoevsky, không nhận ra sự thiếu sót của phân tâm học, muốn đơn giản con người như một sinh vật bị bịnh. Theo như tôi được biết Võ Phiến không chịu được những trào lưu "thái quá", không phải chỉ về tư tưởng, mà cả ở trong ngôn ngữ. Có vẻ như ông không chịu nổi thơ dịch. Không chịu nổi Thanh Tâm Tuyền.

Võ Phiến, nhà văn Bình Định


OUR VEXED CENTURY would be much thinner without the witness of Simone de Beauvoir, without the power of that prodigious woman to make her ardent life a critique of gender, of society, of literature and politics. And Hannah Arendt persists as a pivotal figure in political and social theory, and as one of the compelling voices out of the totalitarian dark. But neither woman was a philosopher in any strict sense. Here extreme precision is needed. Philosophic thought is that which bears on questions rather than answers; where answers arise, they turn out to be new questions. The honor of the craft is that of disinterestedness, of an abstention from practical yield. The philosophic stance-notably in its metaphysical reach and in where it touches (as it must, whether in acquiescence or denial) on the theological-is, in the rigorous sense of the word, unworldly. Characteristically, there lodges in the philosophic sensibility a certain indifference to, or even distaste for, the human body. By these harsh lights, there has been in the Western tradition only one woman philosopher of rank: Simone Weil.

Thế kỷ phiền nhiễu của chúng ta sẽ nhạt nhẽo đi nếu thiếu cái nhìn chứng nhân của Simone de Beauvoir, thiếu đi sự dũng mãnh của người đàn bà phi thường này, người đã dùng chính cuộc đời nóng bỏng của mình để phê phán giống đực giống cái, xã hội, văn chương và chính trị. Nó cũng nhạt hẳn đi nếu thiếu Hannah Arendt, kiên trì như một nhân vật trụ cột của một lý thuyết về chính trị và xã hội, một trong những tiếng nói bất khuất, bật ra từ đêm đen toàn trị. Nhưng không một ai trong hai bà này là triết gia theo đúng nghĩa nghiêm ngặt nhất của từ này. Cực kỳ chính xác là điều cần thiết ở đây. Tư tưởng triết học đặt nặng vào câu hỏi hơn là câu trả lời và khi câu trả lời dấy lên thì hóa ra lại là một câu hỏi mới. Vinh danh “nhất nghệ tinh” của “nghề triết”, là ở cái bất vị lợi, điều vô cầu, ở cái không để nhuốm mình vào một trường thực tiễn. Dáng đứng triết học – đáng kể nhất là ở trong cái thế vươn tới, và đụng vào, cõi thần học, như nó bắt buộc phải như vậy, dù muốn dù không - là, vô thường, theo nghĩa chính xác của từ vô thường.
Chi ly, đặc nét mà nói, cảm tính triết học cưu mang ở trong nó một sự dửng dưng, và hơn cả thế, một sự ghê tởm thân xác con người, [cái túi thịt thối tha như nhà Phật nói]. Dưới ánh sáng tàn nhẫn khắc nghiệt như thế, ở truyền thống Tây Phương, chỉ có một triết gia duy nhất xứng đáng với tầm cỡ của nó, và đó là Simone Weil.
*
The price that Simone Weil paid for her eminence came near to being wholly unbearable. She consumed her own health to the point of willed early death. She inhabited her body as if it were a condemned hovel. She declared a detestation of her own rudimentary femininity, and stridently suggested that philosophical and mathematical achievements of lasting force were the prerogative of men - that some disorder or weakness in the very grain of womanhood militated against the examined life as demanded by Socrates, by Descartes, or by Kant. (Simone Weil's brother, Andre, is among the masters of twentieth-century algebraic geometry.) At every possible point and beyond, Simone Weil chose thought against life, logic against the pragmatic, 'the laser of analysis and enforced deduction against the fitful half-light, the compromise, and the muddle that allow the rest of us to carry on our existence. Like Pascal, like Kierkegaard, and like Nietzsche, but lacking the vanities of eloquence which attach even to these purists, Weil experienced her short life (1909-43) as a trial whose meaning - whose sole dignity - lay in defeat.

