Hình bóng Cũ

 


Hình bóng cũ

Truyện vừa

Hồi cuối năm 1949, tôi tản cư ra chợ Rạch Giá, ăn nhờ ở đậu tại xóm Sân banh, sát mé biển. Ở tỉnh nhỏ, thật khó kiếm một chân giáo viên tư thục hoặc thơ ký hãng buôn, vì vậy suốt ba bốn tháng trường, tôi cứ nằm nhà mà tập tành việc văn chương, gởi những bài thơ thuộc loại "đồng quê" cho hầu hết các nhựt báo, tuần báo ở Sài Gòn với hy vọng sẽ được các nhân viên tòa soạn lưu ý nâng đỡ. Đôi ba lần tên tôi được nêu trong mục Cánh nhạn bốn phương với kiểu trả lời: "Bạn Hoài Hương: nhận được tác phẩm của bạn. Rất tiếc vì nội dung cưỡng ép, kỹ thuật hơi vụng... nên chúng tôi hy vọng vào những sáng tác về sau. Chúc bạn cố gắng". Có bạn phụ trách mục Cánh Nhạn, Thư Tín vô tình hay cố ý gọi tôi là cô Hoài Hương và (điều này chắc họ vô tình) đã loan tin nhận được một thiên tiểu thuyết của tôi với nhan đề quá lạ vì chưa bao giờ tôi gởi đến báo ấy thiên tiểu thuyết nào cả. Thế rồi "hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai", đến bài thơ thứ mười lăm, tôi hân hạnh được giới thiệu trong mục Vườn Hoa. Họ trích đăng vài câu, kèm theo đôi hàng bình luận, liệt nó vào xu hướng "tiến bộ, lành mạnh" - những danh từ quá khái quát mà tôi chưa hiểu rõ nghĩa. Tháng sau, vài bài thơ của tôi được đăng trọn, đóng khung, bên góc lại thêm bức tranh con trâu ăn cỏ, cô gái gặt lúa. Trong làng thơ, tôi tự nhận rằng mình đã bắt đầu có chỗ ngồi. Những bài ấy tôi cắt ra, dán kỹ vào quyển Nhựt ký. Đêm đêm, tôi thao thức, sáng tác thật nhiều, hy vọng đến năm sau sẽ hoàn thành một tập thơ khá dày chứa đựng nhiều đề tài độc đáo, phong phú. Vài người bàn cận đã quở trách:

- Cỡ này sao chú hút thuốc vàng móng tay, đầu tóc rối nuồi, quần áo ít giặt. Coi chừng bịnh đa. Xóm Biển này nhiều âm binh khuấy rối.

Tôi khoe khoang công trình làm thơ của mình, trình bày những kết quả cụ thể đăng trên báo. Ai nấy tỏ thái độ nghi ngờ. Hai chữ Hoài Hương có gì bảo đảm đó là bút hiệu của chính tôi. Tôi quyết trả lời cụ thể cho họ biết. Tuần sau, bài thơ nhan đề "Một trăm thiếu một" in rành rành trên mặt báo "Tiến" trước khi vào bài có hàng chữ xiên: Gởi về các bạn Xóm Biển và dưới bút hiệu Hoài Hương còn ghi chú thêm: 137, lô A Xóm Biển, Châu Thành, Rạch Giá, địa chỉ căn nhà mà tôi đang ăn đùm ở đậu.

Nhờ địa chỉ ấy, người trong xóm nể trọng ra mặt, gọi tôi là thầy Hai thi sĩ. Họ thúc hối tôi gởi thơ đăng báo để họ hưởng lây chút danh dự. Hỡi ôi! Dường như nguồn cảm hứng cạn dần, loại thơ "đồng quê" của tôi quanh đi quẩn lại chỉ nói về "mồ hôi thấm luống cày", "máu thắm chan hòa mạch đất", "lúa xanh vươn lên" rồi "lúa vàng vàng, lúa chín giữa ngày mùa thơm ngát". Hoặc cô lái đò hờn duyên tủi phận, ông lão buông câu bên gốc dừa, dưới ánh trăng thanh. Sáng hôm nọ, tôi viết liên tiếp trên hai mươi câu thơ rồi xé bỏ, lơ đãng nhìn ra khung cửa. Trong ngõ hẹp này, ai hay là cả một bầu trời thơ mộng! Vài ông chủ nhà thiếu công ăn việc làm đang rủ nhau đánh đáo lạc, người thua cuộc phải cõng kẻ thắng trên lưng. Vài người tuổi hơn bốn mươi, có cháu nội, cháu ngoại mà vẫn đam mê vùi đầu vào trò chơi trẻ con ấy một cách hồn nhiên. Bên cạnh họ, trong khi chờ đợi mẹ đi chợ về, lũ trẻ xúm nhau bên đống rác, rình rập bắt từng con ruồi như hồi nào trước khi tản cư, chúng bắt chuồn chuồn, bươm bướm ở miền quê. Vài đứa tinh nghịch hơn, tìm dây nhợ, tìm giấy bìa để tẩn liệm rồi cử hành đám táng của một con chuột sình dưới đường mương. Có tiếng nói thơ Vân Tiên vang ra não nuột từ căn nhà của lão Tư Hiếm. Tôi qua đó. Lão gật đầu chào trước:

- À! Cỡ nào rảnh, thầy dạy cho tôi cách thức làm thi phú.

Tôi đáp:

- Dạ, bác cứ lựa những chữ có hơi lên hơi xuống giống như câu hát đưa em, như thơ Vân Tiên là được.

- Nhưng còn vài điệu ngâm khác ngộ hơn. Ngày xưa, tôi đờn cò, vỗ trống cơm cho họ lên xác ông, xác bà. Lâu lâu nghe vài câu tứ cú, bát cú gì đó. Vui lắm. Hồi đó tôi làm ăn khá, nhà rộng, bàn thờ to lắm, đâu như bây giờ.

Giữa nhà lão, cái thùng thông lơ lửng, mí trên đóng đinh sát vào cây đòn dông sần sùi. Mái nhà quá thấp, chỉ cần đứng trên bộ ván để vói tay lên cắm nhang vào cái lon sữa bò đã sét vì mưa tạt. Tấm giấy hồng đơn dán trên trang có bốn chữ Thái Thượng Lão Quân, nhưng nét mực đã nhòa rồi.

Lão nói tiếp:

- Hồi đó, ở nhà tôi thờ hơn mười nơi: Thái Thượng Lão Quân, Ông Quan Đế, Bà Cữu, Thổ Chủ, Tài Thần, Ông Táo... chưa nói đến ông bà và các bài vị khác của thân chủ. Bây giờ, giảm bớt chỉ còn trang thờ trên kia. Điều quan trọng là mình nên tôn kính; lư nhang tuy thô kệch nhưng mình cần giữ đúng nghĩa: trong cái lon sữa bò, tôi đổ gạo lức để cắm chân nhang cho chắc. Gạo là nền móng...

Nói xong, lão vói tay kéo từ nẹp vách đem ra một cái ống điếu dài, có u có nần - kiểu ống điếu bằng cây ớt hiểm rừng, dài cỡ bảy tấc tây, bóng láng vì xài quá lâu năm. Lúc châm thuốc, lão để một đầu ống điếu chỏi sát mặt ván, lưng lão thẳng, đầu hơi cúi xuống, giống như người hút thuốc lào. Chòm râu bạc, mái tóc bạc, hàng chân mày bạc lẫn lộn khuất lấp trong màn khói thuốc mù mịt. Dáng điệu lão giống như một nho sĩ ngồi dưới cội tùng, trong bức tranh cổ Trung Hoa, nếu lão còn giữ cái búi tóc như hồi bốn tháng trước. Và nếu tấm vách lá đừng quá rách loang lổ như từng cánh cửa sổ khép hờ, để lộ bối cảnh ngoài kia: không là núi nhưng là biển - mặt biển xanh như chàm lấp loáng nắng, Hòn Tre nổi lên như con rùa rút cổ, đôi ba chiếc tàu sắt trắng bạc như vôi, treo cờ tam sắc.

- Mau đi! Vợ tôi về rồi kia! Khòm lưng xuống cho tôi cõng! Anh còn thiếu tôi hai cõng. - Một người nói ngoài sân.

Đối phương của anh ta đáp nhanh:

- Tôi khòm lưng đây. Hai cõng kia, anh cho tôi đình lại. Coi như huề. Hồi chiều hôm qua, anh thua tôi liên tiếp hai bàn cờ tướng, nhớ không?

- Để đó! Đáo lạc tính theo đáo lạc. Cờ tính theo cờ. Tôi đánh cờ tướng quá dở. Nếu gặp cờ gánh hoặc cờ chó, tôi hạ anh sát ván. Tụi mình còn ở không ăn chơi nhiều ngày mà. Mai hãy tính.

Hai người đàn ông giải tán cuộc chơi, chạy ngang cửa. Lão hút điếu thuốc thứ nhì, phun khói rồi thở dài:

- Ngao ngán quá!

Tôi hỏi:

- Ngao ngán nỗi gì? Vài năm nữa, thế nào cũng hết giặc. Nhưng tại sao họ giỡn hoài như vậy hả bác! Rồi họ lấy gì làm tiền mà mua gạo hàng bữa? Hăng hái lên mới được chớ!

- Ở tỉnh nhỏ khó kiếm công việc làm. Lóng trước họ vác lúa cho nhà máy Tư Đài. Bây giờ cặp rằng bảo họ tạm nghỉ, chừng có việc làm hãy hay. Họ mới bắt đầu chơi giỡn từ nửa tháng nay, cam phần giữ nhà để cho vợ đi mua bán tần tảo. Hồi mới nghỉ việc, họ siêng năng bươn bả, tối ngày trông mong kiếm sở làm. Tối về, họ khuyên vợ con nên tiện tặn rút bớt việc chi tiêu.

"Nhưng thầy ơi! Có giỏi cắn hột muối ra làm hai làm ba, hoặc làm tư thì lụi hụi hai ngày hoặc bốn ngày cũng ăn hết hột muối. Tiết kiệm nỗi gì! Rầy rà khuyên răn vợ con làm gì? Điều quan trọng là làm sao tạo thêm năm mười hột muối... Tôi thấy vợ con họ bây giờ giống như mấy bà hồi xưa thắt lưng buộc bụng, gánh gạo đường xa để nuôi mấy 'ông đồ' cho dài lưng tốn vải. Thôi! Đèn nhà ai nấy sáng. Thầy làm thơ đăng báo, còn có ngày bay nhảy xa xuôi tới Sài Gòn, Chợ Lớn. Phần tôi thì nói thơ Vân Tiên chờ ngày về xứ như họ. Chán ngán quá!"

- Xin lỗi, quê quán của bác ở đâu?

Ngần ngại lắm tôi mới dám hở môi hỏi ông Tư Hiếm một câu mất lịch sự như vậy. Quân đội viễn chinh Pháp còn đồn trú khá nhiều tại chợ Rạch Giá. Nhiều người từ thôn quê tản cư ra chợ, họ giấu giếm tên tuổi, họ hàng và quê quán vì lý do này hoặc lý do khác.

Ông Tư Hiếm mỉm cười:

- Tôi xin giấy "lách xê" rồi. Tôi ở làng Mỹ Lâm.

- Gần núi Ba Thê?

- Sao thầy biết?

- Tôi thấy trên bản đồ. Hồi xưa đi dạo Hà Tiên, tôi có qua ngang đó. Xứ coi bộ buồn quá. Bùn lầy nê địa...

- Nhưng là xứ lâu đời! Nhà tôi ở xóm Mốp Giăng. Cây mốp mọc giăng ngang xanh um, tứ thời mát mẻ, đào xuống đất là gặp mạch nước ngọt. Hàng cây mốp thiên niên đó chính là bờ biển ngày xưa. Bây giờ cày ruộng lâu lâu người ta gặp tượng Phật bằng đá, hột chuỗi hổ phách, chén đá, lưỡi tầm sét hoặc chiếc ghe biển có chèo, cột buồm, đặc biệt là dây đỏi ghe, sợi lớn hơn cườm tay, mục như bùn nhưng còn thấy từng thớ gai xe lại... Người ta nói hồi ngàn năm trước, xóm tôi vui như chợ Rạch Giá bây giờ: cũng ở sát mé biển, tàu bè tứ xứ ra vào mua bán tấp nập. Rồi gặp thiên tai đại họa gì đó, bãi biển bồi lan ra xa, năm này qua năm khác hơn chục cây số.

Tôi phụ họa vào để kéo dài câu chuyện, chờ buổi cơm trưa:

- Đại khái, xóm Mốp Giăng của bác văn minh hơn chợ Rạch Giá ngày nay. Nó ở sát mé biển. Ngặt vì năm tháng trôi qua...

Ông Tư Hiếm đắc ý, vói lấy ống điếu kê xuống ván nhồi thuốc rồi trở bộ xếp bằng, đánh diêm quẹt:

- Bãi biển hóa ruộng dâu... Chừng vài trăm năm nữa, đất bồi lấp cái eo biển sau lưng mình, nối liền đường bộ ra tới ngoài Hòn Tre kia.

Thật ra, tôi ít tin tưởng vào những dự tưởng như vậy. Hồi cuối thế kỷ thứ XIX, nhiều thuyền trưởng Pháp đã tiên đoán thế nào rồi đây mũi Cà Mau cũng nối liền tới Côn Nôn, Tân Gia Ba, căn cứ vào số lượng đất phù sa do sông Cửu Long tuôn ra biển. Nhưng đến nay, chưa xảy ra điều gì quan trọng về mặt địa lý.

Tôi đáp:

- Cách đây tám mươi năm, ông Nguyễn Trung Trực đổ bộ ngay chỗ xóm mình để đánh đồn Kiên Giang. Từ đó tới giờ, dường như đất chưa bồi ra thêm được mấy thước. Biển vẫn còn là biển, thưa bác.

Lão Tư Hiếm cười khì:

- Nhưng đất vẫn bồi. Xứ mình như vậy đó. Nếu trời đất không bồi thì mình bồi để mà sống. Thầy chưa hay rằng...

Lão tạm ngưng câu nói. Tôi nhìn dáo dác, e rằng lão muốn ám chỉ chuyện "quốc sự", "vá trời lấp biển" kháng Pháp. Nhưng lão gật gù:

- Xóm Biển của mình đây hồi năm ngoái còn là bãi bùn; cây bần, cây vẹt mọc um tùm. Tuy sát bên chợ nhưng ban đêm vẫn nghe tiếng âm binh kêu rú, Mới hôm qua, một cái xác chết trôi tấp vô, thối om rã xương mà ông Cò chẳng thèm hay biết.

Bỗng nhiên, phía trước nhà tôi, dường như thấp thoáng bóng người trạm đưa thư. Tôi phập phồng, liên tưởng đến số tiền nhuận bút của nhà báo từ Sài Gòn gởi xuống, theo địa chỉ.

Tôi đứng dậy nói vói lại:

- Có ai kiếm tôi kia... À, chắc ông Cò biết chuyện thây ma chết trôi đó chớ, nhưng ổng bỏ qua. Ở bót mé sông, hằng đêm Tây giết người rồi thả xuống.

Lão Tư Hiếm giựt mình:

- Điều đó, tôi nghe dân chài lưới nói lại chớ tôi nào dám đề quyết, vu oan cho Tây... Thôi, thầy về ăn cơm hả? Đừng nhắc tới nhắc lui chuyện đó cho người khác nghe, tội nghiệp tôi. Tôi đâu dám kích bác ai... Nói mà nghe vậy thôi.

 

Ngồi trong quán cà phê tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ: 11 giờ thiếu 25, rồi mở bốp ra, đem bức thơ đọc lại, vừa vui sướng, vừa hồi hộp:

Kính gởi thi sĩ Hoài Hương,

Hân hạnh được thưởng thức tài nghệ của ông qua những vần thơ điêu luyện trên tuần báo X. Thấy địa chỉ của ông đăng ở cuối bài thơ Một trăm thiếu một, tôi vội vã viết thơ này, hy vọng nó sẽ đến tận tay ông. Mong ông nhín chút thời giờ đến biệt xá của tôi, số 23 đường Mé Sông vào khoảng 11 giờ sáng, trong tuần này càng sớm càng hay vì vợ chồng tôi đang có việc cần ông hợp tác về mặt văn nghệ. Xin ông chớ từ chối.

Ông Bà Henri Nguyễn văn Nhan.

Kim đồng hồ chỉ 11 giờ thiếu 15. Tôi nghĩ thầm: "Mình lên đường là vừa". Từ quán cà phê đến nhà ông Henri Nguyễn văn Nhan, khoảng đường dài chừng hơn năm trăm thước. Đến đấy quá trễ, e ông bà hiểu lầm cho tôi lập dị hoặc thiếu đứng đắn. Đến quá sớm, biết đâu họ đánh giá tôi quá thấp. Tôi rảo bước, con đường quá quen thuộc, hơn nữa hồi hôm qua tôi đã tìm biết rõ số 23 đường Mé Sông này một lần rồi. Một ngôi biệt thự, xung quanh có sân rộng. Điều đáng chú ý: cách đó chừng bốn căn nhà là tới đồn Pháp, đa số gồm lính Lê dương, canh gác cẩn thận. Ít ai dám đi ngang qua cái đồn Lê dương nổi tiếng hung dữ ấy. Thời buổi loạn lạc, sống chết bất thường. Lính Lê dương đi tới lui, tốp ra chợ, tốp về đồn, mặt mày hầm hừ đỏ khé vì nắng, vì rượu. Tôi yên tâm hơn bao giờ hết, với tấm giấy "lách xê" trong túi và nhứt là với bức thơ của ông bà Henri Nhan, một tài liệu cho phép tôi bén mảng đến gần đồn vì lý do chánh đáng, theo lời mời của một nhân vật tăm tiếng có quốc tịch Pháp.

Tiên đoán những câu hỏi sắp tới của ông bà Henri Nhan, tôi chuẩn bị sẵn những câu trả lời. "Hợp tác về mặt văn nghệ". Mơ hồ quá, biết đâu ông bà muốn bỏ vốn ra để xuất bản thơ. Hoặc cùng hợp soạn một tuyển tập.

Nhìn kỹ tấm bảng ghi số 23 trước biệt thự, tôi mạnh dạn bấm chuông. Chị ở trong nhà chạy ra:

- Ông kiếm ai?

- Tôi muốn gặp mặt ông bà.

- Ông đi vắng rồi.

- Chị cứ nói có khách đến, chuyện cần.

- Dạ tôi không dám, hay là ông đợi lát nữa.

Tôi nhanh trí, đưa bức thơ hôm nọ và luôn cả phong bì cho chị ở:

- Chị mang vào cho bà. Tôi đứng chờ ngoài này.

Chị ở ngạc nhiên, vừa đi vừa liếc phong thơ đã xé. Chập sau, chị kéo nhẹ cánh cửa sắt:

- Mời ông vô.

Qua một cái sân khá rộng trải đá mịn, tôi đứng ngượng ngùng trước bực tam cấp. Phòng khách vắng hoe.

- Mời ông ngồi. Bà tôi lát nữa ra bây giờ.

Tiếng dép kéo nghe lẹp xẹp, ngày càng gần. Một thiếu phụ nhanh nhẹn khoát màn:

- À! Ông là Hoài Hương.

Tôi đứng dậy cúi đầu chào:

- Thưa phải...

- Ông cứ ngồi.

Ngồi xong, tôi cảm thấy lúng túng lạ thường vì bà chủ nhà vẫn đứng dựa lưng vào vách, bên khung cửa sổ. Tuổi bà trạc ba mươi, vóc dáng cao ráo, hai bàn tay ngón thuôn, móng thoa màu hồng dịu; cườm tay no tròn lộ ra thảnh thơi trong tay áo lụa quá rộng phủ xuống vừa khỏi cùi chỏ. Bà day lại, mỉm cười để lộ hai núm đồng tiền và một cái răng vàng:

- Nhà tôi vừa đi khỏi, chừng nửa giờ nữa mới về. Thôi, chắc ổng mừng lắm, ông đến đây thiệt hợp thời.

Chị ở bưng ra một tách nước trà hơi nguội. Bà nói tiếp:

- Ông cứ uống tự nhiên một mình. Chẳng mấy khi... thi sĩ đến nhà. Một thi sĩ hữu danh.

Tôi cúi mặt, đưa tay vói tách nước.

- À, này ông...

Giựt mình, tôi buông tay xuống. Cũng may tôi chưa nâng tách nước. Bằng không chắc chắn nó sẽ rơi xuống nền gạch bông quá bóng láng.

- Ông uống tự nhiên đi. Tôi đứng đây, luôn thể... chờ nhà tôi về. Tôi muốn nói điều gì bây giờ. À... quê quán của ông ở quận An Biên, nếu tôi không lầm.

Tôi trố mắt ngạc nhiên, phục thầm tài nhận xét của bà Henri:

- Dạ, sao bà biết? Hay là quê của bà...

Bà vội cướp lời tôi:

- Xin lỗi để tôi nói trước. Qua lời thơ của ông, tôi chú ý câu: "Mười con sông nhỏ song song, Chảy về một biển mà không giao đầu", tôi quả quyết ông là người Miệt Thứ, nơi có mười con rạch nhỏ, từ rạch Thứ Nhứt đến rạch Thứ Mười, giáp rừng Cán Gáo. Với lại "Lòng đất sục sôi, hoa trắng soi mình trong màu đỏ"! Mới nghe qua thì ghê rợn xương máu, nhắc nhở chiến tranh.

Tôi sượng sùng, toan thanh minh trường hợp "tình ngay lý gian" ấy. Nhưng bà Henri lại khéo biện hộ giùm tôi:

- Thật khiêm tốn, hiền lành, cái miền quê An Biên! Ông tả đúng quá. Đất xốp, mưa thấm xuống, cứ đào là gặp mạch nước chảy tuôn. Thứ nước chát, đỏ bầm vì nhuộm màu vỏ tràm, dây choại, dây dớn; bông trắng, màu bông cây tràm.

Bên đồn, lính Lê dương bỗng rộ lên cười hát ỏm tỏi... Tôi liếc qua cửa sổ bên trái: hai họng súng "ô buýt" vừa ló ra cách nhà chừng hai chục thước.

Bà chép miệng:

- Chừng này sao nhà tôi chưa về? Ông quan tư Ca Rê là bạn của nhà tôi. Họ đang uống rượu bên đồn. Ông ráng chờ vài phút. Tới giờ lính ăn cơm rồi. Ông Ca Rê học giỏi lắm, xuất thân trường Thuộc địa, rành về tâm lý các dân tộc Đông Phương, nhứt là Ấn Độ. Ổng thích tìm bạn Việt Nam... để điều tra thêm... Vì vậy, nhà tôi cần gặp một thi sĩ Việt Nam để tiếp tay.

Nỗi lo âu hiện lên. Tôi ngồi im, cố gắng che giấu sự thất vọng. Tâm lý các dân tộc Đông Phương, Ấn Độ, Việt Nam? Những môn mà tôi chưa từng chú ý. Ông bà Henri Nhan quả thật đã gõ lầm cửa khi biên thơ cho tôi. Chẳng khác nào ông bà xúi biểu một ngư ông ở đồng bằng đi săn cọp tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn! Những bức hoành phi cẩn xa cừ, cái lục bình cao hơn tám tấc ở bàn giữa, cái ghế bành lót nệm màu xanh dương, đôi chim hoàng yến treo ngoài cửa cái, không khí mát mẻ trong phòng khách, pho tượng Phật Quan Âm trên bàn thờ riêng biệt, tất cả như mai mỉa sự có mặt của tôi tại đây. Tôi toan đứng dậy, cáo từ bà chủ nhà để trở về gian nhà Xóm Biển rồi nằm trên bộ vạc tre, kê đầu lên chiếc gối bằng cây mốp, tìm nàng thơ đang đi lởn vởn bên cạnh những em bé bắt ruồi, hoặc lão Tư Hiếm với chiếc ống điếu cổ lỗ.

Bà chủ nhà nói nhanh:

- Ý mà quên! Nãy giờ tôi quên mời ông hút thuốc. Thuốc điếu, ống quẹt... ở trong cái hộp cây sơn mài trước mặt ông đó. Ông cứ tự tiện mở ra.

- Dạ tôi... không ghiền thuốc.

- Không ghiền thuốc, làm sao cảm hứng được? Kìa! Nhà tôi về.

Rồi bà đổi giọng, day ra ngoài cửa sổ:

- Ông có mượn giùm tôi mấy cuốn Paris Match đó hả? Nãy giờ, thi sĩ tới chờ đợi ông rã ruột.

Ông Henri Nguyễn văn Nhan bước nhanh vào:

- A! Chào thi sĩ.

Tuổi ông trạc năm mươi, da mặt hồng hào. Tuy mặc bộ quần áo kaki vàng nhưng chân ông mang dép săn-đan với đôi vớ trắng.

Ông bắt tay tôi rồi trao xấp báo cho bà vợ trẻ:

- Bà à, ông Còm-măn-đăn Ca Rê hứa giải quyết gấp cái "áp phe" điền đất của mình ở Mỹ Lâm. Báo thì tôi mượn về mấy tờ đây cho bà.

Bà vợ liếc xem ngay bức hình màu ngoài bìa báo, trả lời vắn ngủn:

- Ổng hứa từ mấy tháng rồi...

- Ậy, lần này tôi nói gắt với ổng. Ổng hứa sẽ thi hành gấp trong tuần này, với điều kiện là tôi giúp ổng tài liệu... Chẳng biết người mình kêu bằng cái gì... cái monographie vùng phụ cận núi Ba Thê, từ khi người Pháp mới sang và những phong tục hồi xưa còn sót lại trong dân chúng.

Day qua tôi, ông tiếp:

- Ông giúp tôi phần ấy được chớ! Viết bằng chữ Việt Nam để tôi căn cứ vào đó dịch ra chữ Pháp. Văn chương của ông được đăng báo. Theo ý kiến của nhà tôi thì ông thuộc vào hàng trên mức trung bình. Nhà cửa, quê quán ông ở đâu? Học lực tới lớp nào? Từ mấy năm nay ông đã làm gì?

Cơn giận lại nổi lên ngấm ngầm. Tay tôi hơi run run. Tôi quên rằng thời chiến tranh mỗi chủ nhân cần điều tra lý lịch của bất cứ người làm công nào, nhứt là trường hợp ngôi nhà của chủ lại ở sát đồn bót. Tôi đứng dậy, nói lập vập:

- Thưa ông, tôi chưa từng soạn thảo những quyển địa phương chí lần nào cả. Viết tổng quát về lịch sử, địa lý, thói ăn nết ở, nguồn lợi kinh tế của một vùng... tưởng việc ấy dành riêng cho những nhà chuyên môn, học cao hơn. Rất tiếc vì tài mọn, tôi khó làm vừa lòng được. Xin...

Mấy tiếng "kiếu từ ông" chưa thốt ra khỏi miệng tôi là ông Henri Nhan đã chận ngay:

- Đừng ngại, chuyện cần gấp lắm. Tôi sẽ chỉ biểu rành mạch đầu đuôi gốc ngọn tất cả công việc; ông cứ noi theo lời tôi mà thi hành. Tôi đã trình bày với ông quan tư Ca Rê: Lịch sử vùng Mỹ Lâm tức là lịch sử của tôi! Tôi ra công khai phá vùng ấy hơn ba chục năm trường, lập đình chùa, làng xóm. Tôi hiểu từng cọng cỏ. Tôi đã gặp nhiều di tích xưa, trước khi người Pháp đến đào xới kho tàng Óc Eo ở núi Ba Thê mà họ cho rằng quan trọng, đánh dấu sự gặp gỡ với Tây Phương từ đời Thượng cổ ở Đông Nam Á. Chung qui công việc mà ông thi sĩ sắp làm chỉ là viết tiểu sử của tôi, theo kiểu tiểu sử các bực danh nhân, công thần trong quốc sử.

Tôi giữ thái độ im lặng mặc dầu tôi biết lão Tư Hiếm có thể giúp tôi nhiều tài liệu về phần đất ở Mỹ Lâm. Nhưng tôi cố tìm lời lẽ để rút lui vĩnh viễn, thề chẳng bao giờ đặt bước trở lại căn nhà khó thở này. Bà Henri Nhan như nóng nảy, nháy mắt, khoát nhẹ bàn tay búp măng, ra dấu hiệu bảo tôi cứ gật đầu.

Tôi đáp:

- Thưa ông, tôi suy nghĩ lại, trả lời sau.

Bà Henri Nhan cười giòn, bước tới vịn vai chồng:

- Dường như thi sĩ đồng ý rồi đó. Thôi bây giờ cũng đã trưa, để ông ấy về nghỉ rồi sáng mai trở lại nhận việc.

Ông Henri Nhan lẩm bẩm, nhìn tôi:

- Được, tôi nhức hai bàn chân quá. Chịu phiền nghe ông bạn. Tối nay tôi thảo kế hoạch để công việc tiến hành gấp rút. Tâm lý người Âu Châu... kỳ lắm.

Ông ta vào phòng.

Tôi đứng dậy, cúi đầu chào bà chủ. Bà đi trước.

- Để tôi mở cổng cho ông về.

Tiễn tôi đến khỏi bực tam cấp, bà nói khẽ:

- Công việc chẳng long trọng, to tát như ổng nói đâu! Cứ nhận lãnh đi, ông đừng quá khiêm tốn. Ban nãy, dường như ông hơi phật ý.

Cơn buồn giận của tôi đã bắt đầu dịu xuống:

- Dạ, tôi đâu dám phiền ai.

- Một hai ổng muốn trở về điền đất cũ ở Mỹ Lâm. Thật là khuấy nước giỡn trăng! Tôi khuyên ổng nên bỏ hết, vợ chồng đi lên Sài Gòn tìm huê lợi khác. Rầu quá. À, ban nãy tôi quên hỏi...

- Thưa bà...

- Ông ở Miệt Thứ, thuộc xóm nào? Chú ruột tôi là ông hội đồng X, chắc ông biết.

- Dạ ông hội đồng là bạn của ông dượng tôi.

Bà Henri tiếp:

- Tôi ít về quê lắm. Đi học Sài Gòn từ nhỏ tới lớn.

Đến cổng rào, bà kéo nhẹ cánh cửa sắt, đứng nép một bên, sờ vào túi:

- Đây, tôi gởi sở phí ông về xe. Ngày mai nhớ trở lại nghe. Chừng một tuần lễ thôi. Về tiền bạc, tôi lo liệu để ông được bề rộng rãi.

Tôi lưỡng lự hồi lâu. Bà mỉm cười, trao tấm giấy một trăm đồng tận tay tôi. Tôi nói bẽn lẽn:

- Cám ơn bà.

Bà từ từ khép cổng rồi nở nụ cười thành thật:

- Nhớ trở lại, dịp may cho ông đó. Đừng buồn điều gì ráo!

 

 

 

 

 

Đến chiều hôm ấy, tấm giấy một trăm đã tan manh mún, chỉ còn chừng mươi đồng: năm chục đồng đền ơn cho bà chủ nhà, mười đồng gói thuốc thơm, mười đồng mớ thuốc Gò Vấp. Và tôi xài linh tinh. Giấy trắng, mực, viết chì tôi mua dự trữ sẵn để dành làm thơ. Hơi gió biển thổi mát rười rượi. Tôi hút thuốc, tưởng đến dung nhan quý phái của bà Henri Nhan. Hồi còn ở quê nhà, cha tôi nhiều lần nhắc đến ông hội đồng X. mà bà chủ Nhan bảo là chú ruột. Tôi tin rằng bà không nói dối. Cha tôi thuật lại: Ông hội đồng X. ăn xài sang trọng như Tây, phòng khách của ông trưng bày nhiều thứ lạ, thí dụ như pho tượng cẩm thạch tạc kiểu người đàn bà khỏa thân đang giương cung bắn con nai, hoặc chàng lực sĩ Tây Phương đánh sư tử; ông hội đồng gởi thơ qua tận bên Pháp mua một cái đồng hồ đặc biệt, cứ đúng mười lăm phút một đứa bé bằng đồng bước ra cầm dùi nhỏ, gõ tự động vào cái chuông. Tóm lại, những kỳ quan - so với cách sống của đa số điền chủ quê mùa khác ở vùng U Minh. Ông nhận một đứa cháu gái đem về làm con nuôi. Cô này nghe đâu học ở Sài Gòn, sau khi rời nhà trường về chợ Cần Thơ, kết nhân tình với một ông y khoa bác sĩ trẻ tuổi. Rồi cuộc hôn nhơn bất thành, ông bác sĩ tự tử bằng thuốc ngủ. Phải chăng vì lẽ ấy mà cô ta chẳng muốn nói rõ lý lịch cho tôi nghe? Và cuộc gặp gỡ giữa cô ta với ông Henri Nhan chỉ là do tình thế loạn lạc đưa đẩy?

Tôi qua nhà lão Tư Hiếm. Lão lồm cồm ngồi dậy, quét bộ ván.

- Hồi sáng thầy đi đâu quá sớm?

- Sao bác biết?

- Thì tôi qua mời thầy uống rượu, chẳng gặp ai.

Nghĩ rằng trước sau gì mình cũng cần nói thật với lão, tôi bắt đầu vào chuyện:

- Số là vợ chồng ông chủ Henri Nhan đọc báo thấy mấy bài thơ của tôi, ổng bả hâm mộ tài nghệ, mời tôi tới, nhờ vài việc.

Lão Hiếm sửng sốt:

- À, ông chủ Nhan, đại điền chủ ở Mỹ Lâm phải không?

- Dạ phải.

- Ổng nhờ thầy làm công việc gì?

- Ổng muốn tôi viết lại những sự tích ngày xưa ở Mỹ Lâm, để... in thành sách cho quan Tây đọc chơi. Ổng kể câu chuyện, tôi viết lại cho có đầu có đuôi.

- Thầy nhận lời chưa?

- Chưa dứt khoát. Tôi muốn nhờ những người sống cố cựu ở Mỹ Lâm như bác giúp tôi tài liệu. Nhà bác hồi xưa chắc ở trong điền ổng?

Đôi mắt lão Tư Hiếm mấp máy. Lão gãi đầu rồi vói tay vào vách, tìm cái ống điếu... Sự bối rối hiện rõ rệt quá! Ngón tay của lão cầm que diêm, run run châm đôi ba lần mà vẫn không cháy điếu thuốc. Đóm lửa tắt. Lão đánh cây diêm thứ nhì, cố nín hơn hồi lâu rồi mới kéo thẳng một hơi, nhưng đứt đoạn.

- Ruộng ổng cò bay thẳng kiếng, trên ba ngàn mẫu. Tôi ở đất ổng trên bốn chục năm. Tá điền ổng hồi xưa trên hai trăm gia đình. Bây giờ còn chừng hai chục, phần lớn thất lạc như tôi đây chẳng hạn.

Ngừng một chập, ông nói nhỏ:

- Ổng có hỏi tên tôi không? Bà vợ của ổng hiền lắm. Vợ chấp nối.

Tôi hơi ngạc nhiên:

- Ổng nào biết bác ở Xóm Biển gần nhà tôi.

- May lắm. Giữa tôi với ổng, tôi muốn đừng ai nhắc tới tên ai nữa. Tôi già rồi. Tôi chẳng thiếu nợ ổng đồng bạc nào, hột lúa nào. Tôi chẳng hề ở ác với ổng. Quê xứ tôi buồn lắm. Ai làm ruộng đâu mà góp lúa ruộng? Nhà binh Tây chê xứ tôi, chẳng thèm đóng đồn bót. Mấy "ông" Việt Minh thì ở đâu xa xa. Tận trong núi Ba Thê.

- Hồi nãy bác nói còn chừng hai chục gia đình tại đó.

- Thì họ ở lấy lệ nhưng suốt ngày ra đồng sống bằng nghề khác như hái lá sen, bắt ốc, câu cá, gài bẫy chim chớ đâu làm ruộng như xưa. Để tôi nhớ coi... chắc chắn là mười sáu gia đình, trong đó có gia đình một bà già mù, một gia đình cùi. Nghĩa là còn mười bốn. Với một cái miễu thờ Chúa Ngung, Ma Nương.

- Chúa Ngung, Ma Nương là vị thần gì? Tôi ít nghe nói tới.

- À, điều đó ông chủ Nhan rành hơn tôi, ổng bày ra cái miễu đó. Thôi để thầy ngủ sớm, sáng mai đi làm.

Tôi lững thững ra cửa, hơi buồn vì lão dường như muốn đuổi khách. Lão bước xuống bộ ván, gọi theo giọng nhỏ rí:

- Xin lỗi thầy... tôi muốn...

Vì tôn kính người lớn tuổi, tôi vui vẻ trở lại, lão lẩm bẩm:

- Đối với chủ Nhan, thầy nên cẩn thận trong công việc làm. Nhứt là đừng bao giờ nói có bất cứ người tá điền nào của ổng ở xóm này. Tội nghiệp tôi.

- Bác khỏi lo. Tôi hứa điều đó. Tối mai tôi qua gặp bác. Tôi chỉ muốn làm thơ. Thời buổi giặc giã...

Đêm ấy, tôi lại suy nghĩ liên miên. Thái độ lão Tư Hiếm làm cho tôi ái ngại. Dường như lão quá sợ. lần thứ nhứt lão nài nỉ tôi đừng tiết lộ chuyện lão nói xấu Tây. Phen này, lão hốt hoảng khi nghe đến chuyện ông đại điền chủ Henri Nhan muốn sưu tầm chuyện cổ tích. Nỗi lo sợ đó thật khó hiểu. Trong phút giây, tôi muốn từ khước công việc làm mà ông Henri Nhan sắp giao phó. Nhưng tôi cần tiền, chẳng lẽ tôi bắt buộc ông chủ nhà phải nai lưng đạp xe ba bánh từ tháng này qua tháng kia để nuôi dưỡng một thanh niên tay chân đầy đủ như tôi. Nàng Thơ sống chẳng cần cơm áo, nhưng muốn tao ngộ với nàng, kẻ phàm tục cần sống nhiều năm bằng cơm áo tối thiểu để chờ đợi phút giao cảm, ngàn năm một thuở. Hơn nữa, tôi tin tưởng nơi bản chất hiền hòa và sự ân cần của bà Henri. Khách yêu thơ chẳng lẽ nhẫn tâm giết thi sĩ! Trên con đường tranh danh đoạt lợi, bà ta chẳng cần đạp lên trên xác chết của tôi và xác chết của lão Tư Hiếm mà làm gì.

Mặt trời mọc cao hơn một sào khi tôi giựt mình thức dậy.

Đằng kia lão Tư Hiếm đi tới lui trong ngõ hẻm như ngóng chờ tôi. Thay quần áo xong, tôi hối hả lên đường, sợ trễ mặc dầu hồi sáng hôm qua bà Henri Nhan chưa nói rõ giờ khắc làm việc. Lão Tư Hiếm tằng hắng rồi ho lớn. Tôi đến bên lão để trấn an:

- Tôi hứa chắc mà, bác vững bụng đi. Bác cũng đừng cho chòm xóm biết tôi có công việc làm tại nhà ông ấy. Ngày hôm qua, tôi nói dối chủ nhà rằng tôi mới lãnh chút ít tiền của nhà báo từ Sài Gòn gởi xuống. Chưa chắc ông Henri mướn tôi làm việc lâu ngày đâu! Không chừng lát nữa ông ta đuổi tôi. Sáng nay, tôi như người đi dạo mát để giết thì giờ.

Lão gật đầu, mỉm cười:

- Đâu phải vậy. Thầy gặp cơ hội tiến thân, tôi mừng, cầu chúc thầy gặp may mắn, tiền bạc khá giả chớ! Tôi nào dám ngăn cản thầy.

Lại một sự hiểu lầm nữa. Hết sợ ông cò Tây, lão sợ ông Henri Nhan rồi giờ đây lão sợ đến tôi. Chẳng lẽ đứng lì ở đây để thanh minh một trường hợp chưa rõ rệt? Tôi lại kiếu từ, đi phăng phăng đến đường Mé Sông.

Lần này chị ở nhanh nhẹn mở cổng, dẫn tôi đi thẳng vào dãy hành lang khá rộng nối liền biệt thự xuống nhà bếp.

Bà Henri Nhan ngồi dựa lưng trên chiếc ghế mây, nhìn tôi nhưng tay vẫn nâng tờ báo.

- À, chào ông, ông làm việc tại chỗ này cho mát mẻ. Chị ở châm cà phê đem lên bây giờ. Nè ông, kỳ này báo Paris Match hay quá.

- Dạ, tin tức mới mẻ về chiến sự Việt Nam, thưa bà.

- Tôi ghét giặc giã lắm. Dầu là phim hát bóng nói về giặc giã. Tôi chú ý điều khác vui vẻ hơn... Vợ chồng quận chúa Anh Quốc rủ nhau hưởng tuần trăng mật tận giữa rừng già Nam Phi Châu, nơi loài người chưa đặt chân đến lần nào. Một vị tù trưởng nọ huy động dân bổn xứ xây cất một cái "thum" khá to cheo leo trên ngọn cây. Trong "thum" sắp đặt một cái giường nệm, bàn uống rượu, máy thâu thanh, máy hát và tư bề có giăng lưới mành mành để ngăn cản lũ muỗi sốt rét tsé-tsé... Thổ dân đem vài con ngựa rằn, buộc vào chân cây để làm mồi. Tối đến dưới ánh trăng rằm, vợ chồng quận chúa uống rượu, vặn máy hát nghe hòa âm Beethoven, thỉnh thoảng liếc mắt xuống chân cây ngắm từng cặp sư tử đang gào thét để tranh nhau ăn thịt ngựa rằn. Đêm về khuya, bọn sư tử vẫn còn nằm đó mơ màng. Có lẽ chúng nó say mê âm hưởng nhạc cổ điển hồi thế kỷ mười tám của Beethoven. Phóng viên nhà báo đã săn được những bức ảnh ly kỳ ấy, ghi chú là "Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu".

Ly cà phê đã mang đến. Bà mời tôi rồi nói tiếp:

- Bà quận chúa năm nay bốn mươi tuổi mà trẻ măng như minh tinh màn bạc. Bà có tật thích ăn nho tươi, thứ nho đen trồng tại Tây Ban Nha. Bà quận chúa cười, lộ hai núm đồng tiền... rõ ràng.

Tôi vừa nghiêng đầu tới phía trước cho gần trang báo hơn, chợt nghe chị ở nói:

- Thưa ông, ông tôi mời ông nói chuyện riêng.

Bị giựt mình vì lối xưng hô bất lợi ấy, tôi nghiêm mặt, nói với chị ở:

- Chị cứ gọi tôi bằng "thầy" cho tiện. Tôi làm công như chị chớ đâu phải làm chủ mà kêu tôi bằng ông.

Bà Henri Nhan thấm ý, cười mủm mỉm:

- Ông thi sĩ ưa thắc mắc quá. Ừ, ông vào trong phòng xem nhà tôi nói gì.

Bấy giờ tôi mới hiểu cái tật mang vớ kinh niên của ông Henri Nhan. Ông ta thú nhận mắc bệnh tê thấp từ hơn mười năm, rồi than phiền thời vận nước nhà, nhân tình thế thái, người Pháp chưa hiểu rõ hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ông cố gắng tranh đấu tới cùng để giữ... "thể diện dân tộc".

- Ông thi sĩ hãy noi theo khuôn mẫu quyển sách này, đọc kỹ dàn bài. Còn đây, miếng giấy nhỏ tôi ghi chú ngày sanh tháng đẻ, bước đường lập thân tiến thủ của tôi lúc nhỏ. Ông ra ngoài bàn, thảo vài trương, lát nữa trình cho tôi xem.

Thật là mệt trí, khó xử. Suy nghĩ hơn mười phút rồi mà trí óc của tôi ngày càng tối om. Quyển tiểu sử làm mẫu nọ nhan đề "Từ Dũ Hoàng Thái Hậu truyện" của Nguyễn Liên Phong, phụng lược dịch, do nhà F.H. Schneider in từ năm 1913. Bìa sách trình bày lối xưa có hai con rồng chầu; hai câu đối được ấn công sắp từng chữ, từ trên xuống dưới theo kiểu viết liễn:

Cội nền vững chắc, nước Nam Việt trường xuân

Tánh nết hiền lành. Phật Quan Âm tái thế.

Trước khi vào bài, người biên soạn đã sắp xếp một loạt năm sáu bài tựa, viết theo lối biền ngẫu.

Bà Henri nói nhanh:

- Để ông làm việc. Ông nhái theo sách xưa cho êm chuyện. Đừng suy nghĩ nhiều mất công. Cứ viết đại cho vừa lòng ổng. Ông thấy thế nào?

- Dạ, làm sao so sánh công đức của ông nhà với bà Từ Dũ được? Bà Từ Dũ, mẹ của vua Thiệu Trị, đã dạy vua Tự Đức trở thành đấng minh quân. Vả lại, tiểu sử của đàn bà khác với tiểu sử của đàn ông, thời xưa khác với thời nay.

- Ông cứ liệu chừng vậy; theo ý kiến riêng của tôi, đàn ông đàn bà đều như nhau, bất luận xưa hay nay. Đàn bà lần lần giống như đàn ông, đàn ông lại giống như đàn bà về thói ăn nết ở, công danh sự nghiệp. Xã hội ngày một tiến mà. Ông tùy ý.

Nói xong, bà Henri lên phòng khách. Tôi ngồi trơ trẽn một mình, nhìn lơ đãng ra ngoài vòng rào bên kia. Vẫn hai cái họng súng đen ngòm; vài tên lính Lê dương tới lui. Nhưng tiếng ho sù sụ trong phòng nhắc nhở tôi trở lại nhiệm vụ. Chắc chắn ông Henri Nhan đang nóng lòng chờ đợi. Tôi căn cứ vào mớ tài liệu của ông, cúi đầu viết thao thao lấy lệ.