Cái giá mà Simone Weil trả cho địa vị cao trọng này gần như hoàn toàn không thể chịu đựng được. Bà đốt sức khỏe của mình để làm sao có được một cái chết sớm. Bà xem cơ thể của bà như cái mái che bỏ đi. Bà từng tuyên bố chán ngấy thân phận phụ nữ thấp kém của chính mình và đã kêu lên đến đinh tai nhức óc, là các thành tựu triết lý và toán học toàn là lãnh vực độc quyền của đàn ông (anh của bà, André Weil, là nhà toán học bậc thầy của thế kỷ 20), rằng có một loại mất thăng bằng và yếu kém ngay chính trong thớ thịt của phụ nữ mà các triết gia Socrate, Descartes và Kant đã yêu cầu dò tìm trong chính cuộc sống để chứng minh ngược lại. Ở một thời điểm nào cần lựa chọn, đôi khi bà còn lựa chọn quá: Simone Weil chọn tư tưởng để chống lại sự sống, chọn lô-gíc để chống lại thực tiễn, chọn phân tích nhạy bén, áp dụng điều suy luận để chống lại cái nửa chừng, cái thỏa hiệp và cái lẫn lộn, những cái cho phép tất cả chúng ta tiếp tục cuộc sống.
Giống Pascal, Kierkegaard, và Nietzsche nhưng không có những huênh hoang hùng biện mà ngay các triết gia thuần túy này cũng vướng phải, Weil kinh nghiệm cuộc đời ngắn ngủi của mình (1909-1943) như một thử nghiệm, mà ý nghĩa của nó – mà trọn sự cao cả duy nhất của nó – nằm trong sự thất bại.
*
Her attendant tastes in literature and in theological tonality were concordant. It was in T. E. Lawrence of Arabia that she envisioned the truest type of modern heroism. And it was in ascetic and mendicant Catholicism, which indicted most brutally the alleged materialism and obdurateness of the Jew, that she felt at home. From Paul of Tarsus to today, the history of Jewish self-hatred is a long and perplexing one. It is quite possible to read both Christianity and Marxism as great Judaic heresies sprung from the opaque pathologies of a suicidal self-rejection. The most ingenious, though in some measure deranged, advocate of Jewish inferiority and racial leprosy in modern polemics, Otto Weininger, was a Jew. Whether Simone Weil's contribution to this garbage was a symptom of some even deeper negation of sexuality and of her own gender, whether it enacted elements of deliberate self-humiliation in the face of what she judged to be a botched life, whether it traced the road to a slow suicide, no psychopathology can adequately explain. Such explanation would, moreover, and by Weil's own imperatives of philosophic integrity, be immaterial.