- Xong rồi chớ?

Tôi day lại:

- Thưa ông, chưa xong hẳn. Mới viết tạm vài trang để chờ ông sửa lại.

Ông Henri ngồi xuống chiếc ghế bành bằng mây, châm điếu thuốc:

- Cứ đọc nghe thử.

Tôi lần lượt trình bày:

- Quyển sách sẽ lấy nhan đề "Mỹ Lâm nhân vật: Ông Henri Nguyễn văn Nhan" mở ngoặc: 1897 đến năm... chấm, chấm, chấm... đóng ngoặc lại (1897...) Vì ông vẫn còn sống.

Ông Henri hé nụ cười:

- Đắc co!

- Mở đầu ở trang 5, tôi dẫn hai câu châm ngôn: Muốn là được (Vouloir c'est pouvoir) và "Người đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi".

- Hay lắm. Một câu Pháp, một câu Việt Nam. Tây Phương và Đông Phương hòa hợp với nhau. Ông ghi rõ câu trên của Victor Hugo, câu dưới là ca dao thuần túy Việt Nam.

- Phía trước hai câu này, thưa ông, tôi muốn để hai trang trắng dành cho người đề tựa.

- Được quá, danh dự đề tựa ấy tôi xin trao cho quan tư Ca Rê.

- Và đây, phần tiểu sử: Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh vào ngày... tháng... âm lịch Ất Dậu... tính dương lịch nhằm mười sáu Avril năm một ngàn tám trăm chín mươi bảy. Thân phụ của ông là Nguyễn văn Mổ ở làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam vào lập nghiệp ở Bình Dương (Gia Định) kết hôn cùng bà Vương thị X., rồi hạ sanh ông tại Tân Lộc Thôn, nay đường X, Sài Gòn.

Vì cha mẹ đều qua đời quá sớm, năm chín tuổi ông được người cô đem về làm dưỡng tử cho học chữ nho. Năm ông mười hai tuổi cô đến Cần Thơ mua bán, ông vào tiếp tục học trường bổn quốc Cần Thơ đến năm thứ hai ban Trung học...

Bàn tay ông Henri Nhan khoát nhẹ, ra dấu bảo cho tôi ngưng lời. Thật ra trang giấy cũng chẳng còn chữ nào mà đọc; ông lắc đầu, cau có:

- Chưa được! Về quê quán và trường hợp vào đất Gia Định của cha mẹ tôi, ông thi sĩ hãy tự ý tô điểm thêm, rồi nói rõ: vì lý do yêu nước, chống Pháp hồi thế kỷ vừa qua. Người Pháp bây giờ muốn làm bạn và nâng đỡ những người Việt Nam thuộc dòng máu khẳng khái đã dám chống đối họ trong quá khứ... Hơn nữa, lúc đi học, tôi phải tỏ ra thông minh hơn các bạn đồng môn. Và tôi phải bỏ học nửa chừng vì lý do làm quốc sự, cho "ngon" một chút!

Tôi lộ vẻ ngạc nhiên:

- Thưa ông, như vậy e phật ý nhà cầm quyền Pháp. Rủi bề gì ông còn có người che chở; riêng tôi thì mang vạ lây. Ông hồi đó theo gương chí sĩ nào?

- Thi sĩ này ngớ ngẩn quá! Cứ viết rằng tôi chống Pháp hồi năm một ngàn chín trăm hai mươi sáu gì đó theo tài liệu lịch sử cách mạng Việt Nam.. để ông quan tư Ca Rê hãnh diện. Còn bây giờ, đối với quân đội Pháp, sau Đệ nhị Thế chiến...

Có người bấm chuông ngoài cửa. Chị ở mang vào tấm danh thiếp. Ông Henri lập tức đứng dậy, nói vói lại:

- Tôi qua ông quan tư Ca Rê có việc cần. Cái "áp phe" ở điền Mỹ Lâm của tôi sẽ thành công trong vài ngày. Để nhà tôi đến chỉ dạy ông thêm. Nhớ viết gấp lên. Phần thứ nhì của đời tôi mới là quan trọng, quyết định. Nãy giờ, chỉ mới là cái phần giáo đầu tuồng... Ông phải cố gắng, tranh thủ thời giờ.

Từ nhà trên, bà Henri trở xuống mân mê tờ báo Pháp:

- Công việc tiến hành như vậy được chớ! Ông thi sĩ đừng cãi với nhà tôi làm gì. Ban nãy, dường như ông thi sĩ cãi một đôi lần. Nguy lắm. Nhà tôi chẳng bao giờ chịu nhìn nhận rằng mình kém thông minh hơn một kẻ khác. Ông thi sĩ chớ nên nói câu nào đá động tới vấn đề chánh trị, rủi nhà tôi vui miệng rồi tên tuổi của ông lại thấu tai nhà binh Tây. À, trưa rồi, ông cứ về nhà viết tô đậm thêm, khen ngợi... cho ổng xong cái "áp phe". Tôi nhức đầu lắm.

Gương mặt khổ sở, dằn vặt của lão Tư Hiếm đột nhiên hiện ra. Tôi linh cảm mơ hồ rằng cái "áp phe" này khá rắc rối. Các ông đại điền chủ thường núp oai của nhà binh Pháp để bảo vệ cái tài sản "cò bay thẳng kiếng" của họ. Tuy không sống bằng nghề nông, tôi vẫn cảm thông mơ màng với nguyện vọng "có đất cặm dùi" chánh đáng của nông dân. Biết đâu tôi sẽ tìm thêm nhiều thi tứ mới: những cô thôn nữ tươi vui hơn, những con trâu tơ mập mạp hơn... Nhưng khó hiểu quá! Đứng về quyền lợi thực tế mà xét, nếu tá điền ở Mỹ Lâm đều tản lạc, còn chừng mười lăm gia đình - theo lời lão Tư Hiếm - thì ông Henri Nguyễn văn Nhan vận động với nhà binh Pháp để hưởng huê lợi gì. Thừa lúc bà Henri Nhan lơ đãng, tôi giả vờ hỏi, vô tình:

- Thưa bà, ở Mỹ Lâm bây giờ chắc sung túc lắm?

Bà cười giòn:

- "Khỉ ho cò gáy" chớ sung túc! Còn một cái miễu thờ một pho tượng đá, ông chúa bà chúa gì đó. Ruộng bỏ hoang đâu hồi năm ngoái năm kia. Ông quan tư Ca Rê muốn khảo cứu cái pho tượng đá xưa đó tại chỗ, luôn dịp sưu tầm phong tục dân chúng cũng tại chỗ cho xác thực, khoa học. Nhà tôi muốn nương cơ hội ấy xây dựng thanh thế, nhờ Tây đóng bót... cho tá điền biết mặt! Tôi can ổng hết lời. Thà đi Sài Gòn mua bán xuất nhập cảng gì đó làm giàu mau hơn, ít nguy hiểm hơn... Một đồng bạc Đông Dương ăn tới mười tám quan. Thôi ông về, viết theo ý của nhà tôi, nếu chiều nay trời mưa ông cứ viết tiếp phần sau. Đại khái, rời nhà trường, nhà tôi thấy vùng đất Mỹ Lâm, xóm Mốp Giăng còn âm u hoang dại, đầy chuột, đầy bưng sen, bưng bông súng... vân vân. Ông cứ tự do làm thơ ở phần đó.

Bà đứng dậy, trao cho tôi năm tấm giấy một trăm đồng rồi gọi chị ở mở cổng. Tôi lưỡng lự muốn trả bớt lại hai trăm, nghĩ thầm rằng lãnh tiền càng nhiều, lương tâm càng bức rức. Tôi liên tưởng đến những câu hỏi thăm dò của lão Tư Hiếm khi gặp mặt vào trưa nay. Gương mặt lão chắc chắn trở nên lo âu, bí hiểm với nụ cười gượng gạo, gợn chút gì mỉa mai rõ rệt.

- Ông muốn xem số báo này à? Báo bên Pháp gởi riêng cho ông quan tư. Tôi sẵn sàng cho mượn, ngặt bất tiện cho ông. Người lối xóm, họ dòm ngó. Cái xóm Biển, lô A của ông hẻo lánh quá, từ đây tới đó hơn một ngàn thước mà chẳng bao giờ tôi dám tới, bởi vậy hôm trước tôi phải gởi thơ cho ông theo đường bưu điện. Báo kỳ này hay lạ: "Nhạc Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu". Lá tử vi của ông bà quận chúa Ăng Lê tốt thật. Không hiểu họ sanh nhằm giờ nào, ngày nào, năm nào, cung nào? Phần tôi, hồi nhỏ đã có lần đem dĩa nhạc Beethoven hát inh ỏi ở Miệt Thứ, ở Mốp Giăng, giữa rừng tràm, muỗi mòng, khỉ, rắn, cá lóc... Tạm gọi là "Nhạc Beethoven ở U Minh, ở Mốp Giăng" được không ông thi sĩ?

 

 

 

 

 

... Hăm ba tháng Mười, mưa dại gió may

Ngoài khơi Hòn Tre, chiếc tàu tuần chạy tới lui qua lớp mưa thưa, màu cờ tam tài lu mờ chỉ còn hiện lên một đốm đỏ lợt lạt. Đoàn ghe lưới nằm lúc lắc trên bãi bùn, con mắt sơn trước mũi ghe trông phờ phạc như con mắt cá chết. Sóng đánh từng hàng dài trên mặt biển dâng cao, gợi hình ảnh những luống cày quanh sườn đồi... Trước khi tan vỡ trên bãi bùn, bọt sóng vung ra, rơi lấm tấm trên ngọn mấy cây bần đã bị ngập mất gốc mất cành.

Nhà của lão Tư Hiếm day mặt theo hướng gió xuôi, cửa cái vẫn mở; lão bắc ghế ngồi sát hàng ba, làn khói thuốc tuôn thoăn thoắt vươn mạnh lên bầu trời quá thấp.

Nhà của tôi bên này đâm ngang lưng gió, mưa hắt thỉnh thoảng đưa từng luồng ướt át. Tôi vói tay khép cửa lại. Chắc chắn lão thừa hiểu rằng tôi đã về nhà. Đúng ra, tôi phải đích thân đến gặp lão từ hồi trưa, liền sau khi rời khỏi nhà ông Henri Nhan. Nhưng gặp để nói chuyện gì? Kế hoạch trở về Mỹ Lâm của ông Henri Nhan chưa có gì rõ rệt, quan tư Ca Rê sẽ áp dụng chiến thuật nào? Vào ngày giờ nào? Tất cả thuộc về phạm vi bí mật quân sự. Biết chừng đâu quan tư Ca Rê hứa ẩu để làm vừa lòng một "nhân vật bổn xứ"; lực lượng Lê dương cần được sử dụng ở những trường hợp thiết yếu; "đại sự" hơn. Vả lại, lão Tư Hiếm chẳng còn tài sản nào ở Mỹ Lâm cả. Một mình lão tài nào chống nổi, nếu muốn chống lại.

Trận mưa dai dẳng bên ngoài đem tới cho tôi một duyên cớ để trì huỡn việc gặp mặt lão Tư Hiếm. Lật qua lật lại mấy trang giấy hồi sáng, tôi hút nối đuôi một lượt ba điếu thuốc rồi viết sạch sẽ cho xứng đáng với số tiền nhận trước năm trăm đồng.

"Ông Henri Nguyễn văn Nhan sanh ngày... năm... Thân phụ là cụ Nguyễn văn Mổ, người làng Đức Mỹ, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, đậu Cử nhân kỳ thi Ất Mão tại trường Tứ Quảng, sung Cẩm Y Vệ Thị Lang, sau thuyên chuyển vào đất Gia Định nhận chức Vệ úy trong cơ binh của quan Tổng đốc Nguyễn văn Mỗ. Nhơn thành Gia Định thất thủ, ngài Vệ úy treo ấn từ quan, ẩn sĩ qui điền không chịu hợp tác với tân trào, về mở trường dạy học tại Phú Cường, Bình Dương. Dịp này cụ sánh duyên cùng bà Vương Thị... hạ sanh được một đứa con trai duy nhất đặt tên là Nguyễn văn Nhan, tự Nhàn Vân, biệt hiệu Nhật Luân.

Lúc còn nhỏ, ông Nguyễn văn Nhan tỏ ra thông minh dĩnh ngộ hơn người, mới tám tuổi đã thuộc làu Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám. Trong hoàn cảnh mồ côi cha mẹ quá sớm, ông luôn luôn phấn đấu lập thân, tiết kiệm tiền ăn quà để mua sách vở cố theo chương trình sơ học tại tỉnh nhà (Bình Dương). Ông Đốc phủ sứ Trần văn M. bạn đồng môn của ông hồi xưa còn nhớ lại một giai thoại kỳ thú: Phen đó, thầy giáo bày cuộc thi thủ công, đầu đề: chiếc tàu thủy. Các học sinh được dịp trổ tài. Đứa này đóng tàu bằng giấy bồi, dùng keo dán mấy kẽ hở, cắt ống trúc làm ống khói. Đứa kia - con nhà khá giả - được cha dẫn ra tiệm bán sắt tây, bày kiểu cho thợ đóng tàu nhỏ bằng thiếc, trong tàu có bố trí cái nồi "sốt de" tí hon, khi đốt ngọn đèn cầy lên, nước sôi thổi hơi ra đẩy chiếc tàu tiến tới.

Ngày chấm thi, thầy giáo đặt một chậu nước khá rộng giữa sân. Chiếc tàu bằng giấy bồi lần lần chìm vì keo rã. Riêng chiếc tàu chạy bằng hơi nước đáng chú ý hơn hết nhưng các học sinh nhao nhao phản đối vì nó do người lớn tuổi chế tạo. Đến lượt ông Nguyễn văn Nhan trình bày chiếc tàu của mình. Thân tàu chỉ là một khúc cây mốp (gỗ nhẹ) tiện sơ sài. Thầy giáo phê phán: "Nó không chìm, nó được chính tay học sinh tạo nên nhưng nó không xê dịch được". Tức thì ông Nguyễn văn Nhan móc trong cái lon thiếc đem ra một con tôm còn sống nhăn. Ông cắm cái gai to lớn ở đầu con tôm vào phía sau lái tàu. Ai nấy trố mắt; chiếc tàu vừa thả xuống, tức thời con tôm nọ búng mình... mũi tàu phóng tới rẽ sóng, xắn vào vành cái thau, dội trở lại, chuyển qua hướng khác rồi vẫn xắn tới. Các học sinh vỗ tay, hò reo tán thưởng kiểu "tàu... con tôm", chạy máy tự động ấy. Thầy giáo phải mệt nhọc lắm mà không kéo các học sinh trở về vòng kỷ luật được. Quan đốc học hoảng hốt chạy tới, thay vì rầy la các học sinh, ông tìm cậu Nguyễn văn Nhan, khen ngợi nức nở: "Trò đây quả thật là ông trạng Lương Thế Vinh tái sanh. Ngày xưa Lương Thế Vinh lúc còn bé đã biết đổ nước xuống lỗ để đem trái bưởi lên. Ngày nay, trò sáng chế ra kiểu tàu... tự động này, tài trí đâu kém?".

Khi theo học năm thứ ba ban Cao tiểu, ông Nguyễn văn Nhan tuy thường được ghi tên vào bảng danh dự của toàn trường về đạo đức, về năng lực nhưng ông lại tỏ vẻ tư lự, đăm chiêu. Ông bắt đầu làm thơ, gởi đăng các báo ở Sài Gòn với nội dung thán phục các vị anh hùng cứu quốc kim cổ, từ Đông sang Tây: Gởi chiến sĩ mười bốn Juillet phá ngục Bách Ti, Vịnh ông Tôn Văn, Tâm sự Thủ khoa Huân... Nhơn phong trào lạc quyên ủng hộ các học sinh Đông Du do quan phủ Gilbert Trần Chánh Chiếu đề xướng, ông Nguyễn văn Nhan đã nhịn ăn quà sáng, gởi giúp được một đồng bạc trong thời kỳ giá lúa mười lăm xu một giạ.

Nhà cầm quyền thực dân đâu để yên cho chàng thanh niên giàu nhiệt huyết ấy. Sở Mật thám Pháp gây áp lực, khiến quan giám đốc ra lịnh đuổi ông Nguyễn văn Nhan khỏi trường. Chán nản, ông đi ngao du sơn thủy, lê gót lãng du khắp Hà Tiên, Bạch Mã, đảo Phú Quốc... tìm cơ hội khác hầu gióng hồi chuông cảnh tỉnh bé nhỏ, khiêm tốn nhưng hữu hiệu cho quốc dân...".

Mưa chưa tạnh. Ăn xong cơm chiều, tôi nằm im nghe sóng biển vỗ ầm ầm lên bãi. Ngọn đèn dầu leo lét bỗng phựt lên cao hơn ống khói, gió biển tạt mạnh qua khe cửa hé mở.

Lão Tư Hiếm bước nhanh vào, vuốt mấy giọt nước trên mặt:

- Ở nhà một mình buồn quá, tôi qua đây thăm thầy. Mưa gì mà mưa hoài. Ở miền biển, thầy thấy điều gì đặc biệt không? Nước mưa trên mặt mình, nó mặn đắng như nước biển.

Tôi đáp:

- Có lẽ chất mặn của mồ hôi thấm lâu đời trên trán mình, thưa bác.

Lão gật đầu, cúi mặt xuống tránh ánh đèn, hồi lâu mới nói:

- Bữa nay, thầy làm việc rồi chớ? Ông chủ Nhan mướn thầy viết chuyện đời xưa ở Mốp Giăng, ở Mỹ Lâm thiệt sao?

Tôi ái ngại, che giấu một tiếng thở dài rồi cố ra vẻ hồn nhiên:

- Dạ, thiệt chớ. Chiều nay tôi ở nhà viết. Ổng căn dặn tôi tả lại vùng đất hoang ở Mốp Giăng ngày xưa, nào chuột, nào bưng sen, cảnh nê địa trước khi ổng tới khai khẩn. Nếu còn nhớ rõ cảnh xưa, nhờ ông giúp tài liệu. Tôi viết nhắm chừng, hồi nào tới giờ chưa từng tới Mốp Giăng.

Đột nhiên, lão day mặt lại:

- Vùng Mốp Giăng đã trở thành "đất thuộc" từ lâu rồi. Ổng tới làm chủ lúc sau này. Ổng chẳng bao giờ thấy chuột bầy, thấy bưng sen gì ráo! Miệt Mốp Giăng xưa kia do nhiều người tứ xứ tới mạnh ai nấy khai phá, cắm ranh, khai diện tích sơ sài rồi đóng thuế cho làng... Dè đâu... Thôi... tôi nói ít, thầy ăn học nhiều, chắc hiểu rộng hơn. Nếu tôi nói lỡ lời, thầy bỏ qua cho.

Lại chuyện cường hào ỷ thế thực dân Pháp, cưỡng chiếm đất đai! Thời xưa, lắm tay mưu sĩ lên Sài Gòn xin khẩn những "lô" đất chưa có ai đứng tên trong địa bộ quản hạt rồi họ mướn người chuyên về trắc địa đến quy định ranh giới. Lô đất ấy nghiễm nhiên thuộc về quyền sở hữu của họ. Đứng về mặt pháp lý thực dân phong kiến, mảnh vườn đất nhỏ của người nông dân "tiền phong khai hoang" mặc nhiên bị sáp nhập vào đồn điền của kẻ đến sau nhưng hiểu rành về quy chế điền địa hơn.

Tôi đánh tan bầu không khí oi bức nọ, đưa câu chuyện trở lại địa hạt khác, êm dịu hơn:

- Thưa bác, chuột ở Mốp Giăng hồi xửa hồi xưa chắc nhiều lắm? Mấy bưng sen còn không? Mỗi bưng rộng bao lớn? Nhiệm vụ tôi là viết chuyện đó cho ổng.

- Thầy cho tôi điếu thuốc. Hồi tôi còn nhỏ, tôi thấy dân chúng Mốp Giăng sống nhờ chuột. Mùa nước nổi, chuột cắn đuôi nhau nối liền thành một sợi dây dài, chẳng biết nó từ xứ nào tới để đi về đâu. Tụi nó lội chập chững, con này nương sức của con kia... Mỗi tháng, mình gặp năm sáu bầy như vậy. Nước giựt xuống, chuột làm ổ, trời sa mưa, cỏ non mọc nhú lên, tha hồ xây rọ mà bắt. Cứ dùng đăng sậy bao chung quanh một vùng cỏ lớn rồi lần lần mình siết vòng vây... bắt hàng trăm con. Mình ăn thịt chuột trừ cơm. Chuột bị chặt đuôi, lột da nằm dài trông thật giống con heo con... Thôi thì chuột rô ti, chuột bằm nhỏ xào lá cách lá lốt, chuột kho tiêu. Ăn không hết, mình bày ra khô chuột, treo lủng lẳng hàng trăm con từ trên kèo nhà. Lại còn mắm chuột nhận đầy lu, mỡ chuột thắng đầy hũ. Đèn thắp bằng mỡ chuột, sáng lắm... Nghe nói lâu lâu có người gặp con chuột bạch ngậm trong miệng "hột ngọc chuột" sáng ngời... Ôi thôi! Chuyện con chuột kể tới sáng thầy nghe không hết.

- Còn cái bưng sen ngày xưa?

- Nó còn hiển hiện đó. Rải rác đôi ba mẫu đất, đầy loại sen bạch, sen hồng. Cuối mùa mưa, gương sen cằn cỗi, hột sen khô nổi lình bình đen mặt nước; mình cứ đem thúng mà xúc, mỗi người xúc một buổi sáng hằng năm sáu chục lít đem bán cho Huê kiều... Nhưng dân mình ưa làm ruộng hơn là xúc hột sen.

- Dạ thưa bác, tại sao bây giờ hết chuột?

- Mấy năm sau thiên hạ làm ruộng nhiều nơi, chuột chia nhau tứ tán kiếm ăn, mỗi bầy đi một chỗ. Hồi xưa chuột đói vì ít ai làm ruộng. Đám ruộng nào bị tụi nó bu lại, kể như còn rơm trơ cọng.

- Còn sen? Tôi tưởng mình nên để vài lõm xem chơi. Sen mọc nhiều, hao đất quá.

- Nó là thứ xa xí. Muốn trừ sen, thêm đất làm ruộng, mình phải đào kinh cho nước rút bớt... Nói chí miệng, ông chủ Nhan hồi đó muốn mở mang đất đai lắm, ngặt ổng ít vốn. Ổng hứa với tá điền: nếu ai nấy đều góp lúa đầy đủ cho ổng, ổng mua thêm vài chục ngàn mẫu đất nữa cho bằng điền Tây của ông Kho... Ngặt vì... vợ lớn của ổng chết, ổng buồn. Hai vợ chồng không con. Rồi cưới bà sau này, cũng không con...

Lão chép miệng, hút điếu thuốc nữa:

- Thôi tôi về, khuya rồi. Lát nữa sợ mưa lớn.