Sở thích văn chương và thần học của bà thì phù hợp với nhau. Chính ở nơi T.E. Lawrence of Arabia mà bà nhìn ra kiểu mẫu thực nhất của chủ nghĩa anh hùng hiện đại. Và chính ở một Ky Tô giáo khổ hạnh, khất thực – nó lên án một cách tàn bạo nhất chủ nghĩa duy vật và tính bướng bỉnh của người Do Thái –
là lối sống bà cảm nhận khi còn ở trong gia đình. Từ Thánh Phao Lồ cho đến ngày hôm nay, lịch sử hận thù chính mình của người Do Thái là một lịch sử dài và phức tạp. Hoàn toàn là chuyện có thể, nếu đọc cả hai Ky tô và Mác xít như là những dị giáo Do Thái lớn, thoát thai từ những bệnh lý học mù mờ của sự tự huỷ. Người mưu trí nhất, và, ở một chừng mức nào đó, loạn trí, Otto Weininger, vị luật sư chuyên về sự thấp kém của người Do Thái, và về sự cùi hủi truyền kiếp của sắc dân này, qua những cuộc bút chiến hiện đại, là người Do Thái. Hoặc là, sự đóng góp của Simone Weil vào đống rác rưởi này là triệu chứng cho thấy ở tầng sâu hơn của nó, là sự từ chối dục tính, hay sự phủ nhận giới tính của riêng bà, hoặc là, nó chỉ ra những yếu tố về sự tự làm nhục mình một cách ý thức, có sự cân nhắc ở trong đó, khi đứng trước điều mà bà đánh giá là một cuộc sống chấp vá, tạm bợ, hoặc là, nó vẽ ra con đường đi tới một cuộc tự tử chậm: Không có một phân tâm bệnh nào có thể giải thích rõ ràng, đầy đủ. Một giải thích như thế, hơn nữa, qua những mệnh lệnh của riêng Simone Weil về sự toàn vẹn triết học, sẽ chẳng là gì cả.
*
Why bother then? Simply because Simone Weil has left us a fragmented but substantial corpus of theological, philosophical, end political insights of rare pressure and illumination. Response is so perplexing because an unsparing honesty meshes the inspired with the pathological. Who else save Kierkegaard would at the moment of
France's surrender to Hitler have found the sentence "This is a great day for Indo-China," in which a hideous insensibility is perfectly balanced by a political and humane clairvoyance of genius? The fall of metropolitan France was indeed glorious news for le subject peoples it had long lorded over in its far-flung colonies. For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland.
Tại sao phải khổ công như vậy? Đơn giản chỉ vì Simone Weil đã để lại cho chúng ta một khối luợng, tuy chỉ là những mẩu đoạn, nhưng thật đáng kể, những phát giác về thần học, triết học, và chính trị; chúng thuộc loại hiếm quí, nếu nói về sức ép, và về sự đốn ngộ. Sự đáp ứng [của chúng ta trước di sản này] thì cũng thật là bối rối, ngỡ ngàng, bởi vì đáp ứng trung thực đến cỡ nào, thì cũng bị mắc bẫy ở giữa đốn ngộ và bệnh lý. Bất cứ ai muốn cứu vớt Kierkegaard, đúng vào lúc mà nước Pháp qui hàng Hitler, đều tìm thấy ngay câu sau đây của Weil, ‘đây là một ngày hội lớn đối với xứ Đông Dương’; trong câu nói đó, có một sự lạnh lùng tàn nhẫn, đến sởn tóc gáy lên được, và phải như thế mới xứng đáng, mới ngang tầm với cái nhìn tiên tri về chính trị, và về tình người, của một thiên tài. Sự gục ngã của nước Đại Pháp quả là một cái tin chiến thắng đối với bao nhiêu con người, tại những xứ sở thuộc địa bao la bấy lâu sống dưới sự cai trị của nó.
Đối với Simone Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu, ảnh hưởng tới sự băng hoại, mất chất, cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị ở nơi quê nhà.
*
[TTT, nhà thơ chẳng đã tiên đoán ra được, trước khi khăn gói quả mướp lên đường đi tù cải tạo, miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này. Câu nói của ông đúng vào những ngày 30 Tháng Tư 1975, khi nhìn VC tiến vào Sài Gòn, thì cũng đâu có khác gì Weil, khi nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào
Paris: Her observation, at the very moment of the occupation of Paris by German troops, that this was a great day for Indo-China (for all people under French colonial rule). G. Steiner: Sainte Simone -  Simone Weil]

For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a classical or scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by cant or taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality" theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To take seriously, existentially, the question of the significance of human life and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or futility of political action and social design is not merely to risk personal health or the solace of common love: it is to endanger reason itself. The two individuals who have in our time not only taught or written or generated conceptually philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain, in self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein and Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit shadows.

Đối với Simone Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu tới băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil lập ngôn – những lập ngôn này dù được trích ra từ văn chương cổ điển hay kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới tim vấn nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn bước trước mâu thuẫn, điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một cõi xé lòng, và, đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như thế, thì, những cuộc thảo luận thần học, những định đề triết học chỉ là ba trò tầm phào giữa đám khoa bảng. Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn, câu hỏi về ý nghĩa đời người và cái chết trên hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi hỏi về đáng hay không đáng, một hành động chính trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn đòi hỏi như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân, cho sự khuây khoả của một tình yêu chung, mà nó còn gây họa cho chính cái gọi là lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói, viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số 1, nhưng đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó là vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như nhau.

But no analogy suffices. Weil represents what modern physics might call a "singularity." Some of her finest work-on Descartes, on the theory and practice of Marxism-belongs to normal philosophic and intellectual argument. She wrestles with the mystery of God's love as do the saints and doctors of the Church and the visionaries of the Middle Ages and the Baroque. Yet within a hair's breadth, as it were, of her ardent analytic rectitude, of her logical scruples and compassionate questioning, blow those "great winds from under the earth" evoked by Franz Kafka (another cousin in spirit). Some vein of madness is tapped.

Nhưng tương tự chỉ nói lên một phần. Weil đại diện điều mà những nhà vật lý học hiện đại gọi là ‘đặc dị’. Một vài công trình tuyệt hảo của bà - về Descartes, về lý thuyết và thực hành của chủ nghĩa Marx – là những đề tài mà giới trí thức và triết học thường xuyên tranh luận. Bà vật lộn với sự bí ẩn của tình yêu của Chúa như các vì thánh, các Tổ Phụ Giáo Hội, các bậc thấu thị thời Trung Cổ và Baroque. Tuy nhiên, chỉ trong một sát na – như thế đấy - của sự ngay thẳng ác liệt, của sự đắn đo mang tính lô-gíc và sự tra vấn đầy lòng trắc ẩn, bùng lên những “trận gió lớn đến từ bên dưới lòng đất”, những trận gió đã từng được Kafka viện dẫn tới (đây cũng là một đấng tinh anh, một bà con khác của bà). Một mạch khùng điên cũng được khơi ra.

The evidence patiently probed in Nevin's unsettling book points toward a twist of feeling at once sharp and deep-buried. In some way, this "chosen outsider" was jealous of God, of His infinite love, which she acknowledged mentally but could not bring to bear on the image she construed of her own identity. Jealous - as, perhaps, were St. Teresa of Avila and St. John of the Cross - of the agonies God had borne in the person of His martyred son. Black waters. To which it may be that the least inadequate response comes from a language at once desolate and sardonic - from the Yiddish, which she ignored or might have despised. Simone Weil was, undoubtedly, the first woman among philosophers. She was also a transcendent schlemiel.

Bằng chứng được Nevin kiên nhẫn nêu ra trong cuốn sách đáng ngại của ông [Simone Weil: Portrait of a Self Exiled Jew (North Carolina)], khiến chúng ta lập tức như bị co thắt lại, bởi một thứ tình cảm sắc bén, sâu thẳm. Một cách nào đó, ‘kẻ đứng ở bên lề được chọn lựa’ này, thì ghen với Chúa, ghen với tình yêu vô vàn của Người. Bà cảm nhận ra được tình yêu vô vàn của Người, hình ảnh của Người, ở trong tâm khảm của mình, nhưng không thể đem ra ngoài, dựa vào hình ảnh đó để mà xây dựng nên bản sắc riêng cho bà. Ghen – có thể như là Thánh Têrêxa Đavila và Thánh Gioan Thánh Giá - với những cơn quằn quại của Người, trong thân xác Đứa Con bị khổ nạn. Từ đó, ít ra, chúng ta có thể có câu trả lời, tuy không đầy đủ, đến từ thứ ngôn ngữ sầu não và nhạo báng - tiếng Do Thái Yiddish, thứ tiếng mà bà không biết hoặc có thể, coi thường. Simone Weil, chắc chắn, là người đàn bà đầu tiên giữa các triết gia. Và bà cũng là người bất hạnh siêu việt.
G. Steiner

*
Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
Phúc đáp: Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi
*
Gia roi phai hien ma chet!
Đa tạ. Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!
Phỏng Vấn Steiner
100 năm ngày sinh của Simone Weil
L'autre Simone
Trang Simone Weil
Bad Friday
Đọc & Dịch Weil

«La pureté est le pouvoir de contempler la souillure»:
Làm sao ai có đủ trong trắng để ngắm cho được tham nhũng soi mòn, chỉ có trẻ con mới làm được mà trẻ con thì có tiếng nói gì đâu!
"Thiên Sứ" của Sến Cô Nương, là từ nguồn này.