Thấy câu chuyện còn hấp dẫn, tôi mời lão ở nán. Lão từ khước:

- Hút thuốc vấn không quen, để tôi về bển hút ống điếu cây ớt núi. Tháng rộng ngày dài, mai chiều tôi nói thêm. Chỉ sợ thầy không muốn nghe. Còn nhiều chuyện ở Mốp Giăng, ngậm ngùi lắm!

- Bác cứ nói. Tôi đi lấy cái ống điếu qua đây cho bác. Hay là tôi qua nhà bác cho tiện.

- Phải à! Thầy qua bên tôi đi. Hồi chiều tới giờ mảng lo nói chuyện, tôi quên thắp nhang.

Mưa cứ rơi đều đều. Đèn đường phía chợ ửng sáng một vầng quá rộng. Biển đen ngòm, bãi bùn, sóng nước và Hòn Tre lẫn lộn dưới vòm trời thiếu trăng. Lão Tư Hiếm vào nhà trước. Tôi bước vào chậm hơn, đưa tay đóng cánh cửa lại cho bớt lạnh. Lão nói nhanh:

- Ban đêm đóng cửa nói chuyện rì rào trong nhà, thiên hạ hồ nghi. Cứ để vậy.

Thắp nhang xong, lão hút thuốc uống trà, hớp từng hớp một.

- Tôi còn câu chuyện cổ tích này, liên quan tới cái ngôi đình làng không bao giờ xây cất ở làng Mỹ Lâm, trong điền ông chủ Nhan.

Tôi gật đầu, lộ vẻ nóng nảy:

- Tại sao chẳng bao giờ xây cất? Làng Mỹ Lâm quá nghèo à? Lạ vậy!

- Số là năm đó, lâu lắm rồi... Hồi còn bà chủ trước lận kia, hồi ông chủ Nhan... chưa làm điền chủ, ổng còn là hương quản, ngày hai bữa đạp xe máy lại nhà việc. Ruộng trúng ba bốn mùa liên tiếp, dân làng ai nấy mừng vui ăn tết tưng bừng, cờ bạc suốt tháng Giêng qua tháng Hai. Ngày rằm tháng Giêng, mấy ông kỳ lão đành bơi xuồng ra chợ Rạch Giá, thuộc làng Vĩnh Thanh Vân để dự lễ kỳ yên lạy tạ Thành hoàng bổn cảnh, thay mặt giùm cho dân làng Mỹ Lâm. Thật là mất thể diện. Tại sao làng Mỹ Lâm lại chẳng cất được một ngôi đình riêng biệt? Nghĩ vậy, ai nấy hùn tiền kẻ ít người nhiều. Ông chủ Nhan - hồi đó là hương quản Nhan - được cử làm thủ quỹ vì trong tổng số năm ngàn đồng lạc quyên, phần ông góp tới hai trăm đồng, nhiều hơn mọi người khác. Người lãnh thầu mua về một mớ gạch đá, rồi xin lãnh thêm tiền để mướn nhân công, mua thêm vôi cát, xi măng. Rủi thay, đêm nọ người thầu bị bọn cướp giết chết trên đường về Rạch Giá. Hương quản Nhan đến nơi làm "ăn kết" chạy tờ về quan trên để cho biết: xác người thầu nọ chẳng có một đồng xu dính túi! Mặt khác, nhơn danh thủ quỹ, hương quản Nhan trưng ra hai cái biên nhận tổng cộng bốn ngàn chín trăm năm mươi đồng do người thầu ký tên, lãnh trước rồi... Dân làng nhìn nhau, lắc đầu, bàn tán thì thầm.

Tôi hỏi nhanh:

- Họ hồ nghi ông chủ Nhan sắp đặt giết người thầu để giựt tiền lại?

Lão ung dung hút thêm điếu thuốc, im lặng giây lâu:

- À, thầy đoán chừng như vậy thì tôi nghe vậy. Tôi đâu dám nói gì hơn. Ai đã mắt thấy tai nghe... mà đề quyết thủ phạm là ai! Chỉ biết vài tháng sau, hương quản Nhan xin từ chức, đi Sài Gòn rồi trở về làm chủ của "lô" đất đã có sẵn huê lợi ở Mốp Giăng. Ổng thề chẳng bao giờ đứng ra góp tiền cất ngôi đình khác. Ổng muốn tránh tiếng dị nghị của người đời khi có cuộc lạc quyên thứ nhì. Ổng nói "Thà cất riêng một cái miễu trong điền để tạ ơn đất nước, do tiền túi của một mình tôi xuất ra thôi".

- Cái miễu đó còn không?

- Còn chớ. Linh hiển lắm. Tôi nói cho thầy nghe hồi bữa hổm rồi mà. Thờ Chúa Ngung Ma Nương. Mai mốt nhứt định ông chủ Nhan nhắc tới tích đó. Tôi nhớ mờ ớ vậy thôi. Nói nhiều quá, mình mang tội với người sống và người chết... Thầy đừng chép vô sách vở, nguy lắm.

Trở về bàn viết, tôi thao thức mãi. Đêm ấy, qua khe cửa, tôi thấy ngọn đèn chong bên nhà lão Tư Hiếm còn leo lét đến nửa đêm. Phải chăng lão cố tình đánh một đòn ly gián giữa tôi và ông bà Henri Nhan? Nhưng, đứng về phía của tôi mà xét, tôi cần tiền ăn cơm, tôi đã lãnh tiền trước của bà Henri Nhan rồi. Tôi tin rằng quyển tiểu sử mà tôi đang soạn thảo chẳng bao giờ in ra. Mà dầu có in thì cũng chẳng ai thèm đọc! Tôi thầm cám ơn lão Tư Hiếm đã nhắc nhở khéo léo cho tôi về ý thức tôn trọng sự thật, bất cứ về vấn đề gì. Câu chuyện ông Henri Nhan giết người rồi kiếm tiền đút lót cho quan Tây để khẩn đất tuy đáng chú ý nhưng tôi chưa vội tin, vì chính lão cũng bảo là còn trong vòng giả thuyết.

Đã quá một giờ đêm.

Viết gì bây giờ? Chuyện mắm chuột, chuyện hột sen. Và đừng đi xa hơn. Tôi ngáp dài, nhướng đôi mắt hơi cay, viết lia lịa, tùy hứng... nhưng trong khuôn khổ, tránh những chi tiết quá lộ liễu khiến ông Henri Nhan có thể hồ nghi rằng tôi đã liên lạc với người tá điền xưa nào của ông để tìm tài liệu.

 

 

 

 

 

Đúng như dự đoán của tôi, ông bà Henri Nhan rất hài lòng. Bà yêu cầu tôi ngưng đọc từng chập. Bà đập mạnh vào vai chồng:

- Ông trạng Lương Thế Vinh của tôi! Bấy lâu tôi làm bà Trạng mà không hay biết.

Ông cúi đầu nói lảng:

- Về khung cảnh chuột cắn đuôi nhau lội dài hàng mấy trăm thước, ông thi sĩ suy luận hay quá. Nhớ thêm thắt vài câu, nói lên vẻ đẹp hùng vĩ của miền núi Ba Thê. Xưa kia, thương cảng quốc tế; bây giờ, đất bồi... cả thời xưa huy hoàng vàng son đã chìm lĩm chẳng khác nào thành phố Pompéi ở Ý Đại Lợi bị lấp dưới lớp tro của núi lửa Vésuve.

Ông vuốt râu thò tay kéo đôi vớ lên sát đầu gối:

- Thời lai phong tống... Tôi tin rằng kỳ này mấy ổng dám giới thiệu tôi vô Hội đồng Liên hiệp Pháp, đi du lịch chơi lai rai. Hằng năm chánh phủ Pháp sẽ đài thọ cho tôi hai chuyến du lịch để tìm hiểu các nước trong Liên hiệp Pháp, khắp vòng quanh thế giới: nào Algérie, nào Guyane ở Nam Mỹ, nào Nouvelle Calédonie ở Thái Bình Dương...

Bà Henri mỉm cười:

- Tôi mơ ước đi vòng quanh thế giới. Như vậy vui hơn chớ về đồn điền ở Mốp Giăng làm gì. Huê lợi không có, suốt ngày quanh quẩn.

Ông nghiêm giọng, chỉ ngón tay thẳng vào mặt tôi:

- Thời giờ cấp bách lắm. Tôi hứa trưa mai nạp đoạn thứ nhứt của cái monographie vùng Mỹ Lâm cho ông quan tư Ca Rê. Ông thi sĩ chần chừ gì nữa? Ông nghe lời của nhà tôi à?

Day qua bà vợ, ông lẩm bẩm:

- Ngạn ngữ Tây có câu: Đàn bà tuy tóc dài nhưng tư tưởng của họ rất ngắn! Cái "áp phe" đất Mỹ Lâm với cái tương lai của Hội đồng Liên hiệp Pháp đi đôi. Hiện nay các nhà khảo cổ Tây phương đang chú ý về vùng núi Ba Thê. Ai tìm được điều gì mới lạ thời sẽ nổi danh, được thế giới chú ý. Nhưng muốn tìm được điều mới lạ, họ phải lạy lục tôi!

Ông Henri Nhan đứng dậy thở phều phào, gương mặt đỏ ửng với cái vẻ mệt mỏi của con ngựa già cố chạy đường khuya nước rút. Bỗng dưng, tôi quả quyết rằng: chính ông ta đã bố trí giết người thầu khoán năm xưa, theo lời thuật lại của lão Tư Hiếm! Bỉ ổi quá! Bà Henri cười hồn nhiên, chắc bà chẳng lạ lùng gì cái bản chất háo thắng của ông chồng. Thừa lúc ông đi thẳng lên nhà trên, bà nói khẽ với tôi:

- Cứ viết nhanh cho vừa ý ổng. Ông hãy xem như chuyện viết chơi chơi... kiếm tiền xài.

Tôi lẩm bẩm:

- Dạ rầu quá, tôi lỡ lãnh tiền rồi, bằng không thì...

- Ông cứ nghe tôi. Nếu ông rút lui, nhà tôi tìm cách gièm xiểm... ổng ưa thù vặt vô cớ... Ông đừng bực mình. Cái "áp phe" nọ chẳng đi tới kết quả gì đâu. Tôi nói, ông chờ xem... Chuyện "vọc nước giỡn trăng" tôi biết trước rồi. Tụi Tây đâu dễ gạt như nhà tôi tưởng...

Ngòi bút của tôi bắt đầu bay nhảy trên mặt giấy:

"Trước khi ông Nguyễn văn Nhan đến khai khẩn thì vùng thương cảng Ba Thê đã hoang tàn; đất phù sa hằng năm bồi lên, chôn vùi bao di tích của nền văn hóa xa xưa cổ kính của Đông Nam Á. Mùa nước nổi, từng đàn chuột cắn đuôi nhau mở cuộc 'vạn lý trường chinh' từ chân trời vô tận đến chân trời vô tận...

Nhưng khi ông đến, mấy đàn chuột ấy bỗng nhiên biến mất, chẳng bao giờ xuất hiện. Các bô lão địa phương bảo nhau: Ấy là điềm lành. Đất Ba Thê Mỹ Lâm đã đến thời hưng thịnh..."

Chị ở bước lại gần tôi, nói khẽ:

- Ông tôi mời ông vào trong phòng.

Tôi, cau mày:

- Hôm trước, tôi dặn chị kêu tôi bằng thầy, đủ rồi.

- Ông tôi cũng kêu ông bằng ông. "Thầy" sao khó tánh quá!

Tôi đi thẳng vào phòng ông Henri. Chắc rằng phía sau lưng tôi, bà Henri và chị bếp nhìn nhau mỉm cười. Nhưng thái độ tiểu nhân của tôi phát sanh do động cơ khác.

- Ông thi sĩ hãy ngồi chờ tôi tìm chuyện cổ tích Lộc Giác Chân Nhân trong quyển sách Tây do ông quan tư Ca Rê cho tôi mượn nghiên cứu. Đàn ông bọn mình ưa làm những việc mà đàn bà không ưa, tuy rằng chung qui mình chỉ lo lắng cho họ để rồi mình hưởng rất ít. Tôi muốn ông vào đây để tránh những câu nói đâm họng, làm "thối chí anh hùng" của nhà tôi. Và cũng để đứa ở khỏi tò mò. Ông ráng giữ bí mật. Ông quan tư Ca Rê lợi dụng, muốn nhờ tôi giúp cho vài món cổ ngoạn của thị trấn Óc Eo ở chân núi Ba Thê. Tụi Tây khảo cổ xưa kia chỉ mới đào bới sơ sài. Hồi năm một ngàn chín trăm bốn mươi mốt, gặp giặc Nhựt Bổn, tụi nó bỏ luôn không dám trở lại. Mấy món đó xưa trên một ngàn năm trăm năm, ông Ca Rê định kiếm vài kiểu đem về Tây, tặng cho người tình nhân là bà bá tước De L... Đồng thời ông ta muốn ghi chép vài phong tục địa phương mà giới khảo cổ chưa từng nói tới. Hiện giờ ở Mốp Giăng, tại điền của tôi còn miễu thờ Chúa Ngung, Ma Nương với pho tượng đá xưa và những người chuyên môn "lên xác". Nếu mình trình bày rõ rệt, đủ sức hấp dẫn tức nhiên ông Ca Rê sẽ cao hứng mở cuộc hành quân cấp tốc tới Mốp Giăng để đóng đồn... Nhơn dịp đó, uy thế của tôi đối với các tá điền nhứt định tăng lên... Và ông Ca Rê sẽ đền ơn tôi xứng đáng, trong mức quyền hạn của ổng. Chuyện Lộc Giác Chân Nhân đây này. Đọc đi. Trong khi đó, tôi sắp xếp thứ tự. Bộ óc tôi cỡ này nôn nao, lộn xộn quá.

Chuyện Lộc Giác Chân Nhân rất ngắn, chiếm vỏn vẹn bốn trang sách khổ nhỏ, trong quyển tập Cổ tích An Nam, in bên Pháp hồi năm 1926... Tay tôi hơi run run. Cái "áp phe" Mỹ Lâm này rõ ràng là vấn đề máu lửa mà tôi và bọn lính Lê dương đều đứng trong cuộc, họ bắt buộc đóng hẳn hòi những vai trò quan trọng. Tôi nhớ tới cái lon sữa bò đầy gạo để cắm nhang trên trang thờ Thái Thượng Lão Quân. Lão Tư Hiếm - con người vừa hiền hòa vừa bí hiểm - với vầng trán mặn mồ hôi sẽ nghĩ gì? Rồi đây quân đội viễn chinh Pháp dùng xe, dùng tàu sắt tiến vào Mốp Giăng giữa cảnh thiếu người, chỉ còn chuột, bưng sen với hơn mười gia đình, trong ấy có người cùi người mù - nếu lão Tư Hiếm không nói dối.

- "Ông cứ kéo ghế qua ngồi sát bên tôi! Câu chuyện như vầy. Khi tôi mới khẩn đất hoang thì ở Mốp Giăng đã có sẵn, một cái miễu xiêu vẹo, cất trên gò đất cao bên gốc cây bàng cổ thụ. Miễu thờ bốn năm cục đá phủ vải đỏ bạc màu. Vì ít tin đồng bóng phù phép, tôi khuyên dân chúng nếu ốm đau thì cứ uống thuốc, đừng cúng kiến vô ích. Năm đó, một thiếu nữ bỗng nhiên nổi cơn điên xé quần áo, nói xàm, đi lang thang. Vài ngày sau thi thể cô ta bỗng nhiên nổi lên, trôi tấp vào chiếc cầu ván trước nhà tôi, một buổi sáng đại khái vào tháng Giêng năm 1937... Tôi xuất tiền mua hòm giúp việc ma chay. Sáng hôm sau, đến lượt một người trong xóm nổi cơn điên chạy tới trước miễu nọ múa men tay chân, tự xưng là Chúa Ngung, Ma Nương, vị thần đến khai khẩn vùng đất Mốp Giăng từ ngàn năm về trước đã chết rồi hóa đá. Thấy chuyện lạ tôi cầu xin Chúa Ngung, Ma Nương trình bày mọi thắc mắc. Người 'xác' vào miễu dở tấm vải, chỉ ngay một tượng đá, bảo rằng đó là tiền kiếp của mình. Pho tượng quá cũ, tạc hình một vũ nữ đang uốn mình, đầu đội mão vuông, chân mang vòng, tay cầm thếp đèn chong kiểu vũ nữ Chiêm Thành, Ấn Độ. 'Xác' lại ra lịnh cho tôi hằng năm phải cúng kiến, mướn lại đất của Chúa Ngung, Ma Nương trong vòng một năm. Thế là đứng về mặt tinh thần, tôi phải nhận mình là tá điền của kẻ khuất mặt, mặc dầu tôi nghiễm nhiên là chủ điền. Tôi đồng ý. Xác đòi ăn mắm sống, ăn xong 'xác' bảo tôi đem một tờ giấy trắng để trước miễu rồi 'xác' hái bốn nhánh cây, chạy băng ngang đồng ruộng suốt mấy chục cây số từ sáng tới xế chiều để cắm bốn nhánh cây xuống ở bốn góc. Lạ thay, 'xác' cắm ngay ranh đất đúng như trong tờ bằng khoán mà sở Quan thủ địa bộ đã cấp cho tôi.

Xác về miễu nhúng tay xuống bùn, áp vào tờ giấy rồi dạy tôi hằng năm phải làm lễ như hôm ấy, gọi là lễ 'tá thổ'. Bằng không dân làng lần lượt phải bị Chúa Ngung, Ma Nương bắt chết như trường hợp người thiếu nữ điên nọ".

Khổ tâm quá! Tôi đã đoán phần kết luận ngay từ khi ông Henri Nhan mới kể đến phân nửa câu chuyện. Tôi tin nơi trực giác của mình. Nhơn phong tục cúng Chúa Ngung, Ma Nương, ông Henri Nhan đã hành động khéo léo - khéo gấp bội phần kế hoạch giết người thầu khoán. Chúa Ngung, Ma Nương là vị thần gì... Sự thật ra sao? Tôi nóng nảy, đứng dậy định kiếu từ về tìm lão Tư Hiếm để nghe thêm một tiếng chuông khác.

Ông Henri như bực dọc:

- Ông viết liền được chưa mà im lìm như vậy? Nếu chưa hiểu, cứ hỏi lại tôi.

- Dạ hiểu phần nào. Xin phép ông, để về nhà sắp xếp đầu đuôi viết kỹ lưỡng rồi tôi trở lại đây nhờ ông dạy thêm.

Ông Henri liếc lên vách:

- Để coi... mười giờ rồi. Ông ráng viết, ba giờ chiều trở lại liền, kịp không? Tôi muốn ông ăn cơm trưa tại đây rồi viết luôn, đừng về mất thời giờ quý báu.

- Dạ, ở đây không khí hơi lạ. Về nhà ăn cơm xong tôi đóng cửa lại, viết một mạch là tạm xong. Tôi trở lại cỡ hai giờ rưỡi chiều.

Chắc hẳn ông Henri vừa ý khi nghe tôi nói "đóng cửa lại", "hai giờ rưỡi".

- Ông ra nói nhà tôi đưa chút ít tiền... Hổm rày tôi vô tình, quên phứt.

Đến cổng, bà Henri với nụ cười lúm đồng tiền, trao cho tôi năm trăm đồng.

- Nhớ kỹ nghe, nhà tôi bắt đầu khó tánh rồi đó. Ông nên viết như kỳ rồi vậy thôi. Theo quẻ tử vi, nhà tôi năm nay tuổi Mẹo, ngôi sao... ác liệt lắm! Vái trời cho nhà tôi được vô... Liên hiệp Pháp để tôi đi du lịch Phi Châu coi sư tử, ngựa rằn chơi. Ông thi sĩ nhớ "Beethoven giữa rừng Nam Phi Châu" chớ? Đó mới thật là thơ.

Tôi cười, nụ cười khô héo:

- Thơ của rừng thiên nhiên Phi Châu... sang trọng hơn thơ đồng quê của tôi một bực.

Bà Henri nói vói theo:

- Nhà tôi cũng ưa đồng quê vậy. Nhưng sao khác với đồng quê của ông... Coi bộ hai thi sĩ đồng quê kỵ tuổi, kỵ ngôi sao... Chiều, ông nhớ trở lại sớm nghen!

Tôi ăn lua láo mới vừa được nửa chén cơm, chợt lão Tư Hiếm bước vào:

- Ủa! Bữa nay thầy ăn hơi sớm đó. Mời thầy qua ăn với tôi. Hồi sáng tới giờ, tôi chờ... Thầy về hồi nào mà tôi không thấy kìa?

Tôi hiểu rằng mình nên chiều theo ý muốn của lão, đừng từ chối bất cứ vì một lẽ gì. Lão dọn ra một con cá lóc nướng, một dĩa muối ớt. Chắc lão vừa cúng xong: trên lớp vảy cá cháy khét, mớ tàn nhang rắc lốm đốm. Từng khúc nhang cong queo tuy đã hóa ra tro nhưng còn giữ nguyên hình dáng cũ. Lão nói nhanh:

- Thôi mình ăn.

- Còn ai nữa không bác?

- Đâu còn ai. Dịp này chỉ có thầy với tôi. Món ăn ít quá. Rượu đây, tiên vi chủ - lão uống một hớp rồi trao cho tôi - hậu vi khách.

Rồi lão nhướng mắt, dò hỏi ngay:

- Thầy uống cạn đi. Say sưa gì mà sợ... Công việc của thầy tới đâu rồi?

Tôi hiểu đó là nỗi thắc mắc thầm kín nhứt của lão. Vì thời giờ còn lại quá ngắn, tôi đi thẳng vào đề:

- Dạ, ổng nhắc tới sự tích cái miễu Chúa Ngung, Ma Nương. Trong điền đất của ổng, năm đó, một thiếu nữ mang bịnh điên té xuống sống chết trôi tấp trước bến nhà ổng, rồi "đạp đồng" lên... Là kẻ sanh sau đẻ muộn, chưa từng sống ở Mốp Giăng, tôi thắc mắc quá định về đây hỏi bác.

- Thầy tin tôi hay tin ông chủ Nhan? - Lão trừng mắt hỏi.

- Tôi tin ông chủ Nhan nhưng cũng tin nơi bác. Ổng là người trong cuộc, thưa bác.

Lão cười nhếch mép:

- Đúng như thầy nói. Ông chủ Nhan mới thật là... người trong cuộc! Nhưng còn người khác nữa, cũng trong cuộc. Đó là người lên "xác" Chúa Ngung, Ma Nương...

Lão nhìn trân trân vào bộ mặt vừa ngơ ngác vừa "thông minh vặt" của tôi mà nói gằn:

- Bộ thầy tưởng tôi là kẻ "lên xác" hồi đó hả?

- Dạ, tôi đâu có nghĩ như vậy. Nếu người đó là bác thì chủ Nhan đâu để bác sống kham khổ như vầy. Chẳng hay người đó là ai, ở đâu? Chắc chắn ông ta rành sự tích Chúa Ngung, Ma Nương hơn ông chủ Nhan.