« Il y a alliance naturelle entre la vérité et le malheur, parce que l'une et l'autre sont des suppliants muets, éternellement condamnés à demeurer sans voix devant nous."
Siomone Weil
“Có một sự đồng thuận tự nhiên giữa chân lý và bất hạnh, bởi vì cái này cái kia đều là những van xin câm nín, ngàn đời bị kết án phải lặng thinh trước chúng ta.”
Để chứng minh, bà trình bầy câu chuyện cổ của Grimm, dưới đây.
Sự câm lặng.

Chuyện xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con gái vào trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy nhiên bà phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ mi bằng lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà không biết sáu anh em còn một cô em gái.
Cô bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi ngày họ có mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy người anh cho biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình họ sáu chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.
Trong sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được nói.
Cô bắt tay ngay vào việc.
Rồi một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một nhan sắc. Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua đổi ý, khi quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ sai người bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc, chỉ là sự câm lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm cụi cúi xuống manh áo đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ, nhưng đành phải kết tội chết. Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối cùng của thời hạn nghiệt ngã. Khi sáu con thiên nga xuất hiện, cô ném sáu chiếc áo lên mình chúng và lời nguyền hết linh. Cậu út, vì chiếc áo chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh thiên nga.
Trên đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm [Jakob Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả Những Chuyện Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân gian].
Và sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.
Bà cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có những tư tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà tin rằng, những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử chọn lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau khi cẩn trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.
Chúng ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên mình những con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã bị trù yếm; cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến dạng đâu phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương của cô em. Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể họ sẽ phải trải qua đau khổ, rồi mới được trở lại làm người.
Trong câu chuyện, họ nhận điều xấu cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện sẽ khác hẳn, nếu cô em gái đi tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy dược thảo cứu họ, chứ không phải cô em. Chúng ta tưởng rằng những chiếc áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy. Chính cô em gái, bằng khổ nạn mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu năm, không được cười, không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm cho nó trở nên vô hiệu.
Im lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở đây, sự câm nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông vua, những lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ khó khăn, cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ gai đâu phải để đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá trị biểu tượng, chính hành động “không hành động” (không nói không cười), hay dùng từ của Simone Weil, chính cái gọi là hư vô của hành động (le néant d’action) mang trong nó, đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của tư tưởng đông phương.
Bài học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác phẩm của Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI: “Chủ đề về sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên nga.” Và vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong “sổ tay ở Luân Đôn”, bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ tích: “Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những người anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng, một hợp đồng của Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án: chỉ tới được sự thực bằng [hành động] câm lặng.”
Tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.
Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch
sử của quá khứ”?
*
Nếu Hannah Arendt được nhiều người biết đến với cuốn Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị, Simone Weil ít được nhắc tới như là một nhà phê bình Mác Xít. Một số bài viết của Bà, sau được in chung thành một chương trong Toàn Tập Simone Weil, Những chủ nghĩa toàn trị của thế kỷ.
Bà mô phỏng... Bác Hồ - khi viết Tuyên ngôn Độc lập cho dân Mít chúng ta, bằng cách mô phỏng Tuyên ngôn Nhân quyền của Mẽo - khi viết:
"Không ai có quyền ngăn cấm chúng ta không được sáng suốt."
"Sự thực đối với chúng ta quí hơn Marx". Nếu chúng ta phải trích dẫn Marx, thì cũng phải có gan vượt Marx.
Chủ nghĩa máy móc, kể từ Marx, đã đè nặng lên công nhân, biến họ, từ bị bóc lột qua bị đàn áp [oppression].
Nhưng ghê gớm nhất, là lời phán rất ư là phách lối, rất ư là chọc quê đám Mác xịt:
Chủ nghĩa Mác xít là biểu hiện tinh thần cao nhất của xã hội trưởng giả.
[Le Marxisme est la plus haute expression spirituelle de la société bourgoise]
Mặc dù phạng Mác xịt tơi bời như vậy, Bà vẫn được đám tả phái coi như là một phê bình gia Mác xít, chính vì thế mà tờ báo của đám sinh viên xã hội "Essais et Combats" đã đề nghị bà trả lời câu hỏi, "Có nên nhìn lại chủ nghĩa Mác", [Faut-il reviser le Marxisme?], và đó là nguồn cơn đưa tới một số bài viết, thí dụ, "Về những nghịch lý của chủ nghĩa Mác". Chẳng cần phải đợi những biến cố lịch sử liền sau đó, xác định chuyện phải tới sẽ tới, những nghịch lý này nằm ngay trong tim trong hồn trong não của chính cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản, như lời giới thiệu trong Toàn Tập Simone Weil: "Elles sont évidentes au sein de la doctrine elle-même, entre l'analyse de la société et les conclusions, élaborées par Marx avant la mise au point de la méthode, laquelle apparait comme un intrusment pour prédire un avenir conforme à ses voeux...", [Những nghịch lý thì hiển nhiên ở ngay trong lòng của chính lý thuyết Mác xít, giữa nghiên cứu xã hội và những kết luận, chúng được Marx miêu tả trước khi đặt để phương pháp, và phương pháp thì được coi như là một dụng cụ nhằm tiên đoán một tương lai phù hợp với những ước muốn".]

Đây là tình trạng đặt con trâu trước cái cầy, như Simone Weil chỉ trích, trong bài viết.

Người đẹp thành Troie
Trận đánh mở ra lịch sử văn học Tây Phương có thể coi là trận đánh thành Troie, mà nguyên nhân của nó, là một mỹ nhân. Nhưng như Simone Weil chỉ ra, đó chỉ là cái cớ, để ăn cướp.
Cũng thế, những lý do đẹp đẽ của cuộc chiến Việt Nam, cũng chẳng khác: giải phóng Miền Nam, cho lũ Ngụy có một cơ may trở lại, không chỉ làm người, mà còn là con người mới xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước, [đó là] bước đầu xây dựng cái nhà Việt Nam to lớn nhất Đông Nam Á... Tất cả chỉ để che giấu giấc mơ tiềm ẩn, nằm trong đáy sâu bất cứ một anh Yankee mũi tẹt, là, làm sao chiếm được miền đất được thiên nhiên ưu đãi, không có những cái khổ, cái đói, cái rét và sự thù hận, như mảnh đất Bắc Kỳ tàn tạ.
Thảm như thế đấy.
Bài viết L'Iliade hay là Bài thơ của Sức Mạnh, L'Iliade ou le poème de la force, của Simone Weil, viết trong thời gian 1940-41, lần đầu tiên đăng trên Cahiers du Sud, số 230 và 231, Tháng Chạp 1940 và Tháng Giêng 1941, sau đăng trong Toàn Tập Simone Weil, Những bản viết lịch sử và chính trị, Tập 3, Gallimard, 1989.
Thoạt đầu, tính viết cho tờ La Nouvelle Revue Francaise. Tay chủ báo, Jean Paulhan có vẻ như chấp thuận, nhưng đòi sửa chữa, rút ngắn bài viết, trong những phần trích dẫn [gồm 1/3 số trang], cũng như bỏ hẳn những trang chót của bài viết, là phần Simone Weil đưa ra những cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, những đột sáng, trong tư tưởng của chính Bà, khi nhìn lại bản hùng ca, và thời đại huy hoàng từ đó nó phát sinh.
Và liền sau khi bài viết ra đời, là cuộc xâm lăng của Đức và thất thủ Paris.
Nhân vật thực sự, chủ đề thực sự, trung tâm của Iliade, là sức mạnh, la force....
Sức mạnh, là cái biến con người, thành một vật, une chose. Khi nó phát triển đến tột bực, nó biến con người thành một vật, theo đúng nghĩa đen của từ này.
Bởi vì, nó biến con người thành một cái xác chết.
Trước đó, là một người nào đó, quelqu'un, chỉ một giây phút sau, chẳng còn ai, [il n'y a personne].
*
Cái sức mạnh Bắc Kỳ, lạ lùng thay, như Simone Weil chỉ ra, cũng y chang, của người Hy lạp, là từ đất mà ra: Chúng ta chỉ là những nhà đo đất, chia ruộng, tạo bờ. Người Hy lạp đã học đức hạnh nhờ đo đất. [Les Grecs furent d'abord géomètres dans l'apprentissage de la vertu].