- Người đó... còn ở lại giữ cái miễu đó. Anh ruột của tôi. Anh ấy còn sống cũng như đã chết... Chết mà chưa chôn.

Rồi lão Tư Hiếm hạ thấp giọng:

- Theo lời anh tôi thì người con gái năm xưa bị đâm bằng dao phay vì cô ta dám cả gan chống báng luật lệ của Tây, lúc quan kinh lý tới đo đất lập địa bộ cho ông chủ Nhan.

- Nhưng ông anh đó "lên" thiệt hay "lên" giả?

- Làm sao lên thiệt được? Anh tôi thua cờ bạc, trở về nhà gặp lúc dân chúng đang xôn xao, bất mãn. Họ hồ nghi kẻ giết cô gái chính là... ông chủ Nhan. Anh tôi tới gặp ông chủ, hai người bàn mưu bàn kế. Ngày sau, anh tôi "đạp đồng" trước miễu rồi cả gan dở miếng vải phủ từ bao nhiêu đời trên pho tượng "ông tà". Ở Mốp Giăng, dân chúng ưa thờ những viên đá rơi rớt, tìm được khi cày ruộng. Anh tôi tự xưng là Chúa Ngung, Ma Nương... tức là vị thần đã bắt cô thiếu nữ nọ cho chết để đem về âm phủ làm vợ. Rồi Chúa Ngung, Ma Nương nói huyên thuyên, xưng rằng Chúa Ngung là người khai khẩn đầu tiên từ ngàn năm xưa tại đất Mốp Giăng... Chủ Nhan phải làm tờ mướn đất của Chúa Ngung, mỗi năm ký giao kèo trở lại một lần... Nói dứt lời, Chúa Ngung chạy khắp tứ phía để cắm ranh đất cho ông chủ Nhan mướn. Dân chúng hoảng sợ, phục Chúa Ngung, Ma Nương sát đất vì xác cắm trúng ngay ranh trong... địa bộ, xê xích chừng vài tấc.

Tôi lắc đầu:

- Mưu kế của chủ Nhan cao cường thiệt, chắc hẳn ông anh nọ đã xem kỹ trên bản đồ, trước khi lên xác.

Lạo Tư Hiếm thở dài:

- Nhưng ông chủ Nhan còn nhiều ẩn ý khác. Ổng muốn nhờ oai quyền của thần thánh để chứng minh cái quyền làm đại điền chủ của mình, để đám tá điền hiểu rằng họ chỉ là người giựt đất của thánh thần. Đã đành rằng họ ra công phá đất trước ông chủ Nhan nhưng Chúa Ngung, Ma Nương đã khai phá trước họ hàng ngàn năm... Nếu họ bất tuân ông chủ Nhan, tức nhiên là họ bất tuân luôn cả thánh thần, mỗi năm họ phải chịu chết oan ức, phát điên phát khùng như cô con gái nọ. Tôi nhớ rõ. Cô ta tên Thừa... Bây giờ theo ý thầy, người lên xác nọ đáng trách không?

- Đáng lắm chớ, mặc dầu chủ chốt là người khác.

- Nhưng anh xác thua cờ bạc, túng tiền. Lãnh của chủ Nhan năm mươi đồng tiền thưởng, để rồi ngày hôm sau thua lại ráo trọi... Của hoạnh tài bất phú.

Tôi cúi mặt nghĩ tới cảnh ngộ không khác, của mình.

- Thưa bác, mình nên thương hại anh xác nọ.

- Nếu gặp mặt anh xác nọ, thầy xử trí ra sao?

- Dạ, làm sao gặp được! Với lại tôi đâu phải là người tá điền bị chủ Nhan giựt đất.

- Xin lỗi thầy, tôi thí dụ như vậy kìa.

Trước câu hỏi đầy ác ý đó, tôi bị va chạm tự ái nên nói gắt:

- Ờ, nếu gặp mặt người xác ấy, nếu tôi là tá điền của chủ Nhan... thì tôi đãi anh ta một tiệc, đại khái như tiệc cá lóc hôm nay.

Lão Tư Hiếm bèn hươi bàn tay, chụp lấy cái ống điếu dài bằng cây ớt hiểm. Lần này tôi thấy rõ: đầu cái ống điếu nọ bịt khoen sắt, thứ khoen khá dày, tuy đã sét nhưng còn cứng.

Tôi biết lão đang bối rối, sự bối rối của kẻ yếu thế. Chắc rằng lão chưa dám và không nỡ hăm dọa tôi!

Tôi dịu giọng:

- Cái người xác bày chuyện đồng bóng đó, coi vậy mà hữu ích. Nhờ vậy hằng năm chắc ở điền ông chủ Nhan cúng miễu lớn lắm. Cờ bạc, ăn nhậu "trong thì trống đánh rập rình, ngoài thì trai gái tự tình cùng nhau" như lễ kỳ yên ở đình.

Lão cười sặc sụa:

- Đúng vậy, làng Mỹ Lâm từ khi ông thầu khoán bị giết, chẳng còn ai muốn cất đình, sợ oan hồn ông thầu khoán cũ vặn họng. Cái miễu của Chúa Ngung, Ma Nương thay thế cho cái đình; dân ở vùng lân cận tuy không phải là tá điền của chủ Nhan cũng rủ nhau nườm nượp tới chung vui. Phen đó, hồi trào thống chế Bê Te, quan Chánh tham biện chủ tỉnh "Gia La" tới dự lễ, dẫn theo bà vợ còn trẻ măng. Ông Tây bà đầm bắt tay "bủa xua" với Chúa Ngung, Ma Nương... Chúa Ngung, Ma Nương trả lời bằng tiếng Tây "com-xi com-xa" khiến ai nấy nín cười không nổi. Rồi ông Tham biện "Gia La" chụp hình buổi lễ, bà đầm vỗ vai xác, cúng cho xác năm đồng... Bả hứa khi về Tây sẽ thuật lại cho bà con cô bác bên đó nghe chơi. Bà đầm đó vui lắm, cười tủm tỉm hoài.

Tôi muốn thêm vào câu nói của lão: "Cười tủm tỉm hoài với hai lúm đồng tiền". Nhưng tôi nghĩ: "Mình với lão Tư Hiếm hành hạ nhau bằng lời nói làm gì? Như hai kẻ khốn cùng đang đói bụng, chạy bươi đống rác cấu xé nhau để giành một cây tăm xỉa răng". Sực nhớ tới thời giờ quá ngắn, tôi muốn ra về:

- Thì ông bà Chánh tham biện cũng thị oai với dân bổn xứ, tỏ rằng ta đây là "anh hai" của Chúa Ngung, Ma Nương. Và Chúa Ngung, Ma Nương có tiền của Tây thì mới vui vẻ được. Phen này, Tây biểu ông chủ Nhan viết lại tích xưa, chắc cũng vì mục đích muốn làm "anh hai" đó.

Bộ mặt lão trông khác hẳn! Dè đâu tôi nói êm thắm nhỏ nhẹ mà lão lại giựt mình:

- Mục đích gì? Tây muốn đi Mốp Giăng à?

Tôi nói khẽ:

- Ông quan tư muốn coi tận mặt pho tượng đá trong miễu Chúa Ngung, Ma Nương, luôn dịp sưu tầm tại chỗ những pho tượng khác, hỏi thêm tục lệ cúng kiến, hoặc tìm người "xác" cũ để hỏi lại.

- Tại sao Tây không mướn ai đi ăn cắp pho tượng hoặc mời người tại Mốp Giăng ra chợ cho gọn? - Lão hỏi.

- Vì... ông chủ Nhan nằng nặc mời Tây vô Mốp Giăng rồi đóng đồn luôn. Vả lại ai dám đi Mốp Giăng một mình để ăn cắp tượng thờ trong miễu? Người ở Mốp Giăng đâu dám ra chợ, liên lạc với Tây để lãnh tiền rồi về nhà. - Tôi đáp.

- Thời buổi giặc giã, khó quá. Nghĩ mà tủi thân cho vong hồn con nhỏ chết hồi đó. Chết rồi mà thiên hạ nói vầy, nói khác, bán đứng nó. Thầy biết chừng nào Tây vô trỏng không?

- Trời ơi! Bí mật quân sự. Nhưng tôi đoán: ông quan tư đi liền để kiếm pho tượng đem về tặng bà bá tước bên Tây. Ông quan tư chờ câu chuyện Chúa Ngung, Ma Nương của tôi viết. Chiều nay, tôi nạp chuyện đó cho chủ Nhan dịch ra chữ Tây. Thôi kiếu ông, tôi về giây lát để viết gấp cho đúng hạn.

Lão chép miệng, nhìn lên trời:

- Thầy làm công chuyện của thầy, mai mốt thầy còn đường tiến thân nơi chợ búa. Phần tôi, trước sau gì cũng về quê xưa. Thầy năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

- Dạ, hai mươi bốn. Khi nãy, tôi lỡ thốt nhiều lời vô lễ. Bác tha thứ giùm em cháu.

- Người gần chết như tôi còn dám bắt bẻ lời nói của ai. Nếu tôi giận thầy một, thì phải giận tôi tới mười mới công bình. Thôi, thầy đi đi.

Tôi khép cửa, chán nản hơn bao giờ hết. Mưa lất phất. Tôi viết đại khái về trường hợp ông Henri Nhan phát giác pho tượng Chúa Ngung, Ma Nương, đúng theo lời lẽ ông ta thuật lại. Viết xong, đã hơn hai giờ hai mươi phút. Tôi lướt dưới cơn mưa, liếc nhìn thấy cánh cửa nhà lão Tư Hiếm đã khép kín.

 

 

 

 

 

Dường như ông chủ Nhan đã thức suốt buổi trưa để chờ đợi mớ giấy nháp của tôi. Ông ta gật đầu từng chập, sau cùng đưa ra ý kiến:

- Thế là xong, nhưng phần nhập đề còn yếu. Ông thi sĩ quên chuyện Lộc Giác Chân Nhân rồi à? Từ Lộc Giác Chân Nhân mình bắc cầu qua Chúa Ngung, Ma Nương nghe mới xuôi tai.

Tôi viết nhanh:

- "Trên đường lập quốc, dân tộc Việt Nam lập nhiều kỳ công rạng rỡ, chém tre đẵn gỗ để cày cấy giữa rừng ma. Giai thoại Lộc Giác Chân Nhân tiêu biểu cho miền cực Bắc: Tục truyền rằng ở vùng sơn cước tỉnh Cao Bằng, xưa kia có người tiều phu sống dai hơn trăm tuổi. Một hôm, ông ta gọi đứa con trai đến mà bảo: 'Lát nữa đây cha chết, hóa thành con nai. Kiếp trước của cha là con nai, nhờ tu luyện nhiều kiếp nên mang xác người. Con hãy gỡ cái gạc trên đầu cha, dùng dây mà kéo như kéo cày. Khi nào cái gạc vướng vào cây cỏ, còn dừng lại, cày cuốc tại đó ắt sẽ phát đạt'.

Nơi miền Tây Nam Việt Nam, có chuyện Chúa Ngung, Ma Nương nhắc nhở cho người đi khai hoang về đức tính khiêm tốn, sùng bái tiền nhân. Khắp vùng Rạch Giá, Cà Mau, tục lệ 'tá thổ' mướn đất của ma, của Chúa Ngung, Ma Nương chẳng nơi nào rõ rệt bằng ở xóm Mốp Giăng, gần Óc Eo, núi Ba Thê - vị trí quan trọng đánh dấu sự 'dung hòa' giữa văn hóa các nước Đông Nam Á, đặt nền móng cho 'dân tộc tính' Việt Nam. Ông Nguyễn văn Nhan với tấm lòng nồng nhiệt yêu mến quê hương đất nước đã khôi phục và bảo tồn tục lệ cổ truyền giàu ý nghĩa ấy...".

Xem xong, ông Henri Nhan đứng dậy, đem tất cả xấp giấy qua đồn Lê dương.

- Tôi sẽ trình bày tỉ mỉ. Nhứt định ông quan tư Ca Rê hài lòng. À, ông thi sĩ ở nán chờ tôi. Biết đâu vào giờ phút chót mình cần thêm bớt vài chi tiết cho câu chuyện suôn sẻ hơn. Nó thuộc vào hàng chuyện cổ tích "có thể diện" trên quốc tế đó.

Tôi ngồi chờ. Bà chủ thức giấc, mắng khéo chị ở:

- Nãy giờ sao chị chưa pha cà phê cho ông thi sĩ?

- Thưa, pha luôn...

- Ờ, tôi một ly, nhà tôi một ly.

Dường như bà chủ chẳng chú ý nhiều đến công việc "chạy chọt" của chồng. Rửa mặt chải tóc xong, bà đến hành lang nói khẽ:

- Ở xứ người, cái gì cũng ngộ. Từ việc quảng cáo kiểu áo kiểu quần, quảng cáo dầu thơm đến mục chiêm tinh học! Tôi cắt một cái "bông" trong báo gởi qua giáo sư F.N. nhờ đoán vận mạng giùm, cả tuần rày sao chưa thấy trả lời. Bên mình... mấy ông thầy Tàu mù đôi khi đoán khá quá. Như hồi năm kia, hai ba ông mù đều đoán tôi gặp người chồng giàu có, nhưng chồng tôi sẽ suy sụp vì thời cuộc. Trong khi đó, ngôi sao của tôi sáng lên!

Cánh cửa sắt ngoài cổng từ từ mở. Ông Henri Nhan chạy nhanh vào, gương mặt tươi rói:

- Ông quan tư chịu quá. Ngày mai hoặc đêm nay, ổng đi Mốp Giăng, mình à.

Bà Henri hơi giựt mình:

- Chuyện gì? Tối nay ông ăn tiệc trước với ổng?

- Mình hãy chuẩn bị đi theo ổng để chỉ rõ thêm đường đất. Rồi về mặc sức mà ăn tiệc.

- Tại sao ông không đi? Nhà binh thiếu gì bản đồ. Đàn bà như tôi đi theo làm gì thêm nguy hiểm... cho tôi.

Ông Henri gãi đầu lia lịa:

- Khổ quá! Tôi nói mà mình chậm hiểu. Mình chỉ cần mặc áo bà ba, quần lãnh đen được rồi. Đầu đuôi cuộc hành quân diễn ra chớp nhoáng trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Xa hai mươi cây số chớ mấy? Gặp mặt tôi, dân tá điền họ thắc mắc. Chẳng lẽ tôi đem cái tượng đá trong miễu mà nạp cho Tây, còn gì thể diện tôi? Thế nào ông quan tư cũng nhơn dịp đó đóng bót rải rác dọc đường... Mai chiều yên tĩnh, tôi vô sau.

Bà Henri cau mày:

- Ừ! Tôi đi cho, đi vài tiếng đồng hồ chớ gì! Mà phải có ông quan tư, tôi mới đi. Tụi lính Lê dương ăn nói xô bồ xô bộn lắm. Tối nay đi hả?

- Bí mật quân sự, chừng đi thì họ kêu mình!

Linh tính như báo trước một sự trục trặc sắp xảy ra trong đời tôi. Đành rằng nếu không có tôi tiếp tay vào việc viết chuyện Chúa Ngung, Ma Nương, trước sau gì ông Henri Nhan cũng tìm cách đạt mục đích riêng. Nhưng lương tâm của tôi bứt rứt lạ thường: Tiếng súng sẽ nổ hai bên đường, tiếng máy tàu ầm ầm, chuột phải chạy toán loạn, bưng sen dồi dập, những nông dân ngơ ngác sẽ cúi mình núp sau bờ cỏ hoặc lặn trầm xuống nước, miệng ngậm cọng bông súng để thở... Mệt quá, tôi đứng dậy nói khẽ:

- Thưa ông, chuyện tạm xong. Xin ông cho tôi về nhà, sáng mai tôi trở lại.

Ông Henri trợn mắt:

- Bộ ông... giỡn sao chớ? Tối nay, ông phải ở đây luôn. Chẳng đặng đi đâu cả! Lịnh của ông quan tư Ca Rê đó! Ổng muốn giữ bí mật quân sự, dầu đối với lính của ổng. Cả nhà tôi, từ giờ phút này đến khi có lịnh mới của ổng, chẳng ai được đi chợ. Rủi cuộc hành quân tiết lộ bị đánh úp dọc đường ai chịu trách nhiệm đây?

Rồi ông trỏ vào ngực mình:

- Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn trước quân đội Pháp. Tôi cúi đầu thở dài, trở lại ghế ngồi day vào trong nhà, đưa lưng ra phía hai cái họng súng ô buýt đen ngòm.

Ông Henri lên nhà trên, nói vọng xuống:

- Chiều nay tôi uống rượu trừ cơm. Bà nhớ: khi nào nghe ngoài cửa nhận ba hồi chuông tức là năm phút sau bà đi với ông quan tư. Đêm nay, dặn chị ở nhớ ngủ sẽ thức, đừng để họ kêu réo nhiều lần.

Chiều hôm ấy, tôi ăn lua láo một chén cơm, ăn chung mâm với chị ở... Tôi tủi thân trong cảnh giam lỏng bất thình lình này... Trong phút giây, tôi thử tưởng tượng đến kế hoạch tẩu thoát. Hàng rào ngôi biệt thự quá thấp, trèo ra dễ dàng, Nhưng trèo để làm gì? Về Xóm Biển gặp lão Tư Hiếm, tôi sẽ ăn nói ra sao? Nói thật về cuộc hành quân của Pháp chăng? Rủi bề gì, tai vách mạch rừng. Nhưng quân đội Pháp sẽ lên đường vào giờ nào? Đêm nay hay là sáng mai? Vắng mặt tôi, ông Henri sẽ báo động... Còn về nhà để nằm yên một chỗ, tự giam hãm giữa khói thuốc và tiếng sóng biển, thức đêm với nỗi tâm tư đen tối thì về làm gì? Tôi tự an ủi:

- Mình nên ở đây để bảo vệ sanh mạng cho mình và cho lão Tư Hiếm.

Trên nhà, vợ chồng ông Henri nói chuyện thì thào, cãi to tiếng vài câu. Máy thâu thanh bỗng vang lên vài điệu nhạc. Lính Lê dương bên đồn tập họp điểm số. Trời lại mưa.

 

 

 

 

 

Tiếng động cơ xe hơi, tiếng giày đinh, tiếng kêu réo của bọn lính Lê dương đã đánh thức tôi, đâu hồi bốn giờ khuya.

Xe chạy ầm ầm ngang qua cổng biệt thự. Bà Henri đã ra khỏi nhà hồi nào... Ngọn đèn ở hành lang vẫn để sáng, suốt đêm. Một đóm lửa từ từ rề lại trên chiếc ghế bố, nơi tôi đang nằm. Tôi giả bộ nhắm mắt. Đóm lửa nọ đáp xuống sát mí mùng rồi từ từ rời ra: ông Henri Nhan dò chừng xem tôi còn nằm tại đây hay đã lẻn trốn!

Sau buổi lót lòng, ông Henri bảo tôi đem giấy mực tiếp tục viết nốt phần tiểu sử cận đại nhứt của đời ông, giai đoạn từ 1944 đến nay. Ông dẫn giải sơ sài vài nét chánh rồi ngồi trầm ngâm, lẩm bẩm từng chập:

- Chừng này, đoàn xe tới cầu số Một, lính sắp hàng xuống tàu... Con kinh cạn lắm, "tụi nó" chẳng có cắm chướng ngại vật, tàu của Tây hay lắm, chạy nơi nước cạn dễ dàng. Tàu tiến về Mốp Giăng theo lòng con kinh do tôi đào hồi năm 1936. Nếu chú ý, ông quan tư sẽ thấy rõ núi Ba Thê, núi Tượng, cái Sân Tiên trên núi... Chẳng hiểu nhà tôi biết cách giải thích không nữa? Đàn bà hời hợt lắm. Chắc thế nào đoàn tàu cũng ghé ngay bến, lên sân nhà tôi. Nhà bị phá hết rồi nhưng còn nền sân lót gạch phía trước...

Những điều ấy, ông chủ Nhan nói cho riêng ông ta nghe... Tôi giữ thái độ im lặng, cắm đầu viết. Ngòi viết chạy nhanh trên giấy nhưng tâm trí của tôi vẩn vơ tận đâu đâu. Rủi ông quan tư bị phục kích dọc đường, tình thế sẽ ra sao? Tánh mạng của tôi thật mỏng manh như... lông hồng, chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng đủ bay mất đất.

- "Năm 1945, vào tháng Ba, quân đội Nhựt đảo chánh Pháp. Bấy giờ ông Henri Nhan giữ thái độ bàng quan. Sở tình báo Đông Nam Á của Nhựt hoàng phái người đến dụ dỗ, mua chuộc, dọa nạt nhưng ông chẳng sờn lòng. Ông tin tưởng nơi sự biến chuyển của tình hình quốc tế: kháng chiến quân Pháp, dưới sự lãnh đạo của tướng De Gaulle nhứt định thành công, người Việt Nam nhờ đó sẽ được hưởng qui chế tự trị để tiến lần lần tới nền độc lập thật sự. Thống chế Bê Te là nhân vật lỗi thời.

Năm ấy, vào tháng Tám, ông lãnh chức cố vấn Thanh niên Tiền phong tỉnh Rạch Giá. Sau ngày Việt Minh cướp chánh quyền, ông bị chúng cưỡng bách, lạc quyên tất cả bốn kí lô vàng y. Đầu năm 1946, trung thành với tôn chỉ 'minh triết bảo thân' ông tản cư về vùng 'giải phóng' Minh Lương, chẳng thèm trở về đồn điền Mỹ Lâm. Ông dư hiểu rằng các tá điền thừa cơ hội ấy đập phá nhà cửa, bắt giết trâu bò của ông nhưng ông mỉm cười: Tình thế loạn lạc, 'khôn cũng chết, dại cũng chết, biết là sống', 'mình đừng khiêu khích ai nhưng cũng đừng để ai khiêu khích mình'. Lúc tản cư, ông thấy bọn Việt Minh đã chủ trương nhiều điều sái quấy khiến ông không phục. Nghe tin ở Sài Gòn nhóm 'Nam Kỳ tự trị' phát triển ồ ạt, ông vui mừng, vượt vòng vây trở về chợ Rạch Giá, quy thuận với nhà binh Pháp và ông gặp những người bạn Pháp cũ... Ông mạnh dạn đánh điện về Sài Gòn, hưởng ứng thuyết phân ly, triệt để ủng hộ Thủ tướng Nguyễn văn Thinh nhưng đồng thời chỉ trích vài điểm quá nhu nhược của chính phủ Nam Kỳ tự trị.

Tôn chỉ của ông Nguyễn văn Nhan, tóm lại trước sau vẫn là: 'Tranh đấu cho xứ sở. Nước Nam Kỳ của người Nam Kỳ. Tự do, Hạnh phúc, Sung túc'. Nhiều người vì chưa am hiểu bầu nhiệt huyết của ông, vội trách ông là phần tử cách mạng quá khích".

Từ trong phòng, ông Henri Nhan lại trở ra, một tay cầm tấm bản đồ, một tay cầm ly rượu... Vừa ngồi xuống ghế, ông nhăn nhó:

- Chị ở đâu? Đem thêm một đôi vớ nữa cho tôi. Bữa nay sao tôi nhức bắp chân hơn mọi khi?

Trải tấm bản đồ lên bàn, ông gọi:

- Ông thơ ký... Ủa ông thi sĩ.

Nghe gọi đích danh, tôi ngẩng đầu lên:

- Thưa ông?

- Ông xem bản đồ... Điền đất của tôi, rõ ràng bao la bát ngát nào kém Domaine Agricole của Tây. Thật hãnh diện cho người Việt Nam. Mặc dầu cái "ê xen" rút lại, nó vẫn to hơn lòng bàn tay, trong khi đồn điền Tây Bẹt Te cũng chẳng lớn hơn bao nhiêu... Lẫm lúa tôi ở ngay "bon" này... Chuyến về, chắc chắn ông quan tư Ca Rê và nhà tôi đi con đường này, quẹo ra kinh này...

Tiếng phi cơ rền vang, càng rõ rệt. Hai chiếc săn giặc sơn đen ngòm tiến về phía đồn, ngay biệt thự, hạ xuống thấp để lộ màu cờ tam sắc dưới cánh rồi trở về hướng Đông bắc.

Ông Henri Nhan reo to:

- Đó, ổng đang trên đường về. Tụi máy bay đánh điện cho đồn hay. Hành quân quan trọng, đích thân quan tư Ca Rê chỉ huy, hèn gì! Dè đâu ổng lo châu đáo đến chừng đó. Chắc chắn ổng bình yên, thắng trận. Bằng không, quân tiếp viện kéo vô Mốp Giăng ầm ầm rồi. Nãy giờ, tôi mới hiểu thấu đáo câu nói của ông quan tư hồi trưa hôm qua. Khi tôi dịch câu chuyện Chúa Ngung, Ma Nương cho ổng nghe, ổng nói: "Năm 1914 - 1918 và 1940 - 1945 người Việt Nam giúp nước Pháp chống Đức. Đã đến lúc người Pháp hy sinh đổ máu giúp trở lại người Việt Nam". Ổng còn hứa đem quyển tiểu sử của tôi về Pháp để xuất bản làm tài liệu lịch sử Đông Nam Á. Tiền bản quyền khá to. Tôi sẽ tặng ông thi sĩ sáu mươi phần trăm. Nhiều điều may mắn đang đến cho tôi và cho ông thi sĩ.

Đoàn "công voa" lính Lê dương đã tới. Trên chiếc xe đi giữa, bà Henri và ông quan tư Ca Rê ngồi bên nhau, họ đưa tay ngoắt trong khi ông Henri chạy ùa đến cổng, quên xỏ chân vào dép. Hai tay ông ta dang ra như hai cánh cửa sổ mở tung đón tất cả ánh mặt trời và không khí.

Bọn Lê dương hát inh ỏi, quơ tay làm dấu hiệu với bọn trong đồn.

Ông Henri Nhan đích thân mở cổng.

Bà đi nhanh vào nhà, dáng điệu nhảy nhót, miệng nói huyên thiên:

- Bình yên, vạn sự may mắn! Ông Ca Rê giữ bo bo cái tượng đá nữ thần Ba Tư, khen ngợi rằng cái ngôi sao của tôi quá tốt. Cuộc hành quân sở dĩ được toàn thắng... nhờ nụ cười hộ trợ của nữ thần... Ba Tư tái sanh là tôi đây! Tụi Tây nịnh đầm giỏi quá.

Ông Henri cau có:

- Mình cứ nói bá láp. Tới Mốp Giăng hả?

- Ông này hỏi lạ! Phải tới đó mới về đây chớ. Nhà cửa lưa thưa như... chòm mả. Dân tá điền chạy trốn ráo trọi. Cảnh cũ mà mình nhìn không ra. Phải có mình đi theo, chắc mình khóc quá. Ông Ca Rê lại miễu để "cuổm" cái pho tượng đá, bắt một người tá điền của mình, cái ông già lên xác mọi lần đó. Ông già đó cũng bướng quá! Ông Ca Rê muốn hỏi han sự tích, ông già nhè lên xác, múa tay múa chân, đòi vặn họng Tây, vặn họng luôn cả vợ chồng nhà mình! Ông già lên xác nói rằng Chúa Ngung, Ma Nương đã tặng tất cả đất đai cho cô gái năm xưa bị chủ... Nhan ám sát... Chúa Ngung, Ma Nương nói từ bốn năm nay vợ chồng mình không cúng miễu nên bị mất quyền hạn.

Gương mặt ông Henri biến sắc, môi tái lợt:

- Cái gì? Thằng xác đó nói xấu tôi à? Nó lên xác giả, để vu cáo tôi! Nó đâu rồi! Tôi phải giết nó. Tôi phải thanh minh với ông Ca Rê. Tại sao ông Ca Rê không đóng đồn luôn để gìn giữ cái miễu như ổng đã hứa với tôi?

- Thì mình cứ qua bên đồn mà hỏi. Ông Ca Rê bắt sống lão xác đó, còng tay còng chân đem luôn về đây. Ông Ca Rê nói đất của mình vô dụng chỉ để dành trồng cỏ, nuôi rắn... chẳng nhằm địa thế quan trọng, đóng bót uổng lính.

Ông Henri Nhan chạy tất tả ra cổng:

- Điệu này chắc tôi chết mà không nhắm mắt. Để tôi qua bên đồn mắng ông Ca Rê một trận!

Nhưng "người chết không nhắm mắt" giờ phút này chính là tôi.

Chờ ông Henri khuất dạng, bà nói khẽ:

- Ông thi sĩ về đi, hết công chuyện rồi! Vọc nước giỡn trăng, tôi biết trước mà. Ông cứ lãnh thêm trăm đồng. Đừng ở đây, đừng lẩn quẩn ở Xóm Biển lâu ngày không nên. Ông già bị bắt dường như mang giấy "lách xê" địa chỉ cư trú Xóm Biển như ông.

Tôi thừ người, như đứng giữa tư bề lửa đỏ. Bà vịn vào vai tôi, nói nhanh:

- Tôi mến ông lắm, rất tiếc chưa giúp ông được gì. Bấy lâu, tôi xem ông như người em đáng thương. Ông về đi, nhớ coi chừng coi đỗi. Đừng buồn. Sự việc trước sau gì cũng chỉ xảy ra như vậy thôi!

 

 

 

 

 

Nhà lão Tư Hiếm đóng cửa chặt, đóng từ trưa hôm qua. Người lân cận nói thêm:

- Sau khi thầy ra khỏi nhà, chập sau ổng cũng đi, mang theo cái ống điếu cây ớt hiểm. Chắc là đi chơi xa.

Tôi nằm im trên giường, chẳng màng việc ăn uống. Tôi đóng chặt cửa, chẳng cần hé ra xem thử. Tôi biết rằng nhà lão Tư Hiếm chẳng bao giờ mở cửa để đón tôi nữa. Ngay chiều hôm đó, dường như có hai người lạ mặt đi ngang qua nhà lão, nhìn số nhà rồi nhìn qua nhà tôi đang ở trọ. Tôi hút thuốc, tay chân mãi lạnh ngắt. Tôi không sợ những người còn sống, tôi chỉ sợ người khuất mặt... Họ có thể gặp tôi bất cứ giờ phút nào, bất chấp cả những bức tường ngăn cách. "Đừng buồn... Trước sau gì cũng chỉ xảy ra như vậy thôi!". Câu nói chân thành ấy có lẽ chỉ an ủi đắc lực kiểu người ưa đùa giỡn như bà chủ Nhan. Đối với tôi, nói vẫn là ngụy biện. Ngoài biển đen ngòm, vài đốm sáng leo lét của loại đèn bão treo tòn ten tận chót cột buồm ghe lưới. Ghe neo lại nhưng ánh đèn rung rinh, trở thành những vì sao trong đêm tối om. Lâu lâu, vượn hú, khỉ kêu nghe thảm thiết bên rặng cây bần. Mưa lạnh lâu ngày, vin mãi trên cành, khỉ vượn vừa sợ đói vừa sợ té, rốt cuộc vẫn té vì đói vì lạnh để rơi vào miệng cọp. Đó là chuyện rừng núi. Ở Xóm Biển này, khỉ vượn chỉ bị trầy trụa, lem lấm chút ít để rồi từ bãi bùn chúng trèo trở lên cành mà vin mãi.

Sáng hôm sau, người lối xóm tri hô: Một cái xác vừa trôi vào bãi bùn, xác của lão Tư Hiếm! Cá tôm rỉa xác lão gần hết nên - ngoại trừ tôi ra - người trong xóm chẳng ai rõ lão từ đâu trôi đến và chết... vì chứng gì. Vài giờ sau, nước ròng, cái xác đó trôi ra Hòn Tre mất dạng.

Tôi chẳng dám chạy ra biển để xem. Mênh mông quá! Từ trong lỗ tai tôi, vọng ra lùng bùng nhiều câu nói khàn khàn mơ hồ. Trước mắt tôi, chập chờn vài mảnh chiêm bao. Hôm sau, tôi lìa bỏ Xóm Biển - cái quê hương tạm bợ - để đi tìm sanh kế ở thành phố khác.

Bây giờ đây, chế độ điền địa đã thay đổi hẳn, những đồn điền "cò bay thẳng kiếng" đều bị truất hữu, nông dân lần lần trở thành tiểu điền chủ. Qua bao năm chiến tranh Việt - Pháp, hàng vạn người chịu hy sinh, nào phải riêng ai. Bóng của lão Tư Hiếm phai dần trong tâm tư của tôi. Từ buổi lên Sài Gòn, tôi tập nghề viết báo, thỉnh thoảng viết bài nhận định về kịch trường; sinh kế đã tạm ổn định. Chuyện viết tiểu sử cho ông Henri ngày xưa không còn đáng nói nữa. Nhưng quả đất vốn tròn! - Xin phiền các bạn hãy ráng đọc thêm vài trương nữa, tuy nó hơi nhàm, kém hấp dẫn. Truyện Hậu Vân Tiên làm sao lý thú bằng truyện Vân Tiên hồi đầu.

Số là buổi ấy, tôi về gác trọ chợt thấy ai để sẵn trên bàn một bó hoa huệ! Từ thuở bé đến từng tuổi này, tôi chưa được người nào tặng hoa tươi cả. Hay là thiên hạ lầm địa chỉ? Dáng điệu ngạc nhiên của tôi càng khiến bà chủ nhà thắc mắc:

- Ủa! Thầy không quen với bà đó sao? Bả hỏi trúng tên thầy, dường như gởi lại phong thơ đâu đó. Bả đi xe Huê Kỳ mới tinh. Chào hỏi tử tế lắm.

Phong thơ nằm khép nép sát mặt bàn, che lấp dưới bó hoa. Bên trong, một tấm danh thiếp: Đoàn Thi Ca Vũ Nhạc Kịch "Hương Sắc 65" Giám đốc: bà Nguyễn thị Quỳnh Hương, biệt xá 3000/1 đường Trương Minh Ký Sài Gòn.

Gánh Hương Sắc thuộc vào hạng nhỏ lưu diễn miền lục tỉnh, năm ngoái về Sài Gòn hát ba đêm nhưng chẳng gặt hái kết quả tài chánh khả quan nào. Nghe đâu sau chuyến Trung du, đoàn lên Kontum, rã tại đấy từ hồi tháng sáu. Bà Nguyễn thị Quỳnh Hương là ai? Gánh hát nào mới lập đây? Bức thơ kèm theo tấm danh thiếp giúp tôi hiểu rõ.

Thân gởi ông Hoài Hương

Ký giả Kịch Trường,

Nhận được thơ này chắc ông hơi ngạc nhiên nhưng xin phép ông cho tôi tự giới thiệu; tôi là bà Henri Nguyễn văn Nhan ngày xưa ở Rạch Giá. Trong thời gian gần đây, tôi hân hạnh thấy ông tiến nhanh với những bài phê bình sắc bén. Đoàn "Hương Sắc 65" đang trên đà thành hình và hy vọng rất nhiều nơi thiện chí của ông để góp phần xây dựng sân khấu nước nhà. Nhà tôi vẫn thường nhắc nhở, gặp ông nhà tôi mừng lắm. Trưa mai, xin ông vui lòng đến nhà tôi dùng buổi cơm thân mặt để ôn lại những thời gian qua...

Giai thoại Chúa Ngung, Ma Nương, cái chết của Tư Hiếm, chuyện chuột, bưng sen bỗng nhiên bừng sống dậy. Tôi hút thuốc liền miệng, nhớ tới những trang giấy nháp do tôi viết hồi xưa. Bữa cơm trưa mai nhứt định gây chút ít hiểu lầm. Vài bạn ký giả sẽ hồ nghi rằng tôi sắp bẻ cong ngòi bút, chuẩn bị nâng đỡ đoàn hát của bà Quỳnh Hương một cách thiếu vô tư. Nhưng tôi bất chấp dư luận ấy. Tôi muốn gặp ông Henri Nhan để hiểu rõ về cái chết của lão Tư Hiếm, về cái miễu ở Mốp Giăng. Bao nhiêu nước chảy qua cầu... chắc ông ta sẵn sàng nói riêng với tôi tất cả sự thật.

Ngôi biệt của vợ chồng ông Henri Nhan chiếm khu đất hơi rộng - tuy bé hơn cái bất động sản ngày xưa ở Rạch Giá. Mười giờ sáng, tôi đã rón rén tới cổng, đứng ép mình, thử quan sát bên trong. Vóc dáng của ông Henri làm sao tôi quên hoặc lầm lẫn với kẻ khác! Dưới dàn hoa thiên lý mát rượi, ông ngồi hút thuốc, chân mang vớ tận gối, đội chiếc bê rê đen (chắc là để che cái đỉnh đầu sói sọi). Giữa sân, hai hòn non bộ đối diện, "hai hải đảo thần tiên" thì đúng hơn vì có nước bao xung quanh. Dưới đáy hải đảo, ông đã xây một chốn thủy cung dành riêng cho loại cá vàng, cá sọc... Bỗng dưng, ông búng hai ngón tay nghe "tróc, tróc". Từ bên kia nhà, một con chó caniche chạy tung tăng ra sân. Nó kéo khệnh khạng một kiểu xe mà các tướng La Mã thời xưa thường dùng khi ra chiến trận. Trên chiếc xe hai bánh ấy, một con búp bê tí hon nằm ngửa, kê trên gối gòn. Ông Henri nói lẩm bẩm vài câu tiếng Pháp. Con chó dừng bước, quay bên phải, bên trái... Tôi thương xót cho tuổi già của ông: trò chơi ấy ngụ nhiều ý nghĩa! Ông ao ước sẽ có một đứa con trai để nối dõi - nỗi ao ước gần như tuyệt vọng. Lúc điều khiển con chó, hàm râu ông nhếch lên, khoái trá như người hát xiếc đang chế ngự một con sư tử hung hăng nhứt thế giới!

- Chào ông chủ! - Tôi mạnh dạn lên tiếng, chẳng bợn chút tự ti mặc cảm. Thời nay khác thời xưa. Nếu ông chủ Nhan "đã" là một nhân vật thì tôi đây "đang"... là một nhân vật đến viếng theo lời yêu cầu của chủ gia chớ nào phải vì muốn xin công việc làm.

Qua vài câu hỏi thăm, ông nói:

- Nhà tôi đi kêu đào kép, mướn họa sĩ, giao thiệp với ký giả. Tôi đau yếu hoài, ngồi nhà đóng vai tuồng của... một cây nêu!

Ông nói tiếp:

- Thời buổi tân tiến này không cần dựng cây nêu trước sân, thiên hạ vẫn cứ ăn tết vui vẻ rộn rịp như thường. Ở thành thị, thôn quê gì cũng vậy, phải không ông thi sĩ. Tôi là cây nêu trong nhà!

Tôi đỡ lời ông, liếc mắt qua bàn giấy:

- Ông vẫn là người hữu dụng cho xã hội, nếu ông muốn. Dường như ông đang viết...

Ông thở dài:

- Tôi dự định viết hồi ký, theo kiểu Thủ tướng Churchill nhưng còn trong vòng chuẩn bị, nghiên cứu thêm về triết học Đông Tây, rút vài kinh nghiệm lưu cho hậu thế. Đâu như cái "tiểu sử" hồi xưa, ông quên giùm tôi, đừng nhắc lại.

Tôi chụp lấy cơ hội tốt ấy:

- Trong thiên hồi ký bây giờ, tôi tin rằng ông còn dành ra mươi hàng để nói về chuyện Chúa Ngung, Ma Nương, quan tư Ca Rê và... tôi.

- Từ sáu bảy năm nay, tôi ao ước gặp ông để thanh minh, kẻo ông hiểu lầm. Người trẻ tuổi như ông đôi khi hẹp lượng! Thật ra, giới đại điền chủ ở Hậu Giang rất hiền hậu, so với các "anh hùng hảo hán" đi chinh phục... đất hoang ở Mỹ hoặc Nam Mỹ Châu hồi thế kỷ thứ mười tám.

- Tôi hiểu rồi, nhưng còn cái tích Chúa Ngung, Ma Nương đầu đuôi ra sao? Trong miễu thờ pho tượng gì?

- Chuyện dài lắm, ông hãy nằm trên chiếc ghế "phô tơi" nghỉ lưng. À, vài tháng sau cuộc hành quân Mốp Giăng hồi xưa, ông Ca Rê đổi ra Trung Kỳ, tử trận ngoài ấy. Pho tượng đã được gởi về Pháp trước đó một tháng. Ông Ca Rê bảo là tượng người nữ tỳ cầm thếp đèn nhưng đã gãy tay, thuộc mỹ nghệ Ba Tư, sản xuất tại Óc Eo, chân núi Ba Thê từ thế kỷ thứ ba, thứ tư sau Tây lịch...

° ° °

Bấy giờ, tôi mới hiểu tục lệ cúng Chúa Ngung, Ma Nương gọi một cách văn chương là lễ "tá thổ". Theo lời ông Henri Nhan kể thì bốn chữ ấy chỉ tạm ghi lại bốn âm thanh khó đọc: "Chu Ngun, Me Nang", tên đôi vợ chồng ma quái. Chẳng ai rõ tục lệ đó đã có từ thuở nào. Họ là hai vợ chồng nên phải chọn hai người lên xác. Xác "lên" nói thứ tiếng khó hiểu, đòi ăn mắm sống và rau răm. Chủ điền phải xin phép mướn đất với hai vợ chồng Chúa Ngung, Ma Nương vì mảnh đất hiện tại, mặc dầu còn bỏ hoang ít nhiều, vẫn thuộc quyền sở hữu của vợ chồng họ từ ngàn năm trước. Năm đó, sau khi khẩn đất, ông chủ Nhan đến Mốp Giăng công bố cho ai nấy biết quyền hạn của ông. Nông dân nhôn nháo lên phảm đối. Để hợp thức hóa về mặt địa bộ đối với nhà cầm quyền Pháp, ông chủ Nhan mướn lập tức một viên kinh lý để ông này đến tận Mốp Giăng thi hành việc đạc điền, với sự yểm trợ của bốn người lính mã tà. Cuộc tranh chấp diễn ra nhưng ông chủ Nhan viện cớ, đi vắng mặt. Trong khi ấy, viên kinh lý cứ ung dung bố trí "bông tiêu" đặt ống kính để nhắm, đo đất.

Số nông dân bèn giết heo ăn thề, uống rượu giữa trời. Bỗng nhiên một cô gái tên là Thừa chạy tới đứng sát vào ống kính để che lại. Viên kinh lý nói khẽ:

- Con nhà ai kỳ quá vậy. Đi dang ra xa để người ta làm việc... Mấy chú lính mã tà đâu rồi? Chúng ta cứ thừa hành phận sự do ông Henri Nhan giao phó, được quan Thống đốc Nam Kỳ chuẩn y.

Một chú lính mã tà nói giọng khiêu khích:

- Cô này mần cái gì ngộ quá ta... Để quan kinh lý nhắm máy. Đi dang ra. Muốn chồng hả? Chịu làm bé tôi không?

Cô gái quát to:

- Tôi đứng đây hoài, tôi không chịu thua mấy người đâu!

- Cô ăn thua với Tây hả? Thử ăn thua coi?

Anh lính mã tà nói chưa dứt lời, cô gái đột nhiên cởi toạt tất cả mớ y phục lem lấm của mình.

Đôi mắt quan kinh lý rời khỏi ống nhắm trắc địa, ông giận run lên:

- Làm cái gì kỳ vậy? Trần truồng như nhộng, giữa đám đông cô chẳng biết mắc cỡ à?

Cô gái đáp:

- Mắc cỡ cái gì? Hễ cái miệng đói thì cái "mông" cũng chết! Xưa nay, chưa có người nào chết đói mà cái "mông" còn sống được. Tôi làm vậy đó. Không mắc cỡ gì hết.

Tuy nhiên, hai hôm sau, việc đạc điền vẫn hoàn tất. Tên mã tà bèn giết lén cô gái vô lễ nọ rồi hắn đến gặp ông Henri để xin chút ít tiền thưởng.

... Nghe câu chuyện thương tâm ấy, tôi thầm phục tinh thần của phái yếu. Lắm khi, họ gan dạ hơn phái mạnh, bất chấp gươm súng của thực dân Pháp - như cô gái nọ là một thí dụ.

Tôi hỏi nhanh:

- Mồ mả cô gái còn không? Tên sát nhơn ấy bây giờ ở đâu?

Ông Henri Nhan mỉm cười:

- Xin lỗi, hay là... ông thi sĩ nghi ngờ chánh phạm là tôi?

Tôi cau mày:

- Ông hơi nóng. Tôi xin lỗi ông đó. Hồi xưa, ông đâu cần đích thân xách dao, đâm lén một thiếu nữ tay không... Tôi nghi ông để làm gì?

Ông Henri Nhan gật đầu:

- Ông thi sĩ tin tôi, lẽ đâu tôi chẳng nói tiếp. À, sau khi lãnh tiền thưởng, tên mã tà sát nhân đó về chợ Rạch Giá. Hai ngày sau, cái thây cô gái nổi sình trôi tấp trước nhà tôi. Bấy giờ lão Tư Hiếm mới xuất hiện. Hồi ở Xóm Biển chợ Rạch Giá, Tư Hiếm là người tri kỷ của ông! Điều ấy rất tiếc... tôi và ông quan tư Ca Rê biết hơi muộn!

- Nhờ mấy ông xem lại địa chỉ cư trú ghi trong giấy "lách xê" của lão ta chớ gì?

- Lão Tư Hiếm thua cờ bạc, tới gặp tôi để bày kế lên xác Chúa Ngung, Ma Nương, "dựng đứng" cái pho tượng đá trong miễu. Nhờ vậy đân tá điền lần hồi sống an cư lạc nghiệp... Liên tiếp mấy năm liền, lão ta trở thành nhân vật chuyên nghề lên xác Chúa Ngung, Ma Nương, coi quẻ tử vi cho dân trong điền. Năm 1946, lão ta tản cư ra chợ Rạch Giá, chẳng hề gặp mặt tôi. Lão còn sống dai hơn, nếu lão không gặp mặt ông.

Tôi giựt mình:

- Ông nói gì?

- Tôi nói: Chính ông thi sĩ đã giết lão ta mà không cần gươm súng!

Cố nén cơn tức giận, tôi suy nghĩ hồi lâu rồi nói to:

- Tôi nhớ rõ lắm. Khi đoàn "công voa" từ Mỹ Lâm rút về đem sự thất vọng cho ông, ông chạy lập tức qua đồn Lê dương, vừa chạy vừa tuyên án xử tử lão ta. Bà ở nhà có thể làm chứng điều ấy... nếu bà còn nhớ. Đành rằng tôi vô tình tiết lộ cuộc hành quân cho lão biết trước. Nhưng giữa tôi và lão, nào ai thù oán ai mà ông lý luận như vậy?

- Xin lỗi ông thi sĩ, chuyện xưa rồi. Nói lại mà nghe vậy thôi. Trong thực tế, nếu ông không đến bàn luận với lão thì chắc chắn lão vẫn sống ở Xóm Biển chợ Rạch Giá hoài hoài. Ông nên nhớ rằng trước khi đem bắn, tụi Tây tra tấn lão, lão có nhắc tới tên ông! Bằng không, ông đã bị bắt ngay rồi bị bắn thả trôi sông một lượt với lão... Kể từ đó, ông Ca Rê sanh nghi, luôn luôn theo dõi mọi hành động của tôi. Một phần vì ông ta đã "giữ" pho tượng trong tay rồi. Phần khác, vì tôi đã "ngụy biện" để cứu sinh mạng cho một thi sĩ...

Tôi đứng dậy, đi tới đi lui:

- Thà tôi chết hồi đó một lượt với lão Tư Hiếm còn sướng hơn... sống mà nghe ông kể ơn. Té ra bấy lâu nay tôi vô ơn bạc nghĩa quá. Nếu... trúng số độc đắc, tôi đúc ngay một pho tượng kỷ niệm để chưng trong phòng... Tượng một người bé nhỏ - là tôi - đang đứng khom lưng cõng đội ơn một người to lớn - là ông.

Ông Henri Nhan cười giòn:

- Ông thi sĩ nói vậy quá đáng, tội nghiệp tôi quá. Tôi nào xứng đáng.

Tôi gắt gọng:

- Vậy thì tôi đúc ngược lại một người lớn tuổi - là ông - khòm lưng nâng đỡ trên vai một người bé nhỏ - là tôi - Chúng ta đạp trên cái xác bằng đồng của lão Tư Hiếm đang nằm úp mặt xuống đáy biển. Lão mới là chánh phạm của cuộc cãi vã hôm nay!

Ông Henri Nhan nổi giận lên, từ từ rút khăn chậm mấy giọt mồ hôi trên trán và chùi mớ nước miếng sùi hai bên mép. Tôi ngỡ rằng ông định mở loạt đả kích khác, nhưng tôi lầm to. Nụ cười bỗng dưng nở trên môi ông ta, hiền hòa hơn bao giờ hết.

Có tiếng dép lẹp xẹp. Mặt tôi chưa kịp quay lại, hai bàn tay mềm mại nào đã nhanh nhẹn bịt mắt tôi, tuy thân ái nhưng bịt quá chặt.

Tôi nói nhanh:

- Trời! Bà chủ chớ ai. Buông hai bàn tay ra.

Bà cười với hai núm đồng tiền thuở nào:

- Tôi biết ông chờ tôi! Giận tôi không? Giận lắm chớ gì? Tôi mời cô đào Thiên Thai để chuộc cổ về làm đào chánh. Tôi về nãy giờ nghe hai người... đàn ông "đấu lý" chuyện đời xưa... Ông đừng phiền nhà tôi. Tánh ổng lẩm cẩm lắm. Hồi sáng, tôi nhắc chừng ổng nên đón rước... nhà cố vấn tương lai để bàn bạc về cốt tuồng chủ lực của đoàn "Hương Sắc 65". Dè đâu, ổng gợi chuyện đâu đâu, lạc đề ráo trọi.

- Thưa bà, cũng chẳng lạc đề cho lắm, ổng với tôi...

- Tôi hiểu, thôi mời ông thi sĩ đến phòng ăn, cô Thiên Thai chờ nãy giờ.

Thiên Thai thuộc vào hạng đào cải lương trẻ tuổi, tuy mới vào làng độ ba năm nay nhưng - theo nguồn tin của các thông tín viên kịch trường - cô được tổ đãi, "sáng sân khấu". Cô cúi đầu chào... Trông gương mặt trái xoan ấy, tôi nhớ mang máng đã có lần mình viết tiểu sử cho cô, kèm theo những câu phỏng vấn và trả lời theo tưởng tượng... Hồi đó lúc đoàn "Phim Nhạc" lưu diễn tại Bà Rịa, cô gởi thơ về tòa soạn, than phiền sự "nâng đỡ" của "quý báo", kèm theo bức ảnh ngây thơ chụp nghiêng với mái tóc thề trôi chảy trên vai. Giờ đây trông cô hơi khác, áo dài nylon cổ đứng, mí mắt tô đậm gần giáp chân mày, tóc cắt đều phủ ngang trán theo kiểu Ai Cập.

Bà Henri nói luôn mồm:

- Công chúa Ba Tư đó! Đẹp hơn pho tượng đá... Thôi, hai ông uống rượu, thông cảm, xây dựng phải không cô Thiên Thai? Hồi ở nhà quê, mỗi năm mình chỉ uống một lần rượu vào hồi đầu xuân để quên hờn giận quá khứ, bắt tay nhau làm ăn bước qua năm mới. Bây giờ, suốt ngày hiểu lầm lu bù, thông cảm lu bù. Bà bầu đoàn "Phim Nhạc" thắc mắc tôi về chuyện "bắt đào bắt kép". Tôi phải rủ bà đi ăn Chợ Lớn chiều mai. Rồi mấy anh ký giả phiền tôi về việc vận động lập gánh mà không kèn không trống... Tôi phải giải thích hồi lâu, muốn về nhà hồi 11 giờ mà lóng nhóng tới bây giờ...

Uống xong ly nước ngọt, cô Thiên Thai kiếu từ; bà Henri đưa cô ta ra sân, nói nhỏ to. Tôi thấy họ cúi đầu chào nhau đến bốn chập rồi bổ túc lai rai câu chuyện để từ giã lần chót tại cổng.

Bà Henri trở vào, nhìn chồng:

- Sao? Ông xúc tiến kẻo trễ. Tôi đã nhờ báo chí loan tin thành phần đào kép, chuyên viên ánh sáng, soạn giả... rồi đó.

Ông Henri thở dài:

- Tôi muốn ra mắt tuồng "Sự tích lầu ông Hoàng ở Phan Thiết".

Bà Henri nguýt dài, nói với tôi:

- Ông ký giả thử nghĩ. Nội cái tựa của ổng nghe đủ lỗ vốn rồi. Phải sửa cái tựa lại. Còn về hình thức thì... khó thực hiện. Toàn là nhân vật Tây với đầm thuộc địa thời gian gần đây. Phải Tây với đầm hồi thế kỷ 17, 18 họa chăng! Nhà tôi ưa... thực dân "một cây" nhưng cũng khoái kể công đánh thực dân của mình!

Vẻ mặt ông Henri vẫn lạnh lùng:

- Cần cái nội dung hơn, vả lại chuyện lầu ông Hoàng ở Phan Thiết gây cho tôi nguồn cảm hứng... mặc dầu tôi bất tài. Mời bà con cầm đũa, tôi uống rượu kể chuyện cũng no.

Trước khi vào chuyện, ông Henri trình bày sơ qua phần triết lý của vở tuồng, thứ triết lý mà ông đã phát minh sau khi lê gót phiêu lưu khắp các thắng cảnh miền Nam. Dưới mắt ông, vùng Cao Nguyên tuy hùng vĩ nhưng gió núi mưa ngàn đem sự lạnh lẽo cho tâm hồn. Bãi biển Vũng Tàu quá sang trọng, ngoài khơi thiếu vài hòn đảo nên du khách ngỡ mình rơi vào cái hố dục vọng mênh mang đại hải! Nhưng bãi Phan Thiết với lầu ông Hoàng hoang phế đã đem lại cho ông Henri một giấc mơ hoa, vì vậy vở tuồng cải lương của ông đang dự trù soạn thảo sẽ lấy tựa "Một giấc mơ hoa" hay là "Lầu ông Hoàng ở Phan Thiết". Ông Hoàng tức là Công tước De Montpensier, thuộc dòng hoàng tộc bên Pháp. Ông ta đi ngao du khắp thế giới, trên chiếc du thuyền đặc biệt; đến mỗi nơi, ông mướn vài người dân bổn xứ: da đen, da vàng, da đỏ... Những công dân này đi theo du thuyền, ăn lương tháng. Nhiệm vụ của họ rất đơn giản: mỗi buổi sáng, khi ông Hoàng thức dậy, ban nhạc hoàng gia thổi kèn... Họ đến chào mừng cung kính, chúc ông vui vẻ... vậy thôi! Cứ đến một thắng cảnh, ông Hoàng cất một nhà nghỉ mát cực kỳ sang trọng; cất sẵn để đó chờ đôi ba năm sau viếng trở lại một lần. Năm nọ, ông Hoàng viếng bãi biển Phan Thiết. Quan Công sứ Phan Thiết lúc bấy giờ là người thuộc phái Bảo Hoàng đã tổ chức đón rước trọng thể rồi quỳ xuống hôn tay ông Hoàng, gọi ông là Hoàng thượng... Vì mến cảnh mến người, ông Hoàng thích ý xuất tiền xây cất một biệt thự trên đồi để sống với người tình nhân từ Paris sang. Ngày ăn lễ lạc thành, ông Hoàng bày cuộc đốt pháo bông, đâu từ chín giờ đến hai giờ đêm. Dân chúng đứng xem mỏi mắt rồi nằm ngửa, nhìn mãi đêm thiên đường bất tận... Thế rồi người tình nhân ở lại biệt thự, ông Hoàng tiếp tục cuộc viễn du, cất thêm biệt thự mới, tìm thêm tình nhân mới. Lúc ông vắng mặt, hàng ngày bồi bếp vẫn tiếp tục trải nệm, rót nước, dọn thức ăn rồi giũ nệm, rửa chén bát như khi ông vẫn còn sống ăn uống tại đấy!

Nhưng cô tình nhân nọ lén tư thông với một người Pháp. Ông Hoàng hay tin ấy bèn phái một thủ hạ từ Paris qua Phan Thiết. Tên thủ hạ rình giết tại trận cả đôi gian phu lẫn dâm phụ rồi lên máy bay về Pháp. Báo hại ông Công sứ Phan Thiết phải lo việc tống táng...

Bà Henri Nhan lắc đầu:

- Chuyện nực mùi thực dân, khó ăn khách... Tôi nói nhiều lần rồi.

Ông cãi lại:

- Bà không chịu thời thôi. Tôi có quyền thích chuyện đó!

- Bởi vì ổng tưởng mình là ông Hoàng! Phải không ông thi sĩ. Ông tính sao mà nãy giờ cứ ngồi êm ru cười mím chi hoài vậy?

Tôi trả lời, tránh mọi hiểu lầm:

- Bà làm bầu gánh, quyền ấy của bà. Tuy nhiên, ý kiến của ông cũng đúng. Muốn viết, cần phải cảm hứng, dùng nhân vật để giải tỏa nỗi thắc mắc thầm kín của mình.

Bà nói:

- Vậy thì dễ quá. Ổng thắc mắc về cái vụ bị nghi oan giết người, ngày xưa. Tại sao chẳng đem sự tích đó soạn thành tuồng cải lương, xóa bỏ thù oán! Đôi trai tài gái sắc ở hai nước Ba Tư, Hy Lạp gì đó hiểu lầm nhau, họ xua quân ra trận, rốt cuộc chàng và nàng bị thương tích nhưng đôi trai gái gặp nhau, ăn năn hối hận. Rồi cả hai từ bỏ ngai vàng điện ngọc, ra đi với mối tình cao thượng. Sẵn đây, tôi dám nhờ ông thi sĩ soạn tuồng đó cho đoàn "Hương Sắc 65" của tôi... Nội dung như vậy, vừa hư vừa thực, vừa vô lý nhưng vừa hữu lý, khán giả chịu lắm. Chớ tuồng "Lầu ông Hoàng" của nhà tôi thật khó diễn quá. Chẳng lẽ ông Công sứ thực dân với ông Hoàng đều là người thiện? Khán giả bực mình.

Tôi lưỡng lự, hẹn về suy nghĩ rồi trả lời sau.

Bà Henri đưa tôi ra sân:

- Gấp lắm! Ông cứ hứa cho tôi mừng. Đừng nghe lời ổng. Gánh hát này quyền hạn hoàn toàn do tay tôi nắm. Tôi định nhờ ông, từ cả tháng nay.

- Bà nên tìm soạn giả khác, chắc ăn hơn.

- Nói gì chuyện đó. Vài soạn giả đã tới thương lượng rồi. Nhưng ông à, ông tin tôi không? Bao giờ tôi cũng muốn giúp ông, xem ông như em ruột trong nhà, cùng một quê quán.

Sực nhớ chuyện xưa, tôi bồi hồi cảm động:

- Tôi tin bà lắm chớ. Nếu hồi đó bà quên chú ý mở cổng thúc giục tôi về gấp thì...

Bà cười giòn:

- Ông gợi lại chuyện "quốc sự". Thôi đi. Tôi chẳng hân hạnh gì khi nhớ tới quan tư Ca Rê. Phải nhà tôi đừng ghen bóng ghen gió, có lẽ tôi giàu hơn bây giờ nhiều. Tôi đâu dám thi ơn với ông, buổi xưa đó.

- Đành vậy, nhưng nếu bà vô ý thì ngày nay...

- Ngày nay, thiên hạ cũng như vậy, ông à!

- Nhưng tôi đã chết lãng nhách. Tôi mang ơn bà nhiều hơn là... mang ơn ông. Thú thật với bà, hồi nãy giận quá chẳng lẽ...

- Hơi đâu chấp nhứt ổng. Ổng dồn ép trái "bôm" từ chục năm nay để "nổ" ra "lấy le" với ông. Ngôi sao của ổng lu rồi. May là ổng nghe lời tôi, bán đất cho tá điền trước khi bị truất hữu. Ông nghĩ coi, thường bữa ổng ra sân bới từng cọng rác... để làm vệ sinh, giành công việc với người ở. Đi ngoài đường phố, gặp miểng ve chai, ổng cúi xuống lượm lên, giành sở làm của phu lục lộ. Lẩm cẩm quá. Một cái tai nạn cho tôi. Ổng lại giỡn, nuôi chó kéo xe... La Mã.

Tôi cúi đầu chào bà Henri. Bà giả bộ trợn tròn đôi mắt rồi cười:

- Nhớ viết sơ cái cốt chuyện nghe. Trùm chăn tối ngày như ông, làm ăn khó tấn lắm. Tung chăn, tìm không khí mới một lần xem sao. Đời mà, mình cần tìm sự hồi hộp để sống. Ông ráng viết sao cho ổng vui.

Tôi đáp:

- Dạ, viết chớ. Về nhà viết liền rồi đem lại cho bà.

- Chiều mốt tôi tới nhà ông, dễ hơn. Đúng hẹn nghe!

 

 

 

 

 

"Hồi thế kỷ thứ mười sáu, Ba Tư là một cường quốc thâu gồm cả địa phận Trung Đông. Nhơn buổi lễ Du Xuân, nam thanh nữ tú rủ nhau múa hát, mừng tiết hoa hồng nở và tế thần Mặt Trời. Chàng Mai Kha tình cờ gặp nàng Y Liên. Quá cảm mến cô bạn gái, chàng trao tặng cho nàng một sợi dây chuyền có nửa mảnh tim vàng. Nàng Y Liên thẹn thùng, mắng chàng. Nhưng người quản gia hối thúc, Mai Kha lên ngựa về để nàng Y Liên ở lại với sợi dây chuyền kỷ niệm.

Thời gian trôi qua. Đế quốc Ba Tư tan rã. Cha của Mai Kha thừa cơ loạn lạc, soán ngôi, xưng hoàng đế. Cha của Y Liên đến vùng sơn cước xưng vương, chống lại chánh quyền trung ương. Mai Kha trở thành hoàng tử, thống lãnh hai vạn tinh binh đến bình định miền sơn cước.

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Hoàng tử Mai Kha chiếm căn cứ địch quân, thắng trận nhưng bị gãy cánh tay. Chàng hạ lệnh bắt tất cả gia quyến của đối phương, đem về kinh đô làm nô lệ. Trong lúc kiểm điểm hàng ngũ quân thù, đột nhiên Mai Kha nhận ra Y Liên nhờ sợi dây chuyền nửa mảnh tim vàng thuở nọ. Nàng ném sợi dây chuyền trả lại. Nhưng quá đau xót, hoàng từ Mai Kha giao quyền cho viên phó tướng, bảo ông ta cứ đem binh về. Chàng nguyện ở lại miền sơn cước này, chắp nối cuộc yêu đương dang dở với Y Liên. Lúc vua cha dự lễ khải hoàn, khao quân tại kinh đô thì ở miền xa xuôi Mai Kha và Y Liên âu yếm trong tuần trăng mật. Tuy chàng bị gãy tay, nàng bị tan nát gia đình nhưng đôi lứa tha thứ cho nhau, thề sống cuộc đời thường dân. Năm sau, mùa tế thần mặt Trời vua cha băng hà. Thần Mặt Trời bỗng nổi giận, khiến núi lửa dậy lên! Trào thần hoảng sợ đến tận miền biên cương nài nỉ rước đôi uyên ương về. Mai Kha lên ngai vàng. Y Liên nghiễm nhiên làm hoàng hậu. Từ đấy, xứ Ba Tư chẳng còn cuộc loạn lạc nào cả. Vì dân chúng ở kinh đô và ở miền sơn cước đều toại nguyện với đức vua và hoàng hậu".

Thảo xong hai trang giấy, tôi đặt lưng xuống ghế bố, vừa mới lim dim đôi mắt chợt nghe tiếng chân bà chủ nhà đi lên gác.

- Thầy ơi! Bà tặng hoa hôm nọ muốn gặp mặt thầy.

Tôi dụi mắt:

- À, mời bà ấy ngồi tạm ở dưới. Tôi xuống bây giờ.

Nhưng bà chủ nhà vội trở lên:

- Bà ấy đòi lên gác... Ủa! Bả tới kìa!

Bà Henri cười nói huyên thuyên:

- Tôi muốn viếng cái gác trọ này lần thứ hai. Hôm trước, tôi đường đột tới tặng hoa. Hôm nay chắc hết đường đột rồi, phải không ông soạn giả? Tôi không tặng hoa nhưng tặng món khác thiết thực gấp trăm lần bó hoa. Viết xong chưa ông?

Tôi đáp:

- Mời bà ngồi. Bà xem thử, trên bàn... Nét mực vừa mới khô.

Bà liếc xem nhanh. Tôi hỏi dồn tới:

- Được không bà? Đại khái như vậy. Nhờ bà giúp ý kiến. Chắc ổng chịu lắm.

- Quá xá hay rồi. Bây giờ ông cho tôi mượn đem về cho nhà tôi coi chơi. Rồi ông cầm giùm cái bao thơ này.

Tôi nói nhanh:

- Bà đưa chi gấp quá vậy? Đoàn hát mới trong vòng vận động thành lập... Hay là để tôi viết biên nhận.

Mở bao thơ ra, tôi đếm những mười tấm giấy năm trăm. Bà Henri cười giòn:

- Biên nhận làm gì? Chỗ bà con.

Suy nghĩ một giây, tôi nói:

- Bà lấy lại bớt hai ngàn. Tôi mượn tạm ba ngàn đủ rồi.

Bà tiến tới vỗ vai tôi:

- Trời! Ông này thiệt lạ đời... Xưa nay người ta cứ muốn mượn thêm, còn ông thì đòi trả bớt! Tôi không chịu đâu. Nếu vui vẻ, ông cho tôi mượn lại tất cả, rồi ông móc tiền túi cho tôi mượn thêm năm ngàn nữa... Nói cho vui, ông đừng giận nhé! Lát nữa tôi dùng cái bản thảo này để ăn nói với người bỏ vốn hùn lập gánh hát. Tôi mua xác gánh hát cũ và lo ngoại giao. Phần của họ, chuẩn bị tiền bạc ăn tập để khai trương... Ông có thể đi với tôi lại... nhà bà chủ nợ đó cho vui. Cô Thiên Thai chiều nay ở đó. Cổ nhắc tên ông hoài.

- Dạ để dịp khác, chiều nay tôi bận việc.

- Việc gì quan trọng dữ vậy? Ông nằm trùm chăn ở đây để tìm cảm hứng à? Tôi biểu ông ra đi... cho sát thực tế!

- Thôi, cám ơn bà.

- Hay là ông ngại nói chuyện khào với "bầu bì", chủ nợ và nghệ sĩ cải lương đợt sống mới... Tâm lý chung, người cày ruộng ở nhà quê ghét Huê kiều mua bán lúa! Hồi đó, nhà tôi cũng như ông! Nhà tôi bây giờ cũng ngồi chơi hòn non để mà ghét cay ghét đắng những người bạn đang làm xuất nhập cảng...

Ngoài đường hai tiếng "tin, tin" vọng tới, thúc hối. Bà Henri vội chào:

- Để tôi đi rồi mai chiều tôi tới đây. Ông ở nhà vào khoảng nào? Tôi đi xe của người bạn, họ chờ đó.

Gác trọ thay đổi không khí. Tôi vừa mừng vừa ngại. Dường như tâm trí hơi bứt rứt. Lúc tôi túng thiếu, số tiền năm ngàn đồng hơi bất ngờ này chưa hẳn... quá to tát. Tôi bỏ nó vào bốp, nhứt định chiều nay đem xài cho sạch túi vì nó giống như của hoạnh tài! Bỗng nhiên tôi vặn ngược câu hỏi: "Biết đâu mình đã bán cái cốt truyện và nhứt là cái sĩ diện của mình với một giá quá rẻ mạt". Tôi hơi chủ quan chăng? Sĩ diện của tôi bán với giá đó là được rồi đấy, ai dại khờ gì mua nó với giá cao hơn! Nhưng câu trả lời vẫn chưa ổn. Có lẽ tôi hối tiếc bao nhiêu kỷ niệm, những kỷ niệm vô giá. Xóm Biển chợ Rạch Giá, thời chiến tranh Việt - Pháp. Những người đàn ông đánh đáo lạc, ăn thua bằng cách cõng nhau. Những chiếc ghe biển nằm nghiêng trên bãi bùn, giương đôi mắt bịnh hoạn. Hòn Tre ngoài xa xa, cái lon sữa bò đầy gạo để cắm nhang trong nhà lão Tư Hiếm. Xác lão Tư Hiếm bập bềnh trôi... Ban nãy, bà Henri vui vẻ, chiều chuộng tôi với thái độ "đàn chị", rồi "cả gan" nhưng thành thật liệt tôi vào hạng "trùm chăn", giống như người cày ruộng ở nhà quê và ác hại hơn giống như ông Henri, con người lạc hậu về mọi mặt...

Tôi vỗ trán rồi gọi xe, đến tiệm kem. Ngồi đó, đầu óc tôi vẫn mơ màng. Mọi khi, tôi ưa sống kiểu "quê mùa, trùm chăn", như bà Henri nói. Bà Henri vốn có nhiều kinh nghiệm trường đời, hơi lớn tuổi hơn tôi, chẳng lẽ bà nói bậy hoặc dùng sai danh từ? Bây giờ tôi thử tung chăn ra, thử bỏ thái độ quê mùa (mặc dầu tôi chưa bao giờ cày ruộng), bỏ thói suy nghĩ vẩn vơ - nghĩa là mình chỉ nên chú ý tới đời sống của mình và những vui sướng mà mình có thể vói tới, ngay trong buổi trưa nay. À! Cô ngồi giữ tủ tiền trông đáng yêu với mái tóc xõa, rối rắm một cách công phu. Bức tranh vẽ cây dừa và mấy chòm sao trên vách tường đưa tôi tới đảo Hạ Uy Di, đêm trăng. Người qua lại dập dìu trên hè phố, tôi chỉ nên ngắm họ như ngắm một bức tranh lọng kiếng, đừng đặt những giả thuyết quá phức tạp về đời tư của họ! Cô bạn học năm xưa giờ đây ở tận Biên Hòa, chưa chồng; tôi viết thơ mời cô ta về Sài Gòn gấp chúa nhựt này để cùng nhau tìm hiểu tâm sự. Mượn thêm tiền của bà Henri kẻo bỏ lỡ cơ hội! Mua một căn nhà đủ tiện nghi hơn. Thỉnh thoảng lật báo xem tử vi, mua đủ thứ sách thuộc loại bách khoa xem chơi, để hiểu sơ qua mọi vấn đề. Mua một bức tranh in lại của Van Gogh, bức tranh vẽ hoa quỳ vàng rực ánh mặt trời, treo trong phòng để tâm hồn mình luôn luôn được sưởi nóng trong... cô độc.

Tôi mỉm cười, bẽn lẽn, tự nhận rằng mình còn gượng gạo! Bỗng nhiên, kèn trống nổi lên, đờn cò trổi điệu Xuân Nữ. Bên kia đường, chiếc xe tang đi chầm chậm, tấm triệu cao nghệu dẫn đầu. Mọi hôm hễ gặp bất cứ đám ma nào, tôi đi nhanh tới, bùi ngùi xem tên tuổi người chết, suy nghĩ vấn đề sanh lão bịnh tử. Trưa nay, tôi cố gắng ngồi im từ bên này đường mà ngó qua, đại khái.

Tôi gọi một ly cà phê đen... rồi nhìn mấy giọt nước đen nhểu xuống... Hơi nước sôi đọng vào thành ly. giống như giọt nước mưa trên cửa kiếng (chớ không giống như giọt nước mắt ngoài kia). Gợi được sự so sánh ấy, tôi thấy mình đã tiến bộ khá khá. Một em bé đánh giày lết tới gầm bàn. Nó nài nỉ khẩn khoản, gõ bàn chải cộp cộp lên hộp để gây áp lực với tôi. Tôi cau mày:

- Thôi đi mày!

Nó đi. Em bé bán báo dừng lại ngoài cửa, xớ rớ:

- Báo thầy! Báo thầy!

Tôi lắc đầu:

- Đọc rồi. Mời hoài vậy?

Nó nói tiếp:

- Báo mới ra. Bữa nay báo Tương Lai có "Kịch trường đặc biệt".

Tôi giựt mình bừng tỉnh giấc mộng giữa ban ngày, mua ngay một số, lật ra trang hai, liếc qua các "tít" lớn. Các bạn ở báo Tương Lai cứ viết dông dài về cái tuồng "Gió chiều Thu". Chán quá. Nơi mục Loa hậu trường, vài hàng chữ tóe lên:

"A lô! A lô! 'Đoàn Hương Sắc sáu mươi lăm' đương thành hình, do bà Quỳnh Hương làm giám đốc sẽ ra mắt vào đầu tháng Tư. Danh sách đào kép chưa chánh thức công bố, nghe đồn nữ nghệ sĩ Thiên Thai đã xé giao kèo bên đoàn Nhạn Bạch để về đoàn này.

A lô! A lô! Bà Quỳnh Hương cho biết thêm: Ký giả kiêm thi sĩ Hoài Hương đã nhận lời đưa vở tuồng đắc ý nhứt của mình cho 'đoàn Hương Sắc sáu mươi lăm'. Khán giả đang nóng lòng chờ đợi để thưởng thức tài nghệ của nhà thi sĩ khả ái ấy. Bước đầu tiên của thi sĩ trong nghề soạn tuồng biết đâu chẳng đánh dấu ngay một sự thành công? Nhan đề vở tuồng còn trong vòng bí mật, nhưng thi sĩ đã bảo đảm với bà bầu Quỳnh Hương: 'Tuồng này đầy đủ dân tộc tính'."

Tôi nhẩy nhổm, đứng phắt dậy. Máu nóng "nhà quê" của tôi bỗng bừng sôi. Té ra bà Henri đã loan tin ẩu về sự hợp tác của tôi, từ hai ngày rày, liền từ sau khi tặng bó hoa hồng trên gác trọ! Chẳng vậy thì sao các thông tín viên kịch trường lượm lặt được tin sốt dẻo này, cho in lên báo kịp trưa nay? Buổi sáng ấy, mặc dầu chưa gặp mặt tôi sau năm sáu năm xa cách nhưng bà dám đề cao tuồng của tôi sẽ đủ "dân tộc tính"! Cùng với những hàng chữ in ấy, bà Henri sẽ kèm một bằng chứng khác - mấy trang giấy nháp sơ lược cốt tuồng Ba Tư - để yêu cầu người hùn vốn cứ bỏ thêm tiền ra cho bà xài! Trong khi khuyên nhủ tôi nên từ bỏ cái thói "trùm chăn quê mùa", bà lại lợi dụng cái tật xấu của tôi. Giải quyết cách nào bây giờ? Tìm bà Henri, đòi lãnh thêm vài ngàn đồng cho hả giận, cho đáng với sự thiệt thòi của tôi? Yêu cầu bà ta đính chánh trên báo? Không được. Bà ta sẽ ngơ ngác, cho rằng tôi hiểu lầm thiện chí của bà ta đối với người em đáng thương hại. Đi tìm các ký giả quen biết, nhờ họ cho tôi thanh minh vài hàng chăng? Anh em trong làng sẽ khó xử vì chuyện ấy có gì đâu mà thanh minh cho mệt độc giả! Và thanh minh trong trường hợp này chẳng khác nào tôi trù rủa đoàn hát "Hương Sắc sáu mươi lăm" ngay từ khi còn nằm trong bào thai, gián tiếp làm cản trở sự phát triển của làng ca kịch, đập bể chén cơm "hụt" của khá nhiều công nhân sân khấu? Hơn nữa bà Henri vẫn được quyền thanh minh trở lại rằng: Nhà thi sĩ kiêm soạn giả ấy đã nhận được bó hoa hồng, đã lãnh số "tiền nước" đáng kể, đã dự bữa cơm thân mật, đã trao bản thảo vở tuồng. Đứng về phương diện độc giả, họ nghĩ thế nào trước những bằng cớ hiển nhiên ấy.

Rầu rĩ quá! Tôi gọi chiếc xích lô máy, bảo anh tài xế cứ chạy thẳng tới. Ác hại làm sao, mấy chữ hàm hồ trên mặt báo: "dân tộc tính"! Phải chăng bà Henri muốn ám chỉ câu chuyện của Chúa Ngung, Ma Nương mà bà yêu cầu tôi soạn lại? Nghi ngờ gì nữa! Bà đã bắn tin ấy ra từ bữa trước rồi mới bàn bạc với tôi về sau này, lúc ăn cơm. Theo ý của bà, hoàng tử Mai Kha ở Ba Tư là thối thân của lão Tư Hiếm, của ông Henri hay của chính tôi? Cô gái bị giết ngày xưa là thối thân của pho tượng đá? Hay kẻ thối thân là bà Henri hoặc cô đào trẻ đợt sóng mới Thiên Thai? Đâu là sự thật về Chúa Ngung, Ma Nương ở Mốp Giăng? Tôi liên tưởng đến mấy tiếng "sứ mạng của người cầm bút" mà các bực đàn anh thường nhắc nhở. Người như tôi có xứng đáng lãnh cái sứ mạng đó không? Tôi trả lời một mình: "Xứng đáng chớ". Mãi tới ngày nay, câu chuyện ở Mốp Giăng chỉ được truyền khẩu, người ở địa phương đã già nua, hoặc bận rộn sanh kế, hoặc ít muốn nói. Hoặc họ đã chết. Đã hai lần, tôi đã "ghi chép" nó lên giấy, qua tiểu sử của ông Henri Nhan và qua... cốt tuồng cải lương Ba Tư. Còn chờ ai nữa bây giờ, nếu tôi không chịu viết ngay tất cả những điều tôi được biết - trong muôn một - dầu rằng lối viết vụng kém của tôi chỉ được có một vài người đọc thưởng thức.

Chiếc xích lô nổ máy tiến tới, đi ngang qua rạp hát cải lương. Những biểu ngữ, tranh quảng cáo lòe loẹt nào hình công chúa Nhựt xách đèn lồng, hiệp sĩ La Mã đấu gươm... Hoàng tử Mai Kha, nàng Y Liên, chuyện ở Mốp Giăng rồi cũng được vẽ đại khái như thế. Cái bốp chứa đựng nhiều tiền nhảy cồm cộm trong túi sau, giữa cái nệm xe và da thịt tôi. Số tiền năm ngàn còn quá đầy đủ nhưng tâm tư của tôi trống rỗng hơn bao giờ hết - trống rỗng như một chai nước múc đầy treo lơ lửng trên mặt đại dương bao la. Việc đầu tiên mà tôi cần giải quyết: Nhờ các bạn đính chánh: soạn giả Hoài Hương đang soạn cho đoàn "Hương Sắc" một vở tuồng đầy đủ... "Đông Phương tính" thay vì "dân tộc tính". Liệu các bạn ký giả và bà Henri sẽ phiền tôi không? Thật là... sinh kế mới! Khó khăn mới! Tâm trí của tôi bừng sáng lên, bất chợt một ý kiến quan trọng: " Sanh kế mới, khó khăn mới cho người sống và cho oan hồn kẻ chết nữa". Lão Tư Hiếm đã chết thật rồi! Lần trước, qua tay ông Henri và quan tư Ca Rê lão còn thoi thóp; lần này với sự kinh doanh của bà Henri và sự yếu đuối của tôi, lão tắt thở luôn. Nay mai có thể người chết uất ức hiện hồn về, đòi xem hát.

Tôi đưa tay ra dấu hiệu để xe ngừng tại cửa. Vừa lên gác trọ, tôi vừa nói với bà chủ nhà:

- Mệt quá. Ai kiếm tôi bà cứ bảo rằng tôi ngủ, đừng đánh thức.

Rồi nằm lên ghế bố nhìn bó hoa héo, tôi thử hình dung khung cảnh người chết đi xem hát. Đêm ấy, lão Tư Hiếm và cô gái nọ cỡi mây cỡi gió đến rạp khi hay tin trên trần gian có người muốn nhắc nhở tới sự tích của họ. Sân khấu quá sáng. Hai bóng ma của họ sợ hãi, nép mình vào mái ngói như hai kẻ trộm. Cô gái lẩm bẩm: "Ta nên về. Đêm nay họ diễn tuồng Ba Tư chớ nào phải chuyện ở Mốp Giăng". Lão Tư Hiếm đáp: "Tôi không lầm đâu. Chính đêm nay, tại rạp này mà. Nhưng cớ sao tôi chưa hiểu mấy về cốt chuyện. Dường như thần Mặt Trời Ba Tư là Chúa Ngung, Ma Nương ở Mốp Giăng!". Cô gái cười: "Ở cõi dương, tiếng nói và màu sắc đều khác hẳn với cõi âm". Lão Tư Hiếm lắc đầu: "Số đào kép cải lương này ngủ ban ngày rồi thức suốt đêm như chúng ta. Có gì khác biệt đâu"... "Có chớ, họ uống nước lạnh mà bảo rằng dự yến ẩm, dùng gươm bằng cây mà bảo rằng thanh kiếm thép. Hái hoa bằng giấy mà bảo rằng... hoa hồng thiên nhiên. Thôi ta đi về". Lão Tư Hiếm nói: "Cứ ở lại, chờ xem khi vãn hát. Nghe đâu sau khi rửa lớp phấn son, cởi áo mão ra cất, các đào kép tiếp tục diễn... trò đời hay lắm". Bức màn nhung hạ xuống, bài tạm biệt trổi lên rồi tắt hẳn. Bấy giờ, cô gái bảo: "Tôi theo chân cô đào Thiên Thai, dường như ban nãy cô ta đóng vai tôi; còn bác cứ theo bà Henri..."

Lão cãi lại: "Tôi đi theo soạn giả Hoài Hương, bạn của tôi ngày xưa, ổng đang đóng vai tôi đó". Thế rồi họ đi, người một ngả. Lão Tư Hiếm ghé quán nước kế bên rạp, chứng kiến cảnh bà Henri và tôi đang tranh đấu thân mật. Bà ta than phiền: "Tuồng này thâu khá tiền nhưng bà chủ nợ bỏ túi hơn phân nửa rồi. Tiền bản quyền soạn giả, xin dành lại vài đêm". Trong khi đó, cô con gái phi thân lẻn trốn vào phòng the, tại tư thất của cô đào Thiên Thai. Cô đào khép cửa, soi gương uốn éo cười với bóng dáng mình, lật tờ tuần báo xem ngay số tử vi rồi mơ màng hôn nhẹ vào cái hình màu của chàng minh tinh màn ảnh bên trời Âu nào đó, in ngoài bìa. Cô đào liền thay quần áo mát, ngồi ăn một cái đùi gà luộc với vẻ mặt không mấy đói! Bấy giờ cô gái ma mới hiểu cái tội lỗi tày trời của mình: Nhu cầu về ăn uống, nhu cầu về xác thịt vốn là hai điều cấm kỵ. Tại sao xưa kia mình lại dại dột xúc phạm sự cấm kỵ ấy trước mặt quan kinh lý và lính mã tà để mang lụy vào thân? Phô trương cụ thể những nhu cầu ấy để làm gì, trong khi thế nhân đã nâng nó lên hàng ngôn ngữ ác hại, dùng để nguyền rủa "Đồ chết đói!" "Đồ đĩ thõa" cũng như "Đồ mắc dịch!". Cô gái ma thở dài, buồn bã trở thành kẻ mất hồn, bay về, khuất bóng lần lần trong lớp sương giá lạnh - hơi thở của hàng trăm pho tượng đá khác còn bị chôn lấp dưới lớp đất bùn của xứ Mốp Giăng vừa cổ kính, vừa đìu hiu! Trong khi ấy, lão Tư Hiếm đi vẩn vơ theo lề phố vắng, với cái túi rỗng và cái ống điếu bằng cây ớt hiểm, dáng điệu trông như vị tù trưởng bại trận hồi thời Thái Cổ. Tiếng gà gáy chợt vẳng lên, từ chuyến xe nào chở hàng tới chợ Cầu Ông Lãnh. Lão giựt mình, chạy trở về cho kịp lúc hoàng hôn nơi địa phủ, để trầm mình nhanh xuống đáy biển - như một hạt bụi bé bỏng nối tiếp bãi bùn ra Hòn Tre xa khơi.

Ngoài cửa, tiếng bà Henri nói nhanh, giọng lảnh lót hỏi thăm tôi. Bà chủ nhà ngập ngừng:

- Ông Hoài Hương ngủ, ổng dặn đừng cho ai kêu ổng. Nếu bà có điều gì quan trọng thì...

Nhưng bà Henri nói chận trước:

- Thôi, tôi hiểu quá nhiều từ hồi ổng còn làm mấy bài thơ đồng quê lận! Ổng giận tôi rồi trùm chăn trở lại. Chắc chắn bà Henri đang nở một nụ cười hồn nhiên đầy vẻ yêu đời với đôi má lúm đồng tiền. Bây giờ tôi chợt nhận ra một điều: Giữa ông và bà Henri tánh tình tuy hơi xung khắc, nhưng bao nhiêu thói xấu, nết tốt của họ đã bồi bổ qua lại từ lâu, tạo thành một kiểu hạnh phúc lứa đôi khá bền vững, "nồi nào úp vung nấy!".

Họ đã có thiện chí giúp tôi về sinh kế, tại sao tôi chưa chịu cảm thông?

Tháng 8 - 1963

Hình Bóng Cũ
Trong những tác phẩm của Sơn Nam, có một, ít được nhắc tới, nhưng đối với cá nhân người viết, có lẽ đây là cuốn hay nhất của ông: Hình Bóng Cũ. Những tác phẩm như Hương Rừng Cà Mâu, Chim Quyên Xuống Đất... là một Miền Nam sau này, hoặc vẫn tiếp tục còn đó, tuy đã tang thương dâu bể. Hình Bóng Cũ là một Miền Nam đã mất hẳn, như một Viễn Tây của lịch sử Hoa Kỳ. Ở đó, huyền thoại lấn át thực tại, và khi huyền thoại biến mất, nó kéo theo cùng với nó, những con người nửa hư nửa thực. Tất cả biến thành thần. Những vị phúc thần (anges gardiens).
Tôi đọc cuốn sách đã lâu. Sau cố tìm gặp lại nhưng không thể. Như thể cái duyên giữa cuốn sách và tôi đã trọn vẹn: Một đứa bé di cư, một mình xuống tầu há mồm vào Nam tìm gặp Hòn Ngọc Viễn Đông, vô tình khám phá viên quặng làm nên hòn ngọc đó.
Câu chuyện một xóm nhỏ, có một "thầy ký nhựt trình", như dân trong xóm vẫn thường trầm trồ về một anh chàng ngụ cư. Bản thân anh ta lâu lâu có một bài thơ được nhà báo thương tình đăng lên, thay vì để trống một khoảng nhỏ.
Một bữa có một bà tới kiếm, tính mướn anh viết hồi ký cho "bả". Người đàn bà ôm trong mình cả một kho tàng. Đã từng là đào hát, chủ gánh, sau bỏ hết, gá nghĩa cùng một ông tây thuộc địa, một trong những người khai phá ra những cánh đồng thẳng cánh cò bay, tiền thân của những ông Hương, ông Cả trong những cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiền thân của những cô Ba, cô Tư trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách, cà kê, dê ngỗng của một số tác giả Miền Nam hiện nay. Một nhân vật kiểu Faulkner, sự tàn bạo, dã man không thua, số người bị giết do ông, bởi chính ông chắc cũng không kém. Người đọc chỉ đoán lờ mờ những chi tiết "thực" đó. Chỉ lờ mờ biết được quá khứ của một Lọ Lem một bữa biến thành Công chúa Thuộc địa. "Bả" có cay đắng khi phải "bó thân về với triều đình", khi phải đồng hóa Miền Nam với chủ nghĩa thực dân khai hóa... nào ai biết được. Tất cả chỉ là những "tầng kiến giải" về một huyền thoại. Về một Hình Bóng Cũ.
Người xưa thường nói, nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng, bữa nào hứng lên, rồng vàng, hạc vàng... bay mất, để trơ lại một thành Thăng Long mất cả Gươm Thiêng lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành tiệm chả cá Lã Vọng...
Tôi nghĩ, Sơn Nam đã quên lời dặn đó của cổ nhân, khi viết Hình Bóng Cũ.
Mối tình đầu của tôi với Miền Nam ngày xửa ngày xưa chỉ có vậy. Số mệnh khiến tôi suốt đời lẽo đẽo chạy theo mối tình đầu đó, khăng khăng cứng đầu, cố biến nó thành hiện thực. Sau này, đọc những nhà văn Miền Nam, cũng là để cố tìm lại chút văn minh, "tư tưởng man rợ" (pensée sauvage, chữ của C. Lévi- Strauss), của một thuở miệt vườn.
Nhưng có lẽ không giản dị như vậy, Miền Nam, mối tình đầu, và tôi.
Ngay từ khi học trung học ở Hà-nội, đọc Tô Hoài, tôi đã cố mường tượng ra một "nước Nam Kỳ" xa xôi, chốn đầy ải, nơi trốn chạy của những anh đàn ông, con trai "Bắc Kỳ" của một Xóm Giếng, một Trăng Thề, một Quê Người - một làng Nghĩa Đô đã không còn là quê mình - nên đành hy sinh đi làm phu đồn điền cho Tây, nếu không may thì làm phân bón cây cao su, còn may ra thì lại có phen áo gấm về làng. Có thể khi xuống tầu há mồm vào Nam, giấc mơ của chú bé di cư vẫn chỉ là giấc mơ cũ kỹ đó. Giấc mơ của một Nguyễn Hoàng về một Hoành Sơn nhất khoảnh, hay khiêm tốn hơn, một tương lai bên ngoài lũy tre làng.
Khi còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất trận.
Qua đây, đọc những nhà văn hải ngoại, tôi nhận thấy chỉ có dòng văn chương chứa đựng tư tưởng "miệt vườn" là không bị cuộc chiến làm xấu đi, huỷ hoại, hoặc tiêu diệt. Như là một đối trọng với gánh nặng hội nhập.
Ở trong nước, dòng văn chương hiện thực tiền chiến, ở những tác giả như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... đã đầu tư hết mọi ước mơ, hoài vọng và năng lực cho những ngày đầu cách mạng, đã hy sinh hết cho Đảng, dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn, đã bị kiểm thảo, học tập nghị quyết, học tập cách ngồi, cách suy tư, cách đi thực tế, cách viết dưới ánh sáng của Đảng... cuối cùng nhường chỗ cho dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, chết bất đắc kỳ tử ngay những ngày đầu chiến thắng Miền Nam.
Độc giả trong nước bây giờ đổ xô tìm đọc những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh... là cũng nằm trong ý nghĩa đó: Tha hóa không phải chỉ ở đây, vào lúc này. Chất nghĩa khí, cõi công bằng, tình bà con lối xóm... vốn đầy rẫy trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là những hình bóng cũ mà người dân hai miền đang trân trọng.
Nguyễn Quốc Trụ

 

 

 

 

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

30.4.2015

‘A Lament in Three Voices’