Cái giây phút mà sức mạnh biến con người thành một vật, đúng là lúc ở ngưỡng cửa thành Troie, y chang Sài Gòn trước biển máu. Trong Troie, không có người đẹp Hélène, như những vị thầy tu sau đó cho biết. Hélène khi đó ở Ai Cập.
Nhưng cần gì chuyện đó. Vào lúc đó, đoàn quân Hy Lạp biết rất rõ một điều, Sài Gòn - Troie đang quì trước họ:
De toutes manières, ce coir-là, les Grecs n'en veulent plus:
"Qu'on n'accepte à présent ni les biens de Pâris,
Ni Hèlène; chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie est à présent sur le bord de la perte."
Il dit; tous acclamèrent parmis les Achéens.
Thế là chúng muốn tất cả. Tất cả sự giầu có của Sài Gòn, [Miền Bắc nhận hàng, như là chiến lợi phẩm, comme un butin], tất cả những tòa lâu đài, tất cả những đền đài, tất cả những căn nhà, như là tro bụi, tất cả những phụ nữ trẻ con như là nô lệ, tất cả những người đàn ông như là những xác chết...
Mô phỏng Simone Weil
*
Theo René Thom, giải thưởng Toán Field, [tương đương Nobel], sở dĩ dân Hy Lạp giỏi đo đạc, là nhờ con sông Nil, mỗi mùa nước dâng, xóa hết bờ ruộng, và khi nước rút, phải đo đạc, chia chác lại, nhân đó mà giỏi môn hình học.
Như thế, sức mạnh Bắc Kỳ, là cũng nhờ sông Hồng mà có.
Sự thành lập con đê chống lũ, tạo thành nền văn minh sông Hồng, cũng là dấu hiệu báo tử đầu tiên của nó.
Hôm nay, nhân loại nói chung một tiếng nói
Trên tờ Thế giới ngoại giao, số có bài tẩy não tự do, vô tư, mà mấy bạn hiền Diễn Đàn khoái quá chôm liền, còn một trích đoạn cuộc song đấu giữa hai tay Chomsky và Foucault. Bữa trước Gấu đã chôm một câu của Foucault, người ta gây chiến để thắng, chứ đếch cần có lý hay không có lý, và đi một đường Mao Tôn Cương, về cuộc chiến vừa ăn cướp vừa la làng của VC. Bữa nay, đọc lại, thấy một câu nữa của tay này, cũng thú lắm:
Foucault: Khi mấy anh vô sản cướp được chính quyển, mấy anh đó sẽ chơi mấy giai cấp khác những đòn dã man, tàn nhẫn.... cái này thì dễ hiểu rồi, nhưng giả sử, mấy anh đó lại chơi chính giai cấp vô sản những đòn thù, thế là thế lào?
Theo tôi, [Foucault], chỉ có thể cắt nghĩa: Chuyện đó chỉ có thể xẩy ra khi, cái đám thắng thế đó, đếch phải là giai cấp vô sản, mà là một giai cấp ở ngoài nó, ở trên đầu nó, hoặc một nhóm ở bên trong nó, hay một chế độ thư lại Bắc Bộ Phủ thí dụ vậy, hay là đám còn lại của giai cấp tiểu tư sản, tiểu trưởng giả.
Blog Tin Văn


 

 

 

 

 

 

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư