UNG THƯ

 

THANH - TÂM - TUYỀN

UNG - THƯ

Mais  accepter  vivant  la  vanité  de  son
existence, comme un cancer, vivre avec
cette  tiédeur  de  mort  dans  la  main.

A. MALRAUX

(La Voie royale)

PHẦN THỨ NHẤT

CHƯƠNG I[1]

Giữa vùng nước đục ngầu thành phố nghiêng chìm dần xuống, bấp bênh sắp sửa rời rã, những khóm cây thấp thoáng, mái trường đổ nát bẩn thỉu, đường phố giao nhau vô nghĩa như những nét gạch nguệch ngoạc, giãy nóc xám của nhà máy sợi, giòng sông mà những con thuyền ly ty, mái nhà thờ màu đá cũ, khu đồn trơ vơ ở phía Nam tỉnh lỵ chòi canh xùm xụp; khi lên cao trông xuống mọi vật xếp đặt không lý do, trong cái thành phố ấy Thạch đã sống sáu tháng mà không hề biết đến nó. Mỗi buổi sáng kèn thổi thức dậy trong căn phòng dài trần phẳng, hai dãy giường chồng san sát, mùa đông ánh đèn mờ bưng bít như trong hầm tàu biển; những giờ bò chạy nhẩy tập bắn, đeo quân trang đi bộ, lội bùn dưới bầu trời không thay đổi lúc rét âm thầm lúc mưa buốt, những giờ lặng lẽ trong phòng học với những bộ mặt không quen; những bữa cơm trong một thứ khua động ồn ào, buổi tối ở “pô-pốt” nghe ra-đi-ô, đọc báo, bỏ trắng ý nghĩ; sáu tháng trong cảm giác im vắng xa lạ tuyệt đối. Mặc những cuộc vận động biểu tình làm reo phản kháng, không hùa theo cũng không cưỡng lại, mặc những đứa bỏ trốn, những đứa anh hùng làm loạn, những đứa hèn nhát chạy chọt luồn lụy, những đứa chùm chăn kín thức khuya dậy sớm bật đèn pin để học mong về Hà-nội giật lấy mảnh bằng còn sót, tất cả những đứa ấy, cũng như vật dụng hằng ngày gửi trả lại cho cái trường quân sự, không liên quan gì tới tôi hết.

Bây giờ thành phố đã khuất, phi cơ bay trên những tầng khói lạnh, ghế ngồi hai dãy đối diện tựa lưng vào thành tàu. Thạch mỉm cười nghe những đứa ngồi cạnh bàn tính; đứa nói sẽ vận động xin được ra tiếp tục học thuốc hoặc chuyển sang ngành quân-y sắp mở, đứa tìm một chỗ ngồi bàn giấy hoặc ngành quân-nhu ở bộ tham mưu đệ Tam Quân-khu ngay Hà-nội, đứa hy vọng làm sĩ quan tác động tinh thần khỏi phải ra mặt trận; một đứa bỗng nói lớn: “Tao sẽ xin đi đóng đồn rồi dẫn lính ôm súng bỏ ra ngoài”, cả bọn bỗng im phắc, Thạch cười: “Ý kiến hay”, tiếp theo Thạch văng tục: Merde. Tiếng động cơ bỗng dưng tắt quãng, Thạch cần thấy phải văng tục lần thứ nhất (lâu dần thành thói quen) vào buổi chiều tối người đàn bà dáng dấp đài các mời Thạch ngồi lại ở phòng khách; bộ “sa lông” xanh, ánh sáng trong những đèn chụp xanh dịu, màu sắc hòa hợp giả tạo trơ trẽn; khuôn mặt đầy đặn lồ lộ khoảng bốn mươi tuổi; người đàn bà ấy tỏ ý tín nhiệm Thạch về việc dạy dỗ mấy đứa con nhỏ, tin tưởng vào tương lai “của cậu, vừa giỏi vừa chăm chỉ ngoan ngoãn, tôi góa bụa nhà không có đàn ông, muốn giúp cậu học thành tài”, ngỏ ý muốn mời Thạch về ở trong nhà, muốn gả đứa con gái lớn cho Thạch; lúc đó Thạch muốn cười tướng lên bảo: “Tôi lấy con gái bà, cái đứa con gái mặt bì bì u uất suốt ngày đứng sau tủ hàng, mắt không biết gì ngoài những loại giấy bạc, và bà sẽ cho tôi tương lai. Cái tương lai làm sẵn ấy hình thù nó thế nào khỏi cần miêu tả tôi đã trông thấy rõ lắm rồi, tôi bất cần thứ tương lai ấy, bà và con gái bà, cộng thêm cái cửa hiệu, mấy căn nhà, ngân khoản ở nhà băng không ăn thua gì đến tương lai tôi hết”, nhưng giả đò như ngu không hiểu rõ ý, Thạch đứng dậy kiếu từ; ra đến ngoài đường Thạch bực tức chửi merde, Thạch không trở lại gia đình ấy nữa. Merde, những ngày sống chật vật ăn bánh mì, uống nước máy; merde, hai lần thi trượt, những lúc ốm đau nằm trên giường nhà trọ không người thăm hỏi; lần nặng nhất đau bụng quằn quại đến ngất đi, may mà tình cờ Liên đến đúng lúc. Liên bạn từ thuở nhỏ ngày hai gia đình ở cạnh nhau, cả hai đứa đều mồ côi cha như nhau, quấn quýt nhau, yêu nhau, Liên lớn hơn Thạch hai tuổi đã có chồng con; Cặp mắt Liên mở to sợ hãi, cơn đau tưởng dịu xuống, cặp mắt của cả cuộc đời đen, lớn, sâu, khổ vô chừng và cũng âu yếm vô chừng; Liên vực Thạch chở vào nhà thương Phủ Doãn ở đấy người ta mổ bụng cắt đi một khúc ruột thừa. Ra khỏi nhà thương, xanh xao thiếu máu, phải xuống ở nhờ nhà Đồng, một thằng bạn yếu phổi phải bỏ học dưỡng bệnh; nhận được giấy gọi động viên, đi trình diện khám sức khỏe, cân nặng 40 ký, xếp vào hạng chiến đấu, vết sẹo mổ ở bụng chưa lành; càng hay đang không có công ăn việc làm, khỏi lo chết đói. Đưa Thạch ra bến Phà-đen xuống một chiếc tàu đò nát chỉ có Đồng; Đồng mặc áo len cao cổ màu xám, mặt béo bệu da mai mái, tóc rối bồng, mắt đục với hàm râu quai nón xanh mờ mờ, ít nói nhưng thường hay pha trò ý nhị; Đồng đứng lẫn trong đám thân nhân tiễn đưa ồn ào những tình cảm, thản nhiên không nhìn Thạch, Thạch dựa vào dóng sắt của thành tàu cũng không nhìn Đồng, giòng nước đỏ chảy siết, sông mở rộng đến chân trời; giòng nước đã cuốn trôi tập bản thảo chép những bài thơ tình Đồng viết trong những năm tuổi đang lớn, bắt đầu năm mười bảy tuổi, ném xuống nước bẩn như một nhánh củi mục mùa hè năm hai mươi tuổi, trong ấy có những tên Hà-Phương, Thạch đã được đọc vài lần; con đường dọc theo bờ sông cách thành phố bởi con đê hai đứa thường đi dạo những đêm tối trời nhìn sang bờ bên kia mịt mùng bóng cây thẫm hoặc những đêm trăng sáng trên những đống cát vừa bốc lấy dưới lòng sông cạn đổ bên ven đường, Đồng gối đầu lên đùi Thạch thầm thì kể chuyện, Thạch nhìn ánh trăng nơi cuối sông; những câu chuyện của bọn thanh niên vừa lớn trong vùng chiếm đóng thèm khát tự do, tự do cũng không có ở ngoài kia (và đời sống không thể có tự do? tự do chỉ là ảo tưởng của bộ óc bệnh hoạn?); những chuyện tâm tình về Hà, người yêu đầu tiên của Đồng đã lấy chồng, về Phương cô bạn gái cùng lớp với hai đứa đã sang Pháp du học (chưa biết Hà bao giờ, Thạch vẫn nghĩ Hà quen thuộc gần gũi như Liên. Theo lời Đồng, Hà cũng có đôi mắt mở to đen sâu “bí ẩn như đêm tối trên mặt biển”); Đồng hỏi Thạch: “Cậu có nghĩ đến cái chết bao giờ chưa? Tôi nhìn vào mắt Hà là tôi tưởng tượng đến cái chết. Thật là lạ”, Thạch đáp: “Tôi ghét tưởng tượng, tôi không hề nghĩ đến cái chết, nghĩ đến nó tốt hơn là đứng trước bức tường mà nhìn trân trân”.

Đứa đàn bà thứ nhất trong đời đã dạy Thạch một lối thoát khỏi những ý nghĩ tù túng, những tưởng tượng viển vông, là một con đĩ: Mai. Cái thân thể lõa lồ trên đệm trắng bẩn như nước vôi, da ngăm đen màu của bùn ruộng nơi sinh trưởng. (Nó ngắm Thạch từ đầu đến chân ngoài da thịt bảo: “Anh gầy quá”) ở bên bẹn một một vết sẹo lớn lồi thịt – “Tây đen hiếp, đâm” – cái mặt thô nặng chưa hết vẻ quê mùa. Mai ở trong một quán rượu bán cho lính Tây, nhìn ra một bãi hoang đổ rác và chất thùng xe rỉ nát; khách hàng phần lớn là Marocains, Lê-dương ngồi quây quanh quầy rượu hẹp trên ghế cao cẳng hay ở mấy cái bàn gỗ không trang điểm, nói chuyện với những đứa con gái bản xứ mặc đầm cũn cỡn bằng thứ tiếng Pháp bất chấp văn phạm tiện dùng cho cả đôi bên, nghe âm nhạc ở một cái máy hát quay tay chạy đĩa từ trước đại chiến; những bài ca ân tình nỉ non của Tino Rossi tỷ như Je chante pour vous ma mélodie, mon coeur chante pour vous sa mélodie trộn lẫn với những sapristi crétin, fils de pute, sale putain, Tổ sư cha thằng tây đen Tiên nhân bố mày, Đồ giời đánh thánh vật ra trận Việt-Minh nó bắn chết mày cho đáng kiếp con ơi… Những ngày được ra khỏi trại có ít tiền, Thạch đến đấy gặp Mai: Bonjour Madeleine. Mai hay Madeleine cũng là một. Thạch thường ghé lại tiệm sách ở đầu phố hàng Sắt mua một cuốn tiểu thuyết trinh thám loại đen hay những cuốn “truyện để đọc một đêm, thưa bà” mỗi trang là một cuộc giao hoan thật chán chê. Được Mai dạy cho xử dụng cái cơ thể bỏ không ngoài hai mươi năm làm một phương tiện tước đoạt trí tuệ, nửa ngày hay cả ngày rảnh rang là nằm dài trên giường của Mai lăn lóc trong sự xô đẩy không muốn ngừng của cơ thể, ngay khi bắp thịt đã câm lặng kiệt lực, ý nghĩ vẫn còn thèm muốn, nhiều lúc Mai không chịu nổi cấu nát vai và cổ Thạch, mồm chửi rủa thô tục. Đứng sau tủ hàng trước quầy sách tối mờ, một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi có vẻ học thức lần nào cũng nhìn Thạch bằng con mắt tò mò dò xét thiếu thiện cảm; một buổi trời mưa Thạch phải đứng lại trong hàng sách ấy, hắn lấy ghế mời Thạch ngồi, Thạch đọc hết một cuốn truyện gián điệp, mưa cũng vừa ngớt, đứng dậy đi và cám ơn. Thạch đến quán của Mai, ngồi trước quầy rượu nếu gặp ngày lính đồn trú trong tỉnh đi hành quân vắng, nghe đĩa hát nhạt nhẽo, chán thì rủ Mai về nhà nó. Qua hai ba phố, vào trong cái ngõ đất lồi lõm sát bên một trại lính, đầu ngõ chòi canh trông xuống với một khuôn mặt đen bóng cặp mắt trắng dã, đi cạnh một bức tường giây thép gai giăng ở trên; căn gác của Mai chỉ có cái giường gỗ đánh “véc ni” nệm trắng xỉn loang lổ, đôi gối thêu bằng lụa hồng và cái chăn bông vải xanh là đáng tiền. Những giây phút dễ chịu nhất là khi hai thân thể không còn sức nào thèm muốn nhau nữa, cùng nằm im riêng biệt trần truồng, hơi lạnh bên ngoài ngấm dần qua các lỗ chân lông, kéo chăn phủ lên nằm co gối thấy cái thân thể bấy giờ là của mình, là mình; Mai lại không biết tán chuyện, nếu lúc ấy con đàn bà cất tiếng nỉ non ai oán chắc Thạch phải mặc quần áo bước ngay tức khắc.

Lần cuối cùng cách đây tuần lễ Thạch đến tìm Mai muốn cho nó mấy trăm bạc trong phần lương trước khi chia tay. Quán rượu đông ních, một tiểu đoàn Lê-dương vừa về thành phố, Mai bận tíu tít ở trong tay bọn tứ xứ không chú ý đến Thạch; Thạch uống đến ba bốn chai bia, hút hết bao thuốc lá ngồi đợi, hơi men bốc lên ngứa ngáy da mặt, khói thuốc hun nóng cổ họng rát cả lưỡi, không khí sặc sụa nhục dục, bất ngờ Mai ghé vào gáy Thạch bảo: Không về được; Thạch giận điên cả người. Một lát Thạch vẫy Mai vào phía sau, đóng của phòng tắm lại, mặc cho mấy thằng chó chết đập gọi bên ngoài. Xong, lang thang trong các phố buồn tẻ cho đến chiều, cơ thể vẫn chẳng nguôi, mỏi chân ngồi lại ở ghế đá trong vườn hoa nhìn cỏ nhìn đất nhìn xi-măng, nhìn người ta bơ vơ dưới màn trời đục.

Hai lỗ tai Thạch chợt buốt ù, phi cơ đang lượn tròn xuống thấp, khu Gia-lâm đang dâng lên tỏ dần. Nhà ga, hàng tường dài thấp bé, ngổn ngang những toa than đen. Vùng quân sự quanh phi trường, nhà mái lè tè vôi đỏ bệch hợp với màu nước sông Cái trong ánh nắng nhạt, đường số năm ngoằn ngoèo đỏ từ dốc cầu Long-Biên xuống lổm ngổm xe cộ, cây cầu sắt dài nhiều chỗ lấp lánh ánh trăng nhịp nhàng chuyển vào Hà-nội. Một đứa kêu mừng rỡ, trán và mũi dán sát vào khung kính tròn đục; “Kìa nhà hát lớn, trường đại học”, nó quay lại đập vào vai Thạch, phi cơ chìm nhanh, Thạch chỉ kịp ngó thấy ở xa xa những chùm cây xanh rậm đưa lên che khuất mái đá xám của nhà hát thành phố, mặt tiền của viện bảo tàng Finot, một khúc phố bờ sông khoảng gần cột đồng hồ… Rồi những bánh thép chạm xuống mặt sân bay hơi dội lại, cảm tưởng vững vàng trở lại đất liền, lăn trên đường cứng rung động những va chạm khô khan, động cơ ngừng tắt. Người ta đứng lên hớn hở xôn xao. Tại sao tôi vẫn còn yêu mến những cái chúng yêu mến, tại sao tôi chưa rời bỏ biệt tích đến một chỗ nào hoàn toàn mới lạ với những sự vật của riêng tôi? Tôi không thể nào yêu cái gì mà chúng nó cũng yêu, nếu chỗ nào chúng tới tôi phải bỏ đi, nếu chúng chiếm hết cuộc đời, tôi sống với hư vô, nếu chúng yêu tôi, tôi sẽ giết tôi. Thạch bàng hoàng chán chường, còn gì để trở lại thành phố kia?

Dưới chân máy bay một đám đông chờ đón, đứng hàng đầu thiếu úy sĩ quan liên lạc của quân đội Pháp, một trung úy Việt, đại diện Tổng hội Sinh-viên, phía sau là thân nhân đang kễnh chân nghển cổ tìm con cái, anh em, tình nhân. Thiếu úy Pháp ứng khẩu nói mấy lời chúc mừng các tân sĩ quan Việt-nam, “các chiến sĩ tiền phong của một quốc gia độc lập trong mặt trận chống Cộng của thế giới tự do”; trung úy Việt báo cho biết mọi người được nghỉ phép nửa tháng trước khi tới liên lạc với trại Trần-hưng-Đạo nhận lệnh; đại diện sinh viên ngỏ ý hân hoan thấy anh em bình yên mạnh khỏe, thay mặt toàn thể sinh viên đại học Hà-nội mời anh em tới dự buổi tiệc trà đón tiếp của tổng hội tổ chức vào chiều chủ nhật sắp tới tại trường; Mọi bộ mặt bỗng nhiễm vẻ nghiêm trọng. Năm chiếc xe Dodge 4 dùng để chở mọi người về Hà-nội, một số cùng với thân nhân dùng phương tiện riêng nên xe đầu bỏ trống. Trong xe ai nấy im lặng mắt dáo dác nhìn ra ngoài, như những con chim đang nhận đường về chuồng. Bỗng đứa ngồi cạnh làm Thạch giật mình, nó là đứa đã tuyên bố ở trên phi cơ sẽ ôm súng theo V.M., vẻ mặt đen đủi nhiều góc cạnh, mũi to hơi hểnh lên, cặp mắt gườm gườm, môi lúc nào cũng mím lại tạo vẻ cương nghị, nó hỏi Thạch “Anh thù Việt Minh?” Thạch nói trỏng: “Sais pas”; nó lại hỏi tiếp “Anh cũng không ưa Quốc gia, vậy anh ở đây làm gì?” Thạch lấy hết giọng ôn tồn bảo: “Tais toi. Tu m’emmerdes”. Xe qua cầu Long-Biên chậm chậm, Thạch nhìn theo những khuôn mặt trong những chuyến xe hàng phía bên kia cầu ngược lại trôi qua những dóng cầu đan nhau. Xưa kia còn nhỏ mỗi lần đi tàu hỏa vào đến cầu, Thạch bám chặt lấy thành cửa sổ, nhìn những đà sắt nặng, giòng nước đục xoáy dưới những cột đá khổng lồ, bãi hoang rậm rạp chia sông làm hai ngánh với cảm giác ngất ngây sợ hãi, đứa nhỏ sợ sẽ lộn cổ xuống sông va vào thành cầu vỡ óc và chìm nghỉm giữa giòng nước cuốn hay mất xác giữa bãi cây cối mọi rợ, không được đến Hà-nội đi chơi chợ Đồng Xuân, hàng Đào, bờ hồ ăn kem kẹo dừa, đội mũ nồi màu đỏ, thò đầu ra ngoài cửa sổ tàu điện nhìn ra phố phường…

CHƯƠNG II

Hà-nội không thay đổi, không bao giờ thay đổi, như một hòn đảo lênh đênh mịt mù chờ ngày lặn chìm biệt tích, trong nhịp soi mòn lở lói đều đặn mỗi ngày mỗi rõ rệt; Ở đó Thạch đã đi giữa chúng bạn, chuyện trò bàn cãi hết vấn đề này sang vấn đề khác trên những hè phố vắng như những ngày dài đằng đẵng, chia nhau những điếu thuốc lá đốt dần đợi nắng trưa hay vào sâu trong mệt mỏi khuya vắng, từ biệt nhau mỗi đứa một ngả thui thủi gậm nhấm những mẩu mộng ước cay đắng, trong khi người ta làm chợ đen, áp-phe, lo kiếm tiền làm giàu, chuyển ngân, tìm chốn thoát thân. Phố xá tấp nập, xe cộ chuyển động và người qua lại tưởng như không hề ngừng nghỉ một phút từ ngày Thạch bỏ đi, chuyển động đều đặn như trong một cuốn phim câm, nhưng đời sống theo máu huyết đã rời xa, không còn gì.

Dừng lại bên bờ Hồ trên hè đường gần ngọn tháp nhỏ chắn lối đi, xế nhà bưu điện, Thạch mua hai đồng lạc rang của ông già Tàu ngồi trên ghế đá. Ông ta bốc khéo léo, những nắm tay vừa đủ, ngửng đầu cười với khách hàng, đầu ông đội mũ dạ lưỡi trai; mới thêm một bà già ngồi nhận tiền bên cạnh, gấp những đồng bạc làm tư cầm trong tay như tiền vẫn dùng trong các sòng tài sửu. Rồi Thạch nhảy tàu điện lê Thụy-khê. Tàu chạy qua hàng Ngang, hàng Đào, hàng Đường, chuông gõ liên hồi, tiếng cần dẫn điện sẹt sẹt; Những con phố này đã có thời kỳ mới tám chín giờ tối đã vắng tanh, Thạch đưa Liên đi mua hàng gõ những cửa tiệm quen; trời mùa đông rét mướt, Liên mặc cái áo dạ đen đã sờn khuỷu tay khoác thêm tấm áo vét ở ngoài, đầu choàng khăn len, cặp mắt nàng thỉnh thoảng ngó ướt lạnh, Thạch đi bên ôm dùm vài món hàng cho bạn, mặc quần ka-ky dầy, áo blouson xẫm, trong một cái pull’over mầu tro Liên đã đan cho Thạch trên những chuyến tàu chợ xuôi ngược; Hai đứa đi sát bên nhau núp dưới mái hiên hàng phố tránh gió, một đêm cuối mùa thu năm ngoái lúc qua chợ Đồng Xuân, ở những gốc cột đèn lính nằm phục chĩa súng rình mò, trên nóc chợ lợp tôn cũng thấy nấp những bóng đen với những khẩu liên thanh hờm sẵn; Liên níu lấy tay Thạch run sợ. Trời vẫn còn mưa ngâu rải rác, hai đứa phải đi ra giữa đường tàu, lẻ loi và vô cớ. Bây giờ Hà-nội đã yên tịnh và đang quên dần những giờ phút khắc khoải ấy. Hàng sấu hai bên đường Quan Thánh bắt đầu trổ hoa kết quả, thời tiết ở vào những ngày cuối hè sửa soạn sang thu; Thạch nhìn những chùm cây xanh nghĩ đến những quả sấu chín vàng gọt vỏ, cắt rời khỏi hột theo vòng chôn ốc; thời trẻ thơ rồi đã mất sao vẫn còn quay nhìn lại, tôi là kẻ đang đi tới tương lai mù mịt không hình dáng tìm ở quanh mình những dấu mốc vu vơ. Trường Bưởi cũ nơi đồn trú của quân Pháp như ải địa đầu ngăn chia thành phố và ngoại ô. Dãy phố Thụy-khê gồm toàn những nhà thấp bé phần lớn là các quán rượu bán cho lính Tây, phía đường tàu nhà lớn hơn và ở lui sâu trong những khoảng cây cối. Thạch xuống ở trạm gần đình Thụy-khê, theo ngõ lát gạch, hai bên cỏ hoang rối vào nhà Đồng. Gian nhà cổ rộng, nhà trên thẳng góc với nhà ngang, sân lát gạch tàu với hai con chó vàng vện mập lùn, những chậu cây bể giả không dùng đến, một mảnh vườn trồng rau, một khoảng vườn cây ăn quả, một vũng ao nhỏ lấy nước tưới vườn, nguồn lợi sinh sống của hai mẹ con Đồng cùng với người bõ già. Bà cụ mở rộng hai cánh cửa gỗ, vòm cổng hình tổ tò vò, tay cầm gậy tre xua chó, hai con chó chạy quanh sau lưng bà sủa gẫu, bà ngoài năm mươi tuổi trông vẫn còn tráng kiện, cặp mặt sáng tinh của tuổi con gái vẫn phảng phất sau những nếp nhăn ở xung quanh. Bà vồn vã: “Cậu Thạch, cậu đã về. Trông thấy cậu mạnh khỏe mà tôi mừng”. Thạch tươi cười bước theo chân bà cụ, xoa đầu làm quen lại với hai con chó, làm hiệu với mẹ Đồng đừng lên tiếng báo hiệu cho bạn, bà cụ rẽ xuống nhà ngang. Gian nhà cao ráo trống trải, mở hết cả cửa chiều dọc trông xuống sân, Đồng nằm ngủ trên chiếc võng mắc vào hai cây cột lớn giữa nhà. Thạch đến đứng trên đầu ngắm bạn ngủ, buổi sáng mát mẻ ở ngoài vườn lùa vào theo các cửa mở toang, nét mặt Đồng thoải mái nhẹ nhõm, nước da hồng hào, bộ râu quai nón mấy ngày không cạo xanh biếc hai bên má. Đồng chợt hỏi: “Ai đó?” rồi giật mình ngồi dậy, cái võng hơi đu đưa, đứng lên, hai bàn tay ấm áp vồ lấy vai Thạch lắc lư: “Tôi nhớ cậu quá”. Đồng là người duy nhất mà những cử chỉ thân mật không làm cho Thạch bực mình, hai đứa chơi thân với nhau từ những ngày học lớp năm trường Pierre Pasquier bây giờ đã biến thành trường huấn luyện cảnh sát ở phố Sinh-Từ, lên trung học ở trường Gia-Long, phố Julien Blanc nay đã chia thành nhiều gian cho thuê làm nhà ở, một đứa đen như củ tam thất là Thạch, một đứa trắng trẻo công tử là Đồng (Trong cái trò chơi chiến tranh cưỡi ngựa, học trò cõng nhau từng đôi một chạy từ xa huých vào nhau vật lộn nhau cho tới khi ngã rơi xuống sân, Thạch làm ngựa cho Đồng cưỡi). Đồng lăng xăng rửa mặt thay quần áo, hớn hở như một đứa trẻ con sắp sửa được đi chơi xa. Thạch ngồi trên võng nói vọng ra sân, Đồng đang lau mình thay áo lót bên bờ tường: “Trông cậu béo ra”, Đồng chỉ vào ngực bảo: “Vi trùng đã chán ngực này đang rút lui theo trật tự”, nói xong gật gù vẻ hài lòng. Sau đó hai đứa rủ nhau xuống phố, tìm bọn An và Cảnh cho đủ bộ; cái bộ tư đã kết hợp với nhau từ mấy năm nay lập thành một xã hội biệt lập.

Cảnh và An vẫn ngồi đó, mỗi đứa một góc trong phòng đọc sách của Thư-viện Trung- ương, “chúng nó vẫn còn sống nhăn” Đồng cười khích khích trước tấm kính dầy sáng ngăn phòng đọc với bên ngoài như một chiếc lồng sang trọng thâm nghiêm, chỉ cho Thạch thấy các bạn. Không ai ngước nhìn, Thạch bước theo chân Đồng vào trong sự lặng lẽ vang tiếng bước chân trên gạch hoa tới sau lưng Cảnh; Đồng đặt tay lên vai Cảnh và Cảnh quay đầu lại kêu nhỏ: “À, Thạch”, gây một chút xáo trộn trong những người ngồi chung bàn; Đồng thì thào “Đi ra ngoài đi, đi ra ngoài.” Cảnh thu gọn sách ôm lên tay nói: “An ngồi đằng kia”, Đồng đáp: “Biết rồi”; An đã nhìn thấy và đang đi lại, hắn cười ra dấu đợi và lại quay về chỗ mang trả sách. Đứng trên thềm đợi Cảnh và An, Thạch nhìn xuống vườn, thảm cỏ xanh viền những luống hoa gầy, cây đa cổ thụ và con phố Trường thi mát mẻ; Đồng nói: “Ông cụ thằng An đang vận động cho nó đi Pháp” “Thế à?” Bây giờ Thạch thấy mình điềm đạm rửng rưng trong cái thế giới đã cùng tạo với bạn bè; sáu tháng xa cách Thạch trở về và không nhập vào nữa, đã ra ngoài và dù muốn dù không Thạch đang dấn mình vào con đường hoang vu trước mặt cô đơn, không vui cũng chẳng buồn. Mỗi đứa rồi sẽ trôi dạt một phương, cơn lụt của lịch sử sẽ cuốn lấy, bám chặt vào những mảnh vụn của một giấc mộng chung tan vỡ, mai sau đối diện nhau chắc nhìn nhau như kẻ lạ. “Trông cậu gầy và đen đi” An nói, “Cậu tìm thấy gì lạ?”, Cảnh hỏi, “Đi đâu? Biết chưa?”, An hỏi. Ngồi duỗi dài trong chiếc ghế mây dưới gốc dừa dại, trong quán nước ven hồ Gươm, Thạch ngắm nhìn từng đứa một: Đồng nghịch cái vòi nhựa hút nước thổi phì phì vào không khí; An ngửa mặt nhìn vòm cây, mặt mũi khôi ngô sáng sủa như bằng chứng của giai cấp (con một bác sĩ, kiêm chính trị gia, chờ chức bộ trưởng trong bất cứ chính phủ nào); Cảnh khum lưng khoanh tay chống trên đùi, dáng điệu lù đù quê kệch, mắt sắc mắc. Thạch hỏi An: “Nghe Đồng nói ông cụ vận động cho cậu đi Pháp phải không?” An nhếch mép cười, che giấu bối rối đáp gọn: “Tôi từ chối”. “Ở nhà làm cái thá gì mới được?” Thạch đặt câu hỏi, biết An không thể trả lời. Làm gì? Làm được cái gì? Đó là bài toán của cả bọn, chưa có lời giải, trừ Cảnh nhắc lại ý kiến của Lénine: Bọn tiểu tư sản phải nhận thức biện chứng lịch sử và tự nguyện hy sinh. Thạch lại hỏi tiếp, bâng quơ: “Vẫn đến trường đều hả?”. Cảnh hỏi lại Thạch: “Còn cậu. Cậu có tin là cậu đang bắt đầu làm một cái gì?” Một cuộc khảo tra hành hạ lẫn nhau, Thạch lọt vào trong bẫy của mình lúng túng khổ sở như trong giấc mộng những ngày đau yếu thấy mình bị lột truồng đẩy đi rong qua phố phường: “Tôi không biết… mà cũng chẳng cần biết… Mon avenir est derrière moi. Tu es nihiliste, anarchisteaveugleimpuissant… Đồng tự nhiên cười rộ, vẫy vẫy cái vòi nhựa trên bàn tay mở ngửa, nháy mắt: “Regarde, ton avenir”. Một nữ sinh từ sau lưng Đồng và Thạch đi tới, hai tay nắm chặt tà áo trước cho khỏi bay, tránh xa bàn bọn con trai bước trên mép bãi cỏ thoải dốc, Thạch cười phụ họa cảm ơn Đồng đã giải thoát cho mình khỏi cuộc rượt bắt mệt nhọc với chính mình. An tiếp lời: “Dù sao cũng là một quyết định. Cũng hơn… là không quyết định”. Cảnh thôi không nói, bưng cốc nước chanh lên nhấm nháp. Màu nước hồ rêu đục, tháp Rùa loang lổ trong ánh nắng đang nản. Cho đến lúc chia tay, lại trở về cái đề tài bất tận là nhận định về lịch sử, về số phận các giai cấp, về xã hội chủ nghĩa do Cảnh nêu lên và Thạch tự nhủ: Để làm gì? Để làm gì? Đồng nhắc lại một câu của Marx: Đừng để bị nhốt trong sự suy tưởng; và Cảnh nổi giận gây gổ. Thạch nói: “Thôi, thôi đi. Mon poète”.

Vào buổi trưa trời âm u, Đồng và Thạch về đến nhà thấy có hai đứa cháu gái nhỏ của Đồng đón chú ở cửa, chị dâu của Đồng đưa con về chơi. Sau bữa cơm, Thạch nằm đợi giấc ngủ trưa trên tấm phản gần cửa sổ trông ra vườn, nghe tiếng thì thào của mẹ và chị Đồng ở dưới bếp. Đứa cháu gái lớn năm tuổi đã ngủ trên võng, đứa nhỏ đang đùa với Đồng. Thạch nhìn về những ngày trắng bấp bênh sắp tới, không biết phải làm gì cho hết hai tuần lễ ở Hà-nội, một ngày đã quá dài quá đủ bởi ngày này vẫn chỉ là sự kéo dài vô tận của những năm đã sống. Tiếng hát ru của Đồng, Đồng bồng đứa cháu nhỏ trên tay đi qua đi lại trong nhà. Thạch nhắm mắt nghe như Đồng đang ru chính Thạch, những mẩu bài hát cũ lơ lửng, Đồng hát lăng nhăng không đầu không đuôi bằng một giọng thầm như khi đọc những bài thơ tình, như những mảnh kỷ niệm chập chờn quanh đâu đó, chợt gợi những hình bóng mờ tối thoát ra khỏi quá khứ lẫn vào giấc ngủ của Thạch. Ngủ dậy Đồng rủ Thạch ra hồ Tây tắm, Thạch úp mặt bơi xa bỏ rơi Đồng; nước hồ xanh như hồ ngọc bích, gió buổi trưa già thổi mạnh làm cuộn sóng lớn, Đồng quay vào đến bờ Thạch vẫn còn tiến ra ngoài, ánh nắng chấp chới trước mắt; Đồng phải bắc loa tay lúc gọi trở lại.

Chiều hôm ấy Thạch đón Liên trước ga hàng Cỏ. Hằng ngày Liên theo chuyến tàu Phòng xuống Cẩm-giàng bán hàng chờ chuyến ngược trở về Hà-nội, bề ngoài Liên buôn những tạp vật như sách vở giấy bút, gương lược, cặp tóc, bàn chải, thuốc đánh răng, dép cao su v. v… bán cho các hàng sén chợ quê làng tề, nhưng thực ra Liên buôn lậu những món như thuốc tây, đá lửa, ét-xăng, dầu tây, bút máy, đồng hồ, tiếp tế cho hậu phương. Đồng hồ trước ga chỉ 6 giờ 17’. Nhà ga thời chiến tranh hiu quạnh, tòa nhà kiến trúc đồ sộ trơ trơ vẻ lạnh nhạt; chuyến tàu điện cuối cùng từ Kim-liên vào ngừng lại vài giây, chỉ có một toa đầu máy trơ trọi với mọi hình thù kỳ quặc, cửa lên xuống được sẻ hõm nghiêng góc hở hai đầu mũi toa giống như người bị sỉ ăn sứt hẳn một bên môi. Phía cuối ga bốn chiếc xe ba bánh chở hàng và xe xích-lô bỏ chổng bên hè, phu xe quây quanh hàng nước bày trên hành lang trống của nhà ga. Thạch đi vào phòng đợi hạng ba không gặp một người nào, gian phòng cao và rộng, nền tráng xi-măng nhẵn bừa bộn rác rưởi trong các góc, ghế gỗ dài cứng đóng sát dọc theo tường. Những tấm bảng kê giờ tàu, giá tiền, bản đồ giao thông lớn, từ trước thời chiến tranh vẫn y nguyên, màu sơn đã phai tróc. Buồng bán vé quây bằng những màng lưới sắt hẹp như chuồng thú, bên cạnh một bàn cân lớn nặng nề có bánh xe di chuyển được. Ngoài sân ga không một hoạt động; những dãy toa đứng im ngoài trời, bên những hàng mái hiên chật chội tức mắt, mõm xưởng chứa đầu máy há đen ngòm; mỗi ngày không kể con đường ngắn Hà-nội – Văn-điển, xe hỏa chỉ còn hai chuyến, một chuyến xuôi và ngược đường Hà-nội – Hải-phòng, con đường hơn trăm cây số tàu chạy từ sáng tới chiều bởi luôn luôn gặp bất trắc vì mìn ở dọc đường. Thạch đợi suốt cả tiếng đồng hồ đi đi lại lại ở trong tòa nhà chính của ga trông thẳng xuống phố hàng Cỏ đèn đã bật lên sâu hút, khu nhà ga to lớn như chết lịm đi trong lặng lẽ.

Khoảng hơn bảy giờ tàu vào ga gây một chút náo động. Khi tiếng còi hú ở đầu phố Cột cờ sân ga hơi chuyển động như trong cuộc phòng thủ thụ động, vài ba nhân viên sở Hỏa xa qua lại hấp tấp dưới ánh đèn chụp mờ. Một bóng người lom khom bẻ ghi dưới trời xẫm tít phía xa, chiếc đèn báo đưa đẩy giữa những con đường sắt trống lổn nhổn đá xanh. Đoàn tàu dài chỉ kéo ba toa hành khách trống trải ở khúc giữa, những toa đã có từ mấy mươi năm màu sơn nâu đã hóa thành màu máu đọng, trong toa không đèn lửa; từ đó đổ xuống một toán binh sĩ Pháp áp giải một đám tù binh khoảng chừng ba mươi người. Những bộ mặt câm nín ốm yếu cùng với quần áo bẩn thỉu tạo nên một đám màu vàng xỉn; vài người tù đã từng phải đi vác đạn cho quân viễn chinh còn giữ lại được cái quần dạ màu cứt ngựa, cái mũ rộng vành uốn hai bên bằng một sợi giây buộc của lính “pạc-ti-dăng”. Đám tù xếp thành hàng đôi bước qua những khoảng đá trải tiến lên “ke” – khi qua sát chỗ Thạch đứng một người trong bọn nói mau rất khẽ: “Cho tôi xin điếu thuốc lá”, Thạch dúi gói thuốc dở vào một bàn tay, kịp nhìn thấy một cặp mắt tái xanh – đi qua phòng đợi hạng ba, dồn nhau lên một xe cam-nhông bít bùng ngoài cửa ga; xe rú chạy mau về phía Đấu-xảo. Liên đi đi giữa đám hành khách thưa thớt, Thạch trông thấy cặp mắt và nụ cười của Liên trước nhất. Nàng mặc tấm áo dài đen bạc mầu, búi tóc trễ một bên vai, cái tay nải nâu không cuốn gọn ở bàn tay. Liên bảo: “Tôi đến tìm Thạch mà Thạch đã đổi chỗ ở. Nhiều lần muốn gặp mà không biết Thạch ở đâu”. Trước cửa ga, hai đứa đứng lại trên bực thềm vài phút, bên kia góc đường hàng Cỏ trước một quán rượu, bọn Tây say đang hò hét đánh đuổi một anh phu xích-lô chạy quanh gốc cây. Liên lại hỏi: “Thạch đã khỏe hẳn chưa? Bây giờ Thạch ở đâu?” Thạch đáp: “Tôi đi lính”, Liên ngạc nhiên chờ Thạch giải thích nhưng Thạch chỉ mỉm cười không nói. Hai đứa vượt qua khúc phố hàng Lọng vắng vẻ tới dãy buôn bán đông đúc gần chợ Cửa Nam, ánh đèn trong các cửa hiệu chiếu ra hè soi rõ mặt Liên mệt nhọc, mấy sợi tóc mai xòa xuống trán lấm tấm mồ hôi, Liên bước chậm chạp, hai tay buông xuôi bàn tay dấu mép áo. Liên hỏi: “Thạch thôi không học nữa? Đã nghĩ kỹ chưa?”, giọng của Liên dịu dàng nhưng khẩn thiết bắt Thạch phải trả lời. Làm sao nói với Liên được, làm sao Liên hiểu được, những điều phức tạp mâu thuẫn rối nùi trong trí mà nhiều lúc chính tôi cũng phải rức đầu chóng mặt? Thạch đáp: “Nghĩ kỹ rồi”, không phải tôi nói dối, phải nói là tôi đang nghĩ và tôi sẽ nghĩ mãi mãi, vừa bước tới vừa nghĩ, như một người mù vừa đi vừa nghe ngóng, tôi không muốn ngồi yên. Thạch nghe một nỗi đau buốt ở đâu đây, giữa Liên và tôi vẫn còn một khoảng cách biệt lớn lao là cái phần tối tăm trong chính tôi không thể phơi mở. Liên cười trong mắt, một vẻ tin tưởng thơ ngây; ngày còn bé Thạch cũng thường trông thấy ánh mắt ấy có bóng lửa sáng chập chờn những khi Thạch sang bếp xem Liên thổi cơm; Liên tin Thạch không bao giờ nói dối Liên, không bao giờ dấu diếm Liên bất cứ điều gì từ những đau buồn nhỏ nhặt đến những vui sướng tầm thường như ngày thơ dại. Hai đứa lớn dần là hai chị em, hai người bạn, hai người tình trong một nỗi cô đơn che chở lẫn nhau chống với những bất hạnh vô phúc ở quanh nhưng chiến tranh loạn lạc đã cắt đứt liên lạc, gặp lại nhau Liên đã lấy chồng. Khu cửa Nam nhộn nhịp. Bên kia cổng xe lửa phố Sinh-từ bụi bậm hay lầy lội, giữa khu phố bình dân ấy vẫn còn nguyên hai căn nhà giáp vách xưa của hai đứa, những gian nhà của ấn tượng thơ ấu không nhận được ngày mới hồi cư. Trên nóc một hiệu chữa đồng hồ, loa phóng thanh oang oang loan truyền tin tức. Rạp Kinh Đô chiếu một phim chiến tranh, trước cửa phòng vé chen chúc khán giả. Liên phát biểu ý kiến: “Mấy năm nay chạy loạn người ta vẫn chưa chán mà còn thích xem truyện chiến tranh, Thạch nhỉ”. Thạch đùa: “Xem cho nó quen để đỡ sợ”. Liên đã vui hơn, lắc đầu: “Tôi chịu không thể nào quen được”. Hai đứa bỏ phố hàng Bông, rẽ vào Đường Thành vắng. Thạch đề nghị lên hàng Buồm ăn cơm tám giò chả. Trên lề đường đất bên cầu đá xe hỏa qua những vòm cổng đục tối, bỗng Liên nói: “Thạch còn nhớ ngày nhỏ Thạch hay nhào lộn làm xiếc cho tôi xem không? Năm ấy Thạch mới có sáu bảy tuổi gì đó. Lớn hơn một chút Thạch lại ao ước trở thành nhạc sĩ để đánh đàn cho tôi nghe. Chóng quá phải không Thạch?” Thạch không sao nhớ nổi những điều ấy, chăm chú nhìn Liên, Liên chắc hẳn còn giữ được biết bao kỷ niệm mà ngày nay mình đã bỏ quên. “Thạch bây giờ trông có vẻ lại già dặn hơn cả tôi nữa”, Thạch cười hỏi: “Đáng mừng hay đáng buồn?”, Liên đáp: “Còn tùy”. Trong hiệu ăn, Liên ăn rất ít, nàng lo săn sóc Thạch; dưới ánh sáng sỗ sàng, mặt Liên già nua tẻ lạnh, nàng nhìn Thạch ăn và mỗi khi bắt gặp mắt Thạch nàng mỉm cười. Ở hiệu ăn ra hơn chín giờ. Thạch đưa Liên đi mua hàng loanh quanh mấy phố hàng Cân, hàng Bồ, hàng thuốc Bắc, hàng Vải thâm; phố xá vắng dần, trời se lạnh đổi gió, lúc trở lại hàng Ngang các cửa hiệu đều đóng cửa, hai đứa đi bên nhau dưới đường vắng. Chính trong những lúc này Liên đã kể cho Thạch nghe mấy năm trước khi mới gặp lại sau những năm tản cư về tình cảnh nàng: Tích, chồng Liên, thất nghiệp, chơi bời hư hỏng sinh ra nghiện hút, thường về đánh đập khảo tiền nàng. Thạch hỏi: “Tích dạo này thế nào?” “Hỏng lắm rồi. Tôi không còn chịu nổi. Bây giờ lại làm chỉ điểm cho phòng Nhì, mới tuần trước hắn bắt một người hàng xóm để làm tiền, tôi xấu hổ quá Thạch ạ. Tôi tính thuê nhà ở riêng”. Thạch không dám nhìn Liên, ngửng mặt như nghe ngóng hướng gió: “Tôi nợ Liên cả thảy bao nhiêu?”. Không nghe Liên trả lời, Thạch thu hết can đảm nói khẽ: Tôi đưa tiền cho Liên được không? Hả, tôi đã đi làm có tiền không nghèo như trước nữa.”. Cười nhạt không được hưởng ứng, nhưng Thạch cũng móc ví lấy phân nửa lương, trao vào tay Liên. Liên đứng khựng giữa phố, Thạch ấp hai bàn tay mình vào tay Liên, định bảo Liên cầm lấy nhưng chỉ gọi được một tiếng Liên, và nghe nỗi xúc động run rẩy ở bàn tay Liên. Liên thì thào: “Cám ơn Thạch, cám ơn Thạch”. Qua phút xúc động Liên bình tĩnh trở lại, bàn với Thạch những dự tính của riêng nàng: “Giữa tôi với Tích không còn gì ràng buộc, thằng Uẩn chết rồi. Thạch chưa biết nhỉ? Thằng bé bị thương hàn tái phát, đưa tiền cho hắn đi mua thuốc về cho thằng bé uống, cơn nghiện lên hắn đi hút rồi đi biệt mấy hôm. Thằng bé chết, chôn cất xong, mới thấy hắn về nhà, hắn không khóc lấy một giọt nước mắt”. Trong khi Liên vào một hiệu thuốc tây đầu Hàng Ngang, Thạch đứng dưới gốc cột đèn đầu hè, hàng phố không một bóng người, cửa hiệu thuốc Liên vào cũng kín mít làm bằng thứ gỗ dầy chắc. Phía xa đầu Bờ Hồ xe tuần cảnh chạy chậm, máy rì rầm vọng tới. Đêm càng khuya càng biệt tịch. Thạch nghĩ may ra Liên sẽ được sung sướng hơn trước. Liên trở ra Thạch nói ngay: “Tôi đã tưởng mất Liên rồi”, Liên âu yếm: “Thạch đợi lâu quá phải không?”. Tay nải của Liên nặng chĩu Thạch phải mang hộ nàng. Hai đứa đi ngược về phía hồ Gươm, sương bắt đầu xuống. Liên hỏi: “Muốn gặp Thạch thì tìm ở đâu?”, Thạch nghĩ ngợi giây lâu: “Mai tôi tới ga đón Liên”. Liên nhắc lại: “Mai, hở Thạch? Thạch còn ở Hà-nội lâu không?” “Nửa tháng”. Góc hàng Đào và hàng Gai, chiếc xích-lô quen chờ Liên. Thạch thong thả tiếp tục đi bộ một mình qua các phố đêm Hà-nội quen thuộc như đi trong một gian nhà rộng, không người ở.

CHƯƠNG III

Không về được Thụy-khê, Thạch đến nhà Cảnh, một buồng xép trên gác một ngôi nhà hai tầng nằm trong ngõ hẻm, đầu phố Hai bà Trưng gần Cửa Nam; gồm toàn biệt thự yên tĩnh; ngôi nhà được người chủ trương cắt cho nhiều gia đình khác thuê lại, đông người chật chội khắp các lối đi só sỉnh như một cảnh chợ, buồng của Cảnh trước kia là phòng tắm: vuông vắn mỗi bề ba thước, trong góc vẫn còn nguyên bồn đựng nước hoen gỉ của cầu tiêu máy trên đầu tường, nửa đêm nước lên được đến trên gác chảy róc rách trong bồn trong các ống dẫn nước chạy bọc dưới chân tường, cầu tiêu đã được tấm phản kê khuất lên trên. Thạch bước dón dén lên những bực thang gỗ ọp ẹp tối om, sợ làm kinh động cái gia đình thuê phần đất dưới gầm cầu thang, dưới sân tiếng máy nước chảy vào bể và người ta đang thức canh chuyển sang chum phần mình, chuyện trò bâng quơ, đâu đây tiếng bài mạt - chược xoa ròn tan trong một căn buồng mở cửa sáng và ở phố xa tiếng kèn của một nhà khiêu vũ vọng tới hiu hắt.

Cảnh đang ngồi làm việc trước bàn viết, cởi trần tóc rũ xuống trán, tấm bảng gỗ nhỏ đóng trên tường chi chít những phương trình toán học; hắn đang sửa soạn chứng chỉ Cơ học thuần lý. Thuần lý, khôi hài, le réel est irrationnel; nằm trên phản Thạch nhìn qua cửa sổ lên cái sân thượng xa tít của một tòa nhà cao thuộc phố bên, đêm Hà-nội dịu dàng khép kín trong một giấc mộng triền miên không hình ảnh. Chốc chốc Cảnh buông bút, đạp chân vào tường cho ghế ngả đụng vào phản, ngửa cổ lim dim. Sáng hôm sau Thạch dậy muộn, người mệt mỏi đầu nặng, trong giây khắc chập chờn sắp tỉnh Thạch quên không nhớ là đang nằm ở đâu; Cánh cửa sổ trước mắt nhìn ra ngoài trời đóng chặt, Thạch nghe xung quanh ở bên ngoài sự êm tĩnh của buổi mai đang lên cao; một ngày ở Hà-nội đã qua. Cảnh dạy từ lâu, hắn ngồi thu hình đọc sách trên mép cửa sổ cuối chân giường mở ra trước một bức tường hông của tòa biệt thự bên cạnh. Thạch rủ Cảnh đi ăn phở; Sau bữa điểm tâm, Thạch tính từ biệt Cảnh chưa biết đi đâu cho hết buổi sáng nhưng cũng không muốn chạm mặt nhau mãi kéo dài cái không khí tẻ nhạt giữa hai người; Không còn chuyện để nói nữa, Cảnh hỏi: “Cậu bận việc gì sáng nay không? Nếu không chúng mình đi thăm một người quen”. Thạch hỏi lại: “Ai mới được?”. Cảnh đáp mơ hồ: “Một nhân vật kỳ lạ của thời đại”. Thạch nhận lời.

Đó là một người đàn ông đứng tuổi, phải bảo là một nhân vật dị kỳ mới đúng, không rõ người nước nào. Theo lời Cảnh y là người lai, bố Đức mẹ Trung-Hoa, y có nhiều nét Á-Đông hơn Tây-phương, khổ người thấp bé, nước da ngăm đen, trán dô và ngắn, mắt một mí hum húp. Cách ăn mặc lạ lùng, y vận âu phục, cái cra-vát đỏ loang bẩn được treo lên cổ bằng một sợi giây lạt, quần buộc túm bằng giải dút, giầy không bí-tất. Y nói chuyện bằng tiếng Pháp lơ lớ giọng Tàu và giọng Anh, tự giới thiệu là y nói được bảy thứ tiếng: Đức, Tàu, Anh, Nhật, Pháp, Tây-Ban-Nha, Nga, đã từng lê gót gần khắp thế giới; thời nội chiến Trung-Hoa những năm sau Cách-mạng Tân-hợi y đã gặp Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông hoạt động bên cạnh Borodine, là bạn của Malraux, Quách Mạt nhược. Bây giờ y là người vô tổ quốc, đến Việt-nam mới được hai năm có ý định lưu lại Hà-nội ít lâu, đang ra công viết một bộ sách dày vài nghìn trang chứng minh sự lầm lẫn của chủ nghĩa Marx, khởi xướng một lý thuyết mới mưu cầu hạnh phúc hòa bình cho thế giới. Y lôi ở dưới gầm tủ ra một cái hòm sữa đựng đầy giấy má, cầm lấy một tập mở ra đọc vài trang, Thạch chẳng hiểu gì hết, y viết bằng tiếng Anh. Y sống một mình trong gian nhà rộng dài thuê đắt, ở giữa nhà một cái bàn học trò với ghế dài, một cái chõng tre làm chỗ ngủ, và một cái tủ mộc; trên tường vôi bẩn thỉu treo một tấm bảng đen lớn, trong các góc nhà mạng nhện giăng đầy; sân trong, nhà bếp sơ sác như một ngôi nhà hoang. Lúc bọn Thạch đến có hai người, một nam một nữ, ăn mặc tề chỉnh vẻ thượng lưu đang học tiếng Anh với y; họ ngồi ở bàn học trò, y đứng trước bảng cầm thước chỉ dẫn, bắt họ đọc thành tiếng và gắt gỏng la mắng như đối xử với bọn con nít. Hai người này ngượng vì sự hiện diện của Thạch và Cảnh, ấp úng xin kiếu về trước giờ viện lẽ y có khách phải tiếp. Họ nộp ngay tiền sau giờ học, mỗi người hai trăm bạc bước ra khỏi nhà như được giải thoát; hai người đã về, y vẫn còn lớn tiếng chê bai bọn họ là một lũ đần độn, như thế mà cũng vác mặt làm kẻ thượng lưu trong xã hội, y bảo người đàn ông là quản lý tờ nhật báo bán chạy nhất Hà-nội hiện thời, người đàn bà là vợ một viên chức cao cấp trong chính phủ. Y vào trong góc nhà lấy ba chai nước giải khát, với ba cái cốc cáu bẩn, bắt Cảnh dùng răng mở nút chai, sai Thạch cầm một cái đĩa nhôm đi mua nước đá ở một tiệm kem đầu phố; Cảnh đưa mắt ngầm ý bảo Thạch làm theo lời. Khúc phố ngắn vắng vẻ trong khu gần hồ Thiền Cuông phía sau nhà Đấu Xảo, Thạch đi lững thững giữa đường ném cái đĩa nhôm lên không rồi bắt lấy, không hiểu mình đang ở nơi này để làm gì; buổi sáng lặng lờ bằng phẳng như những nhà đóng kín cửa buông mành sáo bên hè, tiếng máy nước đá sọc sạch đều đều trong một cửa hàng không hoạt động. Khi y rót nước vào cốc, Cảnh bảo Thạch: “Cậu giả tiền lại nó”; y chỉ nhận của Thạch phần tiền nước của bọn Thạch mà thôi. Suốt nửa giờ y nói thao thao về đủ mọi vấn đề triết lý, chính trị với vẻ nghiêm trọng của đạo sĩ đang thuyết pháp trước tín đồ, cười hô hố nhe hàm răng cải mả bắn cả nước bọt ra ngoài, bàn luận công kích mọi tư tưởng từ cổ chí kim, từ Jésus Thích-ca đến Lénine, Trotsky không chừa một ai. Merde, ra khỏi nhà y Thạch cáu bẳn chán ngán, chân tay muốn phá phách, để khỏi nghĩ ngợi; Cảnh im không nói gì. Đến hồ Thiền Cuông, Thạch hỏi: “Nó có điên không? Cậu gặp nó trong trường hợp nào?” Cảnh đáp: “Tôi gặp nó trong một buổi hội họp của bọn trí thức ở đây, tại nhà bác sĩ Hán. Cậu biết tên này không? Thằng An học Ăng-lê cùng với hắn ở Sứ-quán Anh nên được mời đến dự, nhân đón tiếp một mụ giáo sư Mỹ vừa sang cổ động cho Phong-trào liên-bang hòa-bình thế-giới. Nó rủ tôi đến chơi xem. Cậu biết chúng nó bàn luận những gì với nhau không? Chính-phủ liên-bang hòa-bình thế-giới, tu chỉnh hiến chương Liên-hiệp-quốc…” Thạch hằn học: “Tôi mà có súng thì tôi lia cho chúng chết khuất mắt. Một bọn khùng đáng ghét”. Cảnh mỉa mai riễu cợt: “Biết đâu nó chẳng là thiên tài, một bộ óc lớn của nhân loại” và cười gằn cộc lốc. Thạch bị chọc giận, nói như say: “Cậu phải nhớ đã có lần thằng An hỏi tôi nghĩ thế nào về thiên tài. Tôi bảo tôi đéo tin thiên tài. Thiên tài chỉ là bịp, bịp mình, bịp người, đại bịp. Một thứ kiêu hãnh tột độ không muốn chung đụng với ai. Bởi kiêu hãnh nó phải cố tạo ra những công trình hư tưởng để tự chứng thực, chứng thực cho cái lối sống cô độc phản xã hội của nó. Công trình nó tạo ra là bức thành ngăn cách nó với đồng loại, nó nói là làm mọi người gần nhau nhưng thực ra là nó chia rẽ mọi người… Vì muốn gần nhau người ta phải vươn lên kịp nó, phải chịu nhốt chung với nó. Chẳng bao giờ nó xuống với người ta cả. Mà giả thử người ta có muốn tới với nó thì nó lại có muôn ngàn lối để thoát lên trên người ta khiến người ta quay cuồng tuyệt vọng chẳng hiểu đâu vào đâu cả. Không bao giờ, không thể nào người ta có thể bằng nó, vì như thế còn đâu thiên tài. Il faut tuer tous: génies, prophètes, poètes, philosophes, etc Nếu chẳng may tôi là thiên tài chắc chắn tôi tự tử ngay”. Cảnh trầm ngâm vài giây: “Cậu có nghĩ cậu cũng là loại kiêu ngạo nguy hiểm?” Câu hỏi như một cái bẫy sập, Thạch lúng túng vùng vẫy chưa thoát; Cảnh tấn công: “Tôi sợ sự lựa chọn của cậu chỉ là phản ứng của kiêu hãnh. Có nhiều khi người ta lầm tưởng mình là thiên tài chứ? Tôi biết cậu vẫn nhìn tôi như kẻ hèn nhát, trốn tránh để học cho mình. Tôi nói thực tôi cũng không có bụng dạ nào học, pis-aller, chỉ chừng nào tôi thật là tuyệt vọng có lẽ tôi sẽ theo đuổi con đường khoa học. Cậu đừng nghĩ những điều tôi tin tưởng chỉ là cái cớ giả dối che đậy. Tôi chưa dứt khoát vì nhiều lẽ…” Thạch nổi nóng nhưng không biết phải làm sao, bên kia hồ là con đường đất gồ ghề và bãi cỏ hoang dơ bẩn, cái hồ hẹp trơ trẽn giữa một khu phố sạch. Cảnh bỗng dịu giọng: “Cậu không bao giờ nên nghĩ rằng vì hèn nhát giả dối hay mù quáng mà tôi tin. Sở dĩ tôi chấp nhận là vì tôi cho rằng mình không thể tự thay đổi được đời mình. Trong cái xã hội này mình cũng bị aliéné. Tôi sợ cứ bám mãi lấy cá nhân, tự do, trí thức rồi mình cũng đến dở điên dở khùng. Tôi có một người rất thân trong gia đình, hồi còn đi học hoạt động hăng hái ghê lắm, vào cái thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh về nước, bị bắt ra tòa vào tù đến chừng trở về lấy vợ đẻ con, bây giờ gàn không tưởng… C’étaient nos pères, les petits bourgeois”. Thạch gượng gạo hỏi: “Cậu không tin rằng mình đã biết thế thì mình có thể tránh được?” Cảnh đáp: “Tôi đã bảo cậu vẫn còn kiêu hãnh, riêng mình mình không thay đổi được gì hết. Mình phải quên mình đi mới được. Cậu đang hành động như kẻ tự sát. Cậu không tự do đâu?” Thạch buông suôi: “Thì cứ cho là như vậy”, buồn hết sức, châm thuốc lá hút liên miên, tôi cũng là kẻ kiêu hãnh cô độc. Những ý niệm mập mờ bám chặt như loài đỉa voi dứt không đứt, trơn tuột, bầy nhầy gớm ghiếc; Thạch chấm dứt câu chuyện bằng cách nói lửng lơ như với riêng mình: “Có thể tôi lầm nhưng trước khi đó tôi muốn thí nghiệm. Tôi không muốn chấp nhận khi tôi còn nghĩ tôi có thể làm khác. Giả thử thất bại cũng chẳng phải là vô ích, vô nghĩa lý. Thí nghiệm thất bại cũng có ích cho người khác”, và kéo Cảnh vào một hiệu kem ở đầu phố Gia-Long. Trong dãy tủ kính cửa hàng Godard cũ, các hàng len mới đã trưng bày, dưới mái hiên che rợp hè đường bọn con gái dán mũi vào tủ kính. Hiệu kem hẹp như một kẽ ngách giữa hai tòa nhà lớn, trang trí tân thời nhiều màu sắc nhưng thiếu ánh sáng. Cảnh rủ Thạch về quán sinh viên ăn cơm rẻ tiền. Trên phòng gác rộng, bàn ghế còn mới, các góc bầy những chiếc quạt đứng xanh quá sang trọng trong một khung cảnh không trần thiết. Cảnh nói: “Cái xã hội này nó đang nuôi mình như nuôi bọn quái thai dị nhân buổi sáng ấy. Nó dạy bọn trưởng giả, khinh bọn ấy ra mặt nhưng bọn ấy vẫn cần nó vì nó là bằng chứng của tự do mà…” Thạch không muốn nói không muốn nghĩ nữa. Chia tay với Cảnh, Thạch lang thang ngoài phố, nhiều lúc mỏi mệt buồn ngủ ngáp chảy nước mắt. Khoảng ba giờ ghé qua ga hỏi giờ tàu, người ta cho biết tàu trễ vì mìn nổ ở gần cầu Phú-lương. Lại tiếp tục cuộc du ngoạn trống trải qua thành phố; tình cờ trong một hiệu sách nhỏ lụp xụp gần chợ Đuổi, Thạch được đọc một truyện ngắn của An đề tặng Thạch đăng trong một tờ tuần báo ít độc giả. Truyện kể một anh chàng điên vì tình bỗng tự dưng khỏi bệnh, anh ta khổ sở vì phải tỉnh lại, anh ta muốn điên nữa điên mãi nhưng vô hiệu, cuối cùng nhân vật tự tử vì chán ngấy sự sáng suốt. Thạch bỏ ba đồng mua tờ báo. Bảy giờ hơn Thạch theo phố hàng Cỏ về ga, từ xa dưới vòm cây um Thạch trông thấy Liên đứng đợi. Dáng mảnh mai trong chiếc áo đen dựa bên cái cột lớn trước tòa nhà ga chính nhô ra ngoài, trong một vùng hiu quạnh trống trải của buổi chiều lẩn khuất. Thạch hỏi: “Tàu về lâu chưa Liên?” Liên đáp: “Chưa, hôm nay tôi nghỉ chợ dọn nhà, đợi Thạch đến cả tiếng đồng hồ, tôi sợ Thạch không đến”. Thạch hỏi: “Sao lại không đến?” Liên chỉ nhìn Thạch không trả lời. Ngày cuối mùa hè, buổi chiều kéo dài, ánh sáng nhuộm da trời một màu vàng đu đủ. Liên bảo: “Thạch về xem nhà mới của Liên”. Liên thuê một căn nhà nhỏ giá năm trăm một tháng trong một ngõ hẻm Sinh-từ, cái phố của tuổi nhỏ đã mất. Qua hai căn nhà cũ, một hiệu bán thịt bò bên một hiệu sách, Liên nhắc: Nhà của chúng mình, Thạch nhìn vào trong tưởng tượng đến cái ngõ sau ăn thông, Thạch vẫn qua nhà Liên bằng ngõ ấy để Liên dúi cho Thạch mấy viên kẹo bột kẹo vừng mua ngoài chợ hoặc Thạch cho Liên những cục kẹo gôm mang ở trường về. Nhà mới dọn đồ đạc sơ sài nhưng đã ngăn nắp sạch sẽ, Thạch cảm thấy nó trống trải đáng sợ. Đứng bên cửa sổ Thạch nhìn những ánh đèn dầu trong những gian nhà lá ở bên con đường đất phía bên bờ ao sau nhà. Những bóng người đi trên đường xẫm dần, những hồi chuông rời rạc của xe đạp xe xích-lô trở về xóm, tiếng hò reo của đám trẻ con vang vọng. Bỗng dưng Thạch hỏi Liên: “Uẩn lên mấy nhỉ?”, Liên đáp: “Nếu còn thì lên ba”. Liên ngồi ở đầu giường, mặt cúi nghiêng tóc như sắp xổ tung, Thạch biết Liên sắp khóc như ngày nhỏ và Thạch vẫn chưa biết cách nào an ủi bạn. Thạch lại hỏi: “Liên dọn đi, Tích hắn có biết không?” Liên lắc đầu. “Bây giờ Liên tính thế nào, Liên còn đi chợ Tích hắn còn có thể đón gặp Liên, lúc ấy Liên nói sao?” Liên đáp: “Đến đâu hay đến đấy”. Thạch ra đứng ở cửa ngó mông ra đầu ngõ, nhà tận cuối ngõ gần ao và một bãi hoang, sự ồn ào tấp nập qua lại ngoài phố không vào đến nơi. Thạch nghe tiếng Liên: “Thạch về đấy hả?” Thạch không đáp ngay, nhìn trước mặt thấy sao lấp lánh, rồi ngập ngừng: “Tôi ở lại đây. Được không? Liên cần tôi không?”. Thạch quay người lại, Liên ngồi im trên giường đầu cúi gầm không đáp. Thạch tiến lại gần đặt bàn tay lên tóc Liên vuốt ve, Liên rùng mình. Thạch gọi: Liên, nàng ngước lên. Liên đang đỏ hoe mắt.

Những ngày sau Liên nghỉ chợ, ở nhà săn sóc Thạch, Thạch cũng chỉ quanh quẩn bên Liên không ra phố. Liên mang lại cho Thạch một không khí đầm ấm của gia đình Thạch thường chỉ được trông thấy ở xung quanh. Thạch được nghỉ ngơi hoàn toàn trong nơi ẩn trú của hai đứa, nhận định sự vật bên ngoài dịu dàng bình tĩnh hơn. Trong khi Liên bận bịu dưới bếp, Thạch giúp nàng những công việc vặt vãnh, thư thái không nghĩ ngợi, chìm đắm trong một thứ hạnh phúc quên lãng êm đềm. Thấy Thạch hân hoan, Liên mỉm cười nói bằng giọng xúc động: “Giá đừng loạn lạc thì chúng mình sung sướng bao nhiêu.” Thạch gạt đi: “Thế này chẳng sung sướng rồi sao? Đừng tiếc gì hết Liên ạ.” Mỗi buổi tối Thạch đưa Liên đi cất hàng gửi nhờ Bích, một cô bạn, mang xuống Cẩm-giàng. Bích ở giữa phố hàng Bông, qua cái cửa ngõ tối ẩm bên cạnh một hiệu trồng răng, một khoảng sân nhỏ, tới một gian buồng dài luộm thuộm nơi cư ngụ của một gia đình đông người: ba cái phản kê san sát đã mắc màn ố vá chằng đụp, trong một cánh màn ấy le lói ánh đèn dầu, không khí nực khói thuốc phiện với mùi đồ đạc ẩm mốc. Một bộ bàn ghế gỗ, bừa bộn sách vở cốc tách giỏ ấm bình điếu tàn đóm trên mặt bàn và quần áo cặp sách ở lưng ghế, gần chân tường hòm xiểng va-ly chồng chất lên nhau. Bích cao lớn, thoáng nhìn có vẻ thô kệch nhưng sự tương xứng của các phần tạo cho Bích một vẻ riêng dễ coi, một thứ duyên dáng thật thà, những nét đẹp bất ngờ khỏe mạnh, giọng nói rõ và ấm, lối nhìn người lạ ngay thẳng giàu thiện cảm. Liên kể với Thạch: “Bích can đảm lắm, lại tinh thần cao nữa, con cháu cụ đấy”. Bích là một con cả trong một gia đình trưởng tộc, bố nghiện, Bích và mẹ chạy hàng xách tần tảo nuôi bảy miệng ăn, bốn đứa em Bích còn đi học, thêm tiền thuốc cho ông bố và những ngày giỗ của gia tộc; nhà Bích nghèo nhưng nệ cổ vẫn cố làm tròn bổn phận nặng nề của trưởng họ, tháng nào cũng giỗ, có tháng tới bốn năm ngày giỗ. Trở về Thạch dìu Liên qua những phố yên tĩnh, khuya nghe chớm lạnh mùa thu sớm, giữ Liên lại hôn Liên sau những rặng cây, lấy những đầu ngón tay lau những giọt nước mắt cho Liên và nói: “Liên vẫn hay khóc như thuở bé”, Liên đáp: “Liên khóc thương cho hai đứa mình, không biết sẽ ra sao. Mai kia Thạch đi rồi…” Thạch an ủi: “Đừng nghĩ đến cho mệt. Hiện tại chúng mình sống với nhau là đủ rồi.” Khi yêu Liên, Thạch nương nhẹ, ôm ấp trìu mến Liên như nâng niu những tình cảm ấu thơ, điều Mai không hề dạy, điều Thạch không tưởng tượng có thể làm được. Đêm đầu tiên bàn tay ấm áp của Liên ôm lấy mặt Thạch sau phút ân ái, trong mắt Liên biểu lộ sự hàm ơn. Liên kể nỗi khổ sở của Liên ngày mới lấy Tích, hắn dày vò thể xác Liên như súc vật khiến cho Liên sợ hãi ghê tởm đàn ông: “Liên vẫn sợ Thạch. Liên yếu đuối quá mà Liên biết Thạch ghét sự yếu đuối”. Thạch ôm hết cả Liên vào người đáp: “Riêng với Liên anh sống một cuộc đời khác.

Vào buổi chiều chủ nhật, Thạch đưa Liên đi chơi qua các phố vắng. Mùa thu đã trở về những hàng cây xanh mướt bầu trời hiu hắt trở gió thổi tà áo của Liên quấn lấy chân Thạch. Dọc con đường đất ven sông nhìn nước cuộn chảy, Liên bảo Thạch: “Em nghĩ giá chúng mình chết với nhau lúc này thì giữ được hạnh phúc hoàn toàn”. Thạch mỉm cười dễ dãi: “Em lãng mạn quá. Anh thích sống với em hơn”, Liên bâng khuâng: “Em sợ… Em vẫn sợ tương lai”. Thạch cố gượng đùa trấn áp những khuấy động Liên vừa gợi lên: “Em lo sợ anh chết sớm chứ gì? Sao em cứ mong điều gở cho anh thế? Mà anh chết lúc ấy em chết theo cũng vừa”. Liên mỉm cười hỏi: “Nhỡ em chết trước anh thì sao? Anh dám chết theo em không?” Thạch chậc chậc miệng, học theo lối của Đồng: “Anh ham sống lắm sợ khó mà chết được theo em”. Tuy biết là câu nói bỡn Liên vẫn không giấu được vẻ buồn. Thạch rủ Liên ghé vườn hoa Chí Linh nghe hòa nhạc công cộng, leo lên ngồi trên khoảnh đất cao dựng đài kỷ niệm chiến sĩ, gặp bọn Đồng, An và Cảnh. Cảnh đứng xa nhìn lại, chỉ có An và Đồng tới gặp Thạch. Đồng hỏi: “Đi biến đâu mà mấy hôm không gặp?” Thạch ậm ừ cho qua chuyện. Đêm hôm ấy Thạch mất ngủ, nằm nghe im lặng ở tứ bề, gió thổi ngoài bãi đất trống gần nhà. Khi những chiếc xe xích-lô lọc xọc trở về trên con đường đất bên kia bờ ao và ngoài phố ầm ì động cơ của xe tuần cảnh, Thạch trở dậy thắp đèn mang đặt trên ghế con đầu giường, tìm mấy tờ báo cũ gói hàng nằm đọc. Tin tức chiến tranh Cao-ly, cuộc tranh chấp dầu hỏa ở Ba-tư, các phong trào chính trị ở Trung Đông, phong trào Marilyn, truyện ngắn của Nga, thơ kháng chiến trong phụ trang văn nghệ, mốt tự tử bằng pháo xiết của dân Hà-nội, những bài quảng cáo của nhà trồng răng Minh Sinh. Chói mắt, Liên trốn mặt vào cổ Thạch, hỏi qua giấc ngủ yên tĩnh: “Anh còn thức?” Thạch vặn thấp ngọn đèn nằm im nhìn đình nhìn màn. Một lát Liên quàng tay ôm lấy đầu Thạch: “Anh không ngủ đi anh”, Thạch gỡ tay Liên đắp hết chăn cho nàng, sửa lại mái tóc xô lệch của Liên, xong nằm xích ra ngoài mép giường. “Anh không trả lời Liên?”. Thạch hôn lên trán Liên: “Anh canh cho Liên ngủ”. Ánh đèn dầu phủ trên mặt Liên một lớp rạng rỡ của hạnh phúc bình thản làm Thạch quặn đau. Gần sáng Liên dậy, Thạch vờ nhắm mắt như ngủ. Liên đắp chăn cho Thạch, dón dén đi lại trong nhà sửa soạn hành lý ra ga. Liên đến ngồi cạnh giường đợi cho qua giờ thiết quân luật, Thạch mở mắt. Liên lùa tay vào trong ngực áo Thạch mơn trớn, tươi cười lắc đầu: “Anh ngủ đi. Bây giờ đến lượt em canh cho anh ngủ. Hôm nay em phải xuống thu tiền hàng, anh ở nhà cho ngoan nhé. Lát nữa em mua xôi để trong trạn, thức dậy anh nhớ ăn. Chiều anh đón em, em mua quà về cho”. Thạch không thể nào chợp mắt được, ngồi nhỏm dậy, mặc quần áo đưa Liên ra ga dù Liên ngăn cản. Năm giờ sáng, trời mờ tối, sương thấm ướt vỉa hè. Phố Sinh-từ và chợ Cửa Nam rào rào ấm ấp, những phố xung quanh tĩnh mịch. Thạch và Liên ăn điểm tâm trong ngõ Yên-thái trước ga, Thạch uống hai cốc cà-phê sữa cho tỉnh. Trong sân ga buổi sớm đám hành khách dồn lên chưa hết một toa làm lộ vẻ quạnh hiu của những kè si-măng dài. Cả đoàn tàu nối một cách thừa thãi, ngoài hai toa hành khách hạng ba liền nhau còn toàn là những toa gòn bỏ không và những toa hàng hóa kín mít. Sự điều hành công việc cũng lửng lơ như không, ngoài người bán vé ngồi trong cũi tối và người bấm vé giữ cửa. Một người phu đẩy cái xe sắt nặng nề trên chất mấy kiện hàng nhỏ. Một chiếc đầu máy loay hoay lên xuống từ đầu Sinh-từ đến cuối hàng Lọng. Lúc tàu sắp khởi hành mới nghe tiếng còi của người trưởng xa đứng gần đầu máy. Thạch đưa Liên lên chỗ ngồi, đứng tựa cửa sổ nhìn quang cảnh dưới sân, Liên chuyện trò với nhóm bạn hàng quen thuộc. Khi tàu chuyển bánh, Liên gọi Thạch: “Anh, tàu chạy rồi”. Thạch gật đầu nói: “Anh cũng đi chơi”. Liên bảo, vẻ không bằng lòng: “Nhưng anh chưa lấy vé mà”, Thạch đáp: “Có sao?”, một người bạn hàng xen vào: “Thì lát nữa cô Liên điều đình với ông soát vé vậy. Ông ấy có cảm tình với cô mà”. Con tàu nặng nhọc chạy khoảng đường ngắn ngót năm mươi cây số mất ba tiếng đồng hồ, ngừng lại ở những ga xép có khi hàng mươi lăm phút nửa tiếng không biết để làm gì, chẳng có hành khách lên xuống, cũng chẳng có hàng hóa chuyên chở. Nhà ga trống như những điếm hoang tường vôi lem luốc, nhiều nơi lở lói những dấu đạn, thường nép cạnh những đồn bốt xây bưng bít vây kín bằng rào gai và nứa chỉ hở những lỗ châu mai, tôi ở trong bốn bức tường gạch bít bưng ấy và Liên ngồi trên chuyến tàu này, chuyến tàu phập phồng đang thở những hơi nước tắc nghẽn. Ga Cẩm-giàng đỡ tẻ hơn, có đường tránh nhau, những người bán hàng rong và lính tráng lảng vảng đón tàu tới. Đứng trên lớp đá xanh cập kênh sát thành tàu đón tay nải cho Liên, Thạch chóng mặt buồn ngủ. Một người đàn ông đứng tuổi ăn mặc nửa tỉnh nửa quê, đến bên hỏi chuyện Liên. Liên dắt tay Thạch theo người đàn ông ấy, đưa Thạch vào ngồi chờ Liên ở một hiệu thuốc Bắc trước cửa chợ. Trong khi Liên đi giao hàng, Thạch ngồi ở đầu tràng kỷ phía trong, chỗ đợi của khách hàng, ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng choàng dậy trông thấy những ô kéo của cái tủ cao trước mặt và người đàn ông đứng tuổi đã gặp ngoài ga ngồi sau góc quầy phía ngoài trông ra đường phố chính. Đường mấp mô bụi bậm hai bên dãy nhà gạch tiêu điều: quán giải khát, hiệu cắt tóc, hàng tạp hóa, đồn binh, quận hành chính, ty công an. Bên kia đường một gốc cây lớn làm chỗ tựa một quán nước nghèo của chợ quê. Giờ đồng hồ sau Liên trở về, đứng tính toán hồi lâu ở quầy với người đàn ông. Chủ nhà mời hai người ăn cơm trưa nhưng Liên từ chối. Nàng dẫn Thạch vào nhà trong rửa mặt bằng nước giếng mát, hai gò má Liên ửng hồng, trán lấm tấm mồ hôi. Sau nhà trông ra ruộng và quốc lộ số 5 chạy về phía Hải-dương. Bữa cơm ăn trong một quán lá đầu chợ. Chợ buổi trưa lẻ tẻ còn mấy quán hàng sén giữa những túp lều xiêu vẹo chỉ còn cột chống và nền đất rác rưởi. Bà chủ quán đau mắt hột nặng, răng đen lâu chưa nhuộm biến thành màu nâu nhởn, thắt ruột tượng xanh, nói với Liên: “Ông đội Khoát hỏi thăm cô Liên sao nghỉ chợ cả tuần lễ nay”. Lần trở về, Thạch nằm trên ghế gối đầu lên tay nải của Liên ngủ tới gần Gia-lâm mới tỉnh; Liên không có trong toa. Thạch đứng tựa ở đầu bực lên xuống ngắm cảnh vật. Buổi chiều đang ngả dần ánh nắng hanh chạy xô tới xô lui trên mặt lúa còn xanh, những thôn làng quay tròn theo vòng lượn của đoàn tàu. Một lúc tàu tăng tốc lực bất thường, Thạch ngồi bệt xuống sàn. Qua cái cầu đá vắt ngang quốc lộ, Thạch nhìn những ống khói nhà máy của vùng Gia-lâm giơ lên trong chiều xẫm. Tàu dừng lại và toa của Thạch ở trong một đám cây cỏ hoang vu, tới khi tàu chuyển bánh chậm chạp, chân Thạch cọ vào những cành lá sắc mọc cao, toa tàu đu đưa, tiếng động của chuyến xe rời rạc nặng nề. Thạch choàng tỉnh – một vài phút quên lãng xa lắc – Liên trải khăn tay ngồi ở bên, những thanh sắt cầu khổng lồ đan chéo trước mắt, hình như Liên thì thầm: “Em tìm anh mãi”. Ga hàng Cỏ chập chờn dưới những bóng đèn vỏ đục. Thạch đỡ hành lý cho Liên và đi qua gian phòng rộng tối, ra ngoài phố, ở góc só tối một người ăn mày nằm co quắp trên ghế. Đứng bên đường tàu điện, Liên hỏi Thạch: “Đi đâu anh? Em về nhà thổi cơm anh ăn nhé? Ăn xong anh đi ngủ sớm anh mệt lắm rồi đấy”. Thạch không trả lời ngó sững sang bên đường. Tích đứng dưới một gốc cây. Trông thấy Tích, Liên hoảng hốt níu tay Thạch muốn kéo Thạch bỏ đi. Thạch đẩy tay Liên bảo: “Em sang xem hắn muốn gì”. Liên nhìn Thạch sắp khóc van lơn, Thạch hất đầu ra hiệu Liên làm theo ý mình. Liên băng ngang đường, Thạch theo sau đến trước mặt Tích. Tích hom hem trong bộ quần áo ka-ky rộng và dầy, đầu đội cái mũ dạ nhầu, hắn để một chút ria mép, toan quay đi xong lại nán đợi Liên, Tích nói với Liên: “Cô theo tôi về nhà nói chuyện”, Liên đáp: “Tôi chẳng có chuyện gì phải nói với anh cả”. Tích gằn giọng: “Cô đừng để tôi phải trói tóc lôi cô về thì xấu mặt”, Thạch lên tiếng, giọng lạnh lùng thách thức: “Anh có đủ can đảm làm thử tôi xem nào”. Tích ngắm Thạch tức giận hỏi: “Anh là ai?”. Thạch dằn từng tiếng: “Tôi khuyên anh không nên theo đuổi làm khổ Liên nữa, tôi đã lấy Liên làm vợ rồi anh biết chưa?”, Tích hất hàm hỏi Liên: “Có phải thế không?” Liên cúi đầu không đáp, dáng điệu tội phạm, Tích nhếch mép cười nham hiểm bảo Thạch: “Chúng ta còn nhiều dịp khác để thanh toán vấn đề”. Trước khi trở gót hắn ném một cái nhìn khinh bỉ cho Thạch và Liên. Thạch nổi xung nắm cổ áo hắn giật lại, Liên kêu lên: anh. Tích đứng im, Thạch buông tay và hắn xốc lại quần áo bỏ đi không thèm nhìn lại.

Thạch cảm thấy mệt mỏi hết sức, Liên khóc thút thít suốt dọc đường về. Đến một lúc tiếng khóc của Liên làm Thạch bực mình gắt: “Thôi khóc mãi”, Liên nín bặt. Vài phút sau sự nín lặng đè nén của Liên làm Thạch khó chịu hơn. Thạch muốn nói với Liên điều gì đó nhưng không thể thốt ra lời, cơn tức giận bóp nghẹt lấy cổ họng, Thạch bước lùi lũi Liên lẽo đẽo theo sau. Về đến nhà vẫn không nói với nhau thêm một lời, Liên khép nép liếc Thạch, Thạch lầm lì trong cái vỏ cứng nỗi đau đớn giận dữ không thoát được. Lên giường Thạch tưởng sẽ ngủ được ngay nhưng trái lại sự mệt nhọc kéo dài tình trạng thao thức mỗi lúc một khó thở hơn; Liên nằm bên cạnh thỉnh thoảng thở dài. Thạch dậy múc nước rửa mặt cố gắng tìm sự bình thản để sẽ vào nói chuyện với Liên. Ngồi xuống giường ngó vào mắt Liên, bỗng Thạch cảm thấy trơ trọi, vẫn cặp mắt to đen sâu lay láy như ngày nào nhưng Thạch vừa nhận ra trong ấy không còn chứa đựng tuổi thơ ấu của mình nữa, Thạch đã nhầm, đó là cặp mắt xa lạ giống như của bất cứ một người nào; Thạch vội vàng nằm xuống ghì lấy Liên, trốn cặp mắt ấy, rồi Thạch xô cuồng vào sâu trong cơ thể Liên, vào tới tận cùng thô bạo phá tan những ảo tưởng, trong khi Liên dẫy dụa muốn thoát. Hết, hết, không còn gì; chỉ còn những nhịp dập dồn của một hành động trơ trọi.

CHƯƠNG IV

Cơn cuồng nộ nguôi, Thạch nhu nhược bất động. Nỗi hối hận nhạt nhẽo thấm dần trong miệng, Thạch từ từ buông Liên. Mắt nàng khép chặt trong sự chịu đựng âm thầm. Thạch xấu hổ không dám nhìn lâu, thân thể lõa lồ của người yêu phơi trần trong ánh đèn mờ tỏ như nỗi tủi nhục, Thạch nằm xuống bên duỗi thẳng không cựa, Liên cử động cánh tay kéo tấm chăn lên che người. Thạch gọi phào trong hơi thở: Liên. Liên mở mắt nhưng vẫn ngửa mặt, cánh mũi hơi mấp máy: Dạ. Giọng của Liên yếu đuối trói Thạch vào sự bàng hoàng tê liệt, Thạch nói một mình thành tiếng: “Anh xin lỗi Liên”. Liên đang cố nuốt những nghẹn ngào dồn xô lên trên ức, nàng chỉ thốt được một tiếng: Không. Thạch sợ hãi hỏi: “Em có giận anh không?” Liên lắc đầu ở trên gối, lát sau: “Em hiểu anh”. Liên nhoài mình qua người Thạch thổi tắt ngọn đèn, nàng đưa bàn tay mát lạnh sờ soạng lên mặt Thạch thì thào: “Anh ngủ đi”, Thạch vòng tay giữ ngang lưng Liên gọi: Liên. Dạ. Thạch nói một câu vô nghĩa nhất: “Anh yêu em”. Trong bóng tối Thạch không nhận được sắc diện của Liên, mái tóc dài của nàng lả tả rơi dần xuống ngực Thạch, Liên vẫn chống một tay lên mặt giường và mặt nàng cách xa mặt Thạch, “Anh chỉ còn mỗi một mình em thôi”. “Em biết, em cũng vậy”. Nhưng khi Liên gỡ tay Thạch, đặt mình xuống giường, Thạch bồn chồn đau xót, cảm tưởng như hai đứa vừa từ biệt nhau vĩnh viễn, giấc ngủ chụp xuống Thạch lúc nào không hay dẫn Thạch vào một giấc mộng dữ. Thạch lủi thủi bước trong phố tối, từ sau một gốc cây một kẻ xô ra đâm một dao suốt lưng Thạch, Thạch quay nhìn nghe tiếng cười đắc thắng của Tích. Thạch bỏ chạy tứ chi tê liệt, Thạch muốn chạy gấp đuổi theo Liên ở đầu phố nhưng chân tay không nhấc nổi, Thạch bò xuống mặt đường thân thể xây sát rướm máu, Thạch không thở được. Một lúc hoảng hốt thức dậy, Thạch nghe mơ hồ Liên vẫn còn thức ở bên, nhưng Thạch không sao nhướng nổi mi mắt nặng chĩu, Thạch cứ vùng vẫy từng hồi giữa sự níu kéo của ý chí mòn mỏi và giấc ngủ sâu chìm. Thạch mở được mắt, trời đã sáng bạch, Liên dậy từ lâu đang đun nước dưới bếp có ý đợi Thạch. Trông thấy Thạch nhìn mình ngơ ngác, Liên mỉm cười dịu dàng, hai quầng mắt Liên không dấu được mệt mỏi của một đêm thức trắng lo lắng, xóa sạch những ý nghĩ đen tối vương vất trong trí Thạch. Trong bữa ăn sáng, Liên đã mua sẵn hai bát sôi lúa, Thạch tìm lại được sự thăng bằng trong tinh thần, bảo Liên: “Bây giờ em nghỉ chợ hẳn ở nhà thì hắn không còn gặp được em làm lôi thôi nữa”. Liên gật đầu: “Em cũng nghĩ thế”. “Em còn đủ tiền tiêu đến tháng sau không?” “Em còn đủ” Liên ngập ngừng rồi nói tiếp: “Nhưng anh phải đi, em ở nhà một mình cũng lo lắm, em sợ hắn sẽ theo đuổi trả thù”. Thạch bảo: “Em có thể dọn về ở chung với ai cũng được” Liên đáp: “Ai? Chúng mình còn ai thân nữa không? Chỉ có anh bên cạnh là em yên tâm thôi”. Thạch hoang mang, nhìn nét mặt âu sầu của Liên, lần thứ nhất trong đời cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm cụ thể tầm thường với một người, không phải thứ trách nhiệm lý tưởng vẫn làm Thạch và chúng bạn phải băn khoăn khổ sở. Thạch chặc lưỡi: “Em đừng lo”. Liên nói: “Bây giờ chỉ có anh được ngồi bàn giấy ở tỉnh là tốt hơn cả. Em có thể đi theo anh”. Thạch nhói buốt đau ở sau lưng đúng chỗ bị đâm trong giấc mơ đêm qua, Thạch chua chát: “Những chỗ ấy mình làm thế nào mà lọt nổi…” Thạch không nói hết ý nghĩ, mà giả thử được đi chăng nữa anh cũng chẳng thể chịu, anh vẫn chưa quên được anh đâu; “Anh lại có thể tiếp tục học được nữa”, Liên vẫn vô tình tiếp lời. Thạch bất mãn chán nản hết sức, nói ngoài đầu môi: “Ừ, được thế thì tốt”. Thạch bỗng nhớ chúng bạn, bắt đầu ghê sợ những thời khắc trống rỗng sắp tới với Liên, Thạch bảo Liên: “Anh ra phố, em ở nhà trông nhà”, Liên dặn với: “Em đợi anh về ăn cơm đấy” Thạch gật đầu, bước hấp tấp ra cửa.

Không mục đích ngoài phố phường, lại đi những vòng quanh quẩn như ngày quá khứ. Không gặp một đứa bạn, một người quen nào. Thạch nghĩ đến khoảng đường xuống nhà Đồng nhà Cảnh. (Nhà An thì chẳng khi nào Thạch đặt chân đến vì không bao giờ Thạch muốn gặp An trong cái biệt thự kiểu cách quý phái, cái không khí nực mùi trưởng giả của gia đình An), tuy ngắn mà Thạch khó vượt nổi; nghĩ đến những chốn thường gặp mặt chúng bạn như Thư viện Trung-ương hay trường Đại-học, Thạch như đang bị đuổi xa. Quá trưa Thạch quay về nhà, gần tới đầu ngõ Thạch hình dung Liên đang ngóng đợi. Những buổi trưa còn ăn cơm vỉa hè đầu chợ chán ngấy với nỗi cô độc khô cứng Thạch chỉ ước ao có một căn nhà và mội người yêu mong mỏi mình về, bây giờ Thạch lại sợ hãi sự săn đón chờ đợi của Liên dành cho Thạch. Buổi trưa mưa xuống vài hạt mang theo ngọn gió may và bầu trời nhờ đục. Sau giấc ngủ, Thạch rủ Liên ra phố. Liên choàng thêm cái khăn mỏng ôm lấy mái tóc, hỏi: “Đi đâu?”, Thạch đáp: “Đi chơi”. Sự thực Thạch chỉ cốt mang Liên ra khỏi nhà, ở ngoài phố Thạch được tự do hơn.

Đi được một quãng, Liên lại hỏi: “Đi đâu bây giờ anh?”, Thạch đáp vu vơ: “Tùy em”. Liên gặng hỏi: “Anh không có mục đích gì hết?” Thạch lắc đầu lơ đãng, Liên cười tươi: “Anh thật là vớ vẩn”, nghĩ vài giây tiếp: “Hay mình đi thăm mộ mẹ đi?” Thạch chú ý hỏi: “Mộ ai? ở đâu?” “Mộ mẹ em chứ còn mộ ai nữa. Ở ngoài Thanh-xuân”. Thạch tán thành ý kiến: “Ừ, anh phải ra lễ cụ cho phải đạo”. Liên hân hoan sung sướng, những nét buồn thường đọng thành dáng ở Liên phút chốc biến mất. Chuyến tàu điện Hàông đưa Thạch và Liên về ngoại ô. Trạm cuối hàng Đẫy vào Ngã-tư Sở có hai người xẩm mù lên xe hát những bài ai oán kể lể những nỗi thương nhớ của nàng chinh phụ tân thời, Liên lắng nghe có vẻ xúc động. Nàng đặt hai tay lên đùi giữ lấy thẻ hương và xấp vàng giấy, Thạch cầm bó huệ trắng đứng tựa cửa thông sang cái phòng hẹp hạng nhứt ghế da, mắt chăm chăm nhìn người xẩm. Nghĩa trang nằm ở bên đường, xa cách hẳn thành phố, trên một khu đất biệt lập xung quanh là đồng ruộng. Người gác nghĩa trang dẫn hai người vào sâu tận một góc, len giữa những đám cỏ cao sắc để tìm mộ, có tới hai năm Liên không xuống viếng thăm. Ngôi mả chỉ còn là một nắm đất nhỏ cỏ mọc um tùm bị chen lẫn giữa những ngôi mả khác xây cao ráo. Liên đặt hoa, thắp hương, xì xụp khấn lễ Lời khấn thầm bỗng bật thành tiếng nức nở. Buổi chiều tuy còn sớm nhưng không có ánh nắng đã loãng chìm trong vẻ muộn màng, Liên mếu máo kéo tay Thạch quỳ xuống đất: “Anh khấn mẹ phù hộ cho chúng con đi”. Thạch ngoan ngoãn vâng lời. Chỉ nghe tiếng rì rào của gió thổi từ mấy bờ tre xa qua đám lúa, tới những vùng cỏ mọn xung quanh và tiếng xì xầm thổn thức của Liên đang tan theo trong tĩnh mịch, thỉnh thoảng vọng tiếng kèn xe vút nhanh ở tận ngoài đường cái. Trong khi đốt vàng, Liên vừa sụt sùi vừa nói: “Anh có khấn mẹ không? Mẹ thiêng lắm đấy. Năm ở ngoài hậu phương em sắp lấy Tích em thấy mẹ về ôm lấy em, hai mẹ con khóc với nhau. Lần gặp lại anh ở Hà-nội, cách đó ít lâu em cũng thấy mẹ. Lần thằng Uẩn chết, mẹ cũng về, em khóc đòi theo mẹ, nhưng mẹ lắc đầu, mẹ xô em ngã”. Thạch dìu Liên ra khỏi nghĩa trang, men theo bờ đường cái ngược lên mỗi đỗi xa tới chỗ tránh tầu, lúc này Thạch thấy khó có thể xa nàng. Liên lại nói: “Năm ngoái em đi gọi hồn mẹ, mẹ về thấy em khóc cũng khóc. Mẹ bảo mẹ thương em lắm bởi đời em còn khổ nhiều. Em hỏi gì mẹ cũng chẳng nói thêm, trước khi thăng mẹ dặn lại là mẹ cũng nhớ em cũng muốn gặp em nhưng trời chưa cho phép, bao giờ tới ngày mẹ sẽ đón em về mẹ con đoàn tụ”.

Thạch hỏi: “Vừa rồi em khấn xin mẹ điều gì?” Liên đáp giọng tin tưởng: “Em xin mẹ phù hộ che chở cho anh, cho em được sống mãi mãi với anh”. Những tiếng sau cùng vang dội trong tai Thạch, thắt lấy tim Thạch, Thạch bồi hồi trong một niềm tê điếng, Thạch nói thầm như níu giữ lấy lời mình: “Anh cũng chỉ mong được như thế” và Thạch rùng mình.

Vào Hà-nội, hai đứa không về nhà, Thạch dẫn Liên đi ăn hiệu.

Buổi tối ra ngồi bên hồ Gươm. Trời hơi lạnh, các hàng quán quanh hồ vắng khách, những ngọn đèn treo trong các Kiosque không đủ ánh sáng tỏa tới những khoảng thẫm bóng cây cỏ cùng mặt nước đục. Phía hàng Khay ánh nê-ông xanh biếc hiu quạnh, phía Cầu-gỗ ánh sáng vàng khô rộn rịp. Thạch lắng nghe Liên kể lại cái đoạn đời những năm loạn ly chia rẽ hai đứa của nàng, nhiều kỷ niệm Thạch đã nghe qua nhưng Thạch vẫn lặng yên nghe nhắc lại. Thạch ngửa đầu trông mầu đen sâu thẳm tưởng hồn mình đang phơi trải bằng phẳng không còn một khúc mắc dày vò, Thạch tự hỏi: cớ sao mình không chấp nhận mọi sự như mọi người? Tôi sẽ sống thành một nỗi quên lãng với tôi. Liên thôi câu chuyện, đâu đó vang lên vài nhịp cười của mấy cô bán quán, Thạch bâng khuâng nắm lấy bàn tay Liên đặt lên thành ghế và siết mạnh dần bàn tay nhỏ nhắn. Liên kêu khẽ: “Đau em”, Liên đưa bàn tay còn trống ấp giữ bàn tay gân guốc của Thạch. Lặng im mặc cho trời đêm bay cao dần, Liên lên tiếng trước: “Anh đi như thế liệu bao lâu về Hà-nội được?”, “Không biết, còn tùy”, “Em tính ở nhà em sẽ chạy hàng sách và nhận đồ đan với Bích cho đỡ buồn”, Thạch ừ hữ, “Có con anh muốn đặt nó tên gì?” “Anh chưa nghĩ”. “Anh thích con trai hay con gái?”, “Con gái. Đặt tên là Lý”. “Tại sao lại tên là Lý?”, “Tại sao tên em lại là Liên?”. Hai đứa trở về nhà, qua phố Trường-thi đi vào hàng cây rậm thẳng như một cái vòm cổng lớn, nói những câu viển vông như những ngọn gió thổi qua tóc, quên được những phiền toái đã xảy ra trong đời, một đôi tình nhân biệt lập với thế giới bên ngoài, căn nhà trở nên ấm cúng hơn và mùa thu đã thổi về đây hơn từ lúc nào trên những mái gianh xám, con đường đất khô hanh bên kia mặt ao, bãi đất trống bên nhà cỏ mọc xanh rì, một buổi sớm Thạch thức dậy đứng bên kia cửa sổ nhìn sang, mình trần và trên cổ quấn cái khăn len của Liên với lấy trên đầu giường, Thạch chợt bàng hoàng sửng sốt nhớ ra chỉ còn ở lại được Hà-nội ba ngày nữa. Thạch bảo với Liên cần đi thăm chúng bạn, hẹn chiều tối mới về. Liên ngỏ ý muốn lên nhà Bích bàn việc buôn bán sắp tới, Thạch đưa Liên lên hàng Bông rồi từ đó Thạch xuống Đồng.

Nhà Đồng vắng người, Thạch đẩy cánh cổng khép hờ đi thẳng vào sân chỉ gặp hai con chó nhảy quẫng, gặp mẹ Đồng đang ngồi nhặt sâu trên mấy luống rau ngoài vườn, bà cụ mừng rỡ nói: “Tôi tưởng cậu đi rồi”, Thạch đáp: “Chưa ạ. Còn ba hôm nữa”, “Em nó chắc sang bên đình”. Thạch băng qua đường, bước vòng theo mấy bức tường đổ leo qua kệ gạch hoang, trông thấy Đồng ngồi dựa lưng vào cột, phía sau là một lớp học trống trên một bực thềm đá đọc sách. Khuôn mặt bầu bầu của Đồng như xa lánh mọi vật, bao phủ vẻ thảnh thơi nhàn hạ. Ngoài khơi hồ Tây một hai cánh buồm trắng chao nghiêng trong gió sớm. Đồng gấp sách, ngửng lên, đón Thạch tươi cười, Thạch ngồi xuống bên chờ Đồng sẽ hỏi mình về Liên, nhưng Đồng không đả động gì hết, chỉ mỉm cười ranh mãnh vuốt lại mái tóc lòa xòa ra vẻ hiểu thấu mọi sự, sau rồi Thạch bảo: “Liên đó”, Đồng gật gù: “Biết ngay tức khắc”. Bỗng Đồng cười khích khích thú vị kể: “Mấy hôm trước tưởng anh cu An với anh cu Cảnh đi luôn rồi. Bọn này vừa ở rạp chiếu bóng ra thì cảnh binh với mật thám đón mời lóc nhóc một lũ thanh niên trốn động viên lên xe về quận. Moi trình cái giấy khám sức khỏe được miễn nên về ngay còn tụi khác là ngủ quận cảnh sát một đêm để đưa xuống trại Ngọc-hà. May mình nhanh trí khôn, tạt vào báo cho ông bố thằng An, ông ấy tức tối lái xe lãnh hai cu cậu về. Anh An ta thì mặt tái mét, còn anh Cảnh thì mặt lầm lì tím bầm lại. Chỉ có moi chẳng ma nào thèm sờ tới cái phổi hỏng mà thành hay”. Thạch trêu Đồng: “Có chắc không? Mai đây nó cần là nó gọi ra khám lại là a lê hấp…” Đồng xua tay chun mũi lại: “Còn lâu lắm. Có lẽ phải tới lúc anh lên quan sáu rồi mới tới tôi”. Đồng nghiêm ngay được nét mặt hỏi tiếp: “Bao giờ đấy?” Thạch đáp: “Còn ba hôm nữa, hôm nay là tôi xuống đi chơi buổi cuối với anh đây”. Đồng lim dim mắt chợt mơ mộng: “Chiến sĩ từ biệt đó phải không? Một đi là không trở lại”. Thạch ngồi im không đáp. “Thạch này, kể cũng lạ nhỉ… Tớ đang muốn khóc đây.” Thạch không biết Đồng đang đùa hay thật, hai mắt Đồng đậy kín và môi Đồng mím lại. “Nếu tớ là con gái, tớ xin làm vợ đằng ấy đấy, Thạch ạ. Bằng lòng không?” Đồng bật cười mở choàng mắt, mắt của Đồng hoen ướt, lòng trắng đục nổi những tia máu nhỏ, Thạch nói: “Cậu giống Liên, lãng mạn lắm rồi khổ nhiều”. Đồng cãi bướng: “Khổ vì lãng mạn cũng là một thứ hạnh phúc”. Đồng lầm bầm đọc mấy câu thơ: Comme la vie est lente, et comme l’espérance est violente… Les jours s’en vont, et je demeure. Thạch đứng lên bảo: “Thôi xuống phố”. Đồng chợt nhớ: “Bọn mình xuống thăm thầy Tôn, thầy mới hồi cư về ở xóm Hà-hồi, hôm nọ tôi gặp thầy ngoài bờ hồ, thầy không nhận được ra tôi nữa. Cậu còn nhớ thầy Tôn không?” Thạch gật đầu hỏi: “Sao tưởng ông ấy ở bên Tàu?

Ông Tôn là thầy học cũ của hai đứa năm Moyen II. Ông là một bậc thầy uy tín nhất trường, đồng nghiệp kính nể học trò khiếp phục, người ông phương phi, mặt lúc nào cũng đỏ gay, dáng điệu oai vệ. Từ những năm còn học lớp dưới mỗi lần nhìn thấy ông ở sân trường, trong phòng họp các thầy, hay đi muộn phải chạy qua lớp ông dạy nghe tiếng nói sang sảng của ông, Thạch run sợ cảm phục; lên học lớp ông. bọn Thạch càng mến ông, ông nghiêm khắc nhưng hiền từ, có sức thu phục bọn trò nhỏ một cách kỳ lạ mặc dầu ông ít nói và chẳng bao giờ tỏ ra thân ái với ai. Năm ấy quân Nhật vừa kéo vào Đông-dương, giữa niên học cả trường nhốn nháo vì mật thám Pháp tới tận trường bắt ông Tôn, lúc bấy giờ người ta mới biết ông Tôn làm cách mạng, rất nhiều điều huyền hoặc được loan truyền về con người ông Tôn khêu gợi những bộ óc tưởng tượng thơ ngây. Cùng với hình ảnh ông thầy quý mến, Thạch tò mò tìm hiểu cái ý nghĩa huyền bí của cách mạng, Đồng làm thơ bài đầu tiên non dại khóc thầy. Nhật đảo chính nghe đồn ông được phóng thích, sau theo cụ Nguyễn-Hải-Thần chạy sang Tàu. Gia đình ông Tôn ở nhờ trong một nhà chứa xe hơi của một ngôi biệt thự, gian nhà thấp bóp hẹp vào phía sân như một cái ống. Hai tấm phản kê tạm bợ bừa bộn chăn chiếu. Những bó vải nâu và một cái va-ly da mới. Con ông Tôn cả thảy sáu đứa mặt mũi ngơ ngác vơ vẩn ở ngoài sân sỏi hay lê la dưới chân giường. Ông Tôn chừng mới đi đâu về, mũ trắng còn đội trên đầu, đang ngồi bàn chuyện với vợ, một người đàn bà quê mùa nhẫn nại. Ông già xọm, lưỡng quyền nhô cao, mắt đục ốm yếu, tóc khô lởm chởm đã điểm bạc, giọng nói từ tốn, Thạch ngồi im một góc nghe Đồng nói chuyện với ông, nhìn bọn con nít ngó mình, nghe giọng nói trong trẻo của thiếu nữ xa gần trên những gian phòng rộng ở nhà trên. Vài khúc dương cầm mới tập nhỏ nhẹ lọt ra cửa sổ, lúc bắt tay Thạch đưa ra cổng, ông Tôn mới chợt hỏi: “Anh tên là gì nhỉ? Lâu quá tôi không nhớ nổi”. Thạch đáp: “Dạ thưa con là Thạch, Lê-văn-Thạch”. Ông Tôn nói với Đồng là đang đi tìm thuê nhà và vận động xin hồi ngạch giáo học. Thạch buồn rầu: “Tội nghiệp ông Tôn. Không gì buồn bằng hình ảnh cuộc đời thất bại”. Đồng trầm ngâm đáp: “Tôi nghĩ khác. Ông ấy đã làm hết bổn phận và khi biết mình thất bại thì thôi rút về sống cuộc đời tầm thường nhường việc cho kẻ khác, như thế hay hơn là cứ bướng bỉnh húc đầu vào tường. Chỉ tội nghiệp là nếu ông ấy vẫn chưa chịu cho là thất bại. Nhưng nghe ông nói tôi cho là ông hiểu rõ cái vai trò của lớp người như ông lắm. Tôi thấy hình ảnh của ông ngày nay vẫn là một hình ảnh đáng kính phục. Thế hệ của ông đã thua rồi”. Suốt cả buổi Thạch vẫn tưởng tới ông thầy cũ trong một niềm luyến tiếc đau đau.

Vào trưa gió thổi ào ào ra ngoài vườn trời hanh khô ngất ngây. Mặt Đồng mét đi, hơi thở mệt nhọc, Đồng nằm nghỉ trong phòng riêng, đắp tấm chăn đơn ngay ngực thỉnh thoảng ho khan vài tiếng, Thạch nằm trên võng đưa đẩy với cảm giác bồn chồn bứt rứt, Thạch cầm cuốn sách đọc dở trên mặt bàn nhưng những giòng chữ khô khan không làm sao thu hút được tinh thần bấn loạn của Thạch. Hai bên thái dương nặng nề đờ đẫn, Thạch tưởng chừng mình cũng sắp lên cơn sốt cùng thời tiết. Những buổi giao mùa như hôm nay, thiên nhiên chập chững trong những trận gió quá độ, Thạch thường nhận thấy nơi mình một trạng thái kỳ lạ: cơ thể hoang mang như muốn tắt lịm, trí óc bay tỏa ra ngoài, từ nơi sâu thẳm trong mình nổi lên những sức xô đẩy khó hiểu như những luồng sóng ngầm của biển khơi lôi cuốn tới sự rã rời chán nản phiền muộn vô cớ, thường Thạch chạy trốn bạn bè tự đầy ải vào trong cô độc, không muốn nhìn muốn nghe điều gì hết, một hành động bỏ trắng trong hiện tại, nếu có đi giữa chúng bạn cũng thành một thứ vô tri tỉnh thức. Ba ngày còn lại là một khoảng thời gian thừa, đã nhập thành quá khứ rồi. Thạch muốn đi tới trước cho mau để trông thấy hình dáng của những ngày sau. Cái cõi hư không đang đón đợi trước mặt sẽ tan tành bắt buộc phải hiện hình, như thế gọi là phiêu lưu, Thạch lại bắt đầu nghe sức nặng của những ngày dài đã sống đè xuống mình trì siết như giam giữ. Thạch thơ thẩn ngoài vườn đứng dưới một gốc roi ngửng nhìn những chùm trái ửng hồng nấp trong các bụi lá. Khi quay nhìn vào cửa sổ phòng của Đồng thấy Đồng cũng ngồi bó gối nhìn ra, tấm chăn vẫn còn phủ đến vai. Thạch mỉm cười ngượng ngập như vừa bị người lạ mặt bắt gặp mình làm lỗi. Thạch trở vào múc nước bể rửa mặt, nước mát, đánh thức các giác quan nhưng gió thổi mặt khô mau chóng, sửa soạn trở về phố, Thạch hỏi Đồng: “Chiều nay có đi đâu không?”. “Cậu có xuống trường dự buổi tiệc trà của Tổng-hội không?”, “Tôi tưởng xong rồi”, “Hôm nọ xin phép không được phải hoãn lại”. Thạch mỉa: “Sao lại không dám cho phép? Dễ nó sợ bọn sinh viên sẽ mủi lòng mà khóc vì tương lai dang dở rồi nó lại phải dỗ dành an ủi mệt chăng? Mà tôi đâu có lên đến chức sinh viên. Có quyền dự không?” Đồng cười phụ họa: “Anh chửi tôi là có chức sinh viên ấy hả?” Thạch vẫn nói tiếp ý nghĩ bồng bột: “Chứ không à, chức sinh viên vây lắm. Nay mai là xã hội này nằm trong tay các ông ấy đấy, không để cho các ông ấy yên ổn là xã hội này sẽ lụn bại. Tôi chắc chẳng có thứ sinh viên nước nào “bệt” óc bùn như sinh viên nước mình thời này”. Thạch nhìn rõ mình đang hằn học một cách lố bịch nhưng Thạch không dừng được. Cơn say vô nghĩa Thạch trút nhẹ được những ấm ức: “Moi mà có súng rồi ấy à, thế nào cũng có phen ông lia cả tràng vào lũ đú đởn ấy. Những bậc đại trí thức ấy có ngã lăn quay ra đó cũng chẳng thiệt hại đến ai.” Đồng ôn tồn: “Thôi được bỏ cái bọn ấy sang một bên. Nhưng chiều nay cậu cứ đến tôi sẽ chỉ cho cậu thấy cái này hay lắm”. Thạch nín thinh và cơn nóng nảy dần dần xẹp xuống thành một nỗi bất lực khó thở, cười tẻ nhạt: “Được bây giờ tôi phải đi đằng này đã, cậu cứ xuống tôi sẽ tới”.

Thạch trở về nhà. Từ đầu ngõ Thạch đã cảm thấy một không khí bất thường. Nhà khóa trái, đằng trước mấy đứa trẻ con lảng vảng dòm ngó, thấy Thạch đứng lại tìm chìa khóa chúng tò mò nhìn Thạch thầm thì với nhau. Thạch sắp mở cửa bước vào thì người đàn bà bên nhà đối diện tất tả chạy sang nói khẽ bằng giọng nghiêm trọng ân cần: “Bà nhà bị bắt rồi. Lúc nãy có hai người đàn ông đi xe díp nhà binh Pháp tới khám nhà, dẫn bà đi. Ông đừng nên ở nhà nữa, tôi sợ họ còn trở lại”. Thạch chết sững tại chỗ vài giây, mãi mới lắp bắp: “Cảm ơn bà. Liên có nhắn lại được gì không?” Người đàn bà hàng xóm nói câu gì Thạch nghe không rõ. Thạch bước vào nhà, người đàn bà lảng về. Chỉ còn mấy đứa trẻ con ngấp nghé ở bên vách, cửa sổ, mọi vật trong nhà không hề bị xê dịch. Mất cái va-ly quần áo của Liên đặt ở kệ trong góc nhà. Liên để lại mảnh giấy con viết nguệch ngoạc mấy hàng: Tích đến. Em phải về”. Thạch mặc nguyên cả quần áo nằm im một chỗ, mắt mở trừng trừng. Hắn mong Tích trở lại, hắn đợi Tích trở lại, hắn muốn gặp Tích, hắn như một con thú dữ nhớ mồi. Hằng giờ sau, cái ngõ lặng xuống, nước mắt Thạch rưng rưng cộm đầy mi. Thạch mệt nhừ mặc cho nước mắt lăn xuống má. Thạch khóa cửa bỏ đi ra phố, đi thật chậm theo bước chiều xuống dần. Những tiếng động quen thân của phố phường như nghe qua một tấm kính dầy. Thạch cố gắng trấn tĩnh tinh thần để suy nghĩ, chọn thói quen tìm tới chốn đông người để quên hẳn mình giây lát. Đồng đứng đợi trước cửa trường Đại-học. Chiều xẫm màu quạnh hiu trong khu vực nhiều cây cối nhà cửa đồ sộ. Buổi họp mặt đã bắt đầu từ lâu. Đồng sửng sốt hỏi: “Có việc gì thế Thạch?” Thạch lắc đầu đáp gọn: “Không”. Bước lên nhiều bực thềm vào trong cái vòm cao, sàn đá hoa bóng ngăn cách giảng đường và thư viện trường luật, đi sau lưng những dãy người, nghe tiếng micro ồm ồm trong một góc. Ngồi xuống ghế trước mặt là một hàng rào lưng người. Trong tiếng vỗ tay, huýt sáo la ó, một vài đoạn im lặng rì rầm với một vài giọng nói đùa bỡn nhạt nhẽo. Giọng hát đĩ thõa. Đồng, huých khuỷu tay vào mạng sườn Thạch, đứng lên chỉ: “Em của Hà đấy”. Thiếu nữ còn cặp tóc đang khóc như tiếng mèo một bài hát tình tứ biệt ly. Hỏi: “Hà đâu?”. Đồng bảo: “Nghe đâu Hà đã theo chồng vào Sài-gòn. Ngày trước Hà hát hay hơn em nhiều”. Nói: “Thế à?”. Xa dần cái không khí nhộn nhạo tới gặp bóng tối, sự lặng lẽ trước mặt. “Mai còn gặp nhau không?” Mai, mai sẽ gặp nhau. Đứng yên một chỗ, những hàng đèn xe dăng qua phố ngang xuôi ngược. Mùa thu đã về thực rồi, đêm tối sẽ bắt đầu nhẹ tênh như khói.

CHƯƠNG V

Thạch đến tìm Bích, Bích đi vắng. Ông bố Bích nằm nghiêng co quắp trên tấm phản giữa, đầu gếch lên trên một cái gối da cao, đang nướng thuốc trên ngọn đèn bóng nứt chằng buộc bằng giây thép, rồi miết quanh nõ tẩu, nói giọng khàn khàn. Người qua lại luôn luôn. Buồng nhà Bích là lối đi chung cho các gia đình ở ngoài và trên gác xuống bếp. Thỉnh thoảng lũ em Bích đuổi nhau từ ngoài đường qua ngõ vào nhà cãi lẫy om xòm. Tiếng vo vo từng hồi cách đều đặn. Ông bố Bích sau bữa thuốc nằm duỗi ngửa như một cái xác khô đét, mắt nhắm, miệng lầm bầm không thành tiếng một mình. Thạch ngồi im trước cái tách nước vàng cáu, muốn ra phố một lát cho thoáng, nhưng ngại lần quay lại lại phải làm thêm một lần nữa thủ tục xã giao. Bích sửng sốt nhìn thấy Thạch, trên tay Bích đeo một cái làn mây không trong lót mấy tờ báo cũ. Thạch đứng dậy trình bày ý định: “Tôi muốn nhờ cô chỉ hộ chỗ ở của Liên”, Bích ngắm Thạch không nói. Thạch giải thích: “Tôi có việc cần gặp Liên mà không biết nhà, tôi sắp sửa phải đi xa”. Bích chậm rãi nói: “Mời anh ngồi chơi”. Nàng đặt cái làn xuống gậm bàn và ngồi đối diện với Thạch. “Nhà chị Liên ở Ngũ-xã nhưng tôi không nhớ rõ số nhà”. Thạch cúi đầu suy nghĩ, cố giữ giọng bình tĩnh: “Việc này quan hệ cho tôi lắm. Nếu cô không ngại, phiền cô đưa tôi xuống gặp Liên”. Bích lộ vẻ nghi ngờ, nàng nhíu mày tỏ ý khó xử. Bỗng Bích hỏi: “Ngay bây giờ?” Thạch khẩn khoản: “Vâng, ngay bây giờ”. Bích ngần ngừ: “Để đến mai được không anh?” Đã hơn chín giờ tối, Thạch không biết phải đáp thế nào, nhìn Bích cố làm cho Bích hiểu là không thể chờ đợi một đêm qua, cần gặp Liên ngay tức khắc. Bích lặng lẽ mở ô kéo bàn lấy tấm gương đặt trước mặt, gỡ lại mái tóc. “Đã lâu lắm tôi cũng không xuống chị ấy, chỉ sợ chị đã đổi chỗ ở thì mất công. Ban sáng chị cũng có đến tìm tôi nhưng không gặp”. Thạch nhắc lại: “Ban sáng, thế à? (đã thuộc về quá khứ xa lắc lơ), vâng, ban sáng tôi có biết”. Bích thay áo, mặc áo dài màu huyết dụ. Nàng lại đeo cái làn mây lên cánh tay, nói với bố: “Con đi đằng này có chút việc, mẹ về thầy nói là việc chưa xong, mai may ra mới được”. Phố hàng Bông vẫn còn sáng đèn nhưng đã vợi người. Thạch bỡ ngỡ đi bên cạnh Bích, bước mau ra cửa gọi hai cái xích-lô, mời Bích lên trước. Xe bồng bềnh qua những phố âm u, thỉnh thoảng gặp một vài tiệm khiêu vũ và quán rượu với bọn lính say la ó trêu ghẹo, người phu xe nguyền rủa tục tằn, vào con đường đất hẹp chùa Châu-Long quanh co mấp mô men theo hồ Trúc-bạch, dừng lại ở đầu cầu của khu Ngũ-xã. Thạch và Bích đi chân, quay lưng lại với cái dốc cao ở trên ấy lầm lì mặt hông của kho nhà in lớn chặn khuất đường đê Yên-phụ. Bên trái là con đường vừa qua với một dãy nhà gạch lô xô nhìn ra hồ. Bên phải một vài tòa nhà xây kiểu lâu đài cổ, xa hơn đường Cổ-ngư với hàng cây thấp như một nét mờ tạm chia mặt hồ mênh mông. Khu Ngũ-xã nằm trũng giữa bốn mặt hồ như một hòn cù lao, những tường phố hẹp ngắn giao nhau thẳng góc, điện đường mờ tối như một thị trấn tí hon. Mọi nhà đều đóng chặt cửa. Bích dẫn Thạch loanh quanh, lúc ghé mắt vào sát những khe cửa gỗ ghép, lúc đứng ra giữa đường kiễng chân nghển cổ nhận định phương hướng. Có lúc bất ngờ tới sát ven hồ, tiếng nước vỗ bì bọp vào bờ cỏ, hơi lạnh dưới hồ bốc lên theo gió và sương tím bạc ngoài khơi rộng. Một vài tiếng chó tru hoảng hốt. Bích mất kiên nhẫn lẩm bẩm vu vơ: “Tối khó tìm quá”. Cuối cùng Bích gõ cửa một căn nhà đã qua lại mấy lần. Ở trong nghe lích kích rồi đèn bật sáng, người ta mở ra trong mặt cửa gỗ một khoảng tròn bằng bàn tay, thò một cặp mắt và cái mũi đàn bà ra hỏi: “Ai thế?” Bích nói: “Tôi hỏi thăm đây có phải nhà chị Liên không?” Thạch ghé bên tiếp lời: “Nhà bà Tích”, bên trong đáp: “Không phải nhà này” và cái lỗ tròn đóng ngay lại cùng với tiếng lằn nhằn. Bích thất vọng nói: “Chắc dọn nhà chỗ khác rồi. Để hôm nào tôi gặp chị ý tôi nhắn hộ anh”. Thạch lắc đầu đáp: “Vô ích ngày kia ngày kìa là tôi đi rồi”. Bỗng nhiên không đừng được Thạch bụm tay vào miệng kêu to: “Liên ơi”. Tiếng gọi chạy dài dãy phố, hoảng hốt vang ra ngoài mặt hồ như tiếng hú hồn người chết đuối. Một con mèo ở phía sau Thạch sợ hãi nhảy vọt tới trước chạm vào Bích. Bích lùi vội vấp vào viên gạch loạng choạng, đưa một tay bụm miệng để ngăn tiếng sợ hãi: “Anh làm tôi giật nẩy mình”. Tiếng gọi vọng vào sâu trong Thạch như một phiến đá lăn xuống, xô động những phiến đá khác làm thành cơn lở núi. Tâm hồn Thạch dồn dập những đau tủi nóng nảy phẫn nộ, lúc buổi chiều đã nén ép được, giờ lại bồng bột dữ tợn mạnh mẽ hơn. Thạch quên hẳn người đứng gần. Bích tiến tới trước mặt Thạch bảo: “Bây giờ tôi phải về”, Thạch bâng khuâng: “Vâng, tôi đưa cô về.” Bước vào cầu, Thạch quay người đợi Bích nhìn khu Ngũ-xã tối tăm hoang vắng như một giấc mộng nào đã quên, Thạch bải hoải tâm thần. Hai chiếc xích-lô còn gác đợi bên cống nước thành phố chảy xuống hồ, trong yên tĩnh tiếng ì ầm nặng nề của nhà máy đèn vọng đến gần hơn. Hai xe chạy song song giữa đường, Bích ngồi ngay ngắn ôm cái làn mây trước ngực như để che bớt những ngọn gió đêm đang thổi là mặt đường. Đường về dài thêm vì Bích bảo xe chạy tránh phố đường Thành đi vào phố Tiên-sinh lên hàng Da, rạp chiếu bóng Olympia vừa tan đổ ra vỉa hè vài mươi người khách trong phố khuya. Thạch không biết phải gợi chuyện gì nói với Bích để quên sự trống rỗng sâu thẳm trong ký ức. Mãi đến khi tiễn Bích vào nhà Thạch mới nói: “Cảm ơn cô, tôi làm phiền cô nhiều quá”. Bích hơi nghiêng đầu như từ chối lời khách sáo và vẫn không cất bước có ý chờ đợi Thạch nói thêm. Thạch nghĩ ngợi mông lung và bất thần nói mau: “Nếu cô gặp Liên làm ơn nói hộ không bao giờ tôi quên được Liên cả” sau đó cúi đầu chào Bích, bỏ đi trong khi Bích chưa rời chỗ đứng. Thạch trở về gian nhà trống với mối hy vọng ngây thơ thấy Liên đang chong đèn chờ đợi, Liên trốn khỏi tay Tích về với Thạch. Ảo tưởng ấy khiến Thạch bồn chồn nhấp nhỏm trong sự tuyệt vọng não nề. Chiếc đèn dầu soi lên những đồ đạc nghèo nàn bụi bậm. Thạch đang ở trong nhà, căn nhà của tôi, Thạch cười một mình chua chát, chỉ là kỷ niệm. Tôi không có gì hết, tôi cứ phải đi tới trước mãi bởi người ta chỉ để lại cho tôi sự hư vô của kỷ niệm. Thạch đứng bên cửa sổ nhìn mấy con chuột cống chạy quanh đống rác trên bãi đất trống, mặt ao im lìm với giọng côn trùng trong bờ bụi, xóm nhà lá không đèn đóm. Thạch nằm xuống giường, chỉ còn biết nhớ, nhớ lại đêm đầu tiên quyết định ở lại trong nhà này, nỗi e dè ngượng ngập của hai đứa khi sát cánh nhau, khuôn mặt chan hòa hạnh phúc của Liên bình yên như mặt biển lúc rạng đông khi Thạch mang hai đứa trải qua cơn dục tình êm như lửa mát. Thạch vùng dậy vì không ngăn được trí tưởng tượng tới cảnh Tích đang trả thù hành hạ Liên ở ngay chính phần sâu kín của thân thể nàng, cái hình hài còm cõi bệnh hoạn của Tích đang bầy ra những biến chứng dâm loạn làm nhục Liên. Tôi không làm gì được hết sao? tôi không làm gì được hết sao?

Sáng hôm sau Thạch tới trại trình diện, nhận lệnh về một đơn vị đồn trú ở Hưng-yên. Thạch toan lên đường sớm hơn kỳ hạn nhưng rồi Thạch thay đổi ý kiến, nhảy tàu điện xuống Ngũ-xã, tìm quanh quẩn vu vơ gần hết buổi mai, Thạch qua lại gian nhà Bích đã gõ cửa đêm trước chỉ thấy một người đàn bà lạ mặt ngồi trong ngôi hàng tạp hóa nhìn Thạch bằng cặp mắt nghi ngờ. Thạch đi giữa hàng đá xanh lồi lõm không gặp xe cộ, chỉ thỉnh thoảng mới có một chiếc xe đạp hay xích-lô chạy nhấp nhỏm ngoặt ngoẹo, như một người mới tới cư ngụ dạo thăm khu vực của mình, theo sau một đám trẻ dong chơi bắt chuồn chuồn để câu cá. Bọn trẻ đến bên bờ hồ ngồi lại, còn Thạch trở lui ngược đường cũ và dòm ngó xung quanh. Thạch gặp Bích đang chuyện trò hỏi thăm người đàn bà trong hiệu tạp hóa. Nàng mặc áo màu hồng nhạt nổi trên những mầu chết trong gian nhà. Trông thấy Thạch đứng đợi bên đường đối diện, Bích bối rối. Thạch tiến sang cúi chào Bích và hỏi: “Chắc là Liên không còn ở đây nữa phải không cô?” Bích đáp: “Vâng”. Thạch lại nói: “Tôi làm phiền mất thì giờ của cô quá”, Bích nói: “Không có gì. Chính hôm nay tôi cũng có việc cần gặp chị Liên”. Thạch vội vàng chụp lấy cơ hội: “Cô cho tôi theo cô tìm Liên được không?”. Bích lịch sự lắc đầu: “Tôi cũng còn nhiều việc riêng sợ anh đi cùng không tiện. Anh cứ yên tâm, gặp chị Liên thế nào tôi cũng nhớ lời anh dặn. Nếu tôi gặp chị ấy trong ngày hôm nay tôi sẽ bảo chị ấy tới tìm anh, chắc chị ấy biết chỗ ở của anh”. Thạch buồn bã: “Liên không thể tới được”. Bích nhìn Thạch căn vặn, Thạch yêu cầu: “Cô làm ơn giúp tôi một lần nữa, cô hỏi giùm tôi địa chỉ mới của Liên, tôi muốn tới đấy tiện hơn”. Bích nghĩ ngợi một chút mới trả lời: “Tôi sẽ hỏi giúp anh”. Thạch mừng rỡ cám ơn: “Mai cô có nhà vào lúc nào? Tôi chỉ còn ở Hà-nội ngày mai và ngày kia nữa thôi”. Bích hẹn: “Trưa mai anh tới chắc tôi ở nhà”. Từ biệt Bích, Thạch vượt con dốc rải đá lên đường vòng xuống Cổ-ngư, con đường vắng vẻ gió lộng, nước hồ biếc lạnh. Vườn Bách-thảo, cây cối vẫn rợp cành lá mặc dầu dưới mặt đường đã ngổn ngang những lá vàng lăn chạy. Dưới hồ sen những tàn lá úa héo lềnh bềnh sơ sác, nước trong vắt. Leo lên con dốc quần ngựa nhìn mặt hồ Tây, khu Thụy-khuê nhà cửa chạy dài với những vườn cây dưới thấp, và xuống nhà Đồng bằng ngõ cửa vườn sau. Thạch ngạc nhiên vì sự có mặt của An và Cảnh trong nhà Đồng. Cả ba đứa đón Thạch bằng một vẻ nghiêm trang. Đồng hất cằm bảo: “Biết thế nào nó cũng lên mà”, Thạch hỏi: “Chuyện gì thế?”. Vừa lúc ấy u già bưng đặt lên phản một mâm cơm thịnh soạn, mẹ Đồng đi theo ở bên. Đồng nheo mắt với Thạch: “Hiểu chưa?”. Cảnh nói tiếp: “Nó đặt tiệc tiễn cậu đấy”. An nói với mẹ Đồng: “Hôm nay chúng cháu họp mặt tiễn anh Thạch, cụ cho phép chúng cháu uống rượu”. Thạch tán thành: “Phải đấy”. Đồng gật gù bảo: “Trừ mỗ”. Thạch vỗ vai An: “Còn tao với mày càng hay”. Khi rượu đã bốc đỏ nhừ mặt, Thạch hắng giọng hỏi An: “Tại sao mày lại đề tặng tao câu chuyện mày viết?”, An giật mình nhìn Thạch rồi đáp trỏng: “Quên mất rồi”. Thạch vẫn chưa buông tha, hỏi bằng giọng khiêu khích độc ác: “Mày cho là tao điên chăng? Mày nhầm, tao không điên đâu”. An xua tay bảo: “Cậu say rồi, không nói chuyện ấy nữa”. Thạch hứng chí làm quá ra cái điệu bộ ngất ngưởng: “Ừ, say rồi, chúng mày ạ. Say thật. Nhưng tôi bảo thật với các cậu nghe tôi đang muốn tự tử như thằng An nó viết rủa tôi”. Đồng cười hả lên: “Nó mà tự tử? Thạch, cậu không nhớ ngày nhỏ còn đi học chúng tớ gọi cậu là gì à: Thiết-đầu-đà. Nó đánh nhau chuyên môn húc đầu vào bụng người ta, thỉnh thoảng nó lại biểu diễn húc đầu vào tường cho chúng tớ xem. Đầu cứng thế làm sao mà tự tử chết nổi”. Cảnh chậm rãi phát biểu ý kiến: “Thế không phải là cậu đã tự tử từ lâu rồi à? Tôi tưởng cậu chọn một lối chết cho hợp thời đại”. Thạch dằn chén xuống phản quắc mắt: “Chưa đâu? Chưa đâu? Nói đùa thế đừng vội mừng. Đầu tôi còn cứng lắm, chết thế nào nổi phải không Đồng?” Thạch chỉ ngón tay vào trán mình. An lên tiếng: “Sự mê sảng của nó chính là cái mặt nạ của sự tỉnh ngộ sáng suốt, nó sẽ không tự tử đâu”, Thạch bất ngờ đập mạnh vào vai An khiến đổ cả chén rượu An đang cầm trên tay: “Mày sẽ là một nhà văn có tài, không phải thứ thi sĩ mơ mộng si tình bệt như thằng Đồng”. Đồng nhe răng cười hưởng ứng câu nhận xét của Thạch. Cảnh quay lại bảo An: “Tôi cũng nghĩ cậu là một nhà văn có tài, nhưng coi chừng sau này cậu đến lại phải viết tiểu sử thằng Thạch mất thôi”. Thạch trả đũa gay gắt: “Hay là cả thằng An lẫn thằng Đồng đều phải viết văn làm thơ ca ngợi cậu? Này, tớ bảo các cậu, An và Đồng ạ, thà các cậu viết về tớ các cậu còn có quyền thương tớ hay chửi tớ hay ghét tớ chứ viết để ca ngợi thì e không ngửi được. Phải không? Mà thật tình thì tớ muốn nghe các cậu chửi tớ. Ông ghét đứa nào thương ông lắm, Đồng ạ. Mỗi thằng hãy tự thương lấy mình ấy”. Đồng cười hề hề: “Nghe nó nói sướng không? Ai mà thừa hơi thương một thằng khùng như cậu”. An về hùa với Đồng tiếp ý: “Nó làm điệu của Nietzsche đấy, Surhommes, Salauds, tous”. Thạch nốc hết cặn rượu trong cốc thấm thía, như có những mũi kim nhỏ châm trên da mặt làm đầu lảo đảo nặng nề. Rơi đột ngột xuống vùng buồn bã. Nước dãi ứa ra đầy miệng, Thạch nghiêng đầu nhổ toẹt xuống đất, cầm khăn hỷ mũi nhớt: “Chúng mày nói đúng, tao chịu. Thôi bây giờ thằng Đồng hát cho tao nghe. Mày hát cái bài gì mà Hà xưa kia hát khi hai đứa mày ngồi trên đống rơm giữa cảnh đêm trăng trên rừng núi Phú-thọ ấy. Các cậu ngồi im cho nó hát, tớ ra nằm võng một cái”. Chiếc võng bị đẩy mạnh. Thạch quay cuồng hơn, dấp dim mắt và trông thấy những vòng đỏ đen lộn nhào tới tấp và khạc nhổ bừa bãi: “Ê, hát đi mày”. Thạch hét oang oang: “Này, còn mấy thằng con nhà kia từ ngày chơi với chúng mày chẳng khi nào chúng mày nói chuyện tình với tao cả, chúng mày toàn bàn những chuyện làm tao điên đầu không à? Cảnh! Mày đã yêu ai bao giờ chưa, nói đi, thú thật đi, tao sợ cho mày refoulé nguy hiểm, nói đi tao giải thoát, tao chữa cho. Còn thằng con nhà An kia nữa, mày cũng coi chừng cái complexe d’inceste của mày ạ. Em gái mày khá đẹp, phải gột rửa cho mau không thì mày sẽ trở thành một thứ văn sĩ bệnh hoạn chuyên viết cho bọn điên trong xã hội xem, tao không xem đâu. Chỉ có tao được quyền thương bọn mày thôi”. An tức giận vỗ tay xuống phản. Thạch nhơn nhơn: “Hôm nay ông say ông nói cho sướng, mày không chịu nổi thì tuyệt giao với ông đi cho đỡ vướng. Tao cóc cần, đã từ biệt thì từ biệt hẳn cho rồi”. Thạch nghe thấy sự im bặt ở quanh mình, tiếng dọn dẹp mâm bát lích kích, Thạch nghiêng người ngửng đầu nhìn ngoái, suýt lộn xuống sàn. Chỉ thấy Đồng đang giúp u già xếp dọn bát đũa. Cảnh và An đã bỏ ra ngoài sân. Thạch đặt đầu xuống nói một mình: “Không đứa nào hát ông hát cho mình nghe vậy”. Ngâm nga một vài câu thơ nhớ lõm bõm: “Cố nhân tây từ Hoàng hạc lâu… Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản… Yên ba giang thượng xử nhân sầu… Souvenir, Souvenir que me veux tu? L’autommeQuel fut ton plus beau jour?Et je baisai sa main blanche, dévotement… Thạch thấy mình bị hút xuống giấc ngủ nặng tối đen và quánh đặc như dầu nhớt, cố ngoi lên hỏi một câu vu vơ: “Đồng, Quel fut ton plus beau jour?” và trong khi thần trí bắt đầu khởi cơn phiêu lãng, trong đầu vang vọng tiếng đáp của bạn: “Nevermore”.

Thạch ngủ vùi đến xẫm chiều mới thức giấc. Miệng khô đắng đầu óc rỗng tuênh toang, nửa thân ê ẩm. Thạch thấy mình nằm trong giường của Đồng. Nhà vắng lặng như không người chỉ nghe gió rền rĩ cả một vùng cây cối xung quanh. Mẹ Đồng và u già ngồi quây quần quanh bếp lửa dưới nhà ngang. Thấy Thạch bước chập choạng xuống sân bà cụ hỏi: “Cậu Thạch đã tỉnh chưa? Có nước nóng đây cậu rửa mặt cho khỏe”. Thạch ngượng đáp: “Vâng, cụ cho con xin – Lúc trưa con say quá”. Bà cụ hiền từ âu yếm: “Khi nào cậu về Hà-nội thì xuống đây chơi với em Đồng cho vui”. Thạch gượng cười: “Thưa cụ, chứ con biết đi đâu nữa? Con có còn ai quen thuộc ở Hà-nội đâu”. Đồng từ bên hồ về, mang theo màu xanh rờn trên da mặt, bảo với Thạch là bọn An và Cảnh bỏ về từ lúc ba giờ. Bây giờ đã hơn sáu giờ. Thạch hết lời từ chối bữa cơm chiều, xin phép mẹ Đồng lên phố kịp xe điện. Đồng đưa chân Thạch ra bến xe. Cuộc sinh hoạt của khu phố ngoại ô đang ở trong giờ chuyển tiếp, mọi hoạt động của dân lao động lương thiện rút ẩn dần nhường ban đêm cho các quán rượu của bọn gái giang hồ và bọn lính tứ xứ. Trước khi Thạch bước lên chuyến tàu điện thưa thớt đã bật đèn, Đồng bắt tay Thạch bảo: “Bonne chance. Cho tôi gửi lời thăm Liên”. Thạch cay đắng: “Tôi sẽ nói lại với Liên”. Sau khi ăn qua loa một mẩu bánh mì với đồ nguội trong một hàng quán quen, phải nghe ông chủ quán béo mập ngu đần vừa nhấm nháp một cốc trứng đường thật to vừa huyên thuyên bàn luận chuyện chính trị trong nước ngoài nước như một người thành thạo am hiểu nhiều âm mưu trong hậu trường sân khấu ấy, Thạch lủi thủi trở về nhà tính đi ngủ sớm để quên nỗi khắc khoải chờ đợi tin tức của Bích sẽ mang tới. Mở khóa cửa, đánh que diêm lên soi lối, Thạch sửng sốt trước cảnh nhà trống trơn. Đồ đạc đã dọn đi hết, nền nhà vứt lung tung mấy tờ báo cũ rách. Trong một góc còn một cái hòm sữa lật nghiêng. Thạch chạy sang hỏi thăm người hàng xóm. Người đàn bà nhìn Thạch ái ngại cho biết buổi trưa nay một trong những người có mặt lúc bắt Liên – Tích, chính nó – đã mang xe nhà binh tới dọn đồ đạc trong nhà. Thạch ức đến tận cổ, cắn chặt hai hàm răng, cằm bạnh ra, mồ hôi vã trong khi gió gây lạnh ở ngoài. Chưa lúc nào Thạch nhận thức rõ ràng hơn lúc này cái cảm giác trần truồng tủi cực. Bây giờ Thạch lại đi dông dài trong các phố như một con chó biết nó sắp điên bỏ tránh những người thân yêu tìm chỗ khuất chờ cơn dại tới để chết, người bứt rứt lồng lộn bị vây giữa cảnh náo nhiệt tưng bừng lãnh đạm. Đầu phố Cầu Gỗ, một tên ma-cô chìa cái kính dâm mời Thạch mua rồi mời chơi gái. Thạch chợt nảy ý bảo nó đưa Thạch tới tiệm hút. Nó đưa Thạch qua ngõ Gia-ngư, ngõ hàng Bạc, quanh hết mấy tiệm hút trong khu ngõ Sầm-Công, hàng Giầy, Quảng-lạc. Đường bẩn thỉu hôi thối mùi cống rãnh, ngõ vào nhà tối tăm, nhớp nháp, cầu thang gỗ ẩm mốc ọp ẹp. Những căn gác chật đèn đóm tù mù nồng khói thuốc. Thạch đứng lại ở các ngưỡng cửa, nhìn ngó khắp lượt bọn khách nghiện nằm co quắp ngang dọc. Một bọn ma nằm chung trong một nhà mồ công cộng. Những mẩu chuyện không đầu đuôi được nói bằng thứ giọng vừa đủ nghe dai dẳng. Lẫn trong tiếng trống quảng cáo dồn dập dưới một rạp tuồng nổi giọng ngâm thơ của một mụ đàn bà nghiện, chán chường bệ rạc, có lẽ đó là một thứ cô đầu già: Đời đáng chán hay không đáng chán? Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm… Ở ngay bên chân Thạch, một gã thanh niên mặt mũi còi cộc không thể còn già thêm được nữa ngửa mặt nhìn Thạch mà như ngó vào hư không cất tiếng phụ họa bằng thứ giọng khinh bạc lộn ruột: Em ơi lửa tắt bình khô rượu, đời vắng em rồi say với ai. Tên ma-cô ghé vào tai Thạch thầm thì giới thiệu với vẻ kính trọng: “Đây là chỗ của các ông nghệ sĩ đấy cậu ạ”. Thạch lắc đầu. Tên ma-cô bắt đầu sốt ruột. Thạch bảo cho nó biết mình không hút chỉ cốt tìm một người quen, và Thạch hỏi nó có biết ai tên là Tích hay không. Nó kêu trời và bảo: “Sao cậu không nói với cháu lúc nãy, cháu biết cái trụ sở ấy mà”. Nó đưa Thạch sang phố hàng Chiếu gần Ô Quan-trưởng. Dọc đường thỉnh thoảng nó liếc trộm Thạch, băn khoăn không hiểu Thạch thuộc loại người nào. Bộ quần áo ka-ky của Thạch mới may nhưng mặc mấy ngày nay đã nhầu nát, mặt Thạch đen đủi lầm lì, đầu tóc cắt bờm xờm. Ngập ngừng mãi tên ma-cô gợi chuyện, nó làm vẻ thân mật nháy mắt đểu cáng: “Chắc cậu đi tìm của quý chứ gì? Chỗ ấy là động Thiên-thai ấy cậu ạ, đủ tứ khoái. Tích nó đóng đô ở đấy cả bốn mùa”. Thạch gạt ngang: “Tao chỉ cần gặp nó. Mày vào mời nó, bảo có người nhà muốn gặp nói câu chuyện cần, tao đợi ngoài này”. Tên ma-cô ngần ngừ e ngại, Thạch dúi tiền trả công cho nó, tên ma-cô bước vào một gian nhà có mặt ngoài lương thiện như những nhà khác. Mấy phút sau Tích bước ra vỉa hè với tên ma-cô, tên này chỉ chỏ sang phía Thạch đứng. Thạch khôn ngoan đứng lấp nửa mình sau thân cây chỉ để Tích trông thấy nửa lưng mình. Tới sát gốc cây Tích mới nhận ra Thạch. Thạch mỉm cười dữ tợn, vẫy tay ra hiệu đuổi tên ma-cô. Tích bị bất ngờ nên bối rối nhưng hắn vẫn giữ vẻ điềm nhiên tự tin, hỏi giọng trịch thượng dọa nạt: “Anh muốn gì?” Thạch tiến nhanh lên hai bước nói: “Muốn cái này” đồng thời đập mạnh vào mặt Tích. Tích chỉ kịp kêu: Ối, bưng tay lên mặt, lảo đảo va người vào gốc cây. Thạch nắm lấy ngực áo Tích kéo tới. Thạch vừa đánh vào đầu Tích cái thứ hai thì hắn gạt được tay Thạch bỏ chạy. Thạch hùng hổ đuổi theo và bắt kịp Tích ở bên nhà tắm công cộng đầu Chợ Gạo, đoạn đường chạy đuổi khơi lên cơn giận điên của Thạch. Nắm lấy gáy Tích, Thạch đánh đập không thương tiếc, trong cơn hăng máu Thạch ngập ngụa vào sự vui sướng dã man. Người đi đường dừng lại nhưng không ai vào can thiệp. Thạch nghe văng vẳng bên tai tiếng gọi lạ lùng: “Anh Thạch, Anh Thạch. Buông ra”. Trong khi ấy Tích cắn vào cánh tay Thạch, Thạch nổi xung thúc đầu gối vào bụng Tích, hắn hự một tiếng khom người xuống, Thạch bồi thêm một khuỷu tay, lên lưng Tích, hắn từ từ ngồi bệt xuống đường dựa lưng vào tường của khu nhà tắm rên rỉ. Thạch đứng lặng vài giây. Xung quanh tiếng xì xào bàn tán. Có ai kéo tay Thạch. Thạch lầm lũi bước nhanh về phía bờ sông vắng. Rồi Thạch hồi tỉnh dần dần. Vài giọt mưa bay quạt vào mặt Thạch. Thạch nhớ ra cái tiếng gọi tên Thạch vừa rồi, tuy không hề liếc nhìn kẻ đã dật tay mình, Thạch cũng tự nhiên trông suốt lạ kỳ, kẻ ấy là Bích. Bích đứng ở đấy rõ rệt. Sự hiện diện đột ngột của Bích lúc ấy, Thạch cảm thức hiển nhiên. Thạch tự hỏi: tại sao Bích lại có mặt ở chỗ ấy? Nhưng bây giờ trước sau Thạch không một bóng người. Con đường bờ sông rộng tối qua những ánh đèn giăng đường đang mờ mờ một cơn mưa bụi đầu thu.

Thạch tới ngồi ở bực thềm viện bảo tàng Finot. Màn mưa mỏng vẫn buông êm ngoài trời như một tấm lưới giam giữ. Sau lưng Thạch là tấm cửa cao dầy của tòa nhà; trước mặt là cái công viên hình tam giác, một vài đám cỏ xén, lối đi ngắn trải sỏi, ghế đá, con đường bờ sông bóng lên dưới ánh đèn nghiêng chao, con đê cỏ rậm ẩm ướt, vỉa hè rộng, hàng cây lâu năm và dãy nhà tối mịt; cuối tầm mắt là khúc quanh ở Cột đồng-hồ. Giữa viện bảo tàng và nhà Hát-lớn là con phố nhỏ vắng, nơi năm trước vào buổi sáng tinh sương một người đàn ông đã cầm dao đâm chết một người đàn bà. Một vụ án mạng vì tình. Thạch rút khăn tay lau những giọt nước đọng trên mặt tự hỏi phải làm gì nữa. Đầu óc trống vắng lạnh lẽo như cái khu vực quạnh hiu nhiều bóng tối này. Thạch cảm tưởng như mình đã đi khỏi Hà-nội, xa nó lắm rồi và đang nhớ về nó. Hà-nội sâu đục như một khối cẩm thạch xám, chôn giữ trong nó một đoạn đời dài chán nản phiền muộn bất mãn. Liên, Liên vẫn ở quanh đây. Nhưng Thạch không còn đủ can đảm chạy cuồng qua những ngày tháng trắng bệch, qua những phố phường sắp xếp nhỏ bé, Thạch nhìn rõ hết một lúc không trừ ngõ ngách nào, như món đồ chơi của trẻ con để kiếm Liên. Tôi bỏ cuộc, tình yêu đã chết. Liên, bất giác Thạch thốt lên, rùng mình như đêm nào giữa phố khuya. Không còn bàn tay Liên mềm lạnh như con chim ướt cánh, chỉ trơ lại bàn tay tôi ê ẩm trong cơn hung bạo muốn kéo dài. Thạch đi dọc theo phố Trường-tiền, rẽ xuống hàng Kèn, về Hai bà Trưng đến nhà Cảnh. Nấm mồ công cộng âm u bên cạnh tòa án. Nhà Hỏa-lò tường đá cao ngất. Thạch ngăn giữ sự suy nghĩ bằng cách đắm chìm vào trong quá khứ lềnh bềnh ở trước mắt. Lần cuối cùng sống nốt những dư vang của khúc nhạc đã tắt, ngoài thân xác, ngoài ý thức. Thạch gặp bọn Đồng, An, Cảnh ở đầu ngõ vào nhà, những hình dáng quen thuộc dễ chịu, kéo nhau vào hiệu cơm tháng của Cảnh uống cà-phê. An trình bày về khuynh hướng văn chương mới của Âu-châu, tóm tắt những tác phẩm mới đọc. Rồi ba đứa thảo luận về sự có cần thiết hay không một chế độ vô sản chuyên chính, Thạch ngồi nghe không phát biểu ý kiến, chiếm cái vai trò thường lệ của Đồng và Đồng cãi với Cảnh say sưa nói đúng những ý nghĩ của Thạch. Tới nửa đêm cả bốn về ngủ trong buồng Cảnh. Tấm phản được dựng vào tường lấy chỗ trải chiếu xuống gạch. Khoảng ba bốn giờ sáng, nước chảy mạnh róc rách trên cái bồn của cầu tiêu, ống dẫn nước ở góc tường hở chảy ướt một nửa buồng. Cả bọn phải thức dậy tìm cách lấp lỗ hổng, sau nhà.

Ngày hôm sau, Thạch không tới nhà Bích theo lời hẹn để biết tin Liên, về nằm nhà Đồng. Sáng hôm ra đi, mẹ Đồng dọn cho mỗi đứa một khúc bánh mì, một cốc sữa nóng. Thạch vừa ăn vừa nghĩ mình cũng là con bệnh như Đồng vậy. Thạch mặc bộ quần áo nhà binh mới, Đồng cười ầm lên đến chảy cả nước mắt. Đồng đưa Thạch ra bến Nứa, lên xe, theo đường Cổ-ngư, đê Yên-phụ. Thạch nói: “Cuối cùng tôi chỉ còn mình cậu”. Đồng hỏi: “Liên đâu?” Thạch mỉm cười. Liên đâu? Liên đâu trong Hà-nội đó, trong quá khứ đó. Cánh cửa quá khứ dần dần khép lại, Liên ở lại phía trong. Ở dưới đáy thân của tôi như nỗi chết không rời. Tránh sự ồn ào của bến xe trong khi chờ đợi. Thạch và Đồng đứng trên đê nhìn xuống bãi Phúc-xá. Mùa thu sắp về đây nay mai. Sông Cái nước siết trôi phăng. Và Hà-nội vẫn đẹp, cái vẻ đẹp rũ rượi của người yểu mệnh. Nhưng lúc ấy Thạch không còn ở đấy nữa.

Liên, Liên. Đến khi nào chúng ta gặp lại được nhau. Đó là ý nghĩ của Thạch khi xe lượn lên dốc cầu Long-biên. Merde.

PHẦN THỨ HAI

CHƯƠNG I

Hai ngày liên tiếp, mưa ngâu bỗng nặng hạt, gió lộng, trời sũng nước, mặt hồ Tây nặng sánh như chất dầu; nửa đêm ngày thứ ba của cơn bão rớt, trời đổ mưa giông, Đồng chợt thức giấc khoan khoái. Giấc ngủ yên lặng tĩnh mịch trong tiếng nước đổ, không bị khuấy đục bởi những mộng mị quen thuộc, hơi thở nhẹ nhõm, lưng và ngực không bị mồ hôi trộm. Cuốn tròn trong chăn bông, nghe gian nhà rộng vắng như không còn ai ngoài mình, bên ngoài cây cối vật vã từ trên vùng cao, thiếp dần trong nỗi nhớ nhung xoay tròn không đối tượng. Mọi hình bóng trôi miên man như tiếng nước chảy đầu mái hiên. Tỉnh dậy buổi sáng Đồng vẫn tưởng mình vẫn cười mãi bâng quơ từ nửa đêm đến sáng.

Trận bão qua hẳn, trời mùa thu trở nên mờ mịt lao đao trong những cơn heo may tẩm lạnh; Cây cối trong vườn ướt sơ sác, ngoài sân gạch lá úa rụng đầy. Ngồi xổm trên hàng hiên cao của nhà trên, rửa mặt trong chậu thau đồng nước bốc khói, Đồng ấp chiếc khăn bông dày kín mặt nghe hơi nóng ran trong da và nghĩ mình đang hồi hộp. Hôm nay chủ nhật đây, ngày hẹn đầu tiên với Nga. Nga, Nga, cặp mắt rạng ngời như đêm mùa hè thượng du, như tiếng hát của Hà bay ở giữa trời… thông minh, hóm hỉnh, riễu cợt hơn cả mình nữa, Đồng bật cười khúc khích, mẹ mặc áo bông đang quét dọn nhà ngang, tiếng chổi xể soèn soẹt, hai con chó nằm liếm bộ lông nhớp nháp. Bộ bàn ghế gỗ cũng ẩm, cốc sữa được đậy bằng một tập sách mỏng, Contribution à l’esthétique, cái bánh tây trong chiếc đĩa nhỏ, giỏ nước và đĩa chén đã được chùi rửa sạch bóng.

Đồng vừa ăn sáng vừa ngẫm nghĩ: phải tự làm psychanalyse mình mới được, sự sợ hãi kỳ quái là một thứ mặc cảm chưa được đặt tên, yêu Nga cũng là một lối tự psychanalyse mình hả?

Vỏ bánh xe đạp dựng bên tường đỏ hỏn không mảy bụi, u già kém mắt đã chùi rửa mất mấy nước mưa với mẹ đứng bên chỉ dẫn; những mẩu bánh vụn rơi vãi trên mặt bàn, trên đùi và gấu áo len. Đồng mò mẫm túi áo sơ-mi mặc trong điếu thuốc lá nhầu nát cong queo, vuốt lại cho thẳng đi xuống nhà ngang vào bếp. Mẹ cúi xuống cầm đôi đũa sắt gặp một cục than nhỏ, đưa cho châm thuốc, bàn tay răn reo run yếu: “Cậu lại hút thuốc rồi”. Đồng bập mạnh hơi, thuốc khó cháy nghe hơi khét, nhựa vàng lan lùi theo đốm lửa, không dám nuốt khói, thổi ra khỏi miệng và làm cay mắt mình. Mẹ bước theo sau, trở lên nhà trên bảo: “Hôm nay vợ chồng anh Thái đưa các cháu về chơi đấy”. “Con lên phố chốc về ngay”.

Đồng thay quần áo, quấn khăn quàng cổ, đội chiếc mũ nồi nhìn thấy tấm ảnh chụp chung với Thạch treo trên tường: Thạch đứng gác một chân lên chiếc bể non bộ ngoài sân, cười rộng miệng. Không biết hắn nghĩ thế nào khi hắn biết mình yêu Nga, em gái của An? Hắn chưa bao giờ đặt chân vào trong gian phòng khách sang trọng, trần thiết Tây-phương; Bộ xa-lông với những chiếc ghế bành lớn ngồi lọt thỏm, những ấn bản hội họa mới (một chân dung đàn bà của Modi giống như Liên của hắn), chiếc đàn dương cầm đen huyền, các lũng tường dấu ánh đèn, bức tượng nhỏ khỏa thân bằng đồng, chiếc đèn đứng chụp trắng, chiếc gạt tàn bằng pha-lê lớn bằng chiếc bát chiết yêu… Bây giờ nó đang ở trong đồn nhìn quanh làng mạc sơ xác và thù địch, những cánh đồng chiêm ngập nước không nhớ và không nghĩ đến ai, ngay cả Liên nữa, phải thế không? Đồng huýt sáo miệng, ngày nay chắc không còn người đi lại dưới cửa sổ gác người yêu để thổi sáo một bài ca tình tứ phải thế không Thạch?

Đồng vác chiếc xe đạp xuống sân, dắt qua vườn đi ra lối sau. Chú Tư đang quét dọn mặt đất, vun lá quả rụng thành từng đống, ngừng tay chống cây chổi cán dài trước ngực, chú khoác chiếc áo dạ lính Tây rách hai khuỷu tay – chú ở bên hàng xóm giúp mẹ công việc vườn tược: “Cậu Đồng đi chơi sớm thế?” Đồng đẩy xe ngang qua đống quả ủng đã thu gọn, cười khinh khích. Chiếc cửa gỗ ướt mủn, rêu nhờn, Đồng nhấc xe lần nữa qua khỏi ngưỡng cửa, dựa thân xe vào sườn, chùi mùn gỗ trong tay vào áo len và đứng thở. Bãi cỏ hoang mọc lan nhanh sau mấy ngày mưa dầm, đường dốc mãi tít trên cao nhìn lên chỉ thấy mép như một bờ đê, phải đẩy xe theo lối mòn ngoằn ngoèo giữa đám cỏ ướt hết gấu quần, tại sao lại đi lối này? Trên dốc Quần-ngựa, gió hút bạt cả hơi, bánh xe lăn theo sức kéo tự nhiên nghiến đá sạn nhỏ lào rào bắn sang hai bên; hồ Tây thấp thoáng là những miếng xanh lục giữa các chòm cây và mái nhà dưới thấp, con tàu điện chạy dưới đường Thụy Khê không tiếng động, cây gạo già Quảng bá mờ nhạt như nhìn qua một đám khói. Buổi sáng ngồi đọc sách trên bờ gạch sau đình làng, dưới gốc sung; lớp học trong đình nghỉ vắng – anh chàng thầy giáo có lẽ còn là học sinh trên phố giảng thơ kháng chiến say sưa cho bọn học trò trẻ con chẳng hiểu mô tê mù tịt – nắng lấp loáng ngoài khơi xa, sung rụng lõm bõm dưới chân, sóng sô vào bờ gạch, nước bẩn rong rêu, chiếc thuyền đánh cá lởn vởn quanh những đám bèo rải rác; Đồng úp sách vào ngực, lim dim mắt… Tellement attendu, tellement tellement, tellement, tellement, tellement, tellement, tellement, tellement et tellement attendu. Tellement, espéré, désespéré, espéré, désespéré, espéré, désespéré, espéré, désespéré, espéré désespérément espéré… Thảng thốt tự nhủ: tại sao không yêu Nga? tại sao không? Phải yêu Nga, phải yêu… như trong cơn mơ, nhảy xe điện lên phố, tàu chạy nhanh trên đoạn đường ngoại ô, chuông giật hồi và chậm dần khi vào phố, xuống nơi trạm tránh nhau cuối dốc vòng, đi bộ một quãng; sực nhớ tới thái độ vô lý, Đồng chỉ gặp Nga vài lần tại nhà khi đến tìm An hoặc ngoài phố khi Nga đi với bạn, sẽ làm gì, nói gì, không biết nhưng phải yêu Nga, yêu Nga, tại sao không? Càng đến gần nhà Nga càng thấy mệt, yếu như sắp đứt thở, yêu cho rõ mình không thể làm gì khác, yêu vì chỉ còn lại những giây phút mịt mùng. Tiếng chuông reo phía sau, ouvre moi cette porte… où je frappe en pleurant, tiếng guốc chạy trên lối sỏi, mái tóc cặp đong đưa, tiếng cười ròn rã tinh nghịch. Anh An đi vắng, cả nhà đi vắng, mời anh vào chơi. Đồng ngồi vào ghế bành, duỗi dài chân, ngực trống rỗng. Anh làm sao? Chắc anh trúng gió để em lấy thuốc anh uống, Nga bỏ vào trong nhà, lâu, Đồng tỉnh dần, cố gắng thở điều hòa. Anh thấy khá rồi hả? Đồng để hai viên thuốc trắng lên mặt bàn, cầm cốc nước trong vắt nhìn. Ngoài cửa sổ cây lá khua động, màu xanh chấp chới. Anh nghĩ gì vậy? Anh tìm mắt Nga trong cốc nước, bàng hoàng đợi phản ứng của Nga, lim dim mắt để khỏi nhìn, để chỉ thấy những ảo ảnh. Anh thấy thế nào? Đẹp như buổi sáng này vậy. Không khí buổi sáng trong vườn Bách Thảo âm u, mát dịu, khoảng sáng trên các mặt hồ nước trong im với những lá sen tàn úa. Đẹp bằng mắt cô Phương không? Mở choàng mắt, có lẽ An nói với Nga về Phương, im lặng trải rộng dịu dàng. Uống vội hết cốc nước, mắt Phương, mắt Phương không nhớ được. Nga bật ngửa cổ cười ròn, riễu cợt. Un soir de demi-brume à Londres un voyou qui ressemblait à Mon amour vint à ma rencontre Et le regard qu’il me jeta Me fit baisser les yeux de honte

Nga mặc áo dạ màu gạch, ngồi yên xe đạp đỗ tựa vào vỉa hè trước đền Quan-Thánh, trông về phía trường Bưởi.

An đứng trước tủ sách cao khỏi đầu ngắm nghía; sách đủ loại: philo, éco-po, histoire, sociologie, littérature, science, religion, civilisation… Bộ bách khoa tự điển Anh chiếm nguyên một kệ dài, không đóng gáy phô những bìa khác nhau hỗn độn, hoa mắt.

– Anh cũng đọc cả droit nữa hả?

– Để làm tài liệu. Sau này cần dùng, rồi đến lúc phải có cái Constitution cho xứ này.

An nhón gót rút lấy quyển Marie của Trotsky:

– Tôi kiếm mãi quyển này ở ngoài không thấy.

An nhìn ra ngoài ban công, đường Yên Phụ cao hơn tầm gác, bến xe khuất về bên trái, tiếng động từ trên đổ xuống, từ dưới dội lên. Dưới phố thấp một cái máy nước công cộng nằm ngay dưới chân những thềm gạch nối với đường Yên -phụ, những người đàn bà ì ạch quay ngang đôi thùng đang leo từng nấc ướt nhẹp bẩn thỉu. Đầu phố phía hàng Đậu, một xưởng chữa ô-tô khua vang những tiếng gõ đều đặn vào thùng sắt trống và xa hơn tiếng ào ào thỉnh thoảng tuôn đến cửa chợ hàng Khoai. Nghiêm đang chăm chú chuyên trà, gian phòng vuông vắn thoáng khí, hai cửa sổ mở trông ra những mái ngói lô nhô của phố hàng Đậu, sân thượng phơi quần áo. An vừa lật giở những trang sách vừa đi tới ngồi đối diện với Nghiêm nơi bàn thấp đặt ngay giữa phòng, nhấm nháp hương trà mạn sen trong chiếc chén hạt mít.

Nghiêm cầm hai tập giấy bản in ronéo để trên bàn, giở nhìn các trang:

– Anh đọc hết chưa? Nghĩ thế nào?

– Anh viết hay đấy chứ.

Nghiêm vội cải chính:

– Không phải tôi, anh em họ viết… Chúng tôi phổ biến nhiều ra ngoài hậu phương hơn trong vùng quốc gia này. Cốt để cho cán bộ của kháng chiến đọc.

An ngửng lên nhìn thẳng vào Nghiêm, các anh lại muốn “lòe” bọn thanh niên. Nghiêm chỉ mới ngoài ba mươi, vẻ thư sinh nho nhã, không có dáng một người hoạt động, thường ra thư viện đọc sách, ghi chép chăm chỉ. Hắn làm quen với Cảnh, rồi với cả bọn, cho mượn xem những tài liệu của kháng chiến; một bữa tình cờ nghe Thạch cãi nhau với Cảnh về định nghĩa giai cấp, hắn phụ họa đứng về phe Thạch công kích chủ nghĩa mác-xít với luận điệu vững vàng của người có nghiên cứu vấn đề, Cảnh nghĩ hắn có thể là agent của phòng Nhì.

– Riêng ý tôi, tôi thấy các anh mystique quá. Để chống lại chủ nghĩa mác-xít mà các anh lại đi khai thác cái tinh thần dân tộc thần bí, xử dụng thần thoại, tôi e…

Nghiêm cầm nghiêng ấm trà sửa soạn rót vào chén, lắng nghe, xong mỉm cười tiếp tục rót nước vào chén và nhấc ấm nước sôi đặt dưới chân ghế chuyên vào ấm trà.

– Để chống lại lập trường giai cấp, tôi hỏi các anh đứng ở lập trường nào?

– Đó là điều bọn tôi thắc mắc. Có lẽ không giải quyết nổi. Nhưng tôi thấy dựa vào ý niệm dân tộc thì mơ hồ trừu tượng quá.

– Anh không đọc trong này bài chúng tôi bàn về sử quan của chúng tôi hay sao?

– Có, tôi có đọc. Nhưng cái quan niệm về giòng sống, giòng sử của nòi Việt, với nòi Hán của các anh tôi nghe nó gần phát-xít quá…

Nghiêm sa sầm nét mặt, nhếch mép, cái lối cười ngạo mạn, khinh thị kẻ đối diện như của Cảnh. An dòm thẳng mắt Nghiêm khiêu khích, đối với Cảnh hay Thạch, An có thể nhân nhượng và mang mặc cảm tội lỗi; chúng nó hơn mình, chúng nó thật như thế, những đứa con mà chiến tranh nhổ bật mất rễ giai cấp, chúng không thuộc vào đâu cả, còn Nghiêm… Một đứa con trai chừng bốn năm tuổi chạy vào phòng gọi: Bố, bố, bố vẽ cho con cái đồng hồ; Nghiêm cầm bút mực vẽ trên cổ tay bụ bẫm của đứa con xong, bảo: Con ra ngoài chơi. Thằng bé không ra khỏi phòng, nó đến ngồi trên chiếc đi-văng gần bên cửa ra, dựa lưng vào tường và giơ tay lên ngắm nghía một mình. Cạnh tủ sách là chiếc bàn viết, lót mặt kính dưới có những bức ảnh. Nghiêm cầm chiếc điếu cày giấu dưới gầm bàn, vừa nhét thuốc vào nõ vừa nói:

– Anh chỉ có thể đứng trên lập trường dân tộc, anh mới có thể vận động được một cuộc cách mạng khác với cách mạng vô sản. Cách mạng không phải chỉ là thúc đẩy sự phân hóa xã hội tới tột độ để loại trừ, cách mạng còn phải là cái hành động intégrer được cái quá khứ lịch sử của một dân tộc vào trong một xã hội mới…

Nghiêm châm lửa hút thuốc nổ ròn tan, thở khói tuôn mù ra lỗ mũi, dựa đầu vào lưng ghế lim dim một lúc. Hơi thuốc bay tan, Nghiêm ngồi thẳng lên, mắt vẫn còn đỏ lờ:

– Chỉ có một cuộc cách mạng dân tộc thật sự mới thu nhập và hóa giải được những mâu thuẫn của xã hội hiện tại. Dựa vào giai cấp, người ta chặt đứt quá khứ và lọt vào trong cái vòng đấu tranh bất tận, làm cách nào trong cái xã hội tân tiến như ngày nay mà người ta có thể thủ tiêu được hiện tượng giai cấp trong guồng máy kinh tế. Anh có thấy thế không đã nào? Cách mạng vô sản ở Nga non nửa thế kỷ nay hỏi làm được đến đâu. Chỉ còn cách là thu nhập điều hòa các giai cấp trong đơn vị lớn hơn là dân tộc thôi. Nhất là ở Việt-nam mình, cái tinh thần nông dân cố hữu, cái giai cấp chính yếu đó, có đòi hỏi gì chính là đòi hỏi được thu nhập vào trong một xã hội mới…

An mỉm cười hoài nghi:

– Tôi chưa hiểu rõ quan niệm cách mạng của các anh như thế nào. Cách mạng để intégrer quá khứ vào tương lai? Tôi chỉ nghĩ rằng cái quan niệm dân tộc cách mạng bị dépassé mất rồi. Cách mạng và truyền thống dân tộc, ça sonne faux.

Nghiêm không cười nữa, hắn trừng mắt:

– Tôi không hiểu các anh muốn gì, tìm kiếm cái gì. Các anh có chấp nhận Cộng-sản không đã nào? Nếu không thì các anh phải đứng vào hàng ngũ nào chứ. Cái gì các anh cũng phủ nhận cả, rồi các anh đi đến đâu. Các anh chịu ảnh hưởng Tây nặng quá. Phải trở về nguồn, khai quật cái tinh thần dân tộc tiềm tàng đã giữ được đất nước này mấy ngàn năm không tiêu diệt… Các anh không nhận định được những giá trị của dân tộc vì các anh vong bản.

An bật cười thành tiếng, non, suis pas déraciné, suis déclassé, oui, déclassé.

– Anh muốn chúng tôi phải hành động chứ gì? Đồng ý. Nhưng phải thành thật mà nói các đảng phái quốc gia ngày nay có đảng nào tổ chức ra hồn, có đường lối hoạt động thu hút được chúng tôi đâu. Các anh vẫn còn giữ cái lý tưởng lạc hậu cũ kỹ như cái hồi mấy chục năm trước chống nhau với Tây chỉ cần vận động cái tinh thần quốc gia dân tộc là đủ. Mục tiêu của các anh đã bị Cộng-sản đoạt mất rồi, hiện tại là chính các anh đang phải tựa vào Pháp để chống Cộng, các anh không thấy cái lý thuyết cách mạng dân tộc của các anh mâu thuẫn khi vào thực tế sao. Các anh sẽ không khi nào lôi cuốn được thanh niên chúng tôi nếu các anh cứ còn khư khư ôm giữ cái vang bóng một thời của các anh. Ngày nay cuộc tranh đấu đã khác không phải như thời xưa, xã hội này đã phân hóa không còn đồng nhất như thời trước nữa… Chúng tôi muốn hoạt động lắm chứ nhưng bắt chúng tôi phải chấp nhận những quan niệm cựu hữu phản động chúng tôi làm sao nhận nổi. Các anh không nhận thức được rằng bọn thanh niên ngày nay hầu hết đều khuynh tả, nếu các anh không thu hút dẫn dắt nổi…

Nghiêm không nhịn nổi nữa, hắn cắt ngang:

– Các anh chỉ giỏi lý luận nên không làm được việc gì cả. Các anh chỉ biện luận để che đậy sự hèn nhát không dám hành động thực tế. Có phải các anh cho các anh là khuynh tả để lúc có thể đứng với Cộng-sản hay không? Anh chỉ nhìn thấy người quốc gia qua hình ảnh của ông bố anh…

An nghẹt cứng họng, hai bàn tay nắm chặt vào thành ghế thấy mồ hôi vã nhớp nháp, bật cười thành tiếng ngắn vô nghĩa. Je suis contre mon père, complexe d’Oedipe chăng, mặc cảm có trước hay sau Freud… nhưng sự xúc phạm kia vẫn là sự xúc phạm đến chính tôi, tôi đau, tôi chống với chính tôi thì đúng hơn… vẫn là một lối ràng buộc với giai cấp như Cảnh nói chăng. Đột ngột từ dưới phố bốc lên tiếng hỗn độn vô cớ, như một đám đông kéo qua, phút sau dịu đi tiếng động trở lại giọng miên man cố hữu như một nỗi im lặng loang rộng. Hôm nay là chủ nhật, mình ngồi đây làm gì? Nói mấy câu chuyện viển vông xa vời cho yên dạ, bỏ quên sinh thú. Nghiêm cầm mấy tập tài liệu An vừa trả, đi vào gian buồng ngay đầu cầu thang lên trò chuyện với vợ. Trên trang nhất tờ nhật báo trải trên bàn, hàng tít tám cột về trận đánh mở mùa chiến dịch Thu-Đông tại đồng bằng Bắc-Việt, tin trận bão từ Nhật-bản thổi tới trong mấy ngày qua. An thèm bỏ xuống phố, đi lẫn vào trong đám đông vô tư và quên mình quên tất cả mọi ràng buộc, nơi chốn ghi dấu hình dạng mình. Nghiêm trở ra, mang theo một tập tài liệu khác:

– Anh đọc thử cái này xem sao?

An ngạc nhiên, đó là một tập thơ giọng cổ có hào khí của tráng sĩ. Nghiêm lại bắt đầu thuyết say sưa về người lãnh tụ bí mật mà may mắn một thời hắn được sống gần ông trong sáu tháng. Ông là người có bộ óc thông minh bách khoa, thị kiến mạnh mẽ sâu xa, nhìn trước mọi sự việc cả mấy chục năm. Khi chiến tranh bùng nổ, ông bỏ đi mất tích, hứa sẽ xuất hiện khi thời cơ đến; khuyên anh em đồng chí ẩn náu nhẫn nhục, len lỏi khắp mọi tổ chức chờ đợi hiệu lệnh. Hiện không ai biết ông ở đâu nhưng tất cả các đồng chí đều tin ông còn sống và ngày ông trở về sẽ là ngày đại cách mạng dân tộc. Trong thời gian này, các đồng chí của ông chỉ lo nghiền ngẫm khai triển những tài liệu ông để lại: triết lý, lịch sử, cách mạng, văn hóa, dân tộc… củng cố hàng ngũ. “Giai đoạn này mình chỉ có thể sửa soạn cách mạng bằng một cuộc văn hóa vận động”. Hai tay chống trên đùi, Nghiêm nhìn qua đầu An như một giáo đồ chiêm ngưỡng và cộng thông với một bậc thánh vắng mặt. An chán nản tới không còn đủ sức phản đối cái luận điệu thần bí, ấu trĩ; có lẽ nào kẻ hành động phải là kẻ mê muội?

– Anh có thấy cái hồn dân tộc có thực không?

An bật cười sằng sặc, cười đến ràn rụa nước mắt. Dân tộc, cách mạng, tổ quốc, giai cấp… một mớ danh từ phát ngấy.

Một buổi chiều, giờ là sáng trời buồn bã, buổi chiều sương sa Luânôn, tên côn đồ giống như mối tình tôi đến gặp và nhìn tôi, mắt nhìn khiến tôi cúi đầu xấu hổ; un voyou qui ressemblait à mon amour… un voyou qui… Trời xỉn, phố rộng vắng, đường ướt, bãi cỏ rộng xanh mướt, cây um tùm. Mùa thu đã thật già, tiếng bánh xe lăn trên mặt nhựa ướt và ổ líp quay những vòng ngược ròn rã, mái tóc cặp trễ sang một bên vai. Nga đang giận, mặt ngước thẳng im lìm trong không trung, Đồng khịt khịt mũi hít hương thơm của một vùng cây cối lớn gần đó, trong tâm trí âm vang mơ hồ một điệu hát du dương. Đồng thốt cười khinh khích, rung những hơi nhiệt trong lồng ngực, lái xe kề sát Nga nhưng Nga đạp nhanh vượt lên né tránh. Vườn hoa Canh-nông: cỏ xanh, những luống hoa vàng nhạt, tượng đá trắng và ghế đá xám; Kỳ đài của thành cũ rêu mốc và ẩm ướt.

Nga đạp xe theo mấy phố vòng quanh công viên, trời mưa lất phất. Đồng đỗ xe vào hè đường đứng dưới một gốc cây lớn, con đường chạy qua một nhà tu kín lạnh lẽo và sẽ dẫn vào làng Ngọc-hà. Nếu Nga đạp thẳng luôn, mình đuổi mệt, nhưng Nga vòng trở lại, tới đứng vào vòm cây của một tòa biệt thự hàng rào sắt nhọn cao, phủi bụi mưa bám trên áo, lấy khăn tay chùi đầu tóc. Đồng dắt xe đi lại chỗ Nga, tủm tỉm cười trêu cợt; Nga dơm dớm nước mắt, ngoảnh mặt đi. “Bây giờ em đưa anh đi chứ?” Nga làm lơ, đột nhiên Đồng nghĩ đến những trái nhót đỏ để chùi lên ngực Nga, bụi phấn trắng sẽ bám trên lông áo. Trời tạnh ngay, Đồng cầm mũ rồi phủi lưng áo và tóc cho Nga. “Em ghét anh” “Anh xin lỗi, xin lỗi” Nga ngoảnh mặt lại, nhìn thẳng vào mắt Đồng. Nga nhìn thấy gì ở trong? Thấy gì hả Nga? (Kẻ vô dụng hả? Tên ăn hại). Đồng cười cười, buồn quá hả, “Em định đi đâu bây giờ?” “Chúng mình đi ra ngoại ô chơi”.

Hai đứa đạp xe rẽ vào Hàng Đẫy. Đồng chỉ trường huấn luyện Cảnh-sát: “Thuở bé anh học trường này, trường Pierre Pasquier”. Lớp học ở trên gác, mỗi lần tập phòng thủ thụ động phải chạy xuống cầu thang, sang đường bên sân đối diện chui vào các hầm chữ chi lộ thiên nhiều hôm ngập nước nhìn những khoảng trời hẹp thật xa. “Anh cất cái mũ nồi đi. Em trông nó làm sao ấy. Nhìn mái tóc anh trông có vẻ thi sĩ hơn”. Đồng nhét mũ vào trong ngực, gió thổi xòa tóc xuống trán sấp mồ hôi, trông có vẻ thi sĩ, thi sĩ à quoi bon des poètes en un temps de détresse? “Em còn muốn bắt anh làm gì nữa không?” “Anh không được cười nữa” “Quái gở” Đồng cười rộ, lũ trẻ đang chạy nhởn trên đường tàu điện giữa phố hàng Bột, cười hùa theo và nhại giọng trêu ghẹo “Tại sao thế?” “Em muốn thấy anh buồn”. Muốn thấy anh buồn làm sao được, muốn thấy phải vào trong đêm khuya trằn trọc, vào trong những cảm xúc bất thường, trong cơ thể bệnh hoạn, trong ý thức vùng vẫy, tiềm thức vi phân… “Quái gở” Nếu em biết anh nghĩ gì về bè bạn, người yêu, nếu em biết những lúc anh xô đụng với hãi hùng của cô đơn vô tận… và anh đùa cợt châm biếm: “Không nên, không nên”. Tự dưng tôi ứa nước mắt dễ dàng, Ô chợ Dừa mập mờ đông đúc. Một đoàn convoi nhà binh Pháp rầm rầm đằng sau lưng và chuyến tàu điện chạy ào nhanh ngược chiều. Đồng và Nga phải dừng xe, chống chân đứng kẹt bên đường. Tàu điện chạy qua, gió ngược thốc như muốn cuốn hút theo thân thể rung chuyển vì chấn động. Đồng ngoảnh nhìn Nga, nhe răng cười, đoàn convoi qua hết: “Em bằng lòng nhé, anh đang khóc đây này”. Nga vuốt lại tóc bảo: “Anh điên vừa chứ. Bụi bay vào mắt anh thì có?” “Anh ghét em vì em thông minh quá, Nga ạ”.

Ngã tư Ô chợ Dừa lầy lội bẩn thỉu, những người nhà quê gồng gánh qua lại ngang đường. Đồng đề nghị: “Chúng mình rẽ về Cầu Giấy đi”. Nga lắc đầu: “Anh xuống dưới này với em”. Nga rẽ vào nhà thờ Namồng, Đồng níu lấy cánh tay Nga cho hai chiếc xe cùng chạy chậm trên con đường lát gạch: “Vào đây làm gì em?” “Em có chút việc”. Đồng dựng xe vào đường rãnh xi-măng còn ngập lá ẩm ướt, lơ đãng quan sát khoảng sân trước nhà thờ. “Anh chờ em ngoài này nhé” Đồng cầm bàn tay không của Nga, ngón mềm hơi giá lạnh, lưu luyến. Nga bước vào trong hành lang tĩnh mịch, dừng lại trước một cửa phòng, gõ cửa và quay nhìn ra ngoài mỉm cười với Đồng. Đồng ngước trông những khung kính dầy xanh trên cao, nghe tỏa vọng trong hành lang tiếng Harmonium dẫn một hợp ca trong một vòm sân kín. Bản thánh ca chấm dứt, Nga đã biến mất, hồi chuông rung ngân báo hiệu lời giảng chậm rãi dội trên mặt đá và thủy tinh, Đồng nghe hoang mang buồn nản. Đồng đi trên lối xi-măng vòng vào sân trong, đất rộng, nhà từng dãy kiến trúc trang nghiêm tẻ lạnh. Một đám nhân công rãy cỏ sửa sân, những nhà thầy áo đen ra vào lẩn lút các phòng. Đồng thọc hai tay túi quần, trời lúc này ẩm cũ như ngày đưa Thạch đi, bầu trời như một ngân vang của thời gian, không còn mẩu thuốc nào để đốt. Những lá thư Thạch gửi về qua trường Đại-học do An hoặc Cảnh mang xuống, vội vàng ngắn ngủi không chủ từ, kín bưng. Đã đến nơi yên ổn. Đi đóng đồn, chắc còn lâu mới về thăm Hà-nội được. Công việc hằng ngày mở đường, tuần tiễu canh đồn. Gửi lời thăm cả bọn. Lên phố mua giùm ít truyện trinh thám. Thân – Đồng rùng mình, thèm muốn Nga đột ngột, muốn ôm Nga trong tay, muốn hôn Nga thật lâu. Anh sẽ hối hận… chỉ riêng anh… anh là người yêu của em, anh không tin sao? Anh tin, anh tin Phương… Chiều mùa đông tối sớm, các cửa buồng đóng kín, Đồng ngồi trước bàn học của Phương không dám bật điện cũng không dám mở cửa ra ngoài. Phương nằm dài rũ rượi trên giường, một vết đen trải như sự xấu hổ, khóc ấm ức. Đồng đã kịp ngồi thoát dậy, vuột khỏi tay Phương khi thình lình Đồng nhận ra Phương đã trút bỏ quần áo trên người nàng lúc nào. Anh hiểu em… nhưng tại sao? Ra khỏi cổng nhà Phương, Đồng đứng trong trời chiều xám ngắt không bóng người, nhìn khu Đấu Xảo lầm lì quạnh hiu, khu vực quân sự Pháp với những chiếc xe xếp hàng, những ngựa sắt gai, người lính gác xứ Maroc… Thành phố năm ấy còn vắng vẻ hoang tàn, tại sao? Rồi Phương bay mất, Đồng trở lại sân trước, sợ Nga cũng đã bỏ đi mất. Đồng gặp Nga trong hành lang âm u, giữ vai Nga hôn vội lên môi nàng, Nga trợn mắt ngạc nhiên. “Em đẹp như Đức Mẹ vậy”. “Suỵt, bậy, hỗn nào”. Đồng tính kéo Nga vào ngực, không rời nữa, Nga xô Đồng ra bảo: “Chúng mình đi thôi”.

Đồng cúi mở khóa xe hỏi: “Có việc gì đấy em?” Nga nâng xe lên khỏi rãnh đáp: “Việc riêng của em”. Gia đình An không phải là công giáo, có lẽ Nga chịu ảnh hưởng của trường học. Cũng chẳng có gì đáng thắc mắc, mình không có thể sống cuộc đời của người khác, dù là người yêu chăng nữa, người ta kề cận và người ta cô đơn. Đồng vịn vào tay Nga đạp xe ngược dốc cho đỡ mệt, con đường trở vào thành phố thấy ngắn hơn. Tình yêu này chỉ có những phút giây như hiện tại, khi buổi sáng lả dần, ánh sáng vẫn chẳng nhoi ra khỏi vùng ngây ngất của mây, lá lăn chạy bên vệ đường và rung vang trên các ngọn cây cao: những phút giây chia lìa, không nối tiếp, soáy vào châu thân niềm hân hoan vô lý, như một điệu hát đựng trong trí nhớ mỗi lần vang vọng mở ra một thế giới mịt mù. “Em theo đạo hả?” Tình yêu chỉ để lại những giây phút mình trơ trọi với mình. Nga liếc nhìn và cười lặng lẽ không đáp. Đồng dắt tay đưa Nga vòng theo vườn hoa con Cóc vào Bách-thảo. Trong vườn vang xa tiếng cười của mấy cô gái quê tập xe đạp. Hàng bánh tôm bầy bàn trên cỏ, mỡ sôi trong chảo, tiếng kéo cắt ròn tan; chú lính Bảo-Chính vừa ăn vừa trêu mấy cô gái tập xe lảo đảo chạy ngang, bốn năm anh học trò liệng xe ngả nghiêng ăn uống nhồm nhoàm bàn chuyện thi cử. Đồng ghé xe mua mấy điếu thuốc lá rồi đưa Nga đến ngồi trên chiếc ghế đá khuất sau lưng một tòa nhà cũ không người ở cạnh một hồ nước. Đồng rút mũ nồi lót chỗ ngồi cho Nga, đánh diêm hút thuốc, hơi thuốc đầu tiên thân mật, ấm áp. Một cơn gió thổi bắn tàn lửa, Đồng ho sặc sụa, Nga đặt bàn tay chặn lên ngực vuốt ve. Đồng ngửa cổ tựa vào ghế đá lạnh, liệng nửa điếu thuốc còn lại xuống cỏ. Khói mỏng uốn mình bốc lên trong đám cỏ rối như một vệt khói trong rừng xa, nếu mình là một con kiến đang bò dưới đất kia. “Anh An của em thế nào? Lâu anh cũng không gặp” “Cậu em vận động xin cho anh ấy được miễn dịch” “Thế hả? Anh An có biết em yêu anh không?” “Không”. “Anh ấy có biết em đi đạo không?” “Không. Nhà em không ai biết. Nhà em không ai biết đến ai hết. Mỗi người lo một việc. Cậu mợ em chỉ lo chạy chọt vận động để làm bộ trưởng. Có lẽ kỳ này cậu em ra đấy. Còn anh An thì suốt ngày lang thang ở ngoài đường. Mấy ngày hôm nay, cậu mợ em vào Sài-gòn, ông ấy không thèm đặt chân về nhà nữa. Em cũng chẳng hiểu ông ấy muốn gì. Nhất định không chịu đi Pháp mà ở lại đây anh ấy cũng chẳng làm cái gì. Em chán cảnh gia đình em quá, mà em không biết phải làm thế nào…” “Thì em lo cầu nguyện cho họ, em lo phần linh hồn cho gia đình em, phải thế không?” Đồng cười hực lên, Nga có vẻ giận: “Anh không bao giờ nói chuyện được đứng đắn hay sao?” “Có chứ, có chứ. Anh vẫn nói chuyện đứng đắn” Đồng ngồi thẳng lên choàng lấy vai Nga, giữ im. Nga nhìn lên núi Nùng, mặt nghiêng chếch, làn môi rung động như gặp một cơn lạnh. “Anh Đồng nhỉ? Anh có biết tại sao em yêu anh không?” “Vì sao? Anh chỉ biết anh phải yêu em, không thể không yêu được”. Đồng mỉm cười, vuốt lại mái tóc của mình. Dưới đường thấp quanh hồ nhỏ, hai anh học trò đang cúi gập mình thi xe đạp giữa tiếng reo hò cổ võ của các bạn. “Có phải hồi xưa anh yêu cô Phương không nào? Đừng chối, em biết. Bây giờ cô ấy ở bên Pháp, em có địa chỉ, anh muốn xin hôm nào em ghi cho. Em có một đứa bạn thân quen với cô ấy, nó biết hết chuyện của anh. Em không ghen đâu mà anh sợ. Anh có biết em yêu anh từ bao giờ không?” Đồng chỉ biết dương mắt nghe. “Hôm em gặp anh trong rạp Studio. Hôm ấy em đi với con bạn quen Phương ấy, cả rạp chỉ có ba người. Anh ngồi hạng bét và em ngồi hạng nhất. Anh có trông thấy em không? Có lẽ em vào lúc đèn tắt nên anh tưởng anh chỉ có một mình xem một phim. Anh khoái chí cười rũ rượi một mình trong khi phim thật cảm động. Con bạn em nó tức anh ghê, bảo anh điên. Nhưng em, em hiểu là anh cô độc, anh giống em và em yêu anh… Đâu anh cười một mình em nghe xem nào”. Đồng cười hinh hích vài tiếng nhưng sau đó tiếng cười chết đi một cách lặng lẽ. “Anh đâu có biết. Em xin lỗi cô bạn em hộ anh”. Nga cười theo, rung động cả hai vai, ngả vào cổ Đồng, Đồng đưa ngón tay trỏ vẽ quanh viền môi Nga: “Em thông minh rồi em sẽ khổ”. Nga thì thầm: “Em chỉ muốn anh hiểu em. Em cũng vậy. Em sống trong gia đình thấy mình lạc lõng. Em thấy em phải có cái gì để tin tưởng mới sống được. Em thấy hình như anh không cần em bằng em cần anh. Nhiều lúc em muốn bỏ đi tu quên hết… nhưng em thấy còn yêu anh”. Đồng nghiêng đầu, nghe hơi thở đều đặn của Nga như hơi gió thổi trên đồng xa, rút thuốc châm hút; khói thuốc bay vờn trên mặt Nga, khiến Nga phải nhắm mắt, như một tấm màn sương mỏng. Đồng không tìm ra chuyện gì để nói, buổi sáng đứng im như sẽ còn mãi. “Đừng đi tu, dại lắm”. Nga lắc đầu, cười khẽ: “Nhưng em biết chắc rằng chỉ có Thượng-đế là không dời đổi, là có thể tin hoàn toàn được. Còn anh em nghĩ rằng anh không cần em. Em là thừa…” Đồng beo má Nga: “Chưa chắc…” “Lúc nãy là em vào thăm cha đỡ đầu của em. Có lẽ tuần sau em sẽ rửa tội”. “Buồn quá hả? Cũng chẳng sao, vừa yêu Chúa vừa yêu anh cũng chẳng sao”. Đồng hôn phớt lên mắt Nga, rồi bỗng nghe mình mệt lả, Nga hé mắt. Đồng quay mặt đi, trong tầm mắt vườn Bách-thảo chỉ còn một màu xanh lúc thẫm lúc nhạt, không một bóng người.

“Thôi về chứ em”. Đồng đỡ Nga đứng lên, nhặt cái mũ nồi phủi sạch, nắn lại hình và chụp lên đầu. Nga nhăn mặt ra dấu bảo cất đi, Đồng lắc đầu: “Không sao, không sao”. Đồng dắt xe đạp, đi bộ đưa Nga ra tới cửa vườn. “Một bữa nào mình phải đi xem ở Studio hả Nga”. Cuộc tình chưa lâu đã muốn thành một kỷ niệm, Nga gật đầu: “Bữa nào?” Đồng đứng ngây nhìn Nga đạp xe một mình vào con đường Cửa Bắc, cây rậm tối. Buổi sáng cũng chưa hết.

Cánh cổng sắt kêu rít khô lạnh mở vào một sân gạch vuông trước một căn buồng thấp bé tối tăm chỉ có một cửa sổ nhỏ với chấn song gỗ, ở đó hiện một khuôn mặt thanh niên thiếu máu đang ngồi đọc sách ngửng lên vì tiếng động, cặp mắt dò hỏi tra xét lạnh lùng; bên trái căn buồng tòa nhà chính hai tầng ở đó im lặng bất thường, bên phải là cầu tiểu chung ngăn cách sân bởi một bức tường phụ thấp và cánh cửa gỗ. Cái kẹt ngách giữa tòa nhà chính và căn buồng thiếu ánh sáng làm lối đi vòng vào sau, cạnh tường dựng hai ba chiếc xe đạp và trong góc tối nhất, chỗ phình rộng, đặt một cái trạn bát. Bước hai bực thềm lên hành lang sáng chạy song song với cái sân dài hẹp méo mó dưới thấp tới cầu thang chỉ lộ mươi bực trước khi rẽ ngoặt, tiếng kèn hát đột ngột vang lên một khúc tango cổ điển.

An vén tấm màn dạ đỏ bước vào phòng, nhiệt độ thấp hẳn xuống, đứng im một chỗ gần lối vào cho mắt quen với ánh đèn tỏ mờ mờ ở các góc, cửa sổ đều đóng kín. Một người đàn bà vào sau, hé nhanh một chút ánh sáng bên ngoài, đi qua mặt thoảng phất mùi nước hoa, tiến theo mép tường vào bóng tối nơi phát ra âm nhạc. Bốn đôi đang nhảy, tiếng chân lệt sệt lê trên sàn đá hoa rắc bột trơn lẫn với tiếng đếm một hai ba bốn đều đặn của một đôi quanh quẩn ở giữa phòng, ba đôi kia im lặng thẳng cứng. Trong quãng im giữa hai đĩa nhạc, các đôi rời tay đứng ngây như những bóng ma chờ đợi, tên chủ nhà dạy khiêu vũ tập tễnh đi về phía bàn thấp đặt máy hát lom khom thay đĩa. Khúc nhạc cũ trở lại, tiếng phong cầm nhún nhảy, ba đôi kia lại tiến tới giáp mặt nhau để trơ một người đàn bà đứng xuôi tay ngơ ngác quay mặt về phía kèn hát. Tên giáo sư khiêu vũ lần này dìu người đàn ba đi xung quanh phòng, những bước dài hơn, tới chỗ An đứng, dừng lại nói: “Toi dắt giùm moi vài bước, moi ra ngoài.” Người đàn bà có lẽ lần đầu tiên nhảy với một người lạ, cảm động hồi hộp, bàn tay đặt sau lưng An bất định, bàn tay nắm cứng và run lạnh, hơi thở rõ như khoảng cách cưỡng chống. Thứ giống cái muôn đời, quanh co và điệu hãnh. Tên giáo sư đứng nghỉ ở chỗ An, châm thuốc hút trước khi ra khỏi phòng; hắn chậm chạp tập tễnh, lê chiếc chân ngắn đi trong hành lang, trong kẹt ngách, ngang qua sân trước cặp mắt của người thanh niên đọc sách, có lẽ đang bực dọc vì không khí ngưng đọng của buổi trưa mùa thu, đẩy cánh cửa gỗ vào nhà cầu; hắn bại thận, mỗi ngày hằng chục bận hắn phải đi qua sân trong bộ quần áo chải chuốt với dáng bệnh tật đáng thương và anh chàng thanh niên chăm chỉ kia nhìn những người ra vào lui tới qua lại trước mắt, trong ấy có cả mình, cũng thuộc loại thừa thãi như hắn. Người đàn bà vụng về lúng túng, bước khó khăn, không tuân theo kịp sự dẫn dắt, nhiều lúc xô chạm vào người khác. An nhìn thẳng trên mái tóc của người cặp đôi, không muốn trông mặt e người đàn bà ngượng ngùng; men theo vách tường trên dãy ghế đẩu đã thêm nhiều người, mỗi người ngồi thu kín cách biệt như những vệt bóng tối xẫm hơn trao đổi những câu nói như những tiếng động lỡ làng. Vào những nhịp cuối của bản nhạc, bước của người đàn bà đã thuần thục, An vẫn không nỡ nhìn mặt người cặp đôi và biết nàng đang ngửa mặt ngó mình; lỡ cúi xuống mà nhìn thấy Nga thì sao? Hết bài, An buông người đàn bà và lúc ấy mới trông vào vẻ mặt mờ ảo không rõ rệt của nàng, nói: Cô nhảy đã khá. Người đàn bà không đáp, lẳng lặng đi vào trong tối trên ghế ngồi, quơ tay mò cái túi để dưới chân ghế, rút khăn tay chấm chấm mồ hồi trán. An cũng ngồi xuống ghế bên cạnh, châm thuốc hút, nhìn cảnh tượng diễn trước mắt đang bắt đầu náo động hơn. Gian phòng mỗi lúc thêm kín mít, đông đảo, thêm nhiều tiếng chuyện trò và khói thuốc. An nghe người đàn bà nói: “Tôi chưa dám nhảy điệu này, chỉ sợ chóng mặt ngã mất”. An chưa kịp trả lời đã nghe phía sau tiếng kêu mừng rỡ đầy vẻ kịch quen quen: “A, Phúc. Phải Phúc không? Em cũng tới đây nữa à?” Người đàn bà bối rối như muốn lẩn tránh nhưng người đàn ông đã lách mau tới, đụng mạnh vào chân An, như sắp sửa ôm lấy người đàn bà. An nhận ra Lân, đứa bạn học cũ đã trở thành dân áp-phe trong thành phố, chạy động viên bằng cách vào làm trong Quân nhu Pháp và chuyên môn về các vụ thầu với quân đội viễn chinh, An quay mặt chỗ khác. Lân có vẻ biết nhiều về người đàn bà, xử dụng ngôn ngữ khá sỗ sàng với nàng và kéo nàng vào một nhịp paso nhộn nhịp; người đàn bà luống cuống bước hỗn loạn, mấy lần trượt chân loạng choạng, Lân cười thô lỗ thành tiếng. An ghé mời một cô gái đã quen, vẫn thường gặp ở chỗ tập này, có lẽ sau khi học xong một lớp cô được mượn luôn làm nhân viên phụ lực của phòng nhảy, được luyện tập tha hồ, đợi dịp bay nhảy, vừa có dịp tiếp xúc với các tai to mặt lớn. Ngoài Lân ra, An còn nhập được hai ba mặt quen: một tên bạn học đang tập sự luật sư, chắc sửa soạn tấp tểnh xin gia nhập xã hội thượng lưu, một người đàn bà cùng phố, biệt thự xế cửa, vợ một cựu tri huyện hiện là công chức cao cấp phủ Thủ-hiến… Người đàn bà, thường khoe thân thể trên ban công trong bộ quần áo ngủ mỏng những đêm mùa hè, An nằm trên giường trong phòng riêng có thể nhìn thấy nửa phần, nhảy một cách du dương nhập điệu, mặt mơ màng bay biến hết tinh thần, người đàn bà chỉ còn lại một thể chất uyển chuyển kiêu kỳ. An nghĩ: cái xã hội ấy còn để lại những người đàn bà… những người đàn bà như là sản phẩm tinh hoa…

Chiếc kèn hát nghỉ vài phút. Lân bắt gặp An trong hỗn độn nồng nực hiện nguyên hình của một cái hộp kín đã tắt mất âm điệu mê hoặc. Hắn huyên thuyên giới thiệu An và Phúc, kéo An ra khỏi căn buồng. Trời sáng bên ngoài cũng không thoáng sáng hơn trong buồng, màu giấy xám nhạt. Dãy nhà bên đường đều cửa đóng. Người thanh niên mặc chiếc sơ-mi rách, đã rời bàn làm việc, đứng tựa ở cổng nhìn cái ngõ vắng vẻ gần chiều.

– Lâu ghê mình không gặp nhau nhỉ? Tôi cứ định tìm anh mà không biết anh đi chơi lối nào. Anh hay đến đây hả? Chỗ này cũng được, nhưng chưa hay lắm… Bữa nào chúng mình đi chơi với nhau một bữa. Tôi biết một chỗ… khá hơn. Les filles… formidables. Hay chiều tối nay anh rỗi không? Hẹn nhau ở đâu đi… Có quen em Phúc lúc nãy không? Em… Anh có thích không? Trông em như mệnh phụ vậy mà… một bò thôi. Ngoan, biết chiều chuộng, giàu tình cảm. Nhất là nếu anh thích lãng mạn, có thể… gratuit. Mình đi ra đầu phố uống cà-phê rồi trở lại. Đi. Cà-phê chỗ này cũng không dở…

Từ trong buồng nhảy vẳng ra một điệu cải cách, thê lương và rét mướt, theo đuổi tới tận ngã ba phố. An nghĩ: không hiểu hắn muốn gì? Cái nơ đỏ chấm đen thắt trên cái cổ gầy của Lân, cúc măng-sét vàng ánh, đôi môi vều thô kệch, đôi giầy hai màu mũi nhọn.

– Hai phin đặc biệt. Những buổi như hôm nay mà được cốc cà-phê ngon nghĩ cũng sướng. Nhớ hồi xưa đi học, cứ phải ăn cắp tiền mà đi thuê truyện đọc mà buồn cười. Vô tư thật, chẳng phải lo cái quái gì. Bây giờ lắm lúc muốn được sống như thế mà không được. Anh có bị gọi không?… À, mà anh thì lo gì, còn ông cụ… Nghe đâu ông cụ kỳ này ra. Nói thật chứ, ông cụ làm chắc chắn là phải hơn… cái bọn… Thời này được người như ông cụ hiếm lắm. Tôi nói thật đấy… Không phải vì quen anh đâu… Bà cụ vẫn mạnh hả? Hôm nọ tôi gặp bà cụ ở Tràng-tiền, bà cụ trẻ dai ghê. Bà cụ không nhớ ra tôi, tôi phải nhắc mãi. Cô Nga vẫn đi học Félix Faure? Anh là sướng nhất thấy mà thèm. Chỉ như tôi, tự lực cánh sinh quá mệt. Bây giờ tôi cố gắng kiếm ít tiền, gây lấy cơ sở rồi tìm công việc nhàn hạ cho đỡ mệt. Cứ cả ngày lo tiền thấy cũng bần… phải không anh? Thấy các anh sống một cách lý tưởng cũng thẹn chứ… Nhưng các anh lý tưởng chứ tôi mà lý tưởng thì chết không kịp ngáp.

Lân từ tốn nâng hai cái phin ra khỏi tách, trịnh trọng rót nước nóng từ phích vào và đưa cho An. Quả tình mình bị buộc chặt vào ông bố, trước mắt mọi người tôi không là An, tôi là con ông bác sĩ Phát, chính khách quốc gia. Không ai nhìn thấy tôi, trừ bạn bè, nhưng… Lân cũng là một thứ bạn, hắn nhận và mình cũng nhận.

– Anh thấy không… cái mùi bơ của nó dậy đấy chứ… Tuy không bằng Nhân nhưng không đến nỗi dở quá… Tối nay mình đi chơi với nhau chứ. Hẹn ở đâu nào? Nghĩ ngợi gì… Hẹn ở đâu? Anh có việc gì bận lắm đâu. Nếu thích mình đến rủ em Phúc cùng đi. Sau bữa cơm đi. Nếu tôi không bận hẹn trước một áp-phe thì tôi tính mời anh đi ăn cơ đấy. Mình hẹn nhau ở Phúc Châu nhá. Tối nay hơi lạnh, uống ấm trà Long Tỉnh cũng hay. Rồi mình sẽ cùng xuống Phúc. Phúc được lắm, anh có thể… Anh nghe tình hình thế nào? Liệu rồi đi đến đâu, có thể quốc tế hóa không? Quốc tế hóa cũng hay. Chứ sống với mấy ông Vẹm, ăn khoai lang, đi dân công thì thật là chết. Làm thế nào mà có thì giờ uống cà-phê như thế này… Tiểu tư sản sướng chứ. Vô sản mê thì có mê nhưng không nuốt trôi…

Lân móc hộp thuốc ba con 5 mời, châm lửa cho An. An nhả khói, lơ đãng nhìn những người qua lại ngoài hè. Đường phố nắng lim dim. Dường như đâu xa trong mình thấp thoáng mọc lên một ý tưởng, chưa lộ hình rõ và những nhịp thúc đẩy vỗ về khởi động.

– … Làm sao có thuốc thơm như thế này mà hút. Hương vị 555 anh có thấy vừa hơn Lucky không? Cà-phê đã đậm mà hút Lucky cũng đậm nên cả hai vị khắc nhau… 555 mới làm nổi vị cà-phê hả… Cotab cũng được, đối với thuốc lá của mình là nhất đấy… Ngoài hậu phương có được điếu Cotab đã quá sang… Tư sản rõ ràng… không chối cãi… Bây giờ mà du di cái khung cảnh này ra hậu phương thì mình là tiên… Phản động không chối cãi… Nói gì thì nói… nghĩ cho cùng con người ta tranh đấu để làm gì? Cũng chỉ là ăn ngon, mặc đẹp, nhàn hạ… Cứ trường kỳ gian khổ đời này sang đời khác chịu thế nào nổi… Phải không anh?

An mỉm cười, tôi bị vây hãm hoàn toàn. Có một lối thoát thân nào chăng? Mù mịt như là bị bưng kín mắt, những khi đối diện với chúng bạn ít nhất còn thấy sự bế tắc như một nhịp vận động chưa tới đích, còn nhìn rõ nhưng khi đối diện với cảnh ngộ mình thì như trước một bức tường hủi loang lở. Lân trả tiền, mời đứng dậy. Bờ hè thoải dốc, dẫn trở lại ngõ Hội-vũ êm tĩnh với dãy nhà vẫn giấu kín sinh hoạt riêng tư. Người thanh niên không còn đứng ngoài cổng, hắn tự nhốt mình trong buồng hẹp sau bàn viết, cặp mắt mở lớn nhìn lên theo đuổi tâm tư. Lại nghe nổi một khúc tango, La Cumparsita.

Cảnh trả hai đồng, cầm lấy ba điếu thuốc lẻ, mượn diêm đốt. Đồng hay riễu: “Cậu hút thuốc phí của giời… Chưa hút vào đã nhả khói ra khỏi miệng… Phải gọi là đốt thuốc, trông sốt cả ruột. Không biết hút thì để cho mấy thằng nghiện này hút…” Bên hè đường, ngang nhà Khai Trí Tiến Đức, một vài người dừng xe đạp nghe tin tức và âm nhạc buổi chiều trỗi từ loa phóng thanh. Trọng không biết hút thuốc, anh dương cặp mắt cận thị sau cặp kính vừa đi vừa nhìn vào miệng ngậm thuốc khiến Cảnh mất tự nhiên. Hai điếu thuốc thừa vẫn cầm trên tay, Cảnh đưa mời:

– Anh hút không?… cho ấm…

Trọng lắc đầu, quay mặt đi, sửa lại cặp kính, nhấc xuống rút khăn lau rồi lại đeo lên. Cảnh nhét hai điếu thuốc vào túi quần, nếu Đồng gặp mua thuốc hắn sẽ cười hố lên chế nhạo. Bên kia bờ hồ, mạn nhà bưu điện, vườn hoa, tòa thị chính, đông đúc hơn.

– Bao giờ thì cậu xuống được?

– Đầu tháng.

– Nếu chẳng có việc gì quan trọng thì cậu xuống dưới nằm cho yên thân.

Trọng nhìn Cảnh hỏi han. Cảnh đút hai tay vào sâu túi quần co rút vai lên cao, tôi sẽ bỏ đi chưa biết ngày nào và tôi không thể nói cho anh hay. Phản phúc, thằng Cảnh phản phúc, Trọng sẽ nói như đã buộc tội Hòa lúc nãy. Cảnh không nỡ bảo Trọng: “Chúng ta không làm được gì hết… không làm được gì hết đâu”. Nhưng chính mình một buổi tối, sau khi thư viện đóng cửa đi bộ với Thạch quanh Bờ Hồ đã nói: Muốn làm nên việc gì, không thể đơn thân, phải có anh em; tôi sống được ở Hà-nội, đi học được khỏi lo lắng một phần là nhờ sự giúp đỡ của một số anh em khác, họ đi dạy học, gửi tiền hàng tháng trợ cấp cho tôi; chúng tôi luân phiên nhau, tôi học xong đến lượt người khác… Tôi thất vọng. “Nó trả ơn tôi như thế đó. Thật là xấu hổ, xấu hổ”. Cảnh liếc Trọng, anh có những cử động bứt rứt nóng nảy, có lẽ anh không hài lòng về thái độ hững hờ thiếu sốt sắng của tôi về việc xảy ra giữa anh và Hòa. Tôi thất vọng, tôi có lý.

– Cậu nghĩ tôi học Văn khoa có nên không?

– Cũng được… nhưng tôi thấy cũng chẳng bổ ích gì lắm.

– Học lâu tôi không có kiên nhẫn. Khoa học thì tôi không có khả năng như cậu. Rốt cuộc chỉ có Văn-khoa là tiện. Thì giờ rảnh rỗi mình học thêm. Cậu nghĩ thế nào? Với tôi cũng cần ở Hà-nội ít nhất một năm, cậu xuống dưới thay tôi…

Cảnh dừng lại trước một tủ kính bầy tranh và tách ở góc phố, Trọng mải đọc tên sách bỏ quên câu chuyện dở dang. Chắc chắn là phải đi không thể dùng dằng. Trước sau cũng thế, không thể khác hơn được… Sự kết hợp giữa mình và Trọng thuần tình cảm, chẳng có nghĩa lý gì. Ý nghĩa lịch sử không thể tìm thấy bằng tình cảm. Sự xích mích giữa Hòa và Trọng phơi trần sự giả tạo của sự tập hợp. Sẽ nói cho Trọng hiểu trước khi chắc chắn ngày lên đường. Cách vài hôm trước, Hòa cũng có lên gặp Cảnh và cũng đã nói: Tôi thuê nhà riêng không thể ở chung được nữa, hèn hạ đến độ ấy, không thể sống chung với nhau được; anh phải nhớ chúng ta không phải một Đảng mà có là Đảng nữa thì chỉ có Đảng Cộng-sản mới xâm phạm đến tự do cá nhân như thế mà thôi, chúng ta chỉ mới ước hẹn và chúng ta chưa hành động gì hết… Hết, hết, đúng, không có gì hết.

– Có phải ông Đức ở khu Tư mới trốn ra không? Cậu đã gặp chưa?

– Tôi cũng có nghe. Chưa được gặp.

– Để tôi hỏi thăm. Chúng mình đến nói chuyện chơi xem có gì lạ.

Cảnh sờ hai điếu thuốc đã nhầu cong trong túi quần và nghĩ thương hại Trọng. Anh vẫn ngây thơ chất phác như ngày nào, theo đuổi ảo mộng, như ngày nào tháng tám anh cầm đầu dân làng đi thuyền lên tỉnh để cướp chính quyền; đến tối đoàn thuyền trở về dong đuốc như sao trên một vùng nước lụt mênh mông không thấy đất trời và anh đứng đầu cầm cây súng cướp được như vị anh hùng… Cái giấc mộng Trốt-kýt của anh thật tội nghiệp, không quần chúng anh hùng hóa thành hề múa rối. Không hút thuốc, không cờ bạc, không rượu chè, không vợ con, khắc khổ hơn cả nhà tu. Để làm gì? Mái tóc Trọng rũ xuống bên trán, trông anh cô độc hoàn toàn, mỗi lần anh cười nhếch môi, mắt anh bé lại như biến mất đi, mặt nhăn nhó chẳng khác gì mếu.

– Mình nghĩ cũng buồn. Anh em có mấy người mà chia rẽ còn trông mong làm được gì. Chuyện không xứng đáng… cậu nghĩ xem. Không xứng đáng. Tôi xấu hổ lắm. Thế chẳng hóa ra là mình là những tên dụ dỗ bọn học trò con gái để… Tôi cũng quý Thư… đứa con gái như nó thật hiếm có… Trong cả bọn nữ sinh lui tới, chỉ có Thư là đặc biệt… Vậy mà Hòa nó làm… không còn mặt mũi nào mà nhìn người khác nữa… người ta đánh giá bọn mình thế nào, cậu nghĩ xem? Khốn nạn… phản phúc… cậu xem nó mở miệng nói là tôi ghen với nó… Tôi ghen với nó, học trò mến phục nó và tôi ghen với nó, nó nói như thế trước mặt mọi người giữa phòng giáo sư. Nó dọn đi ở chỗ khác rồi và chắc là nó phải lấy… Lấy vợ… rồi nó hết, không trông đợi được gì hơn… Cậu biết là tôi chỉ trông mong vào các cậu… tôi tình nguyện dạy như con trâu là để giúp đỡ các cậu… trông vào cái lý tưởng chung. Nó làm như thế là nó phá hoại tình anh em, phá hoại cái mục đích chung… Bây giờ nó nghĩ nó có thể sống được một mình và nó bất cần ai… Hèn, như thế là hèn…

Tiếng nói của Trọng lẫn giữa tiếng máy kem chạy sình sình. Bàn ghế thấp sơn màu xanh. Trên tường, ảnh một ngôi nhà gỗ mái phủ tuyết trắng, chênh vênh trên một sườn đồi vắng, lồng trong khung kính. Người thiếu nữ ngồi sau quầy thu tiền gõ gõ chiếc bút chì buộc vào một sợi giây. Khu chợ Hôm náo nhiệt. Đi hết con phố chính này chuyến tàu điện chạy ra đến chợ Bưởi, Cảnh nhớ đến ngôi chùa thanh vắng năm mới hồi cư đã ở nhờ trọ học. Có nên nói ý định với Trọng không? Không nên để anh tin tưởng quá nhiều. Phản phúc, phản phúc. Anh sẽ thất vọng tới độ nào. Câu chuyện tan vỡ trước sau phải tới, mọi sự xảy ra chỉ là những dịp thuận tiện… Người ra không thể kết hợp với nhau bằng một giấc mộng trừ khi cùng mê sảng.

– Cứ như tình trạng anh với Hòa, tôi xuống dưới ấy cũng…

– Còn Đăng chứ. Cậu cứ hỏi Đăng sẽ rõ hết. Cậu ở với Đăng được mà. Thật ra nếu không có chuyện này tôi định cố năm nữa để cậu học cho xong chứng chỉ cuối. Bây giờ… thì cậu chịu khó thay tôi…

– Tôi có thể kiếm được việc ở trên này, anh khỏi lo.

– Vấn đề không phải là tiền… Còn vấn đề gây dựng cơ sở, Hà-nội không phải chỗ hoạt động, cần có quần chúng và nên về nơi có quần chúng thật sự… Cậu nghĩ xem?

Một đám con gái diễu qua ngoài hè khoe quần áo mới và những tiếng cười nói ríu rít, có lẽ vừa từ một rạp chiếu bóng ra. Mấy năm về Hà-nội, Cảnh chỉ bước vào rạp ciné vài ba lần cùng bọn Đồng.

– Một hai năm nữa là cùng, tình hình sẽ thay đổi. Chỉ sợ lúc ấy mình theo không kịp… không thể nào mãi như thế này được đâu… Chiến tranh rồi phải dứt như ở Cao-ly vậy… lúc ấy cái chỗ đứng của mình lại càng khó khăn gấp bội.

Tôi đã thay đổi, tôi đã quyết định. Không thể đứng trong hàng ngũ này, cũng không thể đứng trong chân không. Tôi phải chọn cái tối thiểu. Tôi không nhiều sức mơ mộng như anh. Hơn nữa tôi cần kinh nghiệm, sau có thể tính lại, phải, kinh nghiệm, tôi hãy còn trẻ. Phải gột cái óc lãnh tụ tiểu tư sản, anh hiểu thế không? Thạch không có cái óc ấy… nhưng… hắn anarchiste, anarchiste. Đêm nay mình sẽ phải thanh toán vấn đề với anh.

– Tối nay anh có về ngủ không?

– Có lẽ muộn. Tôi phải đi thăm mấy người…

– Ai?

– Mấy chỗ quen mới hồi cư – Chắc là họ sẽ biết ông Đức ở đâu.

Cái ngã tư sáng ra hơn vì hàng cây đứt quãng để hở một khoảng trời. Cách đó trăm thước là ngõ hẻm nhà Hương. Cuối con đường là bức tường ga hàng Cỏ, sát hè trước ngõ một chiếc xe nhà binh bỏ không; “anh cứ thong thả, chỉ sợ đến ngày anh lại duỗi ra thì tôi ê mặt… hay được vài tháng không chịu nổi kham khổ lại tếch về…” Hương có bộ mặt gái già khô khan lạnh nhạt, ngồi giữa những đồ vật cũ kỹ đen bóng, “không phải tôi đâu, tôi sẽ giới thiệu hộ anh một cô bạn… cô ấy sẽ bắt liên lạc cho anh…” Ngõ đất vắng, trải lá rụng, nhà Hương khuất ở cuối dãy. Tôi sẽ đến nơi nào? Không biết. Trọng rút khăn tay hỉ mũi:

– Mình đi kiếm cái gì ăn rồi tôi đi… Tối cậu để cửa cho tôi.

Trong bồn thủy tinh, những con cá vàng bơi lội lượn lời giữa những cụm rêu buông xòe, đuôi và vây giương thẳng, những con mắt trương lồi, sau cái bồn thập thò một mái tóc Nhật-bản của một đứa bé gái ngồi chung quầy với mẹ thu tiền. Ồn ào như một khu chợ. Trên các mặt bàn, la liệt các loại đĩa bánh, ấm tách. Cách một bức tường có khoét một vòng nguyệt và một khung cửa nhỏ thứ hai để đặt quầy thu tiền, phòng trong cũng chật ních, người ta ngồi thấp đấu lưng với nhau. Ngoài cửa, một vùng sáng nê-ông của hiệu cắt một khoảng của cái ngõ khai ẩm quanh năm, hai đầu đều vang nhịp trống của rạp hát mời gọi, tiếng ó é rọ rẹ thỉnh thoảng rít lên thật sắc của những chiếc loa quảng cáo trộn lẫn. Phía sau lưng bàn tán chuyện động viên, các tuy-ô chạy chọt, ông bác sĩ phụ trách khám sức khỏe có hàng hộp vàng gửi ở ngân hàng, biện pháp mạnh: xe cảnh sát đón bắt thanh niên tại các cửa rạp chiếu bóng, tại các ngã tư chính; kết luận: không nên đi chơi tối và cần phải tinh mắt để tìm đường mà lẩn. Một thanh niên cười vang đắc ý khoe cái thành tích đã chạy thoát khỏi một cuộc săn đuổi của cảnh sát trong khu vực rạp Ciro’s, leo tường vào một nhà Tây và phải năn nỉ mãi thằng Tây mới để cho đi không gọi cảnh binh đến, “hắn tưởng mình là ăn trộm”.

Lân vừa lách mình qua các hàng lưng người vừa giơ tay vẫy, miệng cười nhăn nhở, hắn mặc thêm một chiếc áo vét-tông cài cúc chéo; lấy khăn tay phủi ghế, khi ngồi xuống đùi khép thẳng và kéo cao ống quần lên giữ nếp, đôi bí tất đen đỏ đan lẫn.

– Anh chờ tôi lâu không?… Xin lỗi… Thằng cha nói chuyện cà kê dê ngỗng khiếp… Anh chưa gọi gì hả? Cái bỏng này tuyệt lắm nhé… Anh có biết thằng Tình không nhỉ? Tình con cụ Phán Chấn, anh rể thằng Long làm ở phủ Thủ-hiến ấy… Tôi vừa đi với nó xong đấy. Nó vừa tậu cái ô-tô khá ra phết… May ghê, tôi chưa thấy ai gặp may như nó. Năm ngoái nó mới về, vậy mà mới một năm nó đã thành Thổ-công Hà-nội. Nó làm tiền cũng giỏi, tôi phục nó… Anh có biết thằng Lý học thuốc không nhỉ? Thằng ấy cũng là cây làm tiền. Ít người được như anh. Thời này hiếm có người được như anh…

An nhai nghiền ngẫm miếng bỏng mật dẻo và tự hỏi tại sao mình cứ chịu đựng được những câu chuyện vô vị, chướng tai mà không nổi giận báng bổ như Thạch. Tại sao mình vẫn cứ ngồi giáp mặt với những điều mình ghét bỏ, khinh khi? Không dứt được chăng?

– … Tôi nghĩ dù lý tưởng thế nào cũng phải có tiền. Muốn làm gì cũng phải có tiền. Anh đừng nên lý tưởng quá. Kỳ này có tin chắc chắn ông cụ ra. Anh nên nhân cơ hội làm một vài áp-phe. Có tiền anh mới làm được việc theo ý thích của anh. Tôi sẽ làm chân chạy mối cho anh. Anh nghĩ sao? Anh nhớ rằng anh không làm thằng khác nó cũng làm. Tiền vào anh còn có ích hơn người khác vì anh không ham tiền. Tôi đã nói với anh mục đích của tôi cốt làm tiền để dựng cơ sở để làm việc cho nhàn nhã… Anh nghĩ lại xem? Tôi không dám khuyên anh làm bậy đâu. Ngay chính tôi, tôi cũng chẳng bao giờ dám làm tiền một cách vô nhân đạo, vô liêm sỉ đâu. Ít nhất mình cũng phải giữ một chút nữa… Anh yên chí, tôi sẽ đề nghị với anh những áp-phe dễ dàng, hợp lý, hợp pháp. Tôi không hại anh đâu, tôi muốn giúp anh…

An chỉ đáp: Để xem đã, tôi có biết mô tê mù tịt gì. Nói xong An giận mình vô kể, đáng lý tôi phải nói: im đi, câm cái miệng lại, tôi không ngửi được câu chuyện của anh, hoặc xô ghế đứng lên bỏ ra ngoài. Nhưng tôi sẽ đi đâu tối nay? Trở về nhà, nhốt mình vào phòng riêng đọc sách. Xách xe chạy lên nhà Cảnh để nhìn bộ mặt lầm lì khó chịu của nó, không có Đồng và Thạch tôi không biết nói chuyện gì với Cảnh. Lần mò xuống nhà Đồng, đi qua những đường hoang vắng khuya khoắt những quán rượu ngoại ô ầm ĩ với bọn lính say lảo đảo nghiêng ngả giữa đường, để ngồi im giữa vùng tĩnh mịch của làng xóm, trong gian nhà rộng thiếu sinh khí. An nghe mặt mình đỏ dần vì sự hổ thẹn cháy ngầm lan chậm.

– … Bây giờ chúng mình đi… Anh có đồng ý xuống em Phúc không nào. Hơi xa cơ đấy. Kiếm xe đi mới được…

An nằm duỗi dài trên chiếc xích-lô dập dềnh, ngước nhìn những đám lá tối, dấu cách quãng những bóng điện thành phố, trôi giữa những phố lúc rộng lúc hẹp im vắng dần dần. Một giấc cafard dài, dưới bầu trời như đen đặc lại vì lạnh. Bước xuống xe, An đứng ở gần cuối một con phố ngắn rộng nhưng không lót nhựa đằng sau nhà Rượu trước một vòm cổng lớn tối. Qua khỏi vòm cổng không có ánh sáng nhưng cũng có thể biết là rác rưởi, An lạc vào một thế giới kỳ lạ. Một cái sân rất rộng với hồ nước nằm giữa bao la mặt bằng hai tầng dãy buồng cái sáng cái tối, nhiều người đang giặt giũ giữa sân. Ít nhất phải cả trăm gia đình tá túc trong ngôi nhà rộng, kiến trúc đặc biệt này. Tầng gác có hai cầu thang chung đặt ở hai góc, một bao lơn nhỏ hẹp chạy suốt với hàng lan can sắt nhiều chỗ ngả nghiêng chênh vênh như sắp đổ. Cầu thang ẩm, khai nồng, gian buồng của Phúc ngay đầu cầu thang bước lên. Phúc đang ngồi nói chuyện với một người đàn bà khác, trên lòng ôm một đứa con trai chừng hai ba tuổi và có vẻ ngượng nghịu khi nhận ra An. Lân ngó khắp buồng như tìm tòi một vật gì và hỏi Phúc bằng giọng thân mật bông lơn, nhìn mặt Phúc An thấy rõ vẻ miễn cưỡng khi đối đáp. Người đàn bà rút lui, Phúc cũng đứng lên bồng đứa con trai đi ra ngoài bỏ mặc hai người đàn ông trong buồng. Lân đứng chống nạnh nhìn ngang ngửa bảo:

– Anh ngồi xuống đi đứng làm gì cho mỏi chân. Thế nào? Anh có thích không? Đừng làm khách, tôi quen thuộc quá rồi. Cứ yên tâm, tôi lo liệu cho cả… Hả. Bằng lòng không?

Phúc trở vào một mình nói: hai anh ngồi chơi, đi vào sau tấm màn, hình như nàng chải tóc. Lân thì thào:

– Thế nào? Anh quyết định thế nào? Yên chí, tôi sau. Có món khác rồi. Phúc ơi, ra đây ngồi chơi. Anh giới thiệu bạn anh: anh An, luật sư tương lai đấy. Tiếp bạn anh cho cẩn thận, anh ấy mà chê là em hỏng kiểu. Nghe không? Ai lúc nãy đấy? Xong giới thiệu anh được không?

Phúc đã qua cơn bối rối lúc đầu, nhíu mày:

– Đừng nhảm, ông. Người ta đã có chồng đàng hoàng…

– Ai dám bảo các bà không có chồng đàng hoàng đâu… Đừng đổ tiếng ác cho người ta. Người ta chỉ xin giao thiệp chốc lát…

An nhìn chăm chú bức ảnh 18 × 24 của Phúc treo trên tường chụp ít nhất cũng đã cách vài ba năm. Phúc bây giờ trông thuần và chín hơn, vào lúc tuổi không thể xác định được.

– Anh qua bên bà cụ nằm chơi…

– Cô cứ đầu độc tôi mãi, có ngày tôi nghiện thật là chết tôi. Anh ở đây nhé, tôi qua bên cạnh… Hay có thích thử vài điếu cho biết mùi đời không? – Lân ghé sát tai – Trông cái mặt ông ngẩn ngơ như mất hồn, coi chừng ông bị em chài chết.

Phúc đưa Lân ra cửa, Lân thì thào với Phúc vài câu trước khi cất tiếng cười bỏ đi, Phúc khóa cửa lại. An vẫn ngồi im trên ghế từ lúc vào. Phúc liếc nhìn vào mặt An rồi đi thẳng vào trong, đây đâu phải lần đầu giao tiếp với đàn bà tại sao lặng thinh buồn bã một cách kỳ quặc. Sự nín lặng khó thở làm nghe rõ những tiếng rào rào dưới sân và trong khắp khu nhà rộng, tiếng động sau tấm màn hoa dầy. Cái bóng đèn treo trên đầu An tắt và An ngồi trong bóng mờ được soi bởi một ngọn đèn ngủ nhỏ ở sau màn. Phúc đi ra, đôi dép cao su lê nhẹ, vẫn trong chiếc áo cánh trắng và chiếc quần đen hiền thục, thong thả ngồi xuống ghế đối diện. Quay lưng với ánh sáng yếu, mặt Phúc chìm vào trong tối trông như giấc ngủ của một pho tượng điêu khắc. Tại sao Phúc cũng không nói gì? Có cái gì là ngượng ngập nữa đâu? Mọi cử động đều đơn giản và tiên liệu được. Mọi người ở bên ngoài nhìn lên cửa buồng này đều rõ hết cảnh bên trong, chuyện thường. An buông người ngả lưng, nhìn lên trần, nghe các thớ thịt dãn ra và đưa tay vẫy. Phúc đi đến, ngồi lên tay ghế, An thấy khuôn mặt trên cao nhìn xuống với những nét ngang mỏng và mềm. An với cánh tay đang giơ, và đụng xổ mái tóc của Phúc, mái tóc dài rơi vào lòng An và mùi nước hoa quen đã ngửi buổi chiều trong phòng nhảy.

– Tóc dài quá. Em định cắt, uốn đi mà tiếc mãi. Khi nào đi làm chắc là phải uốn.

Phúc đưa tay vấn lại đầu tóc và An giữ bàn tay lại không cho An vuốt mái tóc hơi ướt và nhám và nghĩ mình không nên nghĩ gì cả. Nhưng tức khắc nhớ tới cái vẻ mặt gân guốc khi Thạch bướng bỉnh cãi với Cảnh: “Gái điếm ấy à… cũng có thể coi như những nhà cách mạng. Này nhé… ôm ấp yêu thương hết mọi người mà chẳng yêu ai thực hết. Chỉ cái thói quen phải hành động như thế. Sống chui rúc, bí mật và bị xã hội hắt hủi. Mong một tương lai chẳng bao giờ thấy tới”. An bật cười thầm một mình, nghe hơi thờ phì phà bay xuống, mặt người đàn bà kín như một chiếc mặt nạ lơ lửng giữa không trung.

– Con em hả?

– Anh vào nằm nghỉ cho đỡ mệt.

An đứng lên và đỡ ngang lưng người đàn bà, nàng mềm như không thể bước nổi một mình. Dưới chân cái giường lớn là cái giường sắt nhỏ của trẻ con có đặt chiếc gối ôm xinh xinh. An buông lưng người đàn bà, nằm vật lên nệm, nhắm nghiền mắt. Khi mở mắt người đàn bà mỉm cười thuần hậu, cúi xuống cởi giầy, tóc nàng xõa gần chấm đất. An muốn nằm mãi ở đây, cho hết đêm nay, nhưng biết không thể được. An biết mình sẽ vầy vọc mái tóc, khuôn mặt kia thân thể kia như một đứa trẻ tinh nghịch. Mau lên, mau lên. Tiếng giầy đụng mạnh vào chiếc giường sắt. Suỵt. Phúc đặt mình nằm xuống bên cạnh, bỗng dưng tiếng động bên ngoài lắng xuống, như rớt xuống dưới thấp xa, gian buồng ấm áp ở trên một đỉnh cao tít…

CHƯƠNG II

Ngoài phố lá đổ rào một cơn như buổi chiều muốn qua mau, những đỉnh cây cao vẫn um xanh. Lối đi cát sạn rào rạo giữa những gốc cây thấp, lá to dầy. Phòng thí nghiệm khoa học, cửa kính chùi sạch bóng, dấu điện bật sớm, nhiều sinh viên chăm chú làm việc. Tiếng bóng nỉ nảy bật vang khô, một đôi đang giao đấu trên sân quần tráng xi-măng, sân sát bên bỏ vắng. Đồng đi đến ngồi trên mặt trụ gạch dưới lối vòng dẫn lên tòa nhà chính, quay mặt nhìn sân quần. Hai bóng trắng chạy ngang dọc đuổi theo quả bóng, những câu đối đáp mất hút trong không khí kín heo may. Một lớp học tan. Tiếng bước chạy xuống các bực thang gạch, tiếng chuyện trò âm vang trong vòm cao giữa giảng đường và thư viện trường Luật. Phố hàng Cỏ đang chạy thẳng dài trong lối cây xẫm đuổi theo buổi chiều sao sác, một chốc nữa mệt mỏi chậm chạp trở lại theo bóng đêm cùng ánh điện đường thắp từng loạt nối tiếp. Nhiều người đi vòng xuống sân lấy xe ra về, những cái lưng lom khom trong các bờ góc tường. Đồng mỉm cười, đưa tay vẫy một vài đứa quen, không rời chỗ ngồi. Ê, Đồng, năm nay cũng đi cours hả? Oui. Đâu? Văn-khoa. Đồng chỉ xuống dãy nhà ngang lụp xụp, lấp sau hàng cây, những phòng học nửa tường lát đá men trắng, còn để nguyên những rãnh nước rữa, và nhăn mặt riễu cợt. Các lớp học tan họp biệt lập lẻ tẻ, bỏ trống hằng giờ cái khung cảnh hiu quạnh của khu vườn dài. Đồng ơi. Đồng. Đồng giơ cao tay đáp người bạn đứng xa tít trong hàng hiên tối của dãy Văn-khoa vẫy gọi. Không vào học đến đây làm gì? Năm học đã bắt đầu như nỗi chán chường ủ ê, cả tuần lễ không thấy Cảnh cũng như An xuất hiện. Có gì xảy đến? Trên sân quần, hai đấu thủ đã nghỉ, đang thu dọn vật dụng vào sắc tay. Tấm lưới sắt cao ở cuối sân cây leo chằng chịt. Hai hàng chụp đèn sơn màu hắc ín lắc lư trên một nền trời gió. Tiếng giảng bài lẩn khuất. Dưới gốc cây gạo trụi gần hết lá, chiếc xe đạp của Đồng dựng nghiêng đã trượt đổ từ bao giờ. Đồng húng hắng ho vài tiếng như lập lại một thói quen bỏ quên lâu, đứng lên lững thững xuống chỗ dựng xe.

Đồng dắt xe, đi chân trên hè vắng, không mục đích. Bây giờ chỉ khoảng bảy giờ, trời tối nhanh, điện đường đang bật lên lạc lõng trong ánh sáng màu nhôm hoen của chiều. Nỗi trống trải hắt hiu. Mọi sự vật đều toàn vẹn, thế giới kín mít đầy đủ. Cơn sốt đến rất nhẹ, rồi rút đi, làm nóng hơi thở ngoài đầu mũi. Có thể bị rechute. Cũng chẳng có gì khác, thế thôi. Đồng tựa xe đạp vào mình, tìm thuốc trong túi. Que diêm xòe lên, bụm trong lòng hai bàn tay khum, ngọn lửa sáng lung lay. Gió rào rào trên những chòm cây chạy dài. Mùa đông có thể đến bất chợt lúc nào trong một ngày tới. Nhà thắp đèn, mẹ ngồi ăn với u già nhỏ nhẹ như những con mèo bên cái lồng bàn úp phần để dành. Im tiếng hết âm điệu của những câu thơ chen chúc chưa thành hình… Trước mặt, đôi tình nhân khoác vai chụm đầu, đếm bước thủ thỉ. Người thiếu nữ cười khẽ như một vật rơi không… Tình yêu không chia xẻ được, ích kỷ, như một tội lỗi, như sự ngoảnh mặt vào mình… Ngoảnh mặt với bè bạn. Hơn gì, khi tôi chỉ có thể đứng ngoài nhìn người khác như nhìn mình, nhìn với ảo giác thông cảm: mình đang cùng sống những nhịp điệu hiện sinh của kẻ khác… Đồng dắt xe xuống đường, nhảy lên yên đạp đến nhà Cảnh. Gian nhà mở ngỏ ngày đêm, hai cánh cổng đã long hư khó đẩy đóng. Lối vào rộng đi qua những cửa sổ của tầng dưới, chỗ ở của gia đình chủ trương chật chội và kiểu cách, vòng rào sân sau chật ních người trong bếp và quanh bể nước. Cầu thang tối kín, hầm hơi. Cảnh vắng nhà. Đồng đứng tần ngần trước cửa buồng đóng. Buồng gác chính bên cạnh, người ta đang ăn cơm chiều, tiếng bát đĩa xô động, mùi cơm nóng bay phất. Đồng trở xuống thang gác, thất vọng. Rồi đến một ngày, chúng nó bỏ đi hết. Và tôi, vẫn bệnh hoạn mơ mộng. Cũng đến thế thôi. Đồng cười khì như có Thạch trước mặt. Ghé hàng cơm tháng, cũng không gặp Cảnh. Đồng bâng khuâng đạp xe dọc theo phố hàng Bông, giữa những cửa hiệu sáng, không thấy đói, chỉ nghe mệt một cách êm ái. Giờ này có lẽ Nga ngồi ở phòng khách sau bữa cơm với mẹ và An, nàng dạo những hòa âm trên dương cầm, đứng tựa cửa sổ phòng riêng nhìn những đám lá trong vườn khép ngủ và con phố uốn vòng vắng ngắt dưới ánh điện nghe gió thổi từ mạn đê cao vào thành phố trên những mái nhà. Cô đơn trong một gian buồng ấm. Ông Phát đã ra làm bộ trưởng. Và Nga… Đồng chưa gặp Nga, nhưng nghĩ rồi cũng như Hà và Phương, Nga sẽ không bao giờ thuộc về mình. Chân vẫn đạp đều, Đồng ngoảnh mặt nhìn vào các cửa hàng sáng trưng vắng vẻ, trên các bờ hè đám đông của những chiều mùa hạ cũng đã tản. Về đến phố Quan-thánh, Đồng đạp xe nhiều lúc một mình giữa đường nghe gió thổi ù hai bên tai. Ngang qua biệt thự của gia đình An, Đồng ngửng trông khung cửa sổ sáng dịu lấp sau những đám lá, buông chân mặc xe lăn theo đà. Gió thổi lộng trên hồ Tây, trong vườn Bách-thảo, khu Biệt-điện. Bên trong hàng rào trường Bưởi, những mặt tối đen kêu gọi la hét inh ỏi cho đỡ buồn. Các quán rượu ngoại ô, đèn xanh trơ trẽn. Đồng dắt xe đi trên ngõ gạch vào nhà, không có ánh sáng soi lối, hít mùi hương những bụi cỏ rậm, nghe những nhịp nổ âm đều đặn của đại bác vọng từ bên kia bờ sông Cái, cách con đê, mặt hồ Tây ở chỗ lớn rộng nhất.

Trinh ngồi khuất sau mấy bao gạo, đan áo, đứng lên tay vẫn không ngừng nghỉ:

– Lâu không thấy anh lại chơi.

Cảnh hỏi: Cậu có nhà không? bước qua đống than vụn. Trinh thò mặt vào buồng trong gọi: Thưa cậu, anh Cảnh đến… Ông Trương nằm trên ghế xích-đu, đọc báo, miệng phì phà ống píp. Cảnh đến ngồi trên chiếc ghế đẩu, cạnh bàn nước: Cậu vẫn thường. Ông Trương gõ gõ ống nõ vào chân ghế, hơi ngồi dậy hỏi: Bây giờ con làm gì? Vẫn đi học chứ. Trên trang nhất tờ báo ông Trương đang cầm có in một bức ảnh ông Phát, Cảnh hỏi mượn tờ báo nhìn ngắm. Lần đầu tiên mới biết mặt bố của An. Có bị gọi động viên không? Con thấy tình hình thế nào? Ông Trương bắt đầu câu chuyện cố hữu của ông, chuyện chính trị thời sự theo lối của một công chức già bất mãn, hèn nhát, giao động. Xã hội thối nát, công chức quan liêu hối lộ, chính quyền luồn lọt nô lệ… chừng ấy đề tài nói mãi ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, trong sở khi rảnh rỗi, ở nhà trong bữa cơm, với người quen kẻ thuộc những lúc trà dư tửu hậu nhưng ông vẫn ngày hai buổi đến sở cạo giấy, lĩnh lương, lĩnh ráp-pen, buôn bán tậu nhà cửa… Cảnh ngồi im nghe như chịu một cực hình, mong sớm chấm dứt để được ra ngoài nói chuyện với Trinh. Trong gia đình ông cậu, người họ duy nhất ở Hà-nội, Trinh là đứa em hợp với Cảnh nhất; Trinh là con thứ hai, sau một người chị và trên ba đứa em gái một đứa em giai. Bà mợ vắng nhà, bà là người Cảnh ngại gặp nhất, miệng lưỡi ngon ngọt dẻo như kẹo mật nha tính toán chi ly và ích kỷ tột bực. Ngày cảnh mới vào thành, tìm đến thăm ông cậu, không hề có ý nhờ vả, bà đã vội than thở nhà cửa chật chội, con gái lớn và nói ngay: “Giá nhà rộng thì cháu ở lại luôn đây trông nom dạy dùm mợ thằng Việt là tốt nhất… Phải không cậu?” Cảnh cười gằn đốp chát: Cảm ơn mợ, cháu đã có chỗ ở. Cảnh ở nhờ trong chùa, hằng ngày đi tàu điện, lên phố vào thư viện tự học, buổi trưa ăn bánh mì trong nhà gửi xe, chiều làm précepteur một hai tiếng cho một gia đình ở hàng Bạc, trong hai năm xong Tú-tài. Thỉnh thoảng Trinh vẫn đến thăm Cảnh, nhất là từ khi lên chuyên khoa, thường tìm gặp hỏi han ý kiến về việc học hành, trong khi hằng năm Cảnh không đặt chân đến nhà ông cậu ngay cả những ngày giỗ tết. Ông Trương bàn luận một lúc đã hả hơi, bật người ra sau, chiếc ghế lúc lắc, cắn chặt chiếc píp nhìn trần nhà. Trẻ con reo hò ngoài hè vọng qua gian nhà ngoài vắng vẻ chật chội những bao hàng cồng kềnh.

– Cháu đến chào cậu. Cháu sắp xuống Phòng dạy học.

– Thế à? Bao giờ đi? Thỉnh thoảng viết thư về cho cậu biết tin. Con có được tin gì về thày u con ở ngoài không?

Cảnh gấp gọn tờ báo, để lên bàn. Từ trên gác vọng xuống tiếng nheo nhéo của mấy đứa em gái Trinh, Cảnh không nhớ rõ hết tên của những đứa con ông cậu. Từ ngày chiến tranh bỏ nhà theo Trọng, Cảnh chưa lần nào về thăm gia đình và cũng không được tin tức. Những lúc cô đơn buồn bã, Cảnh nghĩ tới làng quê như nghĩ tới một cảnh tượng quen đã mất, không xúc động nhiều lắm. Cuộc đời tẻ nhạt không kỷ niệm ràng buộc sâu xa, những ý nghĩ lớn lao về đời sống xâm chiếm ngay khi trưởng thành xóa sạch tuổi ấu thơ trong ký ức. “Người hoạt động không thể có những liên hệ gia đình chật hẹp…” Trọng hay nói thế và Cảnh cũng thường nói với bọn Đồng ý nghĩ ấy, nhất là Đồng, hắn có tâm hồn thi sĩ. Trong cuốn sổ tay của Trọng chép lại đủ bản Le catéchisme du Révoluntionnaire của Bakounine.

– Anh Cảnh, anh cho em hỏi riêng anh cái này…

Trinh nhấc chiếc ghế đặt vào góc tường mời Cảnh, ông Trương bỏ đi lên gác. Mùi tấm và vải bố hăng hắc. Ánh điện ngoài hè phố và buồng trong không soi tỏ được hết cả gian buồng ngoài. Đầu Trinh cúi khuất, ngón tay trỏ hơi cong đưa đẩy thoăn thoắt.

– Anh định xuống Hải-phòng hả? Bao giờ?

– Vài hôm nữa.

– Anh không học nữa à?

– Phải lo kiếm ăn chứ.

Cảnh cười, tiếng cười gẫy khô nửa vời. Trinh ngừng tay, giơ cao mũi kim ra chỗ có ánh sáng đếm những mũi len chăm chú, mi mắt cúp xuôi, tóc lòa xòa trên trán. Trên tấm áo cánh trắng, một chiếc áo len cụt tay xẫm không rõ màu. Trinh xoay đổi kim tiếp tục công việc, cuộn len nằm gọn trong khoảng hai đùi khép. Cảnh chống khuỷu tay vào một bao gạo kế bên, vải bố sơ nháp những hạt gạo kêu rào rạo.

– Anh đã sơi cơm chưa?

– Chưa. Chốc nữa về ăn. Ăn tháng ở hiệu cũng dễ…

– Anh xuống dưới dạy trường nào?

– Chưa biết. Có khi ít lâu lại về Hà-nội không chừng.

Trinh ngừng tay, ngước mắt tò mò, cầm kim đâm xuyên vào trong mái tóc. Cảnh mở chiếc khóa áo blouson, nghe không khí nồng nực, đi ra khỏi những bao gạo án ngữ trông ra phố. Ngoài bờ hè chiếc xe bán mía hấp của người tàu đậu, ngọn lửa khí phụt xanh, tiếng rao ề à vang khắp phố ngắn. “Dì chê tống chê, tống chê dì chê”.

– Chín giờ chưa nhỉ?

– Hãy còn sớm mà anh.

– Tôi phải về ăn cơm chứ.

Nguyên từ trong nhà chạy ra như bị đuổi: Chị Trinh, mợ chưa về? đứng khựng lại ngượng nghịu khi thấy Cảnh, cúi đầu chào. Cảnh mỉm cười gật đầu. Nguyên vừa đi ra cửa vừa ngoái cổ lại: Em sang bên con Loan một tí nhớ chị Trinh? Cảnh bỗng ngượng cảm thấy mình xa lạ với mọi người khác trong gia đình này.

– Anh có thích xem kịch không?

– Tôi không thích lắm.

– Em có thiệp mời mai xem đây…

– Kịch gì đấy?

– Lôi Vũ.

– Thế hả. Tôi đã đọc nhưng chưa xem. Cô biết vở kịch ấy chưa?

– Hay lắm phải không anh. Em nghe đồn như thế…

Cảnh tựa lưng vào đống bao gạo, nhìn vào mảng ánh sáng ngoài đường hắt chếch vào tường. Phố xá đã vơi, sự im lặng từ những phố buôn bán đông xung quanh lùa tới theo những cơn gió thu vào con phố hẹp và ngắn này. Cảnh muốn thuật lại vở kịch, nói rõ chủ ý của nó cho Trinh nghe. Tôi không biết giảng giải như thế nào hay không giảng giải nổi. Cảnh thọc tay vào túi áo blouson mân mê mấy que tăm lấy ở hiệu ăn buổi trưa. Trọng giờ này đang ở nhà, anh đang đọc sách, đợi về đi uống cà-phê. Sẽ nói với anh ở hiệu, phải bình tĩnh để dẫn giải, không thể chần chừ mãi. Anh sẽ phải hiểu.

– Sợ cô xem, cô không hiểu.

Trinh ngừng công việc, quấn lại cuộn len, vuốt tóc và nghiêng đầu. Chiếc xe bán mía đã rời chỗ, bây giờ tiếng rao nghe mãi tận đầu phố. Người tớ gái từ trong nhà ra sửa soạn lên cửa, những cánh cửa rời đánh số xếp chồng ngoài vỉa hè.

– Thôi tôi về. Cô nói tôi gửi lời chào cậu mợ.

Trinh đặt cuộn len lên ghế, đứng dậy bước theo chân, đưa tiễn đến cửa. Cảnh đứng lại ngoài hè, trong khi người tớ đẩy cho các cánh cửa gỗ chạy vào đường rãnh: Chào cô hả, cố học thi đỗ năm nay. Trinh vịn vào cánh cửa, mai anh có nhà không? Trước khi đi xem kịch em ghé lại thăm anh. Có chuyện gì không? Cảnh quay lưng bước, gặp Nguyên đi xăm xăm ở chỗ rẽ đầu phố, tiếng guốc gõ ròn. Nguyên quay nhìn Cảnh, không chào, như nhìn một người lạ mặt. Vượt qua ngã tư rẽ vào đường vòng ngắn, Cảnh ra tới Bờ Hồ. Hà-nội đang ngủ dần trong ánh điện mờ dấu, các bóng cây tối, mặt hồ khuya vắng. Cảnh đi theo đường bên hồ, gặp những ghế đá trống lộ liễu dưới ánh đèn sáng gắt. Đêm giao thừa trước còn ngồi thức với Thạch và Đồng trên ghế đá trông sang công viên tối tăm lạnh lẽo, hút hết sạch thuốc lá, với những dự tính tương lai. Cảnh đi dưới các vòm cây của đại lộ vắng, bình thản, sự quyết định làm cho tôi trở nên vững vàng già dặn hơn, không gì có thể lay chuyển. Đã hết cái giai đoạn hoạt động tài tử: họp tiểu tổ, thảo luận tình hình, phê bình kiểm điểm công tác, cái loại công tác: phổ biến tài liệu tuyên truyền, tin tức, dò xét tinh thần sinh viên học sinh, soạn thảo truyền đơn để ném trong các lớp học… Chỉ còn một vấn đề duy nhất là đối mặt với Trọng. Vấn đề khó khăn nhất. Có thể nào lặng lẽ bỏ đi và để thư lại được không? Trọng, chỉ còn Trọng là đáng kể… người khác… mỗi người một ngả…

Trọng đang ngồi im trước bàn như tham thiền, miệng lẩm nhẩm không thành tiếng, choàng mở mắt cười: Đang học Ăng-lê. Đi đi uống cà-phê. Cảnh nói: Tôi chưa ăn gì cả. Dưới nhà tiếng khóc i ỉ của người thiếu nữ cuồng trí, con người chủ trương. Ở ngoài đường, Cảnh nghĩ ngợi sắp đặt câu chuyện sắp nói với Trọng.

– Tôi đã gặp ông Đức. Ông ta sắp vào Sài-gòn. Ông khuyên bọn mình nên vào trong ấy dễ hoạt động hơn. Hà-nội trước sau cũng mất. Cậu nghĩ thế nào?

– Chuyện ngoài kia ra sao?

– Hỏng hết rồi. Sắp sửa đến lượt bọn mình phải… Dân chúng bắt đầu thất vọng. Ông Đức nghĩ phải khởi xướng một ý thức hệ mới thay thế.

Ý thức hệ mới. Những danh từ, lực lượng thứ ba. Những cái đó như một bầu dưỡng khí cứu người bệnh trầm trọng. Nhưng tìm đâu ra? Thạch hay kêu: phải mở một lối thoát và rốt cuộc hắn lao đầu vào hư vô. Trọng vào quán gọi cà-phê ngồi đợi. Cảnh ăn phở ở hiệu gần đấy. Lúc Cảnh trở lại, Trọng ngồi một mình lạc lõng, mắt hấp him sau đôi kính và đang ngáp. Phin cà-phê nhỏ vẫn chưa hết. Cảnh kéo ghế, gây tiếng động, nhưng cũng không phá được sự im lặng.

– Có lẽ, cậu xuống Phòng tôi sẽ đi kiếm buồng khác cho tĩnh. Nhà ồn quá không đọc được. Nhất là đêm nghe cái tiếng khóc tôi cũng muốn điên nốt.

– Thường là tôi ở ngoài thư viện suốt ngày.

Đã nên bắt đầu chưa. Trọng nhấc cái phin trắng lóa ra khỏi tách, mở nút bình thủy đun nước sôi. Cảnh đi ra quầy mua thuốc lá, người đàn ông bán hàng vỗ vỗ bao thuốc nhón rút lấy ba điếu đặt trên đĩa nhôm, giơ bao thuốc lên nheo mắt nhìn vào trong đếm, rồi mang đặt trước mặt Cảnh.

– Anh hút không?

– Thì thử xem sao.

Trọng ngậm thuốc giữa môi, châm lửa vụng về, nhả khói um sặc, cầm khăn tay chùi kính và mắt. Cảnh cười:

– Có lẽ đầu tuần tôi sẽ xuống Đăng… Nhưng… độ một tháng tôi sẽ lên. Tôi định…

– Hả.

– Tôi ra ngoài.

Trọng đeo kính vào mắt, nhìn trừng trừng dò hỏi.

– Tôi nghĩ tôi phải báo với anh là tôi ra ngoài. Sống mãi trong vùng này, tôi chết dần chết mòn hết cả tin tưởng. Cái vị trí mình chọn nó lập lờ quá. Dù sao ra ngoài kia, tôi có ích hơn. Tôi không được như anh, tôi không có một quá khứ, một công việc phải tiếp tục đến cùng. Tôi mới bắt đầu mà bắt đầu thì tôi nghĩ ở ngoài kia hơn… Tôi biết tôi làm anh buồn nhưng tôi còn trẻ, tôi muốn được thí nghiệm, muốn có kinh nghiệm có thể tôi sẽ trở lại với anh và cũng có thể tôi mất hút…

Cục gù ở cổ Trọng nhô lên, trụt xuống. Mặt anh đỏ ửng dần.

– Anh đừng nghĩ là tôi phụ anh. Tôi hiểu anh tin cậy tôi nhất. Tôi chỉ muốn trung thành với chính mình trước đã. Tôi không bao giờ quên chính anh là người mở óc cho tôi. Anh muốn tôi được tự do nhận định lựa chọn lấy con đường phải đi… Chắc anh không nỡ ngăn tôi. Anh cứ để cho tôi… biết đâu chẳng là bài học hay cho tôi.

– Cậu có thể làm một cử chỉ hy sinh vô ích. Chỗ của cậu không phải ở đấy.

Trọng nói khẽ, Trọng kìm giữ xúc động. Môi anh mím lại, cằm bạnh ra và bắp thịt bên má giật động.

– Tôi đã suy nghĩ đắn đo cả năm nay trước khi quyết định. Tôi nghĩ muốn gì tôi phải trải qua giai đoạn cần thiết này. Một là mất, hai là còn.

– Vậy nghĩa là tôi không thể nào thay đổi được ý của cậu nữa?

Cảnh bưng tách cà-phê lên uống, dấu mắt mình. Ánh đèn pha ô-tô từ chỗ khúc quành soi quét vào trong quán.

– Cậu biết rõ tôi đấy. Ông bố tôi là nhà nho nhưng lại có tư tưởng xã hội. Có thể kể ông vào loại chiến sĩ xã hội đầu tiên tại nước này. Ông bác tôi cắt mạch máu chạy giữa đồng cho đến chết sau vụ Sô-viết Nghệ-an. Gia đình tôi phải bỏ xứ ra đây… Như thế cậu rõ là tôi không thể… Các em tôi chúng còn ở cả ngoài ấy. Chẳng lẽ cậu nghĩ rằng tôi cũng chỉ là một thứ phản động…

– Không, vấn đề này là của tôi, không dính líu gì đến anh.

Trọng tháo kính xuống chùi nữa, mắt anh đỏ hoe. Có lẽ anh đang nghĩ anh trơ trọi có một mình. Anh chùi miệng, rồi rũ rũ chiếc khăn tay để gấp lại. Trông giây phút, Trọng già xọm, xa cách hẳn như những mùa hè xưa anh về nghỉ ở nhà Cảnh kèm cho Cảnh học; người trong xóm gọi anh là Cậu giáo nhà ông Trưởng Bạch.

– Tôi tin ở cậu. Cậu thành thực lắm nên tôi không biết phải giữ cậu bằng cách nào. Cậu thành thực và mai kia cậu cũng có thể thành thực khi phải thủ tiêu… tôi chẳng hạn.

Giọng của Trọng cứng lại, chua cay. Cảnh nổi giận, ngồi lặng. Sự lựa chọn nào cũng khốc liệt thế chăng? Trong mắt anh, tôi như thế nào. Con người tôi đã đổi mà không hay biết. Cảnh ngửng nhìn cố sức biểu tỏ thái độ bất mãn. Trọng cười nhạt, không âm vang:

– Tôi vẫn sợ cái ngày hôm nay. Các cậu còn trẻ không chịu đựng được thử thách. Hết Hòa, bây giờ là cậu. Và tôi không làm được gì hơn là một mớ lý thuyết xuông.

Cảnh vẫn im. Rời quán cà phê, Trọng cũng nín thinh luôn. Cảnh nghe ớn lạnh buồn bã khi nghĩ đến phải nằm chung với Trọng trên cùng một tấm phản trong gian buồng chật hẹp, nghe tiếng khóc nỉ non của người thiếu nữ rách rưới tự nhốt mình trong một só nhà tối.

Buổi đầu tiên trở lại tìm Phúc một mình, An đẩy cánh cửa buồng khép quên gài then, vội vàng quên gõ cửa, muốn trốn khuất những cặp mắt tò mò theo rõi từ dưới sân, trên cầu thang và trong các buồng mở cửa – những cặp mắt soi mói khó chịu mà dù đã thường lui tới An vẫn bị nhột nhạt – nghe tiếng Phúc hỏi: Ai đấy? Làm sao lại vào được; Phúc đang nằm với một người đàn ông. An ngồi lỳ trên ghế, ngại tháo lui, gặp một ông công chức già bỏ sở đi chơi đến sau, ông gật đầu chào; Phúc cáu kỉnh: Đóng cửa lại. Đóng cửa lại; vị công chức bối rối bỏ đi ngay, người đàn ông trong giường pha trò: ồ, có gì là lạ… Phúc gắt: còn ai ở ngoài, xin mời ra cho tôi đóng cửa. An lặng thinh đứng dậy, bước mau xuống cầu thang, gặp ông công chức đứng đón xe ở đầu phố. An trở lại tìm Phúc ngày hôm sau tại lớp học nhảy và hỏi: Tại sao lại đuổi anh? Phúc xin lỗi: Em không biết là anh, em xin lỗi. An đưa Phúc về nhà, đi bộ qua các phố nhỏ vắng khuất, kéo dài con đường, những phố thường chẳng mấy khi qua, như một cặp tình nhân lãng mạn. Tại sao không? Những buổi chiều ấm gió, thổi lên tà áo xẫm màu, khuôn mặt không son phấn hơi nhợt của Phúc, cử chỉ nền nã tự nhiên. An nằm lại trên giường của Phúc lâu hơn, lười lĩnh và mỏi mệt và một vài lần Phúc phải từ chối những khách đến sau ở ngoài bao lơn. Một buổi Phúc giữ An lại: Em mời anh ăn cơm. Ở lại xem em thổi cơm. Phúc mặc áo cánh, thổi cơm bằng bếp cồn, đi lại bận bịu như người đàn bà nội trợ ngoan ngoãn. An có hẹn tới dự lễ sinh nhật Khiêm và nhớ chưa mua đồ mừng, An mặc quần áo bảo: Anh sẽ về ăn cơm, phải ra phố có chút việc. An lang thang ngoài Trường-tiền, vào phòng Thông-tin Pháp xem báo, dán mũi vào các cửa kính. Khiêm sẽ lại mặc áo mới, tiếp bè bạn bọn con gái trưởng giả, bọn con giai đàn ông đang ngấm nghé vợ và địa vị xã hội. Ông Huyện, bà Huyện trịnh trọng ra phòng khách mươi phút, chào hỏi bạn bè của con, thăm hỏi về bố mẹ của chúng xong rút lui lên gác. Khiêm thổi nến, cắt bánh, vỗ tay cười đùa, đứng giữa phòng kéo violon, lần lượt đứa kể chuyện đứa hát, những bài hát của kháng chiến. Và điện sẽ tắt trong năm phút, chỉ còn nến cho không khí thêm quý phái; như năm ngoái An lén hôn Khiêm dữ dội kiểu Lê-dương. An mua một lọ nước hoa, mang về cho Phúc nói: Anh tặng em; Phúc cảm động, Trong bữa ăn, Phúc săn sóc như một người vợ yêu chồng. Sẽ ở lại với Phúc, anh sẽ ở lại với em, được không? An nói khi nằm nghỉ trên giường đọc báo, Phúc bế con ngồi bên. Chỉ sợ anh không dám. Sao lại không dám? Tối ấy An trở về nhà, Nga hỏi: Anh đi đâu không đến chị Khiêm? Ông bà cụ vẫn chưa về. Buổi sáng khai giảng niên khóa mới, An bỏ ý định đến lớp và xuống Phúc. Vào giấc này, khoảng sân vắng dễ vượt qua hơn, nhưng An đứng trước cửa phòng đóng kín ở trong. Một bà cụ già hom hem, bẩn thỉu ở cầu thang lên nói: Cậu qua buồng tôi ngồi chơi. Đứa con trai của Phúc lê la dưới đất quanh mấy chân ghế, bà cụ mẹ Phúc lên nằm co quắp trên phản cạnh khay đèn: Cậu quen với cậu Lân? Cậu Lân quen với nhà này lắm. Cậu biết hút không? Làm thử một điếu… Món này tốt lắm. Phúc sang và ngượng khi thấy An ngồi trên ghế nhìn đứa con nhỏ. Phúc nói: Em định vài tháng nữa kha khá xin đi làm vũ nữ… Dù sao cũng còn hơn thế này. Hôm ấy An không nói gì cả, sự im lặng trong tác động ân ái làm nở một thứ tình yêu, tình yêu chăng, tình yêu nặng nhọc và tối tăm. Một cảm giác cô đơn trong hầm tối. Phúc, tôi có thể ở với Phúc và mọi ràng buộc sẽ đứt tung. Tôi sẽ là người khác. Không còn chút liên hệ nào với cái thế giới thân quen.

Buổi sáng Nga gõ cửa buồng, nhét tờ báo xuống khe cửa, nói vọng ở ngoài: Ông “bô” làm bộ trưởng rồi, chắc là tuần này về. Có một ông tên Lân hôm qua đến tìm anh. An không biết phải làm gì hơn là tìm xuống Phúc. Phúc hỏi: Anh không chán em à? An đáp: Không chán nổi, tối nay anh ở lại đây. Được không? Buổi trưa gian phòng không cửa sổ, kín hầm, mồ hôi thấm lạnh. Khách gõ cửa, Phúc nằm im không đáp, tiếng gõ cửa mạnh hơn, An la lớn: Va-t’en, salaud. Phúc bật quay người bịt miệng, An vùng vằng đầu, thuận tay tát mạnh vào đầu Phúc. Phúc kinh hoàng bất động miệng há ra như sửa soạn gào. Ngoài khe cửa có tiếng hỏi ghé vào: Anh An ở trong phải không? Không có An nào hết, imbécile. Rồi An rớt xuống sự mệt nhọc bình thản nghe tiếng thổn thức của Phúc, cái lối của Thạch có vẻ hiệu nghiệm, nhẹ nhàng thoải mái, khỏi mất công. Lát sau An quay sang vỗ về Phúc: Việc gì em sợ. Em sợ anh. Sợ anh, sợ anh thì phải nghe anh, An cười thành tiếng. Anh yêu em, anh thương em, anh sẽ ở lại đây với em, em bằng lòng không? Phúc không nói, Phúc chỉ có hai bàn tay để nâng niu vuốt ve các bộ phận trong cơ thể. Gương mặt hiền hậu trở nên đần độn. Chiều đến An vẫn còn ngại gặp Lân ngoài cửa, bắt Phúc mở ra xem trước. An đưa Phúc đến lớp nhảy, hẹn sẽ quay lại đón và trở về nhà. Nga đi học. An đi lại từ trên gác xuống nhà nghiền ngẫm ý định. Gian nhà yên tĩnh, mát mẻ, trời ẩm đục. Tôi sẽ bỏ đi như người mất tích. Sống với một người gái điếm. Tôi sẽ ở được bao nhiêu lâu? Tương lai? An nghĩ nên xuống gặp Đồng. Để làm gì? Tôi phải sống cho tôi, tôi yêu Phúc, tôi yêu Phúc hay tôi bỏ trốn. Khi An trở lại, trong buồng nhảy chỉ còn một vài người. An gọi xích-lô ngồi chung với Phúc, không dấu diếm. An bảo: Anh nói thực đấy, em nghĩ thế nào? Phúc hỏi: Anh nghĩ kỹ chưa? Em không ra gì, em có con, em sẽ làm khổ anh. Không có gì đáng kể miễn là em yêu anh. Phúc vuốt ve cánh tay An khiến mọc gai: Rồi anh sẽ hối hận. Còn tương lai của anh… An ngửng nhìn những đám lá rào rào và những chiếc lá vàng bay rụng cười xòa. Buổi tối ăn cơm xong, khi An lên giường nằm chìa tờ báo chỉ cho Phúc: Ông “bô” anh đấy… Phúc nói: Thôi anh về đi, lúc nào anh đến đây em chẳng là của anh. An liệng tờ báo sang bên. Không phải thế, không phải thế đâu. Phúc vuốt ve mặt An, nhìn ngắm với vẻ lạ lùng. Và một lát, Phúc bắt đầu bàn tính tương lai. Sẽ dọn ở chỗ khác, trốn biệt nhà người quen, tạm thời Phúc muốn đi nhảy kiếm tiền nuôi cho An học. An bật cười: Anh sẽ ăn bám em, không đời nào…

Bây giờ vẫn còn trong giờ giới nghiêm, ngày chưa lên, chỉ nghe gió nổi ngoài phố. Những hồi đại bác, lối nửa đêm khi mệt thiếp, cũng im bặt. Vòi nước dưới sân nhỏ giọt, lâu lâu chảy thành giòng mỏng yếu. Mắt quen dần với bóng tối, đình màn hiện ra mờ như làn sương đục. Phúc ngủ say, hơi thở nặng, đầu tóc xổ. An nằm đè lên, nhờn nháp một bên mạng sườn. An nằm không động đậy, như được chở trên một chiếc thuyền khẳm sắp chìm, chỉ mới chưa đầy một ngày, gia đình thấy đã như xa cách hẳn, chập chờn trong những ý nghĩ dồn dập như sóng. Cả cái thân thể bóc trần dưới chăn không còn thuộc về mình nữa, yếu đuối lẻ loi. Những ngày sắp tới như một cái hõm sâu, tối, tối hơn gian buồng này, tối hơn những lúc bị cuốn hút vào trong thân Phúc. Một người già cả nào ở trong một gian buồng xa ho sù sụ. An đặt tay lên ngực Phúc, hâm hấp nóng, nghe một cảm giác phi lý kỳ quặc. Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể bỏ về nhà, chỗ của tôi vẫn còn nguyên, nhưng tôi cứ muốn ràng buộc với Phúc. An nghĩ lại những dự tính, tưởng tượng những hành động tương lai. Tự chôn vùi mình để thay đổi và tôi sẽ thành cái hình thù thế nào. Tiếng chuông đồng hồ reo vang, Phúc thức dậy mò mẫm bật đèn ngủ, ngạc nhiên thấy An còn thức, Phúc bò trên ngực An. Anh không ngủ, và vục đầu vào cổ An. Em yêu anh không? Hứ, hự. Em sung sướng không? Có. Chúng mình sẽ nuôi con, con của em là con của anh. Anh sẽ làm việc cho nó. Phúc, em ngủ đi. Không, em thức với anh. Tại sao em để đồng hồ báo thức. Em dậy sớm để đi lễ. Đi lễ hả? Em sửa soạn đi, chắc sắp hết giới nghiêm. Em không muốn đi nữa, em muốn nằm với anh cơ, An nghe sức nặng dồn vào thân mình, đồng thời như muốn nhấc bổng mình lên. An nhắm chặt mắt, buông xuôi tay không muốn bám víu. Em yêu anh, em yêu anh…

Anh ngủ nữa đi kẻo mệt. Em yêu anh. Anh lạnh không? Anh yêu em thực không? Anh không biết đời em khổ biết là chừng nào. Nếu anh bỏ em, chắc em chết. Anh, anh đừng đánh lừa em. Hì, không, anh chỉ lừa anh thôi. Anh nói gì? Không. Anh muốn gì anh cứ nói, em sẵn sàng làm hết cho anh. Đời em không có nghĩa gì, chỉ anh là đáng kể. Hì, anh cũng không đáng kể… Anh ngủ chưa? Em đi lễ anh nhé. Ừ… Cửa mở và gió thổi lùa. Ngoài phố, tiếng bánh xe bò lăn lịch kịch, tiếng rao hàng bánh tây kéo dài lê thê…

Cảnh dậy thật sớm, những biệt thự xung quanh còn say ngủ, qua những kẽ hở của cửa sổ đóng kín nhìn thấy ánh mờ tối, nghe tiếng đàn bà dưới bếp đang đun nước buổi sáng. Giấc ngủ làm Trọng co quắp thảm hại, nét mặt nhăn nhó. Bước xuống cầu thang còn chập choạng nồng những hơi thở phì phò dưới các bục gỗ, Cảnh rửa mặt bên bể nước quay lưng lại phía những người đàn bà ngồi xổm trước các bếp lửa cháy hồng. Người thiếu nữ cuồng trí, đêm qua phá phách chạy nhào ra cổng trong giờ giới nghiêm, chắc đã bị trói và mệt thiếp đi. Cảnh rùng mình khi ngửng lên nhìn màn trời nhờ màu sương, bầu trời trải trên những cánh đồng nước buổi chiều chiến tranh dữ dội. Ngoài phố còn vắng tanh, chiếc tàu điện sớm chạy mau trong phố xa. Cảnh đi vào phố hàng Bông, hai bên hàng phố chưa mở. Từ trên tàu điện ngoài Ô Cầu Giấy vào, những người đàn bà nhà quê mua phân của thành phố ném vội những đôi quang gánh và thúng không xuống giữa đường, rồi chia tản chui lẩn vào trong các cánh cửa hé sớm hoặc các ngõ dẫn vào cửa sau. Khoảng tám chín giờ sáng, họ kĩu kịt gánh đi trên hè mùi xú uế nực phố xá, đón tàu về làng. Qua bờ hồ, Cảnh chỉ gặp những người lao động đi làm sớm. Tháp rùa nổi xa hơn trong một làn sương mỏng, một vài chiếc xe vận tải nhà binh chạy rầm rập không đếm xỉa đến tốc lực. Cảnh ghé vào trong kẹt ngách lọt trong tòa nhà lớn của phố Trường-tiền ăn sáng; kẹt chật hẹp có hình chiếc mui cong dần, có lẽ nằm dưới một chân thang không thể trông thấy. Bánh tây dòn, cà-phê nóng. Bánh nướng trên vỉ sắt, trước khi được mổ đôi, nhồi ba-, rắc muối tiêu đựng trong hộp thuốc 999 lóc xóc. Cà-phê đun trong ấm sắt đặt trên bếp lò quạt luôn tay, than nổ tí tách. Cảnh ngồi quay mặt ra ngoài hè, chỉ thấy một khoảng ngắn những viên gạch ô vuông nhỏ, bờ lề đá xanh lỗ rỗ, một cây cột của mái hiên bên kia vỉa hè, cánh cửa sắt kéo lên xuống che một mặt tủ kính. Một người dựng xe đạp ngoài vỉa hè, sách túi bao da vào hiệu, cất bánh tây. Cảnh ăn chậm chạp đợi thời khắc trôi qua, nghe tiếng động buổi sáng dâng lên từ từ trong phố.

Cảnh đi bộ trở ngược về thư viện. Hiệu thuốc tây lớn ở góc bờ hồ đổi chủ, hai ba người thợ mộc đang bắc thang sửa lại tên bảng hiệu. Tên dược sĩ này giàu thật nhanh, chuyên bán thuốc cho hậu phương, hắn ủng hộ kháng chiến đấy. Sống làm sao nổi với đám trí thức trong thành này. Một lớp trí thức mới… Cảnh muốn có Thạch ở đây để hỏi: Cậu tin tưởng vào cái gì mới được? Chắc chắn hắn sẽ văng tục. Merde. Thư viện chưa mở cửa, Cảnh bước lên trên bãi cỏ còn ướt, đến ngồi dưới gốc đa, chiếc rễ cây ẩm. Trong nhà chứa xe, một vài người đang ăn sáng của hàng vợ chồng người lao công giữ xe của thư viện. Trên thềm, trước tấm cửa kính dầy nặng nổi vân viền sắt đen, hai người ngồi quay mặt trông ra đường. Luống hoa vàng nhạt, đỏ hoen chạy viền quanh bãi cỏ. Cảnh thoáng nghĩ đến cuộc hẹn buổi tối. Không hiểu thái độ của Trọng như thế nào từ giờ cho đến ngày lên đường? Thật khó khăn cứ phải nhìn nhau hằng ngày và biết không thể nào còn đồng ý với nhau được nữa. Trong trường hợp phải quay trở lại? Đám người tụ tập trước bực thềm đông hơn, trong ấy có Trọng. Có lẽ anh không nhìn thấy, mắt cận thị nặng, anh cắp chiếc cặp da đen cũ, ngờ nghệch, lạc lõng. Từ ngoài cổng, ông già trông nom trật tự phòng đọc sách, có nhiệm vụ nhắc nhở những người trò chuyện ồn ào hay đánh thức những người ngủ gục buổi trưa ngay trên ghế, mặc áo thâm chùng đạp chiếc xe cót két chạy vào, chiếc ô buộc trên ống xe; ông giơ tay vẫy chào đám người đợi nói lớn: Còn sớm, còn sớm. Người ông thấp bé, dáng đi thủng thỉnh, khi ông mở khóa cửa bị đám người đứng sau che lấp. Cảnh ngồi yên, đợi năm phút sau mới vào và trông thấy Trọng đứng trong ngách không có bàn đọc trước tủ ô kéo cao chọn sách. Người thủ thư đang bước lên bục đặt ghế ngồi có thể quan sát khắp phòng đọc, nhếch mép cười chào. Cảnh đến chiếc bàn trong góc tìm chỗ ngồi khuất, tựa đầu nghỉ ngơi. Trên đầu tường những khe hở được che kính chùi sạch để thêm ánh sáng cho phòng đọc, cành lá phượng xanh không còn hoa. Tiếng kèn xe hơi ngoài đường bị cản lại vì những mặt kính dầy trong suốt che quanh cửa vào phòng đọc. Cửa sổ lớn rộng trông xuống vườn sau để trống. Tiếng dép lẹp kẹp của ông già trông nom trật tự, chốc chốc rời chiếc bàn nhỏ bầy ngay lối vào phòng. Tiếng ô kéo rút ra, đóng vào, bước chân đi nhẹ trên sàn, tiếng sì sào loáng thoáng, tiếng ho, sịt mũi, tiếng chân ghế bị kéo trên gạch hoa… Trọng ngồi ở chỗ không trông thấy. Trong khi đợi mượn sách Cảnh về chỗ nhìn mặt bàn dài lên nước đen, những ngón tay xòe đặt trên màu gỗ bóng nổi vân. Chuyến đi này chỉ có một người Cảnh muốn được đi cùng là Thạch, chỉ có nó. Nhưng nó đã bị đầu độc bởi những Gide, Malraux, Sartre, Koestler… bởi bọn existentialistes. Nó không thoát khỏi được những ý niệm trừu tượng những thắc mắc siêu hình viển vông, không thoát khỏi được giới hạn của giai cấp. Nó đi vào chiến tranh như tìm sự tự hủy; Cảnh ân hận đã không thuyết phục nổi Thạch, không đủ can đảm đối đầu quyết liệt với Thạch; ở nó ngầm chứa một sức mạnh mù tối khiến chính mình bối rối hoang mang khi đối diện. Không như Trọng, Trọng vững vàng quá nên dễ nhận thấy sự chia lìa. Những cơn giao động mãnh liệt của nó như muốn lôi cuốn cả mình vào trong. Hồi Cảnh truyền cho Thạch hai quyển gối đầu giường của mình là Principes fondamentaux de la philosophiePrincipes élémentaires de l’économie politique, Thạch bỏ cả gần năm học không để ý đến thi cử để nghiền ngẫm Marx; Cảnh hỏi: Cậu có hiểu nổi không? Thạch: Phải cố banh óc ra mà hiểu, người thủ thư lúc đầu rất dè dặt khi cho mượn sách, lưu ý Thạch nên cẩn thận, và Thạch nói: Xem chơi thôi mà, xem cho biết. Cả buổi sáng, Cảnh không giáp mặt Trọng. Thư viện vơi dần, buổi trưa nặng đến êm ả, màn ánh sáng cũng không thấy chuyển đổi. Khi Cảnh gấp tập La Révolution française của Soboul lại, ngoái cổ nhìn lên chiếc đồng hồ treo, đã một giờ trưa. Cả phòng đọc sách không còn một người, trừ ông già ngồi ở bàn gà gật trước tờ báo hằng ngày trải cả hai trang. Cảnh xuống sân, vào nhà chứa xe, ăn trưa. Người chồng úp chiếc mũ vải lên mặt, nằm dài trên ghế, người vợ tựa lưng vào tường lim dim mắt. Cảnh gõ gõ vào mặt kính đánh thức. Một cái bánh tây, cốc cà-phê sữa, xong bữa trưa. Vào khoảng ba giờ An đến, nét mặt hốc hác, mắt lờ đờ thất thần thiếu ngủ, ngồi trước mặt Cảnh, khoanh hai tay trên mặt bàn, nhìn thẳng mà như không thấy Cảnh. Một lúc An hỏi: Thấy Đồng không? Cảnh lắc đầu; hay là nó ốm nặng? Chết? An vừa nói vừa cười nụ cười ngơ ngẩn. Cảnh nhìn chăm chú, xét đoán tâm trạng của An, rồi lại cúi xuống trang sách và An bỏ đi lúc nào Cảnh không hay. Nhiệt độ buổi chiều rớt một cách đột ngột theo với màu ánh sáng phủ lên từ lúc nào trên da mặt cảm giác tê lạnh. Đèn trong phòng bật sớm, các lò sưởi dưới các chân cột lớn được đốt lên, những bóng đèn trắng đục lớn treo bằng giây xích tỏa một thứ ánh sáng dịu nản. Cảnh rời thư viện về quán cơm trọ. Đứa con gái nhà trọ vừa dọn bàn vừa than thở với mẹ về chợ búa đắt đỏ. Bữa cơm dọn lên trên hai ba cái đĩa nhỏ một món kho, một món xào, đĩa dưa và một bát chiết yêu canh váng mỡ. Tráng miệng một quả chuối quắt, vỏ thâm ướt nước. Ngoài đường người qua lại hấp tấp trong một cơn mưa rắc bụi. Từ cái ra-đi-ô đặt trên xích-đông gần quầy phát ra tiếng hát ân tình nỉ non. Trong một thoáng, Cảnh rung động vì giọng hờn oán kể lể của nữ ca sĩ. Phút rung động thật ngắn đào một hố trống, trong cảm xúc, Cảnh nghe giận cái tiếng hát đìu hiu vô tư như một luồng gió tan lẩn trên các chòm cây. Không thể còn sự ngây thơ, không thể còn những mơ mộng vô tội, người ta chỉ có thể mơ mộng bằng kiếp sống, bằng hành động. Chỉ còn có thể một giấc mộng… giấc mộng của những Robespierre, Saint-Jus, Marat…

Ngoài đường mưa chỉ vừa đủ bám lên áo dạ, Cảnh thầm mong Trọng không trở về nhà và cũng mong Trinh không đến. Cảnh không về thẳng, đi vòng đến thăm Hương. Hương đang ngồi đọc truyện Tàu cho bà mẹ nghe, bà ôm cơi trầu trong lòng mắt mơ màng. Hương nói: Anh có thể đi sớm được… Vừa có người vào. Ngày kia anh đến tôi, tôi sẽ đưa anh đi gặp. Bà cụ già nhai trầu bỏm bẻm, hấp him ngắm Cảnh. Người anh lớn của Hương, công chức ở sở Thông-tin, ở trong buồng đi ra, bắt tay Cảnh và cũng nói: Nếu tôi không có gia đình, không bận gánh nặng… tôi cũng đã ở lại ngoài kia rồi. Câu chuyện xoay quanh các nhân vật đang cầm quyền, thành tích, dĩ vãng, những âm mưu bẩn thỉu. Áp-phe sợi, gạo, muối, áp-phe thiết lập thị xã Đồng-quan. Hơn tám giờ Cảnh mới rời khỏi nhà Hương. Trinh đứng đợi ngoài ngõ, dưới gốc cột đèn, áo nhung màu huyết dụ. Cảnh đi tới và hỏi:

– Cô không xem kịch?

– Em đợi anh.

– Cô có gặp ai trên buồng tôi không?

– Không.

Trọng không về, có lẽ anh có giờ tại Văn-khoa. Cảnh rút khăn tay lau da mặt nhờn nhớp bụi nước.

– Cô lên buồng chơi không?

– Em hẹn con bạn đợi ở nhà Hát lớn

Trinh chờ Cảnh nói, ôm chiếc sắc tay vào ngực như muốn che gió, vén cổ tay xem đồng hồ.

– Cũng gần đến giờ rồi, tôi đưa cô đi.

Trên vỉa hè, men theo bờ tường Hỏa Lò, đèn sáng không bóng cây che. Tiếng guốc cao gót kêu nhịp. Trinh bọc hai tay trong mép vạt áo trước giữ thẳng. Đường Hai bà Trưng rộng, ướt bóng chạy hút theo ánh điện và cây vào trong tối.

– Em thích đi bộ dưới trời mưa, đi mãi cũng được. Nhiều tối học bài, trời mưa em chỉ muốn được khoác áo mưa ra phố mà không được… Anh có thích như thế không? Có khi các anh là con trai, các anh được tự do nên các anh không hiểu được tâm hồn bọn con gái chúng em…

– Mưa tôi chỉ muốn ngồi nhà. Ra ngoài rét lắm…

Cảnh cất tiếng cười nhẹ nhõm, tiếng cười như của một người khác. Muốn nhớ một vài câu hát, một câu thơ… mà không thuộc nguyên vẹn một câu nào. Lối mòn thơm mãi… Những chiếc xích-lô vượt qua mặt nhẹ nhàng êm ái. Trinh đi ngang qua đường sang phía vỉa hè ít ánh sáng. Lối gạch lát cỏ len lấn hai bên.

– Tạnh mất mưa rồi. Lần thứ nhất em được đi chơi ở phố vắng này… một mình. Anh cứ nghĩ xem tối đến là bọn con gái đóng chặt cửa bị giam ru rú trong nhà. Đêm tối thành ra là của riêng của con con trai. Hễ đứa nào thích đi lang thang buổi tối là các cụ cho là hư rồi. Một mình… ngoài phố vắng là người ta nghĩ không tốt. Có công việc gì phải đi qua thì vội vàng hốt hoảng đâu còn đầu óc mà hưởng thú vị. Phải không anh? Tại sao con gái không có thể đi dạo chơi ban đêm như con trai những lúc buồn bực. Đêm trong thành phố quyến rũ lắm chứ. Em chỉ muốn được đi không mục đích rồi về nhà ngủ một giấc chắc ngon.

Trời lộ ra trong những khoảng trống của vòm cây, sáng vàng từng nhịp ánh pha rọi ngang.

– Không thơ mộng như cô tưởng đâu. Cô quên rằng cô đang ở trong một thành phố chiến tranh, thành phố bị chiếm đóng… Bất cứ lúc nào…

Cảnh bỏ dở câu nói, không nên khuấy phá phút mơ mộng của Trinh, cũng chẳng lợi ích gì. Những thiếu nữ tiểu tư sản thành thị không nhận thức nổi những quy luật xã hội như số mệnh khốc liệt của mình. Để cho Trinh được đi trong màn đêm huyền ảo của nàng và Trinh sẽ tới gặp… Bước của Trinh chậm, lúc nào Cảnh cũng đi trước một vài viên gạch và thỉnh thoảng đứng lại đợi.

– Cô có đến kịp không? Bạn cô sẽ sốt ruột. Hay đi xe, cô đi xe đi… tôi về.

– Không. Mặc cho nó đợi. Không thì nó vào xem một mình… Chẳng mấy khi em được đi trong phố đêm. Anh bảo thành phố chiến tranh, bị chiếm đóng… Mình tránh đi. Rẽ đi anh. Đừng đi qua chỗ kia… Vẫn phải còn những phố riêng của mình chứ. Đêm vẫn còn những lúc không có tiếng súng.

Tránh cái quán rượu sáng trơ giữa đại lộ vắng, nghêu ngao tiếng hát của anh lính Tây say ma petite folie, ma petite folie… Trinh đẩy khuỷu tay Cảnh rẽ vào con phố nhỏ ngang, hai bên biệt thự rào cây kín.

– Năm nay cô Trinh bao nhiêu tuổi nhỉ?

– Mười chín tuổi tây, hai mươi tuổi ta.

– Học xong cô định làm gì?

– Em không biết.

Vỉa hè hẹp chỉ vừa đủ mình Trinh đi, Cảnh bước dưới đường. Trinh bứt những lá cây bên các rào ném xuống.

– Mai kia yên, em chỉ ước được sống ở nhà quê. Em không quên được kỷ niệm mấy năm tản cư. Ở nhà quê, làm vườn, đọc sách, nuôi con…

Trinh thốt cười nhí nhảnh, tưởng như giấc mộng ấy trong một ngày gần đã tới. Không biết rằng xã hội này còn nhiều vấn đề phải giải quyết còn phải chịu xáo trộn nhiều năm… Chiến tranh còn dài lắm và cái trang trại trong mộng tưởng của Trinh cũng là một mục tiêu bị tấn công.

– Tôi sống mãi ở nhà quê, chán lắm. Như thế cô cần phải lấy chồng thi sĩ mới được…

– Chồng làm ruộng không được hay sao anh?

– Lãng mạn… Cô không biết rồi xã hội mình phải cách mạng. Hiện thời người ta đang làm…

– Cách mạng… em có bảo không cách mạng đâu. Thế cứ làm cách mạng là phải diệt trừ mơ mộng, là không…

– Cô còn ngây thơ lắm.

Trinh nín lặng như bị đè nén, ấm ức, dừng lại. Con phố nhỏ mở ra một đại lộ, bên kia đường là chiếc cổng sắt của một hãng xưởng lớn. Không có chỗ cho Trinh, không thể bận tâm, những người như Trinh phải bị hy sinh cùng với những giấc mộng tiểu tư sản. Trinh nhìn theo chiếc ô-tô chạy ngang, lặng lẽ xuống đường rẽ về bên trái và lại thủ hai tay giữa vạt áo trước. Cảnh không biết lúc này là mấy giờ, lối đi dẫn về khu Đại-học.

– Trong lớp em, dạo này chúng nó hoạt động chính trị hăng lắm… Truyền đơn rải lung tung trong giờ học. Không còn biết đâu mà đọc nữa. Mấy con bạn thân của em cũng chê em là ngây thơ, mơ mộng, lãng mạn, lạc hậu, không chịu tham gia phong trào… Em thì em nghĩ có mình hay không cũng chẳng thiệt hại gì cho ai. Nếu mình lấy đấy làm lý tưởng, lẽ sống của đời mình thì khác… Còn em, em không có đầu óc cách mạng, em chỉ nghĩ được những điều thường thường…

Đế guốc của Trinh giẫm lên trên một đoạn lá khô trải lót vỉa hè nghe lạo xạo tiếng gẫy dập của cánh lá. Trinh sẽ lấy một người chồng và sẽ trở thành bất cứ một người đàn bà nào theo ý muốn khuôn nặn của chồng. Trinh sẽ sung sướng hay khổ sở? Hạnh phúc cũng như tự do chỉ là huyễn hoặc trong một thế giới đang băng hoại. Cảnh nhìn chiếc bóng in trên hè chuyển động theo bước đi và theo ánh sáng của những ngọn điện cách quãng đều đặn.

– Bao giờ thì anh đi? Ngày nhất định ấy…

– Tôi chưa chắc chắn.

– Anh ra hậu phương có phải không?

– Làm sao cô biết?

Trinh không đáp, đưa một tay lên gỡ tóc xòa trên trán. Cảnh ngoảnh mặt chỗ khác, tránh cái nhìn của Trinh. Gió thổi là, cuốn một góc vạt áo nặng. Bên góc phố tối, một gánh bánh tây và cà-phê đỗ không có khách nhưng vẫn đang quạt bếp. Cảnh đứng lại mua thuốc là và hỏi:

– Cô uống cà-phê không? Có dám không?

Trinh đứng vịn vào đầu chiếc tủ kính, ngần ngừ:

– Đằng nào đêm nay em cũng không ngủ được…

-phê đắng làm Trinh nhăn cả mũi. Người đàn ông bán hàng đội mũ dạ sụp tò mò quan sát Trinh, áo của Trinh mới và sang quá so với bộ quần áo của mình. Cảnh nghĩ mình bắt đầu nghiện cà-phê thuốc lá, những thú tiểu tư sản khó dứt, bỏ đi là vừa. Cái xã hội này sẽ chiều chuộng mình, tạo nên những thói quen để giam hãm. Nhà thương Đồn Thủy ở trong phố đầy cây tối hơn, chiếc sân cỏ phẳng chạy dài mở rộng dần hết phố hàng Chuối. Khuya lắm rồi, khói thuốc bị gió thổi hết hương vị.

– Làm sao cô biết tôi ra hậu phương?

– Em phỏng đoán thế. Các anh nếu không đi lính thì chỉ có thể ra hậu phương…

– Cô nhầm. Có thể trốn ở trong này cũng được…

Những tòa nhà của trường Đại học sừng sững trong bóng đen. Một đôi cặp tình nhân bình dân lẩn lút đứng dựa các gốc cây. Cảnh ngượng hộ Trinh nhưng hình như Trinh không chú ý đến.

– Anh đi anh có buồn không?

– Có gì mà buồn. Tôi không phải là dân Hà-nội mà…

– Anh không nhớ đến một cô nào… Người ta đợi anh và có thể đêm đêm người ta khóc nhớ…

– Cô nào? Không ai yêu tôi và tôi cũng chẳng yêu ai hết.

Cảnh cười, tiếng cười nhẹ mỏng rớt mau, dừng chân châm nối điếu thuốc mới. Bắt đầu thấy chóng mặt nôn nao như những đêm đi nhiều, nói nhiều, hút nhiều, thuốc lá với Thạch và Đồng, giữa những cơn gió lạnh.

– Anh hút nhiều thuốc lá quá.

– Mới chỉ có ba điếu.

– Nhưng anh hút liền không nghỉ.

– Không hề gì. Ra ngoài kia là hết hút thuốc.

– Anh đi chắc còn lâu mới về Hà-nội.

– Tùy tình hình. Có thể nhanh, có thể chậm, nhưng chắc chắn là thế nào cũng phải về Hà-nội.

Lúc ấy Thạch ở đâu? Đồng ở đâu? An ở đâu? Trinh ở đâu? Chắc chắn là về. Có phải bỏ đi vì biết chắc chắn được trở về? Còn Thạch?

– Vở kịch dài. Sợ đến giới nghiêm mới tan.

– Em không muốn xem nữa…

– Cô nên xem cho biết… Vở kịch hay… Còn buổi nào nữa không? Còn tôi cũng phải đi xem.

Trên thềm nhà hát Lớn vắng lặng, đèn sáng, không bóng người. Cảnh đưa Trinh đi giữa khoảng công trường rộng, tiến lên từng bực chậm chạp.

– Hay thôi em về… Chắc nó vào xem rồi.

– Cô cứ vào thử xem. Nhỡ cô ấy đợi thì sao.

– Chắc nó chẳng đợi đâu.

Cảnh bước vào trong vùng sáng rỡ của hành lang ngoài nhà hát. Khuôn mặt Trinh lộ lên như một con trăng mọc, con trăng đột ngột mọc lúc nửa đêm giữa cảnh u tịch, ngửa nhìn; cặp mắt mở lớn được ủ trong những ý nghĩ ngủ chết. Trinh, Trinh, đây này… bắt tao đợi lâu quá. Mới xong màn tự mộ thôi. Cảnh quay lưng đi mau xuống các bực thềm, rẽ ra bờ sông và ngồi nghỉ trên băng đá công viên trước viện bảo tàng. Khi Cảnh trở về đến nhà, nghe vắng lặng tứ bề, người thiếu nữ cuồng trí không lên cơn nữa sao. Trọng chưa về, hay không về. Không đóng cửa buồng, không bật điện, không cởi quần áo, Cảnh nằm dài trên phản nhìn bóng tối.

An ghé nhà; Người tớ gái mở cổng báo tin: Thưa cậu, bà đã về sáng nay; Bảo cô Nga, tối nay tôi ăn cơm nhà, và nhảy xe điện xuống thẳng Đồng. Đứng bên cạnh người vát-man lầm lì, mắt hướng thẳng về phía trước, chân đạp chuông liên hồi mỗi khúc quanh, bánh sắt nghiến rít, lá khô cuốn chạy sào sạc theo sức hút của tàu. An nhỡ một trạm đỗ và đến trạm cuối đường Thụy-khê phải đi bộ ngược lại, giữa một phố buôn bán thưa thớt như một thị trấn vắng. Cổng ngoài nhà Đồng mở. Đồng có vẻ yếu mệt trở lại, đang ngồi xệp trên hè nhìn hai con chó nô rỡn dưới sân. Tóc không chải rối loạn, mắt trương lồi, ướt, nhiều vân máu, da xanh mét, môi tái thiếu máu; nhưng nụ cười vẫn vỗ về ấm áp. Đồng hỏi: Đi đâu đấy? Sao không gặp ở trường? An cũng ngồi xệp xuống bên cạnh: Tưởng cậu ốm, tôi vừa gặp thằng Cảnh ngoài thư viện. Một con chó bỏ chạy lại ngửi chân An và giật lùi, trong khi con khác vẫn lăn lộn theo cắn cẳng nó. Đồng quát: Chỗ khác, chúng mày… Sao không rủ cả Cảnh xuống chơi. Mới đi được mấy hôm đã thấy mệt, không thấy hứng thú học. Đồng dẫn An ra vườn, đứng dưới một gốc nhãn, hỏi: Thế nào? Có gì thay đổi? Có, có. An ngước nhìn khói bốc khét bên kia bờ tường, bay tản mạn trong các đám lá, người ta đốt những lá khô rụng trong vườn. Đồng nói: Hả, ông cụ lên rồi hả? An mỉm cười chua cay, ông có quyền làm như vậy, nhưng tôi phải gánh lấy trách nhiệm về hành động của ông… Chắc chắn là tôi phải từ chối làm đồng lõa ông. Đồng: Tôi nghĩ mình chẳng làm nên cái gì thì tự dằn vặt mình làm gì cho mệt. Đến đâu hay đấy. Cậu cứ nhân cơ hội này bảo ông cụ cho sang Tây học… lúc nào tình hình sáng sủa thì về cũng không muộn. Ở đây mãi cũng thế thôi. Hắn nói thực hay mỉa? Chúng nó ở lại chết dần mòn, vô nghĩa, còn mình… Mình cũng sẽ phải như chúng nó, nghĩa là chết dần mòn, không thể thoát thân lấy mình. An hỏi: “Thành thực cậu nghĩ như thế… cũng như thằng Cảnh. Tôi không thể tự giải thoát khỏi những mối liên hệ gia đình, giai cấp?” Đồng tụt một bàn chân ra khỏi guốc gác lên thân cây: “Không… tôi không đặt vấn đề theo lối ấy. Tôi cho không nên… không nên đặt vấn đề… Tại sao? Tại sao hả? Tôi nghĩ là các vấn đề đều được đặt và giải quyết bằng các ý niệm… ý niệm trừu tượng… Đồng thun mũi tự chế riễu, ngắt ngang lời, sỏ chân vào guốc, phủi những con kiến đen bò nhanh trên tay áo. An ngắm kỹ Đồng hơn, đôi lông mày rậm sếch, hàm râu xanh lởm chởm ôm khuôn mặt vuông, có thể sẽ chết trước khi trở thành một thi sĩ. Những ý nghĩ, những con vi trùng, cuộc chiến tranh tàn phá, cái xã hội cạn nguồn sinh lực… bóp nghẹt dần nó, tất cả, cả một thế hệ…

– Chính chúng ta có thể gọi là một génération perdue. Phải không Đồng? Không tin tưởng, lạc lõng… Các bậc đàn anh, cha chú ở ngoài kia cũng như trong này đều chống lại chúng ta… Hay chúng ta chống lại họ cũng vậy. Thế hệ trước chúng ta họ có lịch sử và chúng ta thì không. Chỉ còn một thái độ hư vô. Nous sommes perdus

Đồng lẩm bẩm nhắc lại câu của An… perdus và cười khí khí: Có thuốc không? Đồng hít hơi thuốc, vẻ say sưa ngon lành, đi khỏi gốc cây nhãn tiến tới phía bụi chuối và đu đủ sát chân tường, đứng tiểu tiện. Đồng hỏi: “Xuống bằng tàu điện hả?” An đuổi theo.

– … Như thằng Thạch đấy? Nó phiêu lưu… Tôi nhớ một lần nó có nói: nó đi lính là đánh giặc mướn, đánh giặc mướn ngay tại xứ sở của mình. Cũng như bọn Lê-dương vậy… Nó nói lâu rồi… Mình rồi có làm gì cũng đến như thế. Tiêu tan dưng không chẳng ra cái gì cả.

Đồng đi trở lại, ném mẩu thuốc xuống đất, lấy guốc đi: “Thôi cậu nói mãi cái chuyện ấy chán ghê. Cứ luẩn quẩn, loanh quanh…” An quên hẳn ý định thúc giục mình xuống gặp Đồng, ngửng nhìn trời đang đùn những đám mây khói. Phải, thôi đi, im lặng đi, nhắm mắt vào lao mình tới… Mẹ Đồng từ bên mảnh vườn trồng rau, tay xách những nắm cỏ mới nhổ đi sang; bà hỏi: Cậu nào đấy? và An đáp: Thưa con. Bà cười bảo: Cậu ở lại chơi ăn cơm với em nó. An từ chối, Đồng nháy mắt và dẫn An đi trở vào sân gạch, thủng thỉnh ra ngõ. Đồng nói: “Cậu viết đi?” Hỏi viết cái gì mới được. Viết không phải là một lối quên, viết là phải chạm trán rõ rệt hơn với cái thân phận của mình, viết để làm gì? Đồng bảo: “Viết chuyện tình chẳng hạn; tôi giúp cậu một đề tài: một thanh niên như bọn mình chẳng hạn, ban ngày hắn bận tâm thảo luận, lo lắng tìm kiếm lịch sử và đêm đến hắn giam mình trong phòng kín, trần truồng viết thư tình, toàn là thư tình không có đối tượng…” Đồng cười dài tiếp: “morbide hả, cậu thấy thế nào?” An đáp: “Nó vẫn chỉ thấy nó, thấy nó một cách mù tối hơn và chắc chắn là nó thủ dâm”. Đồng vỗ mạnh vào vai An: Bon écrivain. Ngoài đường cái hai anh lính tây đen chân dài lòng cong lưng cưỡi hai chiếc xe đạp lảo đảo đuổi nhau, la hét ầm ĩ. Đồng đứng lại bên đường sắt: “Cậu thử viết xem”. Chuyến tàu điện lên phố, chạy ngang và đỗ lại cách chỗ đứng vài chục thước. Không định trước An bắt tay Đồng bảo: Về đây và chạy đuổi theo tàu sửa soạn chuyển bánh. Nhà vẫn như chưa có ai về. Đi ngang buồng Nga, cửa mở nhưng không thấy người. An vào buồng riêng đóng chặt cửa, thay quần áo, lên giường nằm. Đầu óc trống rỗng, giấc ngủ vùi kín mít, thân xác bở rã như đất khô nắng. Lúc An tỉnh lại, mất phương hướng, không hiểu đang nằm chỗ nào. Buồng tối đen, cửa sổ không mở, An mò mẫm trong bóng tối, mở cửa kính và cửa chớp. Mưa bụi mơ hồ trên các lá cây trong vườn, ban công nhà đối diện sáng đèn, buồng bên cạnh nghe tiếng dép của Nga. Nga đến cửa sổ buồng, ngó đầu nhìn sang hỏi: “Anh về bao giờ đấy? Em tưởng anh chưa về?” Rửa mặt mũi xong vào bàn ăn, An chỉ gặp Nga. Bà cụ đi với bạn, giải quyết mấy công việc cần, không ăn cơm nhà; sẽ dọn cả gia đình vào Sài-gòn trong vòng tháng này, Nga nói vậy. An nói: Thế hả? rồi cắm cúi và cơm. Trong ra-đi-ô, một nữ ca sĩ đang nức nở rên rỉ, Nga buông bát định đứng dậy tắt máy. An nói: “Để nghe mày.” Nga cau mày: “Em không hiểu tại sao anh lại nghe được loại nhạc lải nhải này”. An bảo: “Bình dân mà… Tao mơ mộng một cách bình dân thế thôi”. Khi ăn tráng miệng, Nga hỏi: “Vào Sà-gòn, anh nghĩ thế nào?” An ngồi thoải mái trong ghế dựa, nhấm nháp tách cà-phê đậm hỏi lại: “Cô nói trước nghe thử xem.” Nga lộ vẻ đăm chiêu, ngừng tay xỉa răng: “Xa Hà-nội buồn; nghe nói Sài-gòn ồn và hỗn tạp lắm.” Có lẽ nó bỏ lại Hà-nội một anh chàng thất tình nào? Nó yêu ai? Có thể là một đứa mình vẫn gặp ở trường Đại-học mà không biết, một anh bác sĩ tương lai, nối nghiệp bố vợ, một anh bộ trưởng tương lai… Và nó trở thành một bà mẹ thứ hai khuôn đúc. “Chắc anh thích vào Sài-gòn đổi không khí?” An lắc đầu hỏi lại: Nhất định rồi. Nga đáp: “Mợ nói thu xếp xong việc có thể đi sớm hơn; em nghe nói có thể anh vào trong ấy trước… cậu gọi”. Lúc này là lúc quyết định, không thì sẽ không bao giờ, tôi phải quyết định. Phải tách rời khỏi cái quá khứ đã tạo thành mình. Tôi sống một cuộc đời khác do tôi lựa chọn và tạo lập. Tôi sẽ trở nên? An trở lên buồng, dặn Nga: “Tao mệt đi ngủ sớm đây…” Nga nhìn bằng con mắt khác lạ như muốn soi thấu tâm trạng.

An mở tung các cánh cửa tủ quần áo và đựng sách để nguyên, đến ngồi trước bàn viết, suy nghĩ không biết nên mang theo thức gì. Mọi thứ đều như cần thiết, quen thuộc không thể thiếu, quá khứ thật là nặng. An rút trong ngăn bàn tập sổ ghi chép những ý nghĩ bừa bãi, những thắc mắc loanh quanh, những nhận xét đột ngột không ngày tháng rõ rệt đã bỏ quên hẳn lâu ngày không thể hình dung lại được tâm trạng của thời khắc đã chôn vùi. Tiếng kèn xe hơi gọi ngoài cổng. An vội tắt đèn, ngồi trong bóng tối lắng nghe tiếng chân chạy vội trên lối sỏi, cánh cửa sắt được kéo mạnh, giọng nói thanh tao đài các của mẹ hỏi chuyện người nhà. Giọng nói ấy vang âm dưới phòng khách lẫn với giọng của Nga ấm và trầm hơn một cấp, tên An được nhắc đến. Rồi một ngày sẽ tới, cái tên ấy sẽ thưa được nhắc đến ở đây… Trong ánh sáng mập mờ của ngọn điện ngoài hè phố xuyên qua các lùm cây trong vườn, An xếp một vài món đồ cần thiết nhất, ba bộ quần áo vào một sắc tay du lịch. Không đem theo một quyển sách nào, không phải là ngày nghỉ về quê hay ra biển tắm… Những quyển sách như môi giới của thế giới khác, trở nên vô dụng, chính tôi tôi đi đến những thế giới ấy và có thể tôi sẽ tạo nên những quyển sách của tôi. An thức rất khuya nghe im lặng của phố phường lùa lên theo những cơn gió, mệt bã người, nỗi nhọc mệt cắn rứt lại như moi nhớ nhung kêu gọi một thân thể khác ôm ấp vỗ về mơi yêu. An tưởng đến Phúc, những cử động nghèo nàn trần trụi không thoát khỏi thói quen khêu gợi dục tình và sự kinh tởm. Qua cửa sổ An nhìn thành phố câm nín trong giờ giới nghiêm, hiện lên trong ánh đèn vàng những bóng cây lớn sù sì, mái nhà lô xô, mặt đường lá lăn chạy nghe tiếng ầm ì của nhà máy đèn vọng tới. An chợt vểnh tai chú ý tới tiếng sầm sì trong buồng Nga, đèn tắt tối om, tưởng như tiếng người trò chuyện. Một lát nghe rõ hơn chỉ là giọng của một người nho nhỏ đều đặn như đang cầu kinh. An ngạc nhiên, đứng lặng trong tối, tĩnh trí, đúng là Nga đang đọc kinh; mi mắt nặng chĩu, tay chân không muốn cất nhắc nhưng thân trí tưởng như tỉnh táo lắm, Nga đang đọc kinh, nó yêu một đứa theo đạo, nó buồn, sợ… An ngủ đứng một chỗ, không biết là bao lâu, và khi giật mình thì phòng bên cũng đã im tiếng. An chập choạng nửa thức nửa ngủ vào giường vùi mình vào trong chăn, tự nhủ: Mai, mai đi. Cần một món tiền. An dậy muộn và khi qua phòng khách, chỉ gặp Nga đang ngồi tiếp Hán, thư ký riêng của ông bố. Hán đã bỏ đôi dép cao su ngày mới hồi cư, bộ quần áo tây vàng xin được của lính ngày ra khỏi camp Máy Chai Hải-phòng, được thay bằng bộ complet màu sáng, đầu tóc ngắn bờm xờm đã cắt tỉa thành một mái chải gọn như cái chứng tích cuối cùng cố ý lưu lại cho mọi người thấy hắn là một cựu cán bộ kháng chiến về thành. Không hiểu ai giới thiệu Hán với ông bố, ít lâu sau khi nghe hắn nói chuyện tại nhà Hát lớn với tư cách một cán bộ kháng chiến phản tỉnh trở về, An gặp hắn đến bàn luận với ông bố và được coi như người thân trong gia đình. Hán gọi ông bố và bà mẹ An bằng anh chị và được gọi lại bằng chú. Hán bắt tay An siết mạnh mời: “Anh ngồi chơi, giọng Nghệ-tĩnh nặng nề chối tai, Đồng đã phê bình: Nghe cái giọng xứ Nghệ cứ lạnh cả xương sống, chỉ thấy những sắt với máu. An ngồi xuống nhìn Nga, nghĩ tới tiếng đọc Kinh nửa đêm và nghi hoặc không rõ mình có thể là nằm mê không. Hán nói ông cụ dặn hắn ra mời An vào Sài-gòn như một người cộng tác. Nga xen lời: “Cậu cũng gửi tiền bảo anh đi kiếm mua hộ một ít sách cần dùng mang theo vào”, trao cho An một cái phong bì lớn dán kín, Hán nói tiếp: “Trong ấy có cả tiền vé máy bay của riêng anh. Ông cụ nhờ tôi nói cẩn thận với anh là không phải vì bố con mà nhờ anh. Ông cụ hiểu giá trị của anh. Dù có bất đồng ý kiến chăng nữa, ông cụ vẫn tin là anh sẽ làm được việc. Đây là dịp để anh làm việc, ít nhất cũng có hiểu biết thực tế. Ông cụ định mời anh làm Tham chánh văn phòng…” An mân mê chiếc phong bì trong tay, hỏi Nga: Mợ đâu? Hán thuyết về sự tiêu cực trùm chăn của các trí thức trong thành không dám dứt khoát lập trường tư tưởng. “Tôi cũng thấy như anh và nhiều lần tôi cũng đã bàn với ông cụ. Đồng ý là thối nát, là không có quyền chủ động nhưng nếu cứ thụ động thì biết đến đời nào mình thay đổi được tình thế. Chỉ còn có nước đợi Cộng sản về và đi công trường hết cả. Anh thấy không? Mình phải lăn vào, làm cái gì để thức tỉnh người khác chứ. Tôi đã sống với Cộng sản, tôi không thể khoanh tay mà nhìn chúng nuốt nốt cái vùng chúng ta có thể cướp làm của chúng ta”. An mỉm cười làm bộ chăm chú lắng nghe, thái độ nhiệt thành hăng say của Hán chỉ làm mình thêm chán nản. Hán tả Sài-gòn một cách mâu thuẫn, lúc hắn thích thú vẻ nhộn nhịp tưng bừng sinh khí cởi mở không gò bó như Hà-nội lúc hắn bất mãn hằn học về cái xã hội trụy lạc ngoảnh mặt với chiến tranh và lý tưởng. Nga xem chừng cũng sốt ruột nhấp nhổm, chắc nó có hẹn. An ậm ừ cho qua câu chuyện: “Tôi đâu đã già để chùm chăn, ông cụ không muốn cho tôi đi Pháp nữa à?” Hán đáp: “Ông cụ nghĩ rằng anh không thích đi, anh muốn làm việc… Để anh làm ít lâu rồi trở về học cũng không muộn”. An tự hỏi: cái gì đã cố kết Hán và ông cụ? Lý tưởng chăng? Hán là cái mẫu người của một chế độ, orgueilleux et prétentieux, hắn muốn biến mọi người trở nên giống như hắn để chống lại cái chế độ đã tác thành hắn. An đứng lên: “Ngồi chờ bà cụ tôi hả? Tôi xin lỗi đi chút việc riêng”. Hán đi theo ra tới ngoài hành lang phòng khách: “Đây là cơ hội tốt cho chúng ta…” Chúng ta, tôi ở trong cái chúng ta ấy ư? Không đời nào, An bỏ đi thẳng. Bước xuống xích-lô, An tần ngần trước cổng tò vò dẫn vào khoảng sân rộng yên tĩnh một cách đáng ngại. Từ giờ phút này, tôi phải làm chủ, chủ hết thảy: đời tôi, đời Phúc và đứa con của Phúc. Phúc đang ngồi chơi với con ngoài bàn, da mặt hồng hào mạnh khỏe, nụ cười tự nhiên như đã quên hết quá khứ. “Lân lại vừa đến đây, em không tiếp. Em nhất định đuổi, cãi nhau với bà cụ…” An đóng cửa buồng, ngồi xuống ghế: “Thế hả? Tốt lắm.” Rồi An ngồi im, nhìn bức ảnh đức Mẹ đặt trên đầu tủ nhỏ. Đứa con quờ quạng nhoài sang tay ghế An ngồi, Phúc đẩy nó sang. An bồng lấy, vừa khó chịu vừa buồn cười, cúi xuống nhìn thằng nhỏ. Không có một mối liên lạc nào, trừ mối tự mình ràng buộc lấy nó, lớn lên nó phải nhận. Tội nghiệp. Nét mặt Phúc hân hoan sung sướng rõ ràng, An mỉm cười. An trao trả con cho Phúc: “Em phải đi tìm nhà khác… Bà cụ có thể ở lại đấy. Bà ấy có thể sống một mình không cần đến em.” Phúc cúi đầu suy nghĩ. Em, em cũng phải lựa chọn và hy sinh như anh vậy. Biết không? Chỉ có như thế, mới có thể… “Anh muốn như thế. Em phải dứt khoát…” Phúc thở dài, nàng ôm sát đứa con vào trong ngực. “Còn con?” “Anh là cha của nó.

CHƯƠNG III

Mùa đông tới đúng kỳ, những ngày đầu mùa khô se, không khí giá lạnh, trong gió như lẫn cát nhỏ và sắc. Triệu chứng suy nhược, bệnh chưa khỏi tuyệt. Buổi sáng ra khỏi giấc ngủ buồn bã mệt mỏi, da trơn nhờn như da lươn; trưa xế khi cơn sốt tới chậm chạp âm ỉ, hơi thở hụt, bần thần rã rượi, ngực trống hấp, cơ thể đìu hiu như bãi đất hoang. Đêm phải mặc hai áo len, chân đi bí tất, đắp cái chăn bông dầy nặng hơn của mẹ. Những lúc thức giấc mồ hôi thấm đầy ngực và lưng, ngoài trời tối đen gió bấc thổi, nằm co quắp khiếp hãi viển vông, cảm tưởng như thân thể không có gì che chở kín đáo trước những nguy hiểm bất ngờ. Nhiều đêm thao thức trở mình tìm một thế nằm an toàn nhưng vẫn thấy hớ hênh dại dột, tay chân mình không thể che chở cho mình. Cái chết hung tợn rình mò, đột nhập vào những khoảng trống; khi mệt thiếp mơ thấy bị đâm thấu lưng vào phổi, cảm giác đau buốt tê rát còn đọng rõ rệt ở đúng chỗ lúc vùng tỉnh thoát cơn mê. Đồng mất ngủ, thường phải ngủ bù giấc sáng sau khi điểm tâm, trên võng trong gian nhà vắng vẻ hay tựa gốc cây sau đình chập chờn ru trí óc vào trong mặt nước hồ Tây buốt giá. Trằn trọc, Đồng nghĩ về những giấc mơ của những đêm trước, có thể là của những năm trước, những ảnh tượng còn đọng lại trong trí óc bền vững khiến Đồng bâng khuâng nghĩ là cảnh đã sống thực nhưng quên khuấy tưởng mộng, thực đến độ có thể gặp lại liên tiếp trong những giấc mơ sau; trong giấc chiêm bao Đồng nhớ một cách rõ rệt một vài cảnh tượng đang diễn là của một giấc mơ nào đã thật xa trong dĩ vãng. Nga không còn nữa, cũng như Hà, cũng như Phương. Lần cuối cùng gặp nhau là buổi tiễn chân gia đình Nga vào Sài-gòn, không có An. Nga đứng ngoài vỉa hè trước cửa hãng hàng không, chiếc sắc tay đặt sát vào bờ tường đá mài nhẵn bóng mát lạnh. Trời nắng hanh, gió thổi dài từ bờ hồ vào con phố Gia-Long rộng thoáng không cây. Không còn gì để nói với nhau, cũng không có gì để nói, cũng như mấy năm trước đưa Phương ở cùng chỗ này. Nga trầm lặng không cười nói như Phương, tòa nhà gác cao Ritz mặt tường sáng trắng ngó chéo xuống những lùm cây nghiêng dốc một bên hồ, dưới những gốc cây người qua lại. “Anh có gặp anh An không?” “Không”. Bà mẹ của Nga đứng trong gian cân hành lý với một người đàn bà khác và một người đàn ông, tướng ngũ đoản ăn mặc trịnh trọng vụng về. Nga giới thiệu: “Thưa mợ, bạn của anh An”, bà nhìn Đồng bằng cặp mắt ác cảm coi như kẻ đồng lõa với An. Bà hãy còn trẻ, đẹp, đài các, mẫu người được khuôn sẵn để làm mệnh phụ phu nhân; đứng cạnh bà, đứa con gái chỉ còn giữ được vẻ tươi mát là của riêng mình để nổi lên. Bà ngắm Đồng từ đầu đến chân: “Tôi ít gặp cậu đến chơi đằng nhà”. Đồng chỉ trả lời bà bằng những tiếng vâng ngắn, không thêm lời nào trong suốt buổi. Khi khó nói, Đồng liếc mắt cho Nga và Nga đáp hộ.

– Tôi không hiểu thằng An nhà tôi nó định làm cái gì… Cậu là bạn của nó thế nó có bàn định gì với cậu không? Các cậu ngày nay… tôi không hiểu được. Có phải nó mê gái không? Tôi sợ nó bị người ta quyến rũ… yên ổn không muốn, các cậu chỉ muốn rước những việc nặng nhọc vào thân… nếu cậu gặp nó, cậu làm ơn nói hộ tôi: bao giờ nó muốn về với gia đình, muốn vào Sài-gòn nó đánh giây thép báo cho chúng tôi. Cậu cũng khuyên nó hộ đừng vì tự ái mà làm hỏng cả đời mình. Tôi cũng muốn để cho nó làm theo ý nó để cho nó hiểu đời hơn một chút… Ai lại đang học hành bỏ dở… Để làm gì mới được? Tôi chắc là chỉ vì gái thôi… Cậu khuyên nó hộ tôi.

Chiếc xe ca chuyên chở hành khách sang phi trường đến đậu bên hè đường. Nga hỏi: “Anh có đưa em sang Gia-lâm không?” Đồng cười: “Không, anh không đi được.” Nga mở bàn tay vẫn nắm, có một gói giấy xinh xắn kỹ lưỡng: “Em tặng anh… kỷ niệm.” “Cái gì đây?” “Về nhà anh hãy mở… Anh không có gì tặng em à?” Không, tôi chẳng có gì, cả chính tôi nữa rồi cũng không thành kỷ niệm. Cả món kỷ niệm của em, tôi cũng không giữ được. Ngay những kỷ niệm do chính tôi tạo ra với Hà, với Phương cũng đã trôi theo giòng nước… L’amour s’en va Et je… Bà mẹ Nga trước khi lên xe còn ân cần nhắn gửi lời cho An. Đằng sau tấm cửa kính không hạ, Nga nhìn xuống hè, Đồng vẫy tay cười và quay lưng bỏ đi ngay khi xe mở máy. Món kỷ niệm của Nga là một sâu chuỗi mang tượng Đức Mẹ. Đồng mỉm cười một mình, anh làm gì có đức tin, vật này không có giá trị với anh và tình yêu em trao gửi trở nên vô nghĩa. Cũng như Phương, Nga còn gửi cho Đồng một vài lá thư trước khi mất hút hẳn. Đồng không trả lời, tình yêu rốt cuộc chỉ còn lại ở những phút mình với mình, nhưng Đồng không còn thể làm thơ như ngày trước khi Phương và Hà bỏ đi. Héo cỗi rồi chăng? Thay đổi rồi chăng? Trong một bức thư Nga báo tin nàng lên Đà-lạt học và có ý định phát nguyện vào một giòng tu kín. Buổi chiều nhận được thư Đồng lên phố một mình, thành phố đang rộn rịp đón Trung-thu. Phố xá nườm nượp, các hiệu bánh giăng đèn kết hoa tấp nập, đồ chơi trẻ con bày bán la liệt các góc phố – vẫn những món cũ kỹ nghèo nàn không thay đổi: đèn giấy, tàu thủy, con bướm, trái đào bằng thiếc. Tối đến những phố chính từ bờ Hồ đến chợ Đồng-xuân nghẹt cứng những người xô đẩy nhau mà đi không thoát, quanh hồ Gươm người vây kín không chỗ chen chân. Ánh sáng nhấp nháy rực rỡ, những tiếng pháo bông nổ ầm, tiếng reo hò hoan hỉ, trong giấc mơ, Đồng mệt nhoài không thở được, thấy mình đang chạy ngược làn sóng người cuồn cuộn đổ theo tiếng reo tở mở; Đồng vấp ngã cùng với đám đông, bỗng nhận ra mình nằm bên cạnh An, An cười đau đớn, Đồng bảo: Thấy Nga ở đâu không? An bị thương không nói được; Đồng bước chậm, mặc cho những người phía sau đẩy tới, có đứa thụi vào lưng Đồng từng chặp, vịn vào vai người bên cạnh nhích từng bước theo đà của đám đông; vẫn nghe những tiếng nổ vang âm lại và mỗi lần đám đông lại rùng rùng xô đẩy mạnh hơn như muốn chạy nhanh tới trước nhưng không còn tiếng hò reo nữa; hình như tiếng nổ ở lại phía sau và đám đông chen chúc ngọ nguậy rửng rưng như bị tắc nghẽn; Đồng quay hỏi người mình vẫn níu vai từ nãy: Chuyện gì thế? Đồng trông thấy Thạch, vội hỏi: Liên đâu? Thạch đáp: Không biết, lạc mất rồi; Thạch kéo tay Đồng lách khỏi đám đông thoát vào một ngõ vắng, Đồng hỏi: Nga đâu? Thạch lại đáp: Không biết lạc đâu; Đồng buồn rầu ngồi xuống bực thềm một căn nhà, Thạch đứng sững trước mặt chỉ trông thấy từ đầu gối trở xuống… Đồng tự nhủ: Nga mất rồi. Đồng không còn nhận được thư Nga nữa. Đồng chỉ còn một mình giữa mùa đông càng lúc càng rét mướt.

Trong những buổi tối, gió hút gào từ vùng cây cao Quần-ngựa đổ xuống từ mặt hồ tê cóng tưởng như đóng băng tràn vào, Đồng ngồi đấm lưng, bóp chân cho mẹ. Sau một trận đau, mắt bà yếu dần và thường hay chảy nước. Đồng thủ thỉ trò chuyện với bà, thuật cho bà nghe những tin tức lạc quan của kháng chiến; bà cần được an tâm về anh Đạo còn theo bộ đội ở hậu phương không tin tức. Nhiều lúc bà bật khóc tức tưởi, Đồng phải dỗ dành an ủi cho bà khuây khỏa, Đồng cười hích hích riễu cợt và nghe mình nhỏ bé yếu đuối lạ lùng. Một bữa bà hỏi Đồng: “Cậu không đi học nữa à? Hay cậu lấy vợ đi…” Đồng hỏi lại: “Con lấy ai? Ai lấy con?” “Tự ý cậu chọn” Đồng nói: “Con lấy vợ vào con chết” Đồng đùa nhưng bà có vẻ hối hận, thương xót đã nhắc nhở đến chứng bệnh của Đồng. Tôi sẽ chết như một đứa trai tân, như một đứa bé con trong trắng. Đồng rùng mình nghĩ mình đã hôn Nga, đã ôm Nga nhiều lần trong tay và Nga có thể bị truyền nhiễm. Đó là một kỷ niệm độc ác gửi cho Nga. Một ngày cuối tháng một, Thạch xuất hiện đột ngột. Đồng đang lên cơn sốt nằm trên giường. Đồng nghe tiếng Thạch cười ngoài thềm với mẹ, nhưng không thể trỗi dậy khỏi cơn ngây ngất chóng mặt. Thạch đi lộp cộp tiến vào buồng đến cạnh giường, Đồng cố nhướng mắt chỉ nhìn thấy một gương mặt đen tối mập mờ sau làn nước mắt ấm nóng. Đồng không nhớ nổi những mẩu đối thoại với bạn trong lần gặp mặt ngắn ngủi ấy. Thạch chỉ về Hà-nội một ngày nhân dịp công tác và sáng hôm sau, khi cơn sốt rút đi một cách đột ngột khỏi thân Đồng, Thạch đã về đơn vị. Đồng bước chếnh choáng, da nghe khô héo mát lạnh như hết nước, đầu óc thoáng sáng như một vùng nắng sớm. Đồng hỏi mẹ: “Hôm qua Thạch nó đến phải không mẹ?” Mấy ngày sau, Cảnh xuống, Đồng hỏi: “Hôm nọ Thạch nó về cậu gặp không?” “Không, tôi mới ở dưới Phòng lên” Đồng à một tiếng như sực tỉnh: “Thảo nào lâu không gặp cậu. Cậu xuống dưới làm gì đấy?” Cảnh nhếch mép cười, trông lại buồn hơn lúc thường: “Đổi không khí…” Cảnh rủ Đồng lên phố, mẹ Đồng muốn ngăn cản nhưng Đồng vươn vai nói mình đã thật khỏe, mỗi buổi chiều nhờ người y tá trong xóm tiêm một mũi thuốc bổ thật công hiệu. Tàu điện chạy ngược cơn gió mù che khuất tiếng động trong toa. Qua nhà Nga, Đồng nhìn lên cửa sổ đóng kín, gian nhà hoang lạnh như không người. Đồng thuật cho Cảnh nghe việc An bỏ gia đình ở lại Hà-nội và không biết ẩn trốn ở đâu. Cảnh nhìn vào trong đám người đi lại trên hè phố đông phố hàng Ngang hàng Đào. Xuống bờ Hồ, hai đứa đi ngược về quán Đô Thành. Đồng bước lên cái cân bàn đặt gần quầy thu tiền, ngắm khuôn mặt hốc hác của mình và nhủ thầm: sút mất ba kí-lô. Nhìn ra ngoài, dốc hàng Quạt với mảng tường lem luốc, ngõ hàng Hành bẩn thỉu khai thối cách một nền nhà đổ. Trên mặt bàn bầy mấy đĩa bánh mốc ế, hai cốc nước cam màu đỏ nhợt nổi lềnh bềnh những lát cam mỏng dính.

– Ngày kia tôi đi rồi. Cậu có gặp lại bọn chúng nó thì bảo tôi gửi lời từ biệt chúng nó. Có lẽ tôi sẽ được lên Phú-thọ, nghe nói như thế nhưng cũng chưa biết chắc thế nào. Tôi nghĩ trước sau gì mình cũng phải lựa chọn dứt khoát. Nhùng nhằng mãi cũng chẳng đi đến đâu… Phải không? Tuy không hợp ý mình hẳn nhưng trong hai phải chọn một, biết làm thế nào được… Không thể đòi cái tuyệt đối lý tưởng.

Đồng gật gù tủm tỉm, rớt lại mình tôi thôi. Tôi làm cái chân người đưa tiễn chúng bạn, ghi nhớ hộ chúng những tâm sự. Buổi chiều đứng trong vườn, có lẽ An cũng muốn nói về quyết định của nó nhưng mình đã không để cho nó nói.

– Cậu cũng không đi học nữa hả? Ở nhà làm gì? Cậu không thấy là đọc mãi cũng chán… Tôi cho nghiện sách cũng là một lối trụy lạc mới. Trí thức trụy lạc. Sách cũng như thuốc phiện, cũng như gái vậy.

Đồng nói: Hay, ý kiến hay, và vuốt lại mái tóc dầy úp nặng trên đầu. Cảnh bàn về những tin tức, biến chuyển mới: phái đoàn tướng lãnh Mỹ đến Sài-gòn hội họp với Pháp, tướng De Lattre sang Việt-nam, phong trào vận động chấm dứt chiến tranh Đông-dương của tả phái Pháp… Cái thế tất yếu của một phong trào cách mạng Đông-Nam-Á dựa vào lực lượng Trung-hoa.

– Thằng Thạch lầm… không có căm thù dân tộc, chỉ có căm thù giai cấp thôi. Cục bộ không đáng kể, cái đáng kể là toàn thể phong trào…

Đồng hỏi Cảnh nghĩ thế nào về những vụ đấu tố vừa phát động mà những người mới hồi cư thuật lại, không phải là những tin tức xuyên tạc của báo chí. Cảnh nhắc lại một câu của Lénine: Không thể có cách mạng mà không đổ máu, không có bạo lực… Đồng nhăn nhíu mặt mày làm bộ sợ hãi: “Cậu với thằng Thạch mỗi đứa đứng một bên rồi. Chỉ còn moi là lừng khừng ở giữa.

– Thằng Thạch nó có định kiến vì cái chết của ông bố nó… Nó hành động theo tình cảm hơn lý trí…

Đồng ngắt: Nó có cái lý của nó… Cả hai cậu đều có lý như nhau. Hai đứa đang đi bộ xung quanh bờ Hồ. Bộ mặt phố xá quá quen thuộc, dãy hàng hoa xế Godard đông người. Hàng hiên nhà Taverne royale sang trọng, hai ba người Pháp ngồi riêng bàn ngậm pipe; gần đấy trước lối vào hãng thông tấn Việt-nam Press vài người thất nghiệp đứng trước bảng đọc báo. Đồng và Cảnh tiến sang bên mái hiên phố Trường-tiền phía Thông-tin Pháp, ánh sáng mờ tối đi như trong một cơn mưa buổi chiều xế. Đồng bảo: Mai kia cậu đi là tôi hết người đi chơi.

– Đáng lẽ tôi đi từ tháng trước… mà cứ trắc trở mãi. Hết vấn đề liên lạc lại đến vấn đề… tình cảm. Nghĩ kể… dứt bỏ quá khứ tình cảm không phải là dễ. Những điều mình coi là tầm thường cũng có cái sức trì kéo mạnh ghê… Cho nên suy ra phải làm mạnh, phải dùng bạo lực mới mong chặt đứt được những liên hệ cũ…

Hai tay bỏ túi quần, đầu cúi mái tóc trước rủ xuống, bàn chân tái thâm trong đôi săng-đan cũ kỹ, Cảnh xoay nghiêng người né tránh những người ngược chiều trên hè. Sự quyết định làm xuất hiện một phần bản ngã của Cảnh vẫn che dấu, lần này chính nó tự phô để nhìn ngắm trước khi ngoảnh mặt vĩnh viễn không thèm chú ý tới. Đồng nói: Cậu sẽ ăn Tết ở ngoài… năm nay… Băng ngang đại lộ, vỉa hè vắng hẳn đi không còn người, trước mặt là nhà Hát Lớn cao đứng sững trông khoảng đường sạch rộng thênh thang dưới chân nó. Đồng nói: lên trên kia ngồi nghỉ, moi mệt rồi. Leo hết mấy bực thềm trước nhà hát, cơn mệt ngấm ngầm đột ngột đập dội trong ngực như muốn đứt thở, Đồng ngồi bệt xuống một mặt đá thở phì phò, mồ hôi rịn khắp các lỗ chân lông và gió thổi thấm lạnh, tai ù choáng. Từ trên cao Đồng nhìn suốt con phố thẳng hai bên nhà cao rồi tới vòm cây xanh thẫm hút, xe cộ và người qua lại chỗ ngã tư bờ Hồ rối rít mập mờ. Dường như Cảnh nói một câu gì, rồi ngoảnh nhìn về phía nhà Băng. Một màn đen chập chờn trước mắt, Đồng nghĩ mình sắp ngất vội chống hai tay xuống gạch, người bấp bênh nghiêng ngả như cành cây bị gió lay động. Vài phút qua Đồng thoát khỏi cơn mệt nhọc và nhận ra Cảnh ngồi bên, nét mặt bình thản không một chút hay biết. Đồng linh cảm những khủng khiếp trong tương lai, không phải là tương lai của tôi, tôi sẽ sụp vào trong hố thẳm hư vô nhưng chúng nó còn sống, mỗi đứa một phía, những đứa bạn thân thiết, và tương lai ấy của chúng nó…

– Thằng Thạch đáng tiếc nhất… Cậu thì không kể. Cậu đau yếu với lại thi sĩ quá. Nhưng còn nó, đáng lẽ trong chuyến đi này phải có nó, nếu nó bình tĩnh… Tôi đã nói với nó nhiều lần: không có những vấn đề của cá nhân, và không có bạn bè thì mình chẳng làm được gì… Nếu cậu còn gặp nó…

Tôi nói gì, cả hai đứa đều đặt tôi ra ngoài, tôi đau yếu bệnh hoạn và tôi mơ mộng. Tôi như một trí nhớ tách rời của chúng và giữ hộ chúng những gì chúng không muốn mang ở bên lòng. Đồng vịn vào vai Cảnh đứng dậy, nghĩ không biết có thể một mình về được đến nhà không. Bước được vào buồng riêng, nằm lên giường, Đồng bàng hoàng như thấy một phép lạ, tôi vẫn yên ổn, vẫn thở vẫn sống trong khi rõ ràng cuộc sống đang rút dần khỏi cơ thể, óc não. Rõ ràng, không thể chối cãi được.

Trên hè ngoài cửa hiệu, chiếc mô-tô nổ thử máy kêu vang một đoạn phố. Hai bàn tay và chiếc áo dạ lính cũ đầy dầu mỡ, Thái đang lúi húi xem máy với đứa nhỏ phụ việc chạy quanh. Cảnh đến đằng sau lưng Thái, đứa nhỏ phụ ngước nhìn làm một cử chỉ ra hiệu cho Thái nhưng anh không thấy vẫn chăm chú vào công việc. Trong hiệu xe đạp xếp hàng, mới lẫn cũ. Những chiếc sườn vừa sơn treo lủng lẳng nhiều màu, tủ đứng bầy đồ phụ tùng, đồ nghề bừa bãi dưới đất. Thái tắt máy, nhặt điếu thuốc cháy dở đặt gác trên cái kìm, hít một hơi dài:

– Cậu lên gác ấy.

Cảnh đi qua cửa hiệu vào trong. Sau cái tủ kính thấp, một đứa nhỏ bò lê dưới đất không người trông. Bên trong cửa hàng, trên tấm phản kê vừa sát vào tường và lưng tủ chất đông chăn gối ở một góc. Cầu thang gạch trần ngay cửa ra sân. Trời buổi trưa nặng. Trên đầu cầu thang nhìn qua bờ tường thấp thấy sân nhà hàng xóm. Người đàn bà ngồi bó gối ở một đầu phản, mặc chiếc áo len cụt tay màu mực tím, đầu chít khăn len che mái tóc cắt cụt đến vai, dấu hiệu của người mới ở ngoài vào thành. Khuôn mặt dài, đen da khô hơi sần, cặp mắt đục ốm yếu, khó đoán tuổi. Có lẽ chị chưa đến ba mươi. Một mẫu người mới, không nhan sắc nhưng hữu ích. Người đàn bà cũng là hai cánh tay và bộ óc như người đàn ông. Vẻ đẹp sản phẩm tư sản, một tội lỗi như tình yêu. Lần đầu gặp chị ở nhà Hương, được đón tiếp bằng một nụ cười, không phải là nụ cười trang điểm tự biến mình thành đồ vật cho người nhìn ngắm. Ngôn ngữ xử dụng vừa đủ để thông hiểu nhau, không phung phí thừa thãi làm trụy hoại tâm hồn trở nên một mớ tình cảm bầy nhầy: ngôn ngữ chỉ đích danh sự vật không mầu mè quanh co, giả đạo đức. Một mẫu người mới. Người đàn bà không thuộc riêng ai, không cần phải quyến rũ ai… Vẻ đẹp vô sản, không được, vẻ đẹp là phải tư sản, Đồng đã nói. Nó mơ mộng trong một thế giới làm sẵn không muốn đổi thay, một thế giới tàn tạ tự đục ruỗng mỗi giây phút.

– Anh sửa soạn xong chưa?

– Tôi xong cả tháng nay.

– Chiều nay hay cùng lắm là chiều mai đi. Anh cho tôi số nhà của anh, tôi đến gọi. Anh cứ ở nhà đợi, như thế tiện hơn…

Người đàn bà đứng lên, ra bàn xé một tờ giấy trong quyển vở học trò đưa cho Cảnh. Chị nhận lại tờ giấy, nhìn đọc khá lâu, gấp làm tư, bỏ vào trong túi áo cánh.

– Chị biết không?

Chị gật đầu: tôi tìm sẽ thấy. Chị xoa hai tay vào nhau, móng tay cắt sát tròn ngắn, nhiều dấu gạo trắng.

– Mình sẽ đi về mạn nào?

– Tôi cũng không biết. Tôi chỉ đưa các anh đến chỗ tiếp đón ở đấy… người ta lo liệu cho các anh rồi tôi lại trở về Hà-nội.

– Lần này đông không chị?

– Bốn năm anh gì đấy. Cũng toàn là học sinh trốn lính như anh.

Không phải tôi trốn lính, tôi không chạy trốn. Tôi lựa con đường tôi phải đi. Cảnh bẻ ngón tay kêu cắc cắc hỏi:

– Mấy giờ chiều nay chị đến? Tôi muốn đi đằng này có chút việc.

– Anh cứ đi. Trước năm giờ.

Bây giờ chưa đến ba giờ, còn khoảng hai tiếng đồng hồ nữa. Cảnh từ biệt người đàn bà, không biết nên chào bằng cách nào. Dưới cửa hiệu, Thái đang đứng trông cho đứa nhỏ cầm khăn chùi sạch chiếc mô-tô. Anh đưa tay cho bắt, hỏi: Xong rồi chứ? Cảnh gật đầu, bước ra ngoài phố Huế, đi ngược lên bờ Hồ. Phụ nữ Hà-nội năm nay đều mặc áo nhung khoác ngoài áo dài. Những mái tóc uốn đã thấy đông hơn. Ngoài hành lang rạp Majestic và Studio đều vắng. Phim Les plus belles années de notre vie. Có lẽ Trinh đã đi xem phim này. Theo quảng cáo phim có đủ cái thi vị tiểu tư sản: Chiến tranh và những thảm kịch cá nhân nó gây ra. Ciro’s tan xuất trưa. Hamlet, nous sommes des Hamlet, Đồng, hoài nghi, khắc khoải, điên tỉnh và bất lực… không; chúng ta không thể làm gì được cả. Vô ích. Tốt hơn hết là sống như một người thường. Humble Mortel… Tôi nghĩ thế. Làm những công việc thường, thiết thực, ích lợi cho người khác. Thí dụ cho vợ tôi, cho con tôi. Đời người ta sinh ra đâu phải để làm cách mạng. Hòa nói trong khi người học trò vừa trở thành đàn bà, chưa bỏ cặp tóc, mặt còn ngơ ngác mới mẻ, ngồi đan những tấm áo xinh xinh. Bất cứ lúc nào sự yếu đuối nhu nhược cũng có thể kéo mình rớt xuống. Trọng dặn dò: “Thôi cậu đi một mình là đủ rồi! Đừng rủ thêm Đăng nhé”. Ngoài giờ làm việc ở trường, Đăng nhốt mình trên gian gác tối ở phố Trại Cau như tù. “Cậu cứ sống mãi như thế này đến bao giờ?” Đăng cười, chỉ thấy hàm răng trắng đều như con gái: “Rồi tình hình thay đổi chứ…” Nhà bưu điện, người ra vào tấp nập. Phải tránh gặp người quen, chỉ còn vài giờ ở Hà-nội. Có thể đi quên giờ về nhà, chiều nay, chiều mai, chiều ngày kia và… sẽ ở lại. Vẫn không có gì thay đổi.

– Cảnh. Đi đâu đấy?

– Đi lang thang.

– Vẫn yên ổn hả? Chuyện động viên đến đâu rồi?

Người đi lại ở xung quanh. Cảnh cau mặt nhìn sang bên bờ hồ. Đâu cũng gặp những tên quấy rầy. Dường như chúng lúc nào cũng rảnh hơi nói huyên thuyên.

– Không đi đến đâu cả. Còn cậu?

Moi xin được vào ngồi trong trại tuyển binh ở Ngọc-hà.

– Tốt nhỉ.

Cảnh vén tay áo xem giờ, ba giờ hai mươi lăm phút, chìa tay: moi đi có tí việc bận… Nghe tiếng gọi sau lưng: cần gì moi, tìm moi. Cảnh không nhớ nổi tên đứa vừa gặp. Có thể hay gặp nó ngoài thư viện hay ở trường. Cảnh cắm cúi bước mau, vòng vào phía Ấu trĩ viên, đường dâm vắng hơn. Trọng: Nếu cậu ra khu Tư, cậu tìm liên lạc với thằng em tôi… Ông chú tôi cũng ở đấy. May ra họ giúp gì được cậu chăng… Có một điều là. Mà thôi. Cậu cứ làm những gì mà cậu nghĩ là đúng. Những gì tôi nghĩ là đúng. Không phải. Những gì mà lịch sử cho là đúng. Những gì có thể phủ nhận chính cá nhân tôi. Thạch nó không chịu vậy, nó cưỡng chống lại, và nó… Nó không thể phủ nhận cái chết của người thân nó. Lịch sử là như thế. Bạo động, mù quáng vô lý, bất kể cá nhân. Và cá nhân phải sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của nó. Cảnh tới đầu ngã tư rẽ vào nhà Trinh, đứng lại. Mái hiên hai bên phố thấp che tối các mặt nhà, yên lặng. Một chiếc xe đang rỡ hàng ở giữa phố, một người phu khuân vác các bao hàng qua lại trên vỉa hè không có người qua lại. Từ trong nhà Trinh, một người đi ra, một người đàn bà, rẽ về phía cuối phố. Cảnh quay lưng bỏ đi, giờ này Trinh còn đi học. Để làm gì mới được? Ích gì? Những vướng mắc nhỏ nhặt và khó chịu. Khó chịu. Phố, nhà, cửa hiệu… Thành phố không còn một chút sinh khí, linh hồn. Chỉ còn vẻ đẹp mông lung. Một nỗi nhớ tiếc không thành hình. Xe cộ chảy xuôi một chiều rộn rịp. Tiếng động miên man. Cầu cho về đến nhà, đi ngay tức khắc. Kéo dài mãi thời gian chờ đợi lê thê. Trọng vẫn chưa tìm được gian buồng khác. Dưới chân cầu thang gỗ, người đàn bà ở buồng bên cạnh chào và nói: Chiều nay nhà tôi mời hai cậu bên ấy sang sơi cơm, uống rượu… Bà ta bưng bên nách một rổ rau tươi. Cám ơn ông bà, chiều nay chúng tôi bận, để xin khi khác… Người đàn bà vẫn đon đả: Cậu đừng làm khách. Không có ai cả… Chốc nữa thế nào cũng mời hai cậu sang chơi.

Cảnh loay hoay mở khóa cửa buồng, nghe tiếng người đàn ông đứng ở cửa buồng bên: Cậu Cảnh ơi, chốc nữa mời cậu sang uống rượu với tôi. Hôm nay nhà tôi làm món dấm cá… Lại phải nhắc lại câu từ chối. Người đàn ông theo chân vào buồng. Ông ta co ro trong cái áo lạnh mỏng đứng giữa buồng, bộ quần áo trắng mầu cháo lòng. Mái tóc khô sổ rũ trên trán, hàm răng lộ cáu đen khói thuốc. Ông ta là nhà cách mạng từng lưu vong sang Trung-hoa, bây giờ không làm gì cả, nằm nhà vợ nuôi, cả ngày hút thuốc lào, uống trà tàu bàn chuyện thế sự với một vài đồng chí còn sót. Lâu lâu trong nhà lại có một bữa giỗ kỷ niệm một đồng chí cũ, tập hợp một số anh em, uống rượu nhắc thời oanh liệt xưa… Chỉ tội bà vợ phải nai lưng nuôi chồng với một bầy bốn năm đứa con.

– Thế nào chốc nữa cậu cũng sang chơi. Uống rượu rồi nói láo cho đỡ buồn. Tôi thú thực tôi quý các cậu lắm. Sống như các cậu mới xứng đáng là thanh niên… Hả, nói láo mà chơi nghe láo chơi. Thời thế này chỉ có thế là vui thôi.

Những người – không biết may mắn hay bất hạnh – bị lịch sử cuốn hút vào trong một giai đoạn, bị bỏ rơi lạc lõng, không thể trở về đời sống bình thường. Lúc nào cũng sống trong ảo mộng mình vẫn còn nắm tay lịch sử, lúc nào cũng bị huyễn hoặc về mình… Chỉ là xác ướp, chết rồi. Những cái xác vật vờ ở bên lề lịch sử mà không hay. Mình phải đuổi theo lịch sử…

– Tôi đang đọc Liêu Trai. Thú vị ra phết. Các cậu còn trẻ có lẽ không thích. Phải vài mươi năm nữa, thấm thía kinh nghiệm mới hay. Văn chương mà đến như vậy thì thật là tuyệt.

Độc thoại. Nói mãi, nói cả ngày để che giấu sự trống rỗng hoàn toàn. Cách mạng đối với ông ta cũng như thuốc phiện. Phiêu diêu và hư tưởng. Không có một quan niệm nào rõ rệt về xã hội, về các vấn đề phải giải quyết. Chỉ biết nói mà nghe chơi. Làm thế nào cải tạo xã hội với những phần tử… Cảnh nhấc chiếc sắc tay đặt lên phản, kéo fermeture ra kiểm lại đồ đạc mang theo.

– Cậu lại sắp sửa đi đâu?

– Vâng, tôi xuống Phòng dạy học.

– Nghĩ tức nhỉ. Những người như cậu không được học hành đến nơi đến chốn. Hết phải lo kiếm ăn đến lo đi lính. Bảo sao nước mình không thiếu nhân tài.

– Mỗi thời mỗi khác. Thưa ông lúc này đâu phải là lúc yên ổn, hòa bình. Sống cảnh nào mình phải chịu cảnh ấy.

– Đã đành… đã đành. Chiến tranh, chiến tranh là ai cũng phải khổ. Người ta cứ bảo là khôn chứ tôi thấy chẳng bao giờ khôn cả. Suốt đời cứ tranh chấp toàn chuyện không đâu. Hết chiến tranh này đến chiến tranh khác. Cậu nghĩ coi đến bao giờ thì thế giới này đại đồng?

Người đàn ông đứng bên cửa sổ trông ra bức tường hông biệt thự bên cạnh, nhìn xuống lối cổng ra vào. Tiếng ồn ào cãi cọ trong bếp vì chuyện nước đổ không ai chịu quét. Cảnh mong cho người đàn ông ra khỏi buồng để được đóng cửa nằm thảnh thơi vài phút với mình. Năm giờ kém mười lăm. Đi được trước khi Trọng về là tốt hơn cả. Viết lại vài chữ từ biệt. Anh Trọng, tôi phải đi ngay chiều nay. Xin lỗi đã làm buồn lòng anh. Hy vọng ngày có thể gặp nhau chung trên một đường. Chung trên một đường. Có thể được không? Có thể là vĩnh viễn chia cách. Với Trọng, với Thạch, Đồng… Họ đứng ở phía nào? Phân hóa giai cấp. Đáng lý tôi không thể đứng ở đây, vậy mà… Thạch nói, giọng buồn. Câu ấy tôi cũng có thể nói.

– Chốc nữa thế nào cậu cũng sang nhớ.

– Vâng. Nếu tôi không bận. Ông miễn thứ cho. Chiều nay tôi cũng đang đợi một cái hẹn…

– Ờ, cố sang. Canh dấm nhà tôi nấu tuyệt hảo.

Cảnh khép cửa buồng, ngồi nhìn chiếc sắc tay trên phản. Chỉ có thế. Mình chỉ có mình. Buồng bên cạnh tiếng hút thuốc lào ròn tan. Người đàn ông thở khói um, mắt lờ đờ, miệng ứa dãi. Ông ta nghĩ đến những ngày xa xôi, chỉ huy Phục-quốc-quân chiếm đóng Lạng-sơn. Nhớ những ngày thất bại… Không một mối liên hệ. Tôi tìm lịch sử, lịch sử sẽ tới, không phải quá khứ. Tất cả bạn bè đều bị quá khứ ràng buộc. Cảnh mặc thêm chiếc áo khoác ngoài nhầu treo trên lưng ghế, ra cửa sổ ngóng xuống cổng. Người thiếu nữ cuồng trí lấp ló mái tóc rối bù nơi cửa sổ. Đi đến đâu? Gặp những ai? Chắc chắn sẽ phải qua lớp cải tạo tư tưởng. Chấp nhận hết, không đòi hỏi gì hết. Bằng lòng xóa trắng mình. Tôi sẽ không là gì nếu không gia nhập được vào lịch sử. Chiều bỗng nhiên rét ngọt. Không gian như co đặc lại vây kín mọi tiếng động hỗn tạp. Muốn trở thành… Trong cái biện chứng: nông dân – sinh viên… Thiếu số hạng thứ ba, thiếu sự trở thành. Nhưng nhất định không thể trở thành một intellectuel petit bourgeois. Tôi phải đi thoát, phải đi thoát… Đã hơn năm giờ. Cảnh nằm đại lên phản cho đỡ mỏi, chợp ngủ. Buổi chiều lạnh lẽo lùa vào hai cửa sổ mở như đè nặng dần lên mặt mũi chân tay. Chỉ là giấc ngủ thiếp, quên. Không thể còn những giấc mộng, những giấc chiêm bao. Không thể còn gì… còn gì…

Mùa đông già xám cô đơn, Đồng không bước chân ra khỏi nhà. Sức khỏe suy nhược không thiết đến trường; không còn bè bạn tụ tập, phố xá khuất hẳn; con đường từ nhà sang chỗ ngồi đọc sách vào mùa hè bên bờ hồ sau đình trơn ướt gió thốc mưa buốt. Quanh quẩn hết nằm trùm chăn trên giường bật đèn xem sách, trí óc viển vông ngoài vùng lạnh giá xẩm tối, lại xuống nhà ngang ngồi hơ tay trước bếp chuyện trò với mẹ và u già. Cơm lại được dọn riêng với bát đũa được đánh dấu. Mỗi buổi sáng và chiều, thuốc tiêm vào người nhóm một chút hơi nóng say làm cho mắt mờ đi, tim hồi hộp, thở dồn; thỉnh thoảng hết thuốc, nghe khỏe khoắn nhẹ nhõm hơn. Những lúc ấy, Đồng vào ngồi trước bàn viết, soạn những tờ giấy trắng định làm thơ, nhưng một lúc chỉ chép lại những câu thơ hỗn độn mình đã thuộc. A quoi bon?… La vie est variable comme l’Euripe… Trên cây đinh trước mặt móc xâu chuỗi kỷ niệm của Nga tặng; mẹ nhìn thấy đã hỏi: Ở đâu cậu có? Đồng đáp: Của một cô cho con, bà cụ nhìn bằng cặp mắt âu yếm. Hỡi Thượng đế chưa bao giờ quen biết, mắt người to hay mắt người buồn… Đồng cười thích thú lấy mình vì câu thơ tự chế biến.

Một buổi sáng, anh Thái về nhà dẫn theo một người đàn bà, ẵm một đứa con nhỏ. Anh nói: Vợ của Đạo mới vào. Mẹ Đồng ngồi trên phản ngắm nghía con dâu rồi òa khóc hỏi: Còn nó đâu? Chị Đạo đáp: Nhà con còn ở ngoài, chỉ có con với cháu vào thôi. Chị mang vẻ mặt ngơ ngác của người lạc đến xứ lạ, nước da xanh mái ngã nước, người gầy gò, còn ghi rõ dấu vết nơi vừa rời bỏ: quần áo rách rưới, tay nải chứa những vật dụng lính Tây cho, chân đi dép cao-su tím bầm. Đứa con trai chừng hai tuổi, mới chập chững biết đi khóc ré, bà nội vội đưa tay đón đưa lên ngang tầm mắt như muốn nhìn thấy bố nó. Anh Đạo gửi thư về xin mẹ và anh Thái nuôi hộ vợ con cho đến ngày độc lập, thư viết trên một mảnh giấy ca-rô nhỏ xé trong sổ tay chữ lí nhí, nhắn gọi Đồng nêu không còn đi học, chưa lấy vợ, hãy ra ngoài với anh. Đồng bảo: Con đi một chuyến xem sao; Mẹ tưởng thật cau mặt: Cậu đi thì chết sớm. Từ ngày chị Đạo về, thế giới của Đồng thu hẹp thêm chỉ còn vào trong buồng riêng. Mẹ mải tíu tít với cháu nội, bớt phần săn sóc Đồng càng khiến Đồng được yên một mình, một mình để nghĩ ngợi đến cái chết. Chưa đầy một tháng chị Đạo lột xác, trở thành một thiếu phụ khả ái. Trong câu chuyện giữa hai chị em, chị không giấu vốn chị là đào hát, chị gặp anh Đạo trong khu Tư. Chị chưa muốn về thành, nhưng vì con mà chị phải vào, ít lâu nếu có dịp chị lại trở ra với chồng. “Ở trong này bơ sữa dễ hủ hóa” chị nói. Chị thích được thuật lại những chuyện kháng chiến, một thời gian chị đã làm công tác địch vận ở Namịnh. Chị khuyên Đồng nên nghe lời anh Đạo, rất có thể Đồng có dịp được gửi sang Trung-hoa hay Liên-sô. Đồng chỉ nghe và cười ừ hữ. Anh Đạo hiện là chính trị viên tiểu đoàn, hai vợ chồng một năm gặp nhau một hai lần là nhiều. Có lẽ chị không hiểu nhiều về chồng, Đồng nghĩ thế. Đồng thuật cho chị nghe về anh Đạo, những kỷ niệm giữa hai anh em trước ngày kháng chiến. Anh đỗ Diplôme trước năm cách mạng và chưa chịu đi làm ngay về nhà nghỉ chơi một năm. Suốt ngày hai anh em không sang hồ tắm, lại rủ nhau về nhà đánh cờ hoặc anh lấy xe đèo Đồng vào Bách Thảo hay ra Cổ Ngư nằm trên cỏ nhìn trời nước. Anh cũng hay hát và đọc thơ ông ổng vang nhà. Lúc anh đi học trường lục quân Trần Quốc Tuấn, viết thư về cho Đạo, nhà tản cư trên Phú-thọ, anh còn ký biệt hiệu là Hoài Kinh. “Anh nhớ Hà-nội mà. Dạo ấy anh Đạo yêu chị của Hà. Gia đình cùng tản cư…” Chị Đạo cười: “Tạch tạch sè quá. Hết rồi, bây giờ hết rồi”. Đồng không cãi. Có thể như thế, mọi người đều đổi thay, trừ mình. Mình vẫn bị vây ngập trong những giấc mộng niên thiếu, giòng nước đỏ phù sa chảy siết cuốn trôi tập giấy viết những bài thơ tình đầu tiên nhưng không cuốn nổi những âm vang còn lại trong hồn… Mùi cỏ dại thơm trên đồi ướt sương. Đồi chè, cửa rừng, những buổi sáng ẩm, Hà và tiếng hát trong veo trong một bầu trời nắng thượng du; những con đường đất như không người đặt chân tới và những nương sắt xanh. Chị Đạo mang về những hình ảnh khác, cũng như Cảnh tìm đến chốn khác với tưởng tượng của tôi. Eternel adolescent, tôi vẫn là thế. Ăn Tết xong chị Đạo xin phép mẹ trở ra với chồng, nhà phải thêm người giữ đứa cháu nhỏ. Đồng nhắn chị Đạo: “Chị hỏi anh xem còn nhớ kinh đô không?”; chị Đạo dặn: “Nếu chú khỏi chú nên ra”. Không, tôi ở đây đợi mọi người về tụ họp.

Mùa xuân còn mới nguyên, thành phố có vẻ thay đổi nhiều. Không hiểu vì đã mấy tháng Đồng mới lên đến phố hay vì dư âm của mấy ngày Tết còn để lại. Mưa bụi bám trên áo, Đồng bỏ tay trong túi quần đi lẫn với đám đông trên vỉa hè. Lẫn trong những màu áo phụ nữ và y phục tề chỉnh của thanh niên, Đồng khám phá gặp những gương mặt ngớ ngẩn với quần áo cũ kỹ, những màu nâu quê mùa lạc lõng của những người mới hồi cư. Những nhà đổ nát hai ba năm trước đã biến mất từ lúc nào, thành phố đông hơn, đang cố gắng xóa mờ những dấu vết chiến tranh. Đồng hút lại thuốc lá sau mấy tháng kiêng cữ, hơi thuốc nồng đậm. Đồng nghĩ đến một người để chuyện trò, một người để có thể mình ngồi im nghe tiếng nói. Có ai không? Trên bảng dán báo của phòng Thông tin, Đồng nhìn thấy ảnh ông bố Nga trong một buổi lễ. Souvenir Souvenir, que me veux-tu? Giọng âm thầm trong cơn say của Thạch. Người ta đứng cạnh thúc vào mạng sườn Đồng rồi nhe răng cười. “Không nhớ tôi à? Nhai đây?” Đồng nhìn khuôn mặt dài, cặp mắt nhỏ hơi lác chỉ nhớ mang máng. “Quên hả. Học cùng với nhau ở Sinh-từ. Nhớ thằng Thạch không?” Đồng gật đầu. Nhai nói huyên thuyên, mừng rỡ rủ Đồng về nhà chơi. Nhai hỏi có gặp Thạch không. Đồng nói gọn: nó bị động viên. Còn cậu? Inapte définitif. Nhai cười hềnh hệch xấu xí: Cũng như tôi. Nhai dẫn Đồng về phố hàng Bè, đi vào một cửa hiệu bán sơn ta, – những thúng chum nâu đen, màu sơn nâu đỏ đặc quánh – lên gác. Gia đình Nhai đông người, gian gác bề bộn chật chội, mới hồi cư đầu năm ngoái; Nhai đang học rút để bắt kịp những năm chậm trễ. “Cậu học đến đâu rồi?” “Văn khoa”. Nhai đưa Đồng ra đứng ngoài ban công, trông xuống phố, chỉ khoe với Đồng những nhà hàng xóm có con gái đẹp. “Đến chơi với tớ luôn, tớ giới thiệu cho…” Xế cửa là một lớp học tư tấp nập suốt ngày, nhiều nữ sinh. “Phố này tập trung các hoa khôi Hà-nội”. Đồng tựa tay vào lan can, nhìn được suốt phố vào giờ vắng vẻ. “Nếu gặp Thạch rủ nó đến chơi với tớ…” Đời sống với Thạch hiện tại đã quá cách xa cái đời sống của Nhai. Chúng ta chỉ có chung một vài kỷ niệm của thời ấu thơ mà thôi – Ngay với tôi cũng vậy, có lẽ tôi cũng đã mất hẳn đứa bạn thân nhất. “Tớ định ra thư viện học cho tĩnh, lại gặp cậu…” Đồng cười, nghĩ đến thật đã xa xôi thời bốn đứa gặp gỡ hằng ngoài phòng đọc sách. Où sont les neiges d’antan? Quá khứ rất gần bị đẩy lui thành dĩ vãng, tôi phóng đi trong thời gian và tưởng như sắp đến ngày cuối.

Những ngày đầu tháng hai, Đồng đi chụp lại phổi, phổi lại đã làm sẹo. Không thuốc là, cà-phê, không thức khuya, không đọc sách, không làm việc nặng quá sức và nhất là “không gần đàn bà, tránh nghĩ đến đàn bà”. Ông bác sĩ già, mắt lấp lánh hóm hỉnh sau cặp kính dầy, miệng tủm tỉm. Ra khỏi phòng khám bệnh, Đồng buồn bã ngơ ngẩn. Tôi sẽ làm gì với một thân thể lành mạnh? Tôi chờ đợi cái chết và nó không tới. Đi vài bước, Đồng đứng lại mua thuốc lá, giá thuốc lá đã tăng, không thể chia đủ cho bốn đứa. Trời buổi sáng này nhẹ cao, lởn vởn những cụm mây trắng. Chuyến xe điện chạy băng băng trên lối quành. Sáng mát trong như sáng năm xưa Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em… Đồng quyết định đi làm. Mỗi buổi sáng, Đồng đạp xe lên hiệu chụp ảnh do Nhai giới thiệu, trông nom giấy tờ sổ sách thu xuất, trưa nghỉ lại chỗ làm việc, chiều mới về nhà. Cửa hiệu lớn nằm một góc đại lộ, tầng dưới của một tòa nhà ba tầng, hai tủ kính chiếm dài hai mặt phố, vừa chụp ảnh vừa buôn bán máy móc và phim. Đồng ngồi trước một bàn giấy với sổ sách, thỉnh thoảng thay chủ giao thiệp với các bạn hàng. Nhai thường ghé thăm, ngắm ảnh phóng lớn của các thiếu nữ trưng bầy, khách chụp ảnh phần đông là phụ nữ, những anh lính Tây, lính Ma-rốc, pạc-ti-dăng… Từ chỗ ngồi, Đồng nhìn những tàn cây xanh che khắp mặt đường mỗi khi rảnh rỗi, quan sát những người ở các tầng gác trên phải đi ngang qua cửa hiệu để lên cầu thang sau lưng Đồng. Mỗi buổi chiều Đồng đạp xe lẫn vào đám học sinh, cả nam lẫn nữ, thong dong quên lãng và thường ghé vào ngồi trên đường Cổ Ngư một lúc trước khi về nhà. Trên đường về Đồng nhận ra những người bạn đồng hành ở mỗi khúc một: khi đám học sinh đã tản dần ở các ngã tư, còn lại trước Đồng hai nữ sinh, một ở Kỳ Đồng một ở hàng Đẫy; nếu về theo ngả Quan Thánh sẽ gặp một cô thợ may ở vườn hoa hàng Đậu, cô ta đi ngược đường vào phố Tiên Tsin. Đoạn đường còn lại, Đồng thổi sáo trong các phố vắng, hát nhỏ một mình, nghe như đầy đủ hoàn toàn. Như kẻ si tình đã được gặp mặt người yêu. Một buổi chiều đi làm về, Đồng gặp Thạch nằm trên võng. Thạch cười ha hả: “Cậu ký đã về. Cậu ký Đồng”. “Quan một, ça va?” Thạch không đổi khác mấy, trông vui vẻ hơn. Thạch đến từ chiều, bà cụ đã hỏi thăm hết chuyện, vừa bồng cháu vừa thuật lại cho Đồng nghe thay Thạch. Thạch ở Hưng Yên về, được nghỉ phép một tuần lễ và sẽ ở lại chơi nhà. Đồng hỏi: “Thật không?” Sau bữa cơm. Đồng rủ Thạch ra ngõ chơi. Giờ này tàu điện đã hết. Ngoài đường vắng tối, quãng chạy ngang đình làng không có nhà ở sát, như vùng ranh giới giữa hai khu vực: ngược lên phố là khu quán rượu bán cho lính Tây, suôi đến cuối đường tàu là phố của người buôn bán quanh cái chợ họp bên vệ đường. Trong tối Đồng nghe được tiếng sóng hồ Tây vỗ vào bờ đá sau đình. “Vẫn chưa chết”, Đồng nói bâng quơ không rõ về bạn hay về mình. Trời đen mát như thạch. Ánh đèn mờ yếu từ một vài ngôi nhà kiểu cổ nền qua hắt ra đường. Đồng không đừng được lên tiếng hỏi: “Liên đâu?” Hà đâu? Phương đâu? Nga đâu? Cũng như thế, có gì phải hỏi, thật là thừa. Thạch hơi ngửa mặt lên, điếu thuốc lập lòe chênh chếch: “Không biết…” Đồng ân hận đã gợi câu chuyện, nó không thích tâm sự. Đột nhiên Đồng nghe tiếng Thạch: “Tôi chỉ ở được với Liên nửa tháng. Đạo mới ở Namịnh về… Chưa đến nửa tháng. Bây giờ không biết Liên ở đâu?” “Buồn nhỉ” Vì sao thế? Thạch thôi không nói nữa. Đồng nhìn những phiến đá lún trên mặt đất, chỗ họp chợ. Tiếng gió thổi rất xa ở trên cao. Ngược trở về, Đồng lảng chuyện nhắc đến Cảnh và An. Thạch nói: “Thằng An anh hùng gớm. Không hiểu bây giờ nó làm gì. Cậu không gặp lại nó?” Đồng đùa: “Có khi cu cậu bốc đồng được mấy tháng sau lại lóp ngóp bò về. Có khi bây giờ nó đã vào Sài-gòn cũng nên.” Thạch cãi: “Cậu coi thường nó quá. Dù sao bọn mình đâu đến nỗi thế.” Có lẽ sự xa cách khiến Thạch dễ dãi với An hay đứa bạn đã đi biệt khiến Thạch công bình và thương yêu hơn. Đồng nói: “Giá như nó, thằng Cảnh hay cậu chết, tôi cũng chẳng biết…” “Yên chí. Trong tờ khai khi khẩn cấp báo tin cho ai, tôi khai tên cậu đấy”. Đứng lại trên đường sắt, Thạch nhìn ngược lên xem đám đánh nhau trước một quán rượu, tiếng kêu la chửi rủa tục tằn không có tiếng vang một lát rồi tắt; người ta lại đi vào trong các quán thấp để lại những ánh đèn sáng trơ soi ra ngoài. Đồng bảo mai sẽ lên xin nghỉ một ngày để đi chơi. Thạch hỏi: Chơi đâu? Cậu thích đi chơi đâu? Buổi tối khi đã vào giường, Thạch vẫn còn hút thuốc. Đồng hỏi: “Cậu thấy tương lai thế nào?” “Chẳng thấy gì cả, mù tịt… Đứa nào cũng mù tịt. Chắc chẳng bao giờ còn họp mặt được đông đủ. Một bữa nào sáng ra nhặt xác ngoài đồn, tôi trông thấy thằng Cảnh hay là nó vào đồn nhìn thấy xác tôi. Có thể như thế lắm chứ…” Đồng nhắm mắt lại, trên màu đen của thị giác thấy những chấm xanh đỏ bay tung với những đường vòng rối rít. Không còn cách gì kết hợp được chúng nữa ư? Đồng nói khẽ: “Có khi cậu gặp ông anh của tôi…” Thạch hỏi: “Ông Đạo hả? Cũng không biết chừng. Cậu thấy đứa nào phải?” “Đứa nào cũng có lý”. “Chính thế. Thế mới đau. Thằng Cảnh không hiểu nó có thấy thế không? Tôi giận cái thói dogmatique của nó”. Đồng dàn hòa: “Không, nó cũng hiểu. Hôm nó gặp tôi trước ngày đi, nó còn tiếc không có cậu”. Buổi sáng khi Đồng thức dậy đã thấy Thạch nằm trên võng hút thuốc, Thạch đùa nói nằm ở đồn quen, thiếu tiếng đại bác nên không ngủ được. Đồng bỏ xe đạp ở nhà, đi tàu điện lên phố với Thạch. Trong khi Đồng vào hiệu, Thạch đứng bên vỉa hè nhìn bọn nữ sinh trên đường đến trường. Thạch nói: “Trông con gái Hà-nội vẫn cứ đú đởn”. Đồng cười: “Anh khó tính quá. Con gái đẹp là đủ. Cái gì nữa cũng là thừa”. Thạch quay lưng bước đi hỏi: Đi đâu bây giờ đây. Đồng hỏi Thạch còn nhớ Nhai không; Thạch gạt đi bảo: “Bạn cũ, chán lắm. Tôi với cậu đi đằng này”. Thạch đưa Đồng xuống chợ Hôm, đến nhà gái đi. Gian nhà cửa trước đóng kín lẫn vào trong dãy phố một tầng, đi vào cửa sau bằng ngõ chỉ một người đi lọt. Thạch hỏi: “Cậu đã đi lần nào chưa?” “Thưa”. “Tôi hỏi thật cậu đã biết đàn bà bao giờ chưa?” “Cũng chưa”. Thạch nheo mắt chế riễu và Đồng nghe má mình nóng bừng. Người mở cửa là một u già. Sân và bếp trông sạch sẽ như mọi nhà. Đi qua một của phòng đóng kín, Đồng theo Thạch lên đến phòng khách ngoài cùng. Hai người con gái, một ngồi một nằm, ở sa-lông đọc truyện dưới ánh điện của một cây đèn đứng có chụp vì cửa ngoài đóng kín mít. Cả hai người chỉ ngước lên nhìn khách mới vào, rồi lại cắm cúi đọc, người đang nằm trở mình quay mặt vào lưng ghế. Thạch bảo Đồng ngồi xuống ghế và hỏi: “Bà chủ đâu?” Người con gái ngồi đối diện với Đồng, hạ quyển truyện xuống: “Chị em đi vắng”, nàng có gương mặt dài, đôi mắt lặng lẽ, người thon cao giống như cô thợ may Đồng gặp ở vườn hoa hàng Đậu. Thạch tự nhiên bảo: “Thôi. Có hai em còn tốt hơn. Giới thiệu cho quen với”. Người ngồi là Mai, người nằm là Tuyết. Lúc ấy Thạch mới ngồi xuống mép chiếc ghế dài, vòng tay lật quay Tuyết: “Làm gì mà giấu mặt gớm thế. Cho anh xem một tý”. Tuyết vùng vằng, ngấm nguýt nhưng cũng quay mặt ra ngoài nhìn Đồng cười, Đồng quay sang nhìn Mai cười. Thạch hất hàm hỏi Đồng: Thế nào? Anh chọn đi. Đồng lắc đầu. Thạch hỏi: Sao thế? Đồng chỉ tay vào ngực nói bác sĩ bắt kiêng. Thạch trâng tráo: “Cần gì. Định sống thêm mấy chục năm. Nghe nói bị thương vì đạn, chữa khỏi rồi cũng phải kiêng ít nhất mấy tháng không được gần đàn bà. Tôi mà bị cấm thế chắc là chết. Thà chết vì em còn hơn phải không Tuyết?” Đồng duỗi chân, ngả đầu vào lưng ghế nhìn trần nhà, nghe tiếng chân người đi qua ngoài vỉa hè; nghe tiếng Thạch: “Thôi để mặc cho nó mơ mộng. Nó là thi sĩ đấy, đừng tưởng đùa. Anh với em vào trong này”, nghe tiếng Mai hỏi: “Anh không đi…”, giọng khàn thật xấu không xứng với người, “còn một buồng nữa”. Đồng không đáp, tôi êm tĩnh lạ lùng như một người bất lực. Mai bỏ xuống nhà dưới, Đồng tò mò quan sát khắp gian phòng. Chốc nữa ra ngoài chắc chắn Thạch sẽ chế riễu sự nhút nhát của mình. Biết làm thế nào, Thạch sẽ không tin nếu tôi bảo chưa bao giờ tôi có ý nghĩ chiếm đoạt một người đàn bà. Đồng nhớ đến Phương, tự hỏi cái buổi chiều mùa đông tối sớm ấy nếu Đồng đã ở lại trong tay Phương… Điều quan hệ là sau hành động ấy… Thạch trở ra phòng khách một mình, tuy vẫn cười nhưng không còn vui vẻ như lúc nào, ngồi xuống ghế hỏi: “Thế nào? Nhất định không. Thì đi vậy”. Thạch đứng lên ngay không đợi câu trả lời, thủng thỉnh đi trước đợi Đồng. Tuyết mở cửa bảo: “Lần sau anh đến chơi nhé. Anh còn nợ…” Qua cánh cửa buồng hé mở, Đồng liếc nhìn vào chỉ thấy một chiếc giường với nệm gối trần trụi. Ra khỏi ngõ Thạch tần ngần đứng trên vỉa hè không có quyết định. Đồng bỗng nhiên sợ hãi, ngượng ngùng vì nghĩ Thạch còn ở lại một tuần lễ. Một tuần lễ và bây giờ chưa hết buổi sáng đầu tiên đã nhận ra sự xa lạ nhau. Tôi không còn điều nào chung với bạn, trừ những cái đã mất. Nó sống trong một thế giới khác chỉ thỉnh thoảng ngó lại phía sau tôi, còn tôi tôi vẫn nằm nguyên trong quá khứ kéo dài. Đồng muốn trở vào ngõ, gõ cửa, và đi vào trong gian buồng với Mai hay với Tuyết cũng được. Tôi phải làm những gì nó làm, nếu tôi muốn giữ lại được đứa bạn thân. Nhưng tôi không thể… tôi nhìn… tôi nghĩ… tôi mơ tưởng, Thạch quay mặt lại cười, không chế riễu, nụ cười kẻ cả: “Kia kìa type của cậu đấy. Tôi biết quá”. Trên vỉa hè từ một góc phố mới quành lại một thiếu nữ áo dài trắng tiến đến, dáng mỏng mảnh uyển chuyển, mắt ngước nhìn thẳng như không thấy người đứng cản lối. Thạch huýt sao tán thưởng, bước xuống đường tránh lối, thiếu nữ đi qua như không hay biết. “Ê. Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong hả… Merde”. Đồng cười trừ. “Không ngửi được. Không thể nào ngửi được thứ ấy… Chết, cậu sẽ chết, Đồng ạ”. Đồng nghĩ Thạch không biết chuyện tình giữa mình với Nga, không hiểu nó sẽ cười đến như thế nào nếu rõ. Đến phố Huế, Thạch nói: “Không biết đi đâu nữa nhỉ? Nếu không có cậu tôi có thể nằm suốt ngày ở đấy. Cảm giác ủ ê chìm khuất lạ lắm. Mình không còn gì phải nghĩ ngợi. Đàn bà là mối quên lãng hiệu nghiệm nhất. Đừng yêu. Yêu là hỏng bét. Nói theo kiểu thằng Cảnh là mình bị aliéné hoàn toàn”. Đồng cố gắng tưởng tượng tâm trạng của Thạch, cô đơn hoàn toàn, đứa bạn gái duy nhất đã bỏ đi, mối tình còn lại dư vị cay đắng của sự phản bội… “Thôi, đừng làm bộ đi. Anh mới là kẻ chung tình lãng mạn hơn tôi. Anh không thể yêu ai ngoài Liên. Phải không?” Thạch không cãi, chỉ đưa mắt nhìn Đồng trách móc và cười lên thành tiếng tự nhiên. Đồng sung sướng, bắt gặp lại người thân cũ. Thạch bỗng hỏi lạc chuyện: “Này, cậu rửa tội đấy à?” Đồng ngạc nhiên không hiểu. “Tôi thấy ở nhà có tượng Đức Mẹ”. Đồng à một tiếng; của một cô gái tặng. Có nên nói với Thạch đó là của Nga không? Thạch đã gặp Nga lần nào chưa? “Mà tôi nghĩ có khi câu rửa tội lại hay. Trông có thể thành cố đạo được đấy. Thánh thiện lắm, không đùa đâu.” Đồng hắt hơi liên tiếp, phố xá rung rinh trước mắt, rút khăn tay bịt miệng và lau hai bên khóe mắt ướt: “Không được. Đâu có thể như thế được.” Thạch hỏi gặng: “Sao không? Với cậu có gì thay đổi nào? Tu es orgueilleux” “Có như thế cậu mới là cha linh hồn của tôi chứ”. Đồng kéo tay Thạch sang bên kia ngồi nghỉ, xuống đường sang quán giải khát bầy bàn dưới gốc đa già bên đền bà Kiệu. Bàn ghế mộc thấp sơn xanh, cập kênh trên nền đất sạn. Trước đền Ngọc Sơn mới mọc lên một kiosque bán sách báo; ngoài cổng đền người ngồi bán vàng hương, mấy ông thầy bói, thầy đồ viết chữ nho với vài người nhà quê nghỉ chân đứng nhìn tò mò. Nhà Thủy tạ ở xa đóng cửa kín bỏ không. “Người tặng tôi cái ảnh ấy cũng lạ. Gia đình không có đạo, chỉ có một mình nàng…” “Có khi là cái mốt mới của mấy cô Hà-nội. Một lối trang điểm độc đáo biết đâu chừng”. “Nàng cô đơn…” “Thì cô đơn cũng là một mốt. Cô đơn làm cho sầu muộn. Cậu không thấy nhìn người đàn bà để tang mình thấy đẹp mới chết. Dám có cô chít khăn tang để trang điểm”. Đồng im, nhìn vào trong kiosque, cô chủ quán với vành khăn trắng cuốn chặt trên mái tóc uốn đang cắm cúi lau cốc lơ đãng quay mặt về mạn phố vắng. Đồng không ngăn giữ được: “Nga đấy. Em gái của An. Cậu đã gặp Nga lần nào chưa?” Thạch có vẻ chăm chú hơn đến câu chuyện: “Tôi không biết mặt. Cũng may đấy. An nó có biết chuyện không?” “Chắc là không. Có thể bây giờ Nga đã xin vào tu kín”. Thạch cười dễ dãi: “Chưa chắc đâu. Đàn bà có cái khiếu bi kịch hóa là nhất…” “Nga không bằng lòng gia đình nhưng vì là con gái không thể làm được như An.” “Nói cậu đừng buồn. J’en doute. Cậu vẫn không chừa được cái tính lãng mạn”. Đồng cầm thìa khuấy cốc nước chanh uống dở, nghĩ Thạch không còn muốn chia xẻ với mình những chuyện tình như thời niên thiếu: “Còn anh ấy à, tu es trop cynique”. Buổi trưa Thạch rủ Đồng đi ăn cơm tây, uống rượu vang. Trong hiệu người chủ tiếp đón khách một cách sun xoe. Hơi rượu làm mặt Thạch ửng đỏ, cặp mắt dại đi như một con chó say nắng.

“Này Đồng này. Nhiều lúc ngẫm nghĩ tôi tự hỏi không hiểu bọn mình có phải là anormal không? Thằng An này, thằng Cảnh này, cả cậu nữa. Tôi nhiều lúc nằm một mình trông đồn chẳng nghĩ đến ai, chẳng nhớ ai. Mỗi ngày tôi trông đợi băn khoăn thấp thỏm cái gì cậu biết không? Đợi buổi trưa có xe đi ngang đưa báo cho đọc. Tôi sống chung với những người không thể tưởng tượng nổi. Cái thằng Trung-úy chỉ huy tôi là lính khố đỏ lên. Suốt ngày thích nói chuyện chính trị mới chết. Lính thì thật là ba đá. Có chứ… có tôi có nhớ Liên. Nhưng nhớ thế thôi. Cậu thấy không? Chúng mình chỉ có một mớ tình cảm vụn vặt. Tình cảm là cái gì giả nhất. Tôi nghĩ có thể tôi là faux mà không biết. Nếu quả thật tôi yêu Liên tại sao tôi không lồng lộn tìm mọi cách chiếm lại cho bằng được? Chiếm lại bằng mọi phương cách… nếu có thể chết được, như thế mới gọi là yêu, không tôi chỉ nghĩ, tôi chỉ nhớ tiếc rồi thôi. Mọi sự rồi qua đi. Phải không? Tôi không có một hành động cụ thể nào tỏ lộ. Mình buông xuôi hết để giữ lại một mớ tình cảm như bọt sóng vậy. Cái gì đối với mình cũng thấp thoáng mờ nhạt vô nghĩa. Tại sao vậy? Cậu có thấy như thế không? Nous sommes lâches. Objectivement lâches… Cậu nói đúng. Cynique. một thứ mặt nạ ngụy trang sự hèn nhát. Chỉ có thế thôi. Mình chạy trốn sự thật đó”. Đồng nghĩ mình không nên thêm lời. Thật buồn, đúng. Thạch nói đúng nhưng vẫn còn, còn một cái gì đáng quý ở trong chúng tôi. Sự thành khẩn của chúng nó? Sự thành khẩn cũng trở nên giả dối nếu trở thành cứu cánh của thái độ và hành động. Thật buồn, đáng buồn, hết, như thế là bị vây hãm trong những giới hạn tự mình dựng lên. Hè phố dốc thấp hơn cửa hiệu, trưa bắt đầu nắng, người đi ngoài chỉ trông thấy nửa thân. Thành phố vơi tiếng, Đồng nhìn Thạch uống cà-phê, trong hiệu ăn mọi người đều nói nhỏ, khách không còn vào thêm. Không khí vẫn loãng một cách dễ chịu. Thạch bảo: “Về nhà ngại quá. Vào thư viện, chốc nữa đi xi-nê”. Như ngày nào, phố Trường Thi mát và xanh rợi, trong vườn rộng êm tĩnh, cửa kính sáng trong. Phòng đọc sách đông hơn trước, nhiều gương mặt lạ. Thạch và Đồng bắt tay người thủ thư, cùng cười thay lời chào. Quạt trần quay chậm, không khí ngái ngủ. Thạch ngoẹo đầu vào lưng ghế ngủ rất nhanh trong khi Đồng còn vẩn vơ nhìn giá sách trước mặt. Ông già trông nom trật tự đi rón rén tới bên Thạch, ghé mặt xuống nhìn, tay nâng giữ cặp kính trắng; Thạch vẫn ngáy phì phò. Đồng bảo khẽ: “Nó mới đi xa về mệt, cụ ơi”. Ông già nhăn mặt lắc đầu: “Tay này biến mặt từ lâu, phần tử nguy hiểm hả”. Ông cười nhặt tờ báo trên bàn, đi chỗ khác. Đồng không ngủ được, tìm trên giá sách để tự do một quyển sách về y khoa xem ảnh. Một chốc ông già quay trở lại, bảo Đồng gọi Thạch dậy, Thạch ngồi thẳng lại, mắt đỏ hoe nhìn trân trân lên cửa kính trên đầu tường không chớp mắt. Có tiếng chim hót trên cây ngoài vườn và tiếng im nổi của bóng nắng già. Thạch đứng dậy tìm mượn báo, xem chương trình chiếu bóng. Đồng nghe mình mệt khô người, muốn về nhà, Thạch bắt đầu nói: Chán quá, Hà-nội chán quá, thế này thì không ở được một tuần. Buổi chiều vẫn qua hết trong rạp chiếu bóng với một phim tẻ nhạt. Chiều thành phố nhộn nhịp dịu dàng nhưng đầu óc mệt nhọc ủ ê.

Những ngày sau Đồng phải đi làm, Thạch ở nhà đi chơi một mình. Đồng không hiểu Thạch làm cách nào tiêu hết những giờ trống trải trong thành phố không còn mối ràng buộc nào. Thạch cũng còn vài người họ xa nhưng cũng như Đồng, Thạch không thích lui tới. Có lẽ Thạch xuống nằm ở gian nhà trong khu chợ Hôm, cười đùa, ôm ấp để khỏi phải mệt trí, đợi buổi chiều đến đón Đồng rủ ra bờ Hồ ngồi uống nước ngâm nga nhìn phố tối dần, đạp xe đèo Đồng về nhà. Cả hai đều hết chuyện nói, thừ người hàng giờ. Một bữa Thạch bảo: “Như cậu lấy vợ là vừa. Tôi về chơi còn được hưởng cái thú là trông thấy hạnh phúc của cậu. Chứ cứ hai thằng trơ thân cụ nhìn nhau mãi chẳng ra cái thể thống gì”. Đồng bảo: “Cũng có lý”. “Lấy vợ, đẻ con là yên mọi chuyện. Đâu vào đấy cả” “Cậu bảo đảm được cho tôi là yên không?” Vào cuối tuần, Thạch nói: “Tôi đi Đồ-sơn chơi, chiều ngày kia về”. Đồng hiểu là Thạch đi với một người đàn bà. Chiều thứ bảy, ngày chủ nhật ấy Đồng quanh quẩn ở trong nhà đọc hai quyển truyện trinh thám của Thạch phát nhức đầu. Chiều chủ nhật Thạch trở về vui vẻ. Ăn cơm xong, Thạch rủ Đồng đi bộ, leo dốc sau nhà đi xuống Bách Thảo. Trời chạng vạng tối, cả một vùng cây cối âm u. Mặt hồ dưới xa như một vùng ánh sáng lạ lùng. “Tôi gặp thằng An dưới Hải-phòng”, Thạch đột ngột nói, Đồng sửng sốt: “An? Nó sao?” Con đường dốc thoải đá dăm kéo dài dưới hàng cây tối mất hút. “Trông nó thảm hại không nhận ra được. Gầy, tái xanh, rách rưới. Như là nó nghiện”. “Làm thế nào nó nghiện nhanh như thế được?” “Tôi đoán thế?” “Cậu gặp ở đâu?” “Ở bến xe. Tôi vừa bước xuống thì trông thấy nó. Nó định lẩn mặt tôi nhưng không kịp. Tôi hỏi nó làm gì ở đâu? Nó trả lời quanh co. Tại tôi đi với một người đàn bà nên không kịp nói với nó nhiều. Tôi hỏi chỗ ở của nó, hẹn sáng nay tôi về sớm tìm nó đi chơi. Nó cho tôi địa chỉ láo tìm suốt cả buổi sáng không thấy…” “Sao thế nhỉ?” Đồng tự thấy mình ngớ ngẩn. Thạch dừng bước móc bao thuốc lá đưa cho Đồng, đánh diêm châm thuốc. Đồng thấy mình đang đứng dưới chân dốc, trước mặt mở ra một vùng quang đãng hơn. Những đám mây ở phía bên kia hồ và sau lưng tôi kín, những chuồng thú bỏ không sừng sững. “Nó có hỏi cậu thế nào. Nó biết thằng Cảnh đi rồi. Nó cũng biết cả chuyện cậu với em gái nó nữa”. “Nó nói thế?” “Nó bảo với tôi thế, nó bảo nó tiếc các cậu không lấy nhau”. Đồng không tưởng tượng đến, không hình dung được hình dạng An lúc bấy giờ. Làm thế nào gặp được An? Để làm gì? Gặp để nhìn, để thương hại trống không ư? Một cái gì đã chết hẳn. Nga, Nga. Đồng như trông thấy vách tường đá xám trồng mảnh chai xanh và màu khăn trắng chùm trên đầu tóc Nga. Đồng vứt mẩu tàn thuốc xuống hồ, rớt trên một chiếc lá sen. Trong vườn chỉ còn bóng tối hoang mang dâng lên và sự im lặng sâu thẳm của đêm dài. “Trông nó thiểu não quá cơ. Mắt cứ lấm la lấm lét như thằng ăn cắp. Hết cả vẻ công tử. Nghĩ lại buồn ghê.” “Biết đâu chừng nó đang trở thành nhà văn” Thạch cười giọng cay độc: “Hở, nhà văn. Nhà văn bẩn thỉu hôi hám. Không nhìn thấy gì hơn ngoài những tiếc nhớ mơ ước của riêng mình. Nó đáng bị ông bô nó sai lính bắt về đánh cho một trận rồi gửi sang Tây”. “Tội nghiệp nó cậu. Cậu nghiêm khắc quá không cho nó một cái chance nào hết cả”. “Y a pas de chance, pas de miracle, nghiện là coi như đi đứt”. Tội nghiệp An. Đứa con trưởng giả ấy cứ loay hoay mãi với mình không xong. Những mái nhà lổn nhổn ly ty dưới thấp như những miếng bóng đêm im lìm đông đặc. Đêm ấy Đồng thao thức, nghe Thạch ngủ say, tiếng mẹ vỗ về đứa cháu nội chốc chốc. Tội nghiệp, An đáng tội nghiệp. Có thể An yêu Nga, yêu em gái của mình và ghen với Đồng. Đồng bày ra một trường hợp bệnh lý và muốn phân tâm An. Nga cũng mơ hồ cảm nhận và nàng nghe thấy tội lỗi vây quanh mình. Và Đồng ngủ thiếp trong giả tưởng một cuộc chữa bệnh tâm lý cho An.

Sáng hôm sau Đồng lại đưa Thạch ra bến Nứa lên xe về Hưng-yên, Thạch chui lên một chuyến xe đông ngồi giữa những người nhà quê, rồi đến hiệu ảnh. Những ngày tháng ăn mòn dần tôi, cướp mất chúng bạn. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ các tên hiệu máy ảnh, tên hiệu phim, các món phụ tùng, các con số xuất nhập, tôi ghi nhớ những viên gạch vỡ trước hè, những thùng rác dựng dưới các gốc cây, nhận mặt thêm những khách hàng lui tới, những người qua lại ở tầng gác trên, những người quen mặt nhiều hơn ở ngoài phố trên đường đi về ngày ngày… Tôi nhớ thêm vài thói lệ của những người trong gia đình nhà chủ, những cuộc giao tiếp thường tình bổn phận, những công việc phải làm trong một ngày. Những giờ rảnh rỗi, những ngày nghỉ, tôi nhớ chúng bạn, người yêu và tôi nhớ tôi. Rồi tôi sẽ trở thành một chiếc máy ảnh ghi nhận những cảnh tượng bên ngoài, những bức ảnh khi rửa quá thừa hoặc thiếu ánh sáng. Người duy nhất còn hay gặp gỡ là Nhai với những lo lắng vui buồn nhỏ nhặt về gia đình, thi cử, về người yêu nhỏ bé thứ nhất. Thành phố này, đời sống này chông chênh ở đâu không biết, những nơi tôi đi qua vẫn vững chắc bình thản. Sau mấy ngày rét ngọt của tháng ba, mùa hè đến dần. Những buổi sáng trong mát hơn, những buổi chiều rộn rịp hơn, những đêm tối dịu dàng hơn. Chiến trường bị đẩy lui xa, thành phố hớn hở hơn. Tôi quên dần căn bệnh, quên dần bằng những niềm nhớ chốc lát chúng bạn người yêu cũ, tôi quên dần tôi. Tôi di chuyển nhẹ nhàng thoải mái trong cái thế giới thu nhỏ, thu nhỏ mãi để sẽ biến mất thảnh thơi. Biến mất cùng những giấc mộng tuổi niên thiếu. Một ngày nào, bạn bè trở về không gặp, chúng nói với nhau: Đồng chết rồi, nó chết như thế nào? Thạch cười sặc, tiếng cười vẫn cay độc không thay đổi: Nó chết vẫn còn là trai tân. Hai mươi ba tuổi chết vẫn còn tân. Ça c’est ridicule. Mẹc. Sà lù. Bú dù. Con khẹc.

PHẦN THỨ BA

CHƯƠNG I

Khu vực nhà Rồng dài xa, mờ xám. Trên bến rộng, một vài người thấp nhỏ đi trong khoảng cách các kho hàng há mõm đen ngòm hoặc đóng bít cửa sắt nặng. Người hoa tiêu đang leo những bực thang lên tàu, bên kia vùng bến chợ Khánh-hội rào rào; giữa thân tàu và bờ ke hở một khe sâu nhỏ. Phía Sài-gòn những tòa nhà lầu cao đứng bên đường rộng chưa hoạt động trong màn sương thoáng đột ngột của những ngày cuối năm chưa tan hết.

Hồi năm giờ sáng thức dậy ra sau rửa mặt, nghe tiếng chân ngựa gõ lộp cộp trong chuồng, mùi rơm cỏ nồng khai, ngửa hít khí trời nghe bụi nước đậu xuống mặt bất ngờ như đã về đến xứ Bắc. “Con về ngoải bình yên mạnh giỏi. Chắc là con không còn vô nữa” “Thế nào có dịp con cũng vô lại Sài-gòn. Con không khi nào quên má và các em”. Má Hai, Hạnh và Nguyên xách đồ đưa lên xe thổ mộ của chú Năm hàng xóm; Hạnh buồn đứng lại bên bờ tre nhìn chiếc xe lăn chậm trên đường cát ướt còn tối trong xóm Đồng Ông Cộ; con đường xe lửa điện lên Lái-thiêu đã bị bóc, ga Bà Chiểu đã bị phá để xây chợ mới, trên cầu hàng Sanh quay nhìn xóm Lò-heo cũ. “Về ngoải vui chớ thày Hai. Nghe nói Hà-nội đẹp hơn Sà-gòn”, chú Năm ghìm cương cho ngựa đổ dốc, bên trái vùng sình lầy chạy vô tới Cầu Sơn, Cầu Kinh lơ thơ ít nhà lá, nơi đây những ngày đầu kháng chiến, khi tiếng súng sáu nổ bì bọp vài phát ngoài cầu Bông, quận Tân-bình bị chiếm chưa đầy nửa tiếng, toán du kích Hàng Sanh đã cầm cự trọn ngày cho tới khi hết đạn, quân Pháp phải dùng tàu đổ bộ bọc mặt sông, dùng báng súng lưỡi lê giết chết từng người một nằm ngâm mình dưới sình; miễu thờ đám tử sĩ ấy còn nằm giữa vùng hoang vu ít người dám lui tới. Kho đạn Thị-nghè dời đi nơi khác, kho đã nổ rung chuyển cả thành phố và vùng phụ cận ba ngày liền; “hồi nổ kho đạn thày Hai ở đâu?” “Tôi ở trên Tân-mai”, chú Năm phất chiếc roi nhỏ lên mái thiếc, miệng khẹt khẹt theo thói quen. Đường Chasseloup dài hút dưới bóng cây, đường Paul Blanchy rộng và trống hơn, đường rầy lún sâu bị nhựa che lấp dần; Đại lộ Norodom vẫn còn sang trọng. “Hồi biểu tình độc lập, chú có đi không?” “Có chớ. Không nhìn thấy gì hết. Bữa tôi với con Hạnh nhà bà Hai chạy một mẻ chối chết. Phải bọc ngã Hàng Sanh tới mười hai giờ trưa mới về tới nhà”. Một hai, một hai… Tiến lên đi kìa trời thắm hồng… Mùa thu rồi ngày hăm ba ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến… Nóp với giáo mang ngang vai nhưng thân trai nào kém oai hùng. Những bài hát của một thời lịch sử của tầm vông giáo mác nhọn hoắt những nồng nhiệt ái quốc.

“Thày Hai vô uống với tôi ly cà-phê. Tôi không vô trỏng được. Tôi đưa đồ qua cửa rồi thày mướn người ta mang lên tàu cho”. “Thày Hai về ngoải mạnh giỏi. Tàu thày đi tên chi vậy?” “Saint Michel”. Tôi gửi lời thăm hết lối xóm nghe chú Năm. Chào chú Năm. Chú Năm quay xe về chợ Sài-gòn, đỗ bên hông nhà ga xe lửa, đón khách: Bà Chiểu đây… bà con cô bác ai về Bà Chiểu, Đất Hộ… Từ biệt Hạnh ở lại trong xóm Đồng Ông Cộ với các ngõ ngách rắc rối của nàng, nàng thường dẫn chạy trong các cuộc bố ráp, mà lính không thể kiếm thấy. Từ biệt những ngày sôi nổi và thơ mộng; từ thành ra bưng, từ bưng vô thành; từ biệt Giồng Ông Tố, An Phú Đông, Bà Quẹo, Hốc-môn, Củ-chi, Tân-uyên, Long-thành, Trảng-bom… những Bảy Bắng, Tư Hột, Mười Né, Ba Đen, Út Nhì… Từ biệt thành phố đã nuôi nấng mười năm lưu lạc.

Tàu tách bến, với hồi còi âm như không phải của nó. Tiếng còi gợi nhớ đến điệu kèn ô--ray tốc hành Hà-nội Hải-phòng, toa ngồi sang trọng cửa kính bóng loáng. Những chiếc thuyền nhỏ chèo tay nép sát vào thân chiếc tàu còn neo bến, người trên thuyền đưa mắt nhìn lên boong cao, thân người dưới thuyền lùn ngắn. Ánh nắng đang làm sáng mặt sông. Khỏi Nhà Bè, tàu chạy đến những khúc sông rộng vắng, hai bờ cây chàm, dừa nước, ô rô xanh um không thấy nhà cửa, ở các ngã ba sông những chiếc phao nổi sơn đen mang đèn báo dập dềnh. Trời mỗi lúc một rộng thêm, tịch mịch và mát mẻ; máy tàu ầm ì cùng tiếng nước réo, một vài hồi còi bất thần như tiếng kêu quyến luyến. Sau lưng một vài người làm tàu đi lại vội vã; những hành khách đứng trên boong đã dần tản biến mất. Gió thổi từ mũi tàu đến phảng phất mùi biển mặn, nhưng dòng nước dập dềnh dưới mắt vẫn còn đục lờ. Từ biệt Hạnh… Từ biệt Sài-gòn. Điếu thuốc đốt hai ba lần mới cháy, đầu thuốc nám đen nhưng bập không nghe hơi khói trong miệng. Chỉ có hương nồng của một màu thiên nhiên hoang vu. Cảnh vật không thay đổi cùng với gió sông làm mờ mắt trải loãng trí nhớ vào những kỷ niệm. Bây giờ, lúc này, bất chợt thức giấc mình đã là một người khác từ bao giờ. Cuộc sống lầm lũi trong nhiều năm, tích lũy dần ở đâu, tự kết hợp và bỗng hắt ra một hình ảnh khác những gì mình vẫn tưởng về mình. Không hiểu còn thích ứng được với đời sống nơi chôn rau cắt rốn nữa không? Quê hương. Tôi trở về quê hương? Những gì đã thay đổi ở tôi, ở nơi tôi trở lại. Mối lo lắng vu vơ tan hòa trong niềm hân hoan xao xuyến. Mười năm, mười năm rồi và tôi trở về. Ngày bỏ nhà trốn đi mười bảy tuổi. Đang ở nhờ gia đình bà cô ở Bắc-ninh, học trường Bách-Nghệ. Trường nằm trên một ngọn đồi, đối diện với một khu đồi trọc, dưới chân đồi trọc là sân đá bóng. Ngã ba trước cổng trường là chỗ gặp nhau của hai con đường từ Đáp-cầu xuống Bắc-ninh; một đường chạy ngang Thị-cầu, một đường nối dốc lừa uống nước qua trại lính Lê-Dương me và sấu um tùm gặp Quốc-lộ chạy từ sông Cầu xuống ngang nhà ga. Vượt con đường sau này, xuống sân đá bóng, leo lên một ngọn đồi thấp đã được bạt phẳng với những bực cấp chạy dài làm chỗ ngồi của khán giả, đi sát tới mép đồi dựng đứng sâu là đường xe hỏa Hà-nội Lạng-sơn chạy ở dưới. Tiếng còi tàu thét vang ở khoảng đó vì sắp vào ga. Những buổi sáng mùa đông, đi bộ đến trường, quãng đường từ đầu phố chính Bắc-ninh nằm trần trụi giữa đồng với hai hàng lúc lắc xác sơ, những hơi gió thốc tê tái mặt mũi chân tay buổi sáng tinh mơ, nghe tiếng còi tàu xa xôi và ấm áp. Trí tưởng phiêu lưu buồn bã. Ngày nào đó, trong rạp hát mới lập ở Đáp-cầu, rạp Vũ Đình Bồn, chật ních người, nghe đào Ái-Liên hát Tây, hát những bài cải cách đầu tiên (Tango mystérieux, J’ai deux amoursMeo, Meo, Trời sinh ra tôi kiếp con mèo) giữa những tiếng Bravo, bis của lính Tây Lê-Dương, bọn thiếu niên mê say bỗng thèm khát đời sống, chưa vào tới. Chuyến xe tay đã chở hai đứa con trai mười bảy, mười tám tuổi tới đầu cầu Gia-lâm trong buổi sáng rét mướt, bùn lầy. Cái cánh gà che lấp trước mặt chỉ để hở một kẽ đục của bầu trời mưa phùn gió bấc. Giữa đồng trống, trên mô cao hai chuyến tàu hỏa đâm nhau gần ga Yên-viên mấy ngày trước vẫn còn nằm nghiêng nguyên vẹn. Tai nạn kinh khủng chỉ còn là cảnh mờ ảo sau làn mưa buốt hoang vắng. Hai đứa đi trên cầu Long-Biên vào thành phố như hai đứa nhỏ lạc đến Đảo Vàng. Nhưng một đứa đã bỏ cuộc trở về, còn một mình… Mười bảy tuổi với hai năm Bách Nghệ và năm đồng ăn cắp của bà cô. Những ngày sống chui rúc dưới gầm sân khấu, làm chân phụ vẽ phông, phụ trông nom hệ thống đèn trên sân khấu; đêm đêm nhìn kép Huỳnh Thái đóng cặp với đào Ái Liên, thuộc dần những bài hát và lời đối thoại, lang thang trước các cửa rạp, nhìn những thành phố xa lạ mà buổi chiều đã ngồi trên xe chạy rong phố với tiếng trống tiếng phèng la, phát chương trình quảng cáo cho trẻ con. Vào đến Sài-gòn không còn muốn trở về nữa. Xứ Nam-kỳ, đất Sài-gòn, ngày và đêm, mưa và nắng, mở ra như một ngày hội bất tận. Những đêm ngủ ngoài trời sao bên hè phố, những buổi trưa trên ghế đá dưới vòm cây trong vườn Bờ-Rô, những ngày chen chúc trong các buồng xếp chữ các nhà in đợi hết giờ ngồi quán uống la-de. Bài học ái tình thứ nhất với người con gái đóng sách sau những chồng giấy cao trong một ca làm đêm. Bông. Mùi dầu dừa trên tóc, tóc sơ như tàu lá dừa dọc bên kinh lạch, thân hình mềm mại nồng ấm mát mẻ như trong đêm mưa nằm ngủ trên ván nhà sàn dựa mé sông, hai cánh tay choàng riết chi chít như cành lá trong rừng dầy, những nhịp chuyển động dồn dập mênh mông như vàm sông, như ánh nắng bọc trong gió đầy. Bông, Mỹ, Tươi… và những người đàn bà không nhớ tên, không nhớ mặt đi qua như đời sống ngày ngày giản dị tự nhiên. Và Hạnh. Những ngày đau ốm từ bưng về thành dưỡng sức, những ngày thất nghiệp để hoạt động nội thành, được săn sóc nuôi nấng. Đi về tự do như nhà riêng, nằm trong buồng có lối mở ra bụi tre bên chuồng ngựa, bóng Hạnh ra vào dịu dàng; đêm đến Hạnh rón rén vào mùng nằm rúc trong tay run rẩy, nhẹ hẫng như cơn gió trong bụi tre già chạy tới đám gò mả hoang phế. Tiếng kêu phải dấu nghẹn trong ngực trồi sụt như tiếng nấc, thân thể như cơn trốt cuốn giữa buổi trưa nắng, như con nước soáy quanh chân cầu đá, miệng lưỡi ngọt ngào như hương thơm trong ruộng mía, những giọt nước mắt bất ngờ như sương của buổi mai cuối năm… Hạnh. Từ biệt Hạnh. Vậy mà bỏ đi? Trở về? Cái gì đã khiến mình trở về?…

Liêm bỏ tay vào túi quần, lấy ra gói khăn tay cuộn tròn Hạnh đã dúi vào tay lúc sáng sớm khi vắng người và dặn: “Chỉ khi nào tàu chạy rồi anh mới được mở coi”. Liêm nắn cái gói được cột chắc, mở thận trọng và nhìn thấy những tờ giấy bạc mới. Một ngàn đồng. Hạnh đã dành dụm bao nhiêu lâu để có chừng này tiền? Dưới giòng nước đã thấy những vùng xanh thẫm màu lá pha trộn với màu đen nhạt. Bờ cây lùi tít, mở rộng chân trời đằng trước mặt. Tiếng ì ào ngoài khơi còn xa. Nhưng trong không khí bay những bụi nước đáp phớt qua mặt. Trời nắng sáng gắt nhưng bị gió lộng thổi nhạt. Liêm vẫn đứng tựa lan can đón nhìn biển. Trên boong cao hơn, dành cho hành khách hạng nhất, ba người đàn bà, một Tây-phương hai Việt-nam, nằm trên ghế ngả, mắt đeo kính râm ngửa nhìn trời. Đứng trước mặt họ, chống thẳng hai tay vào thành sắt, một sĩ quan hàng hải đang chỉ chỏ giải thích. Màu nước mỗi lúc một xanh kín, tiếng sóng động nghe rõ dần, bờ cây biến mất trong tầm mắt, nhưng mặt nước lại như phẳng lặng hơn; Máy tàu kêu lớn hẳn như gia tăng tốc độ. Một phút bàng hoàng mất phương hướng, Liêm cố gắng đưa mắt tìm kiếm trong khoảng lục bao la cửa sông tàu vừa ra khỏi. Gió dần êm hơn trong vận tốc đều hòa của con tàu chạy trên một mặt phẳng, nhẵn hết sức của thị giác. Liêm chờ nghe cảm giác nôn nao của cơn say sóng, sẽ tới nhưng tịnh không thấy; chỉ thấy hai chân và hai tay mỏi nhừ; nhìn đồng hồ tay Liêm biết mình đã đứng chôn chân một chỗ gần hết buổi sáng. Ở chỗ khuất nào sau lưng Liêm nghe tiếng cười nói lớn với nhau: Đến Ô Cấp, tàu đậu lại một giờ, ăn bữa cơm trưa xong mới khởi chạy.

Liêm quay trở lại, tưởng như tàu không còn chạy nữa, tiếng nước vẫn sủi bọt réo hai bên thân tàu, nhìn thấy đằng xa những bóng núi Cap St. Jacques. Liêm leo qua những đống giây chão lớn cuộn tròn ném trên sàn tàu, hơi cúi thấp đầu giơ tay vịn những sợi giây cáp giăng chếch ngang lối đi, bước vào khung cửa sắt nhỏ gần đuôi tàu, tụt lui xuống hầm.

Dưới hầm thiếu ánh sáng, bức bối ngột ngạt và huyên náo như cái chợ vỡ. Chừng một đại đội lính Việt-nam di chuyển cùng gia đình. Kẻ nằm người ngồi la liệt trên các giường kép chồng chất không đủ, phải trải bạt nằm dưới. Quân trang, vật dụng chắn lối. La lối gây gổ tranh dành giường nằm, chỗ tốt; kêu gọi tìm kiếm nhau ơi ới; trẻ con khóc la dẫy dụa; đàn bà kể lể ồn ào; ga-mên chén đũa khua loảng xoảng… Ngồi trên một giường cao gần một cái lỗ tròn che mi-ca đục để lọt ánh sáng trời vào, Liêm nhìn xuống vẫn thấy nhiều bóng tối hơn ánh sáng. Liêm nghĩ đến ba ngày ba đêm trong gian hầm tối lúc nhúc những người này và nhớ tới không khí thoáng lộng trên đầu. “Cơm” tiếng gọi vọng từ trên cửa hầm vang xuống và gian hầm di chuyển rầm rập như một đám biểu tình xô đuổi nhau chạy tán loạn. Liêm nằm xuống gối đầu lên chiếc va-ly của mình, bỏ bữa cơm đầu tiên trên tàu vì không thấy đói, thiếp ngủ trong những tiếng động hỗn tạp kéo dài của bữa cơm quây quần chật chội dưới hầm tàu. Lúc tỉnh dậy, Liêm nghe tiếng sóng vỗ ào ào bên ngoài thân tàu, ghé mắt dòm qua lỗ hổng, thấy trời vẫn còn sáng và mặt biển xanh đục chông chênh nghiêng ngả. Xung quanh bắt đầu nghe tiếng nôn ọe say sóng và tiếng la lối nguyền rủa vì dơ dáy, trẻ con ré khóc từng cơn. Bữa cơm buổi chiều đã bớt sức khua động náo nhiệt, Liêm cũng cảm thấy cơn say nôn nao trong ngực, không muốn trở dậy, nằm im trên giường lơ mơ thiêm thiếp.

Giấc ngủ kéo dài theo cơn say. Sóng vỗ mạnh, lắc lư giường nằm, bắn tung tóe trên lỗ tròn hổng vào đêm không nhìn được. Những ngọn điện mờ soi gian hầm im lặng tức thở. Đêm biển hung dữ ghê gớm. Tất cả những người nằm giường xung quanh đều mê mệt. Chốc chốc tiếng ói mửa khiếp đảm. Thấp thoáng trên giường cao ở một góc vài ba người còn khỏe chụm đầu đánh bài thâu đêm. Tiếng nói âm vang trong gian phòng bị sóng lớn bên ngoài òa tạt. Và giấc ngủ cũng bị vùi lên dập xuống tơi tả chông chênh. Không còn thể phân biệt phương hướng thời gian. Chỉ còn tiếng sóng ì ào bất tận, đêm tối triền miên kín mít trong ánh đèn mờ đục không đổi thay, buổi sáng ẩm ướt nhớp nháp lạnh lẽo như mặt mi-ca. Người nghe nhẹ thênh như thoát xác, không ghi giữ thời gian, thần trí vài lúc tỉnh táo sáng suốt tách rời. Những người đánh bài vẫn mê mải im tiếng. Bước chân vụng về giẫm trên sàn sắt lùng bùng. Một vài lời nói ngắn trao đổi vu vơ. Nghe trên boong người đi lại tự nhiên. Tàu chừng như hãm bớt tốc độ.

Cớ sao anh lại có ý định về Bắc? Cớ sao? Có phải vì mệt mỏi chán nản? Có phải chăng? Heureux qui comme Ullysse a fait un beau voyage… Chợt nhớ câu thơ từ ngày còn đi học. Không phải. Nhất định không phải thế. Buổi sáng nhớp nhúa này cũng giống như buổi sáng khi được thả khỏi bót Catinat. Cơn mưa chực sẵn trên nóc nhà thờ Đức Bà. Ba tháng, nằm ngay ở đầu phố sang trọng trung tâm Sài-gòn, gần những tòa nhà lầu cao ngất đẹp đẽ, trong một sân si-măng vuông bị vây bởi ba bức tường cao và một rào sắt như một chuồng thú cùng với hằng trăm nhân mạng khác. May mắn thì có được một chỗ nằm co cẳng, còn không thì ngồi khép cứng, không co ruỗi nổi tay chân; ăn ở đó, bốc bằng tay trong các ống lon, các tấm áo rách buộc túm, trên mảnh giấy báo mảnh lá bẩn, tiểu tiện ngay ở đó trong mấy cái ngách hẹp cũng ních người. Mối hy vọng duy nhất, mối hy vọng khiếp đảm tự vùi tắt: được thẩm vấn xong để được chuyển đi nơi khác; thiên đường mơ ước là khám lớn, sang khám lớn là được biết rõ số phận của mình. Còn ở trong khoảng sân ấy, dưới một khoảnh trời luôn luôn ẩm nặng những ngày mưa, phơi mình trong khắc khoải và hốt hoảng, thân thể như một đám sình hôi hám bốc cháy đau đớn; bị dựng dậy bất cứ lúc nào trong đêm giẫm lên những tay chân đùi bụng đầu la liệt trước mắt đi qua cánh cửa sắt vào trong hành lang để tới phòng lấy cung. Không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, chỉ còn những xúc động tả tơi rách mướp như da thịt, thần trí hôn mê ngất xỉu trong cơn tra tấn. Rồi được vực trở về ném trả vào sau cửa sắt, nghe những bàn tay chà xát muối ớt lên những vết thương rướm máu, nghe tiếng la hét ở đâu trong miệng mình, nghe những lời an ủi vỗ về. Người khác là những cơn đau đớn dự tưởng, khi mình ở ngoài dương mắt ngó. Những thiếu nữ, thiếu phụ bị dí điện vào vành tai, vào đầu nhũ hoa, cửa mình, bị chấn nước dốc ngược, bị treo bằng giây thép ở cườm tay, cổ chân, ngón tay… Tiếng kêu thất thanh không thoát khỏi những bức tường lót dạ ngăn tiếng động. Trong đêm bó gối nhìn những ngọn điện treo trên bốn góc đầu tường, nhìn đám người co quắp liệt rũ khốn nạn hèn mọn khắp sân, những cơn mê sảng dẫy dụa, âm vang của những cơn hành hạ thể xác. Đàn ông đàn bà lẫn lộn ngổn ngang nhưng không ai muốn mó tới thân thể người khác. Những người được kêu đi, không trở lại; những người mới tới ngơ ngác khiếp hãi trước cảnh tượng trong sân… Những tiếng hát cố gắng để xô đuổi sợ hãi bị dập tắt ngay vì những làn roi cá đuối. Những rì rầm to nhỏ bị quét sạch bởi những vòi nước sịt mạnh. Co rúm lại, co rúm lại mãi như hy vọng chịu đựng. Cơn sốt, cơn say, cơn mê hoảng phủ chung mọi người. Thoát khỏi nơi đó như được sống lại một cách mầu nhiệm, không biết lý do. Nằm ở nhà Hạnh được săn sóc, chữa chạy, nghe nỗi sợ hãi vây bọc cùng bệnh hoạn. Bỗng nhiên trở lại tình cảnh của đứa bé mồ côi lưu lạc với những bất trắc thiếu thốn của đời mình. Có phải vì thế tôi muốn trở về? Nhưng tôi còn gì ở nơi đó để tìm về? Một bà mẹ đã tái giá. Một đứa em trai. Tôi không còn gia đình, không còn quê hương. Đứa trẻ sống nhờ từ nhỏ, đã lớn lên, đã lưu lạc bỗng khiếp hãi, phải chăng? Và tôi chạy trốn sự sợ hãi? Có lẽ, có lẽ vậy. Những người cùng hoạt động, cũng bỏ rơi; anh Xuân đến thăm và bảo: “Chú tạm nghỉ công tác. Tĩnh dưỡng cho bình phục. Lấy lại tinh thần đã. Sau đó sẽ hay” “Tôi muốn được làm việc lại”. “Lúc này tạm rút. Nhiều thay đổi lắm. Chú cứ yên tâm, lúc nào cần tôi sẽ cho người liên lạc với chú. Tạm chú đừng liên lạc với tôi” “Tôi làm gì bây giờ?” “Tùy chú, chú được tự do trong thời gian này”. Muốn sống chung với Hạnh nhưng cũng sợ hãi nốt cái dự tính của mình. Không một chỗ nào là của tôi cả.

Trong hầm chợt náo động hỗn loạn như lúc mới xuống, mọi người nhốn nháo sửa soạn đổ bộ. Tàu lướt êm hơn, mặt biển thật phẳng ngoài cửa tròn nhỏ. Từ trên cửa hầm, những người đã thoát lên kêu gọi ơi ới vọng xuống. Tourane, Tourane. Lại những tiếng cãi cọ giành giựt vật dụng, trẻ con la ré, như mắc chứng động kinh, chân giẫm thình thình trên sàn sắt tàu… Liêm tụt khỏi giường, leo vội lên boong. Buổi sáng ở trên thật trong, mặt biển xanh mát tới cùng chân trời. Lần đầu ngoài biển cả Liêm thấy những cánh buồm thuyền đánh cá lênh đênh nhỏ bé.

Cảm giác tỉnh táo sảng khoái gợi thức dần dần cơn đói mệt. Sờ lên mặt nhớp nháp ẩm ướt râu mọc tủa. Tàu vẫn chạy tới gần phía núi mờ, nước reo sủi bọt trắng bên mạn. Đằng đuôi tầu, một người Pháp ngậm ống điếu thản nhiên ngồi trên một gù sắt thả giây câu. Lạnh tê trên hai bàn tay dài gầy nắm trên vòng sắt, lan dần khắp người hốc hác nghe thấy rõ ngày thứ hai trên tàu, đã hai mươi tám Tết. Bước chênh vênh trên boong có cảm tưởng dễ tuột ngã lăn xuống biển. Liêm trở xuống hầm ngồi trên giường ngắm nhìn những gia đình binh sĩ sửa soạn lên bờ, ngủ thiếp một giấc nữa. Khi tỉnh lại gian hầm vắng tanh im lặng.

Tàu đậu lại ngoài khơi Tourane nửa ngày. Dường như một trận bão đang thổi ngoài biển Nam-hải. Liêm nghĩ tàu có thể quay trở lại Sài-gòn và mình chắc chắn sẽ bỏ qua chuyến về Bắc. Sẽ ở lại xóm Đồng Ong Cộ với Hạnh hãy sẽ ra bưng? Nhớ ngày quân Pháp mới đổ bộ, làm hướng đạo cho một đơn vị ngoài Bắc vào từ Biên-hòa về Giaịnh, đã thấy mình hoàn toàn cách biệt với những người đồng hương. Khoảng mười giờ tối, đơn vị qua cầu Bình-lợi yên lành, đến cầu Băng-ky chỉnh tề đội ngũ cất tiếng hát tiến vào thành phố Gia Định. Đường không bóng người lai vãng, chỉ có tiếng hát và bước chân anh hùng rầm rập. Ngoài lộ bàn ghế tủ giường trong các nhà chất đầy giăng ngang làm hàng rào chướng ngại vật cản lối địch. Đơn vị được lệnh tản mác bố trí khắp các ngõ hẻm, núp dưới hầm hố dân chúng đào tránh bom Đồng-minh, nhưng đến hai giờ sáng lại được lệnh tức tốc rút lui về Biên-hòa; lệnh không thông báo kịp nhiều người bị bỏ rớt đến mờ sáng phải cải trang lẩn lút trốn ra khỏi thành phố. Chính đêm đó, đã nằm bên bụi tre nhà Hạnh, Hạnh đã mang chuối và bánh ra cho ăn; lúc vào cám ơn Hạnh để rút, Hạnh cũng đã tưởng mình là anh chiến sĩ lặn lội từ Hà-nội vào Nam. Ba giờ sáng còn sục sạo trên đường Ba-tay kiếm một anh tiểu-đội-ttrưởng thất lạc, gõ cửa những căn nhà rộng thênh không bàn ghế để hỏi thăm. Nghe các anh kể chuyện Hà-nội mà háo hức nhưng vẫn nhìn thấy họ không giống như mình; lịch sự kiểu cách văn chương ngay cả trong khi bần cùng nguy khốn có cảm tưởng họ không phải là những người đã vượt cả ngàn cây số đến. Có lẽ mình đã bị Nam hóa, miền Bắc đã bị xóa nhòa nơi mình? Vậy mà mình hiện đang ở trên đường trở về. Hạnh nói: “Anh về quê hương xứ sở của anh. Biết bao giờ anh lại trở vô. Con gái Bắc…” “Không. Anh về cho biết tình hình. Thể nào anh cũng vô lại. Nếu anh giàu anh đã đưa em cùng về chơi” “Không ai về xứ mà còn muốn đi nữa. Em cũng vậy.” Hạnh muốn được kể cho nghe về miền Bắc, muốn biết thành phố mình sẽ đến để nàng có những căn cứ tưởng tượng khi nhớ nhung. Lúng túng và bối rối, không thể giảng cho Hạnh hiểu, tôi không có nhiều kỷ niệm với miền Bắc ngoài những năm thơ ấu đau buồn; tôi nhớ rõ những thành phố khác trên đường lưu lạc hơn cả Hà-nội; tôi không có quê hương xứ sở, chỉ có một cuộc đời phải sống mang theo mình.

Liêm mở va-ly, tìm chiếc áo dạ đã bị dán nhấm nhiều chỗ; chiếc áo của Tường tặng cho khi Liêm đến báo tin từ biệt. “Tháng này ngoài ấy lạnh phải biết. Chú cầm lấy xài đỡ. Chắc tôi không bao giờ dùng đến nữa. Kỷ niệm của tôi đấy. Tôi mang từ ngoài Bắc vào”. Trừ người thân, không mấy ai biết gốc tích của Tường, Anh vào Nam đã hai chục năm, lấy vợ Cần-thơ, sinh năm đứa con sống nguyên trong một xóm, xóm Lách gần cầu Mạc-ma-hồng, từ khi nghèo khổ độc thân cho đến khi phong lưu lập được gia đình. “Quê hương tôi là đây. Dù mai kia có yên ổn, tôi cũng không bao giờ dại dột mà về làm gì. Tôi không hiểu chú nghĩ thế nào”. Cười trừ. Anh đã bỏ nghề họa sĩ, làm maître d’hôtel cho một khách sạn lớn, và là ủy viên kinh tài của tổ chức; chính anh giúp Liêm xin giấy tờ thông hành, cấp vé tàu và một món tiền hai ngàn đồng với hai lá thư giới thiệu hai người quen: một ở Hà-nội, một ở Sài-gòn. “Quý lắm đấy. Vợ tôi đòi bán ve chai, tôi không chịu.” Liêm mặc áo, leo lên boong, trong bụng đói cồn cào. Nhiều hành khách vừa ăn cơm trưa xong đang đi dạo, ngắm nhìn hải cảng ở trong. Thành phố ở xa trông như một đường viền cao hơn bờ bể, núi tím thẫm. Liêm tìm vào phòng ăn của hạng nhì, điều đình với người đầu bếp chính đang thu dọn bàn, mua lại một phần ăn của khách bỏ không dùng. Anh đầu bếp vận âu phục tím, trịnh trọng như một nhà trí thức, bằng lòng cho Liêm ăn không lấy tiền, còn gọi thêm cho Liêm một cốc cà-phê sữa. Có lẽ mấy bữa hắn không có người chuyện trò nên gặp Liêm hắn nói thao thao suốt buổi. Chuyện bên Tây, bên Tàu, những nơi hắn đã đặt chân đến, những kiến thức thâu thái được, những nhân vật trí thức danh tiếng mà hắn đã gặp trên tàu này và hắn đã có dịp nói chuyện bàn luận về các vấn đề hệ trọng. Liêm chỉ lặng thinh ngồi nghe, đợi tiêu bữa ăn và nghĩ: đúng là dân Bắc-kỳ sạo ke. Để làm hắn khỏi thất vọng, Liêm cũng đã nói khoác mình là dân buôn lậu giang hồ, bị mắc kẹt ở Nam-kỳ vì thời cuộc, bây giờ tay trắng trở về quê hương. “Tôi tính về bán mấy cái nhà ở Hà-nội, để dựng lại cơ nghiệp”, Liêm cười thầm: chính mình cũng bắt đầu trở thành dân Bắc-kỳ, chỉ mới trong một nửa con đường trở về.

Trở xuống hầm một lúc, Liêm nghe tiếng ca-nô mang hành khác từ Tourane lên tàu. Trong gian hầm thêm được ba người nữa, chiếm ba giường dưới thấp kế bên; Đó là một gia đình về quê ăn Tết gồm hai vợ chồng trẻ và người em gái. Khi tàu tiếp tục cuộc hành trình vào lúc bốn giờ chiều, trời vẫn còn trong sáng. Ngủ một giấc, thức dậy không còn thấy lỗ hổng bên mạn tàu nữa. Đèn trong hầm đã thắp soi những hàng bù-loong tròn nhẵn và những chiếc giường sắt tênh hênh không người. Gió gào ở bên ngoài át hẳn tiếng máy. Liêm tụt khỏi giường, dẫm phải những bãi nước nhờn trơn, nhìn ba người thiêm thiếp như xác chết, định lên phòng ăn. Vừa leo đến cửa hầm, nước tạt hắt vào mặt, gió thổi rú đẩy lui lại sau, phải bám chặt vào tay thang sắt lùi xuống định thần. Tàu bắt đầu đi vào vùng bão thổi. Những ngọn sóng nhào khỏi thành tàu, rớt trên boong bắn tung tóe như cơn mưa lớn từng chập. Biển đen kịt và đặc kín tiếng sóng cuồng nộ. Liêm đành trở xuống hầm về giường lao đao. Vừa nằm xuống nôn thốc. Đầu buông rũ ngoài thành giường, hai tay nắm chặt hai bên, nghe người bị nhồi lắc lư. Con tàu bị nhấc bổng, ném xuống sâu từng hổi không dứt, lắc lư nghiêng ngả. Không nhìn thấy gì nữa, nước mắt nước mũi ròng ròng, chỉ nghe tiếng đồ đạc để dưới sàn lăn từ phía này sang phía khác bừa bãi khắp cả gian hầm rộng. Nôn mửa đến quặn ruột gan, miệng đắng ngắt và thiếp ngủ co quắp trong chiếc áo dạ. Một đêm mệt lả. Nhiều lúc thoáng nghe như con tàu liệt hết máy và chỉ được sóng đưa đi một cách chậm chạp. Ngày hôm sau, sức gió đã giảm nhưng mưa như trút. Nhìn qua lỗ hổng, trời như một buổi chiều dài quá. Con tàu vẫn nghiêng ngả nhồi lắc. Liêm vẫn nằm liệt thu mình trong áo, đèn trong hầm thắp cả ngày. Những người ở giường dưới đã phều phào trao đổi được vài câu ngắn. Người vợ thề không bao giờ chịu đi tàu thủy nữa và hỏi chồng về những món hành lý lặt vặt. Đồ vật được mấy người làm tàu thu gọn lại, những người ấy đều mặc áo dạ dầy, mũ và khăn chùm kín đầu cổ. Một người nói: Nốt hôm nay nữa thôi, mai là các ông các bà khỏe rồi. Khoảng cuối đêm ấy, mưa vẫn lớn, gió còn thổi nhưng sóng không còn nhồi. Giật mình thức giấc, giá buốt cả tay chân. Mùa đông, tôi đang ở trong mùa đông. Từ xứ mùa hè tôi đã vào tới xứ mùa đông. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Sáng ngày cuối cùng trên tàu, trời tạnh ráo. Cùng ba người khách đồng hạng lên boong ăn bát cháo nóng với đậu om, bữa điểm tâm của hạng ba. Con tàu vẫn còn đong đưa nhẹ nhưng người thật tỉnh táo. Xoa hai bàn tay vào nhau, há miệng thở nhìn khói bốc ra trắng nhờ như màu trời. Những đầu ngón tay nhăn lại nhưng khi vuốt lên mặt thấy da căng lên. Tiếng người thiếu nữ chuyện trò với chị, giọng nói trong và ấm, giọng nói thuần chất du dương đã lâu lắm mới được nghe lại. Gió thổi tê rát cả mặt mũi nhưng trong cơ thể tưởng đã đuối liệt hơi nhiệt vẫn bốc ra. Liêm lân la làm quen với người chồng, gia đình anh ta về Kiến-an ăn Tết. Anh làm interprète cho quân đội viễn chinh. Trông anh cũng là người có học, Liêm không hiểu lý do khiến anh chịu làm công việc hèn hạ. Liêm nghĩ đến những cuộc bố ráp, phải ngồi cả buổi trưa nắng, đợi chiếc bao bố với hai lỗ nhìn, chùm kín mặt tên điềm chỉ, đi qua nhận diện từng người, theo sau chiếc bao bố là bọn sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp và duy nhất một tên thông ngôn Việt-nam. Liêm nói: “Tôi ở trong Nam lâu quá nên chẳng hiểu tình hình ngoài Bắc thế nào”. Anh ta thú thực miễn cưỡng mới phải làm cho Tây, thực tâm không muốn. Anh nói: “Bọn quốc gia thối nát quá. Mình đến thua Cộng-sản mất thôi”. “Cộng sản nào?” Anh ta chăm chú nhìn Liêm, bật cười và nói lảng sang chuyện khác. Liêm cố gắng lái trở lại câu chuyện: “Tôi chỉ thấy có kháng chiến thôi”. “Không đơn giản thế đâu. Quê anh ở đâu? Anh cứ thử về quê anh khắc rõ” Về đâu? Quê anh ở đâu? Bắc-ninh? Đó là một thị xã nơi tôi sống nhờ. Cái làng nhỏ trong tỉnh Hàông, trên bờ sông Hương-tích. Làng của mẹ tôi, tôi đã về một lần từ ngày nhỏ đến nay không nhớ nổi tên. Quê nội? Tôi không biết. Con tàu lướt êm trên vùng biển lặng. Gió lạnh nhạt nhưng giá buốt. Người thiếu nữ ngồi trên giường chải tóc, hát nho nhỏ bài hát thật hay được nghe lần đầu. Về đây khi gió mùa thơm ngát, ôi lũ chim giang hồ… Đáng lẽ không nên trở về. Quê hương tôi không phải ở đây. Mọi sự đều mới mẻ, xa lạ. Tôi đã đi quá xa và biết bao nhiêu thay đổi trong chừng ấy năm. Tôi không có chung những kỷ niệm với những người tôi sẽ gặp. Trở lên boong một mình, làm quen với hơi gió bấc. Mặt nước xanh trong khác hẳn. Vẫn còn nghe tiếng hát của người thiếu nữ vọng lên qua cửa hầm đằng sau lưng. Bỗng nhiên tiếng còi tàu kéo lên như lúc khởi hành. Tiếng còi tắt trên một vùng mênh mông vẫn chưa thấy bến bờ. Trên boong cao nghe tiếng cười nói vui của những người đàn bà và chợt nghe ra giọng nói của mình lơ lớ không thể giấu giếm được.

An bước ra khỏi ngõ, thu hai tay trong túi áo, mắt cúi thấp, mũ dạ đội trên đầu. Hai bên hè phố vắng người, một vài đám trẻ chơi pháo xiết quanh các cột đèn. Các mặt nhà đóng cửa hoặc chỉ hé mở cửa chính, trên các cánh cửa dán giấy điều, tranh Tết sặc sỡ. Ba mươi Tết, hôm nay đã ba mươi Tết. An đi lên cầu, vào thành phố. Dưới sông trong những khoang thuyền tối thấp thoáng ánh hương nến trên các ban thờ bầy ngay trên chiếu hoa phủ sạp thuyền. Những ống khói xưởng máy nhô cao khỏi những nóc nhà nhấp nhô một bên bờ sông, không còn hoạt động, lên một bầu trời thoáng nắng nhưng vẫn còn rét. Bên kia, con đường chạy qua khúc sông cụt bẩn thỉu rác rưởi chật ních thuyền bè, đến trước công trường nhà hát thành phố, thẳng mãi đến những phố tây sạch sẽ sang trọng. Ngoài phố xe cộ thưa thớt, những người đi xe đạp thong dong. Mùi khói hương trong các nhà bay tỏa ra ngoài hè; trước các bàn thờ cỗ đã bầy chờ giờ cúng.

Không thể về nhà nhưng không biết đi đâu? Cần một bữa cơm và tiền… Nhà, không nên nghĩ đến, không phải là nhà của mình… Tôi không có cái gì là của tôi. Tôi bây giờ chỉ là một tên ăn bám, ăn bám vào một con đàn bà cũng chẳng ra gì. Đêm nay, mai, ngày kia, ngày kìa… An móc chiếc tăm nằm lẩn giữa bụi mốc trong kẹt túi, đưa lên miệng xỉa. Một thiếu phụ sực nức mùi nước hoa, vượt qua, quay nhìn vào mặt sỗ sàng trước khi bước vào một nhà gần đấy. Chẳng còn gì để xấu hổ cũng như chẳng còn gì để kiêu hãnh. Vẫn có thể về nhà, nói những câu bông lơn lấy lòng từ thằng bé con không được hưởng ứng, chờ bữa cơm ngồi vào bàn ăn dù không ai mời không đếm xỉa đến vẻ lãnh đạm khiêu khích của Phúc; nếu về muộn sau bữa cơm, tự động xuống bếp lục trạn tìm thức ăn nhai một mình ở bàn như con mèo đói giữa những cặp mắt soi mói của mọi người, rồi nằm thui thủi ngoài đi-văng để ngoài tai những lời cạnh khóe châm chọc của Phúc, của đứa ở, tự nhủ: bọn đàn bà nhỏ nhen. Đàn bà bần tiện, không nhìn được gì hơn ngoài những nhu cầu hằng ngày. Nhưng tôi? Tôi còn gì? Một thảm kịch hiện hình trong cái đời sống lê lết, khốn nạn này. Một thảm kịch, tôi là một thảm kịch? Một cái bóng mập mờ vang ngân của những gì đã qua rồi, đã tắt rồi. Chỉ là sự hèn nhát kéo dài mãi cùng ngày tháng, sự hèn nhát thoi thóp như hơi thở, như ánh trời buổi trưa cuối năm này. Hèn nhát. Nhưng nếu không, tôi làm được gì hơn? Làm được gì hơn nào?

An đứng lại trước nhà hát, nhìn vào phố Cát Dài, có thể trông xa. Trong những buổi trưa hè nắng bụi, đã đi lang thang bên hè, đôi săng-đan đất đóng thành cục trơn dưới gan bàn chân, mồ hôi chảy ròng nhờn bẩn, mắt mờ hẳn, miệng há hốc cứng lại và ngửa tay xin tiền người qua lại. Không quen thuộc với ai, quả tình tôi là tên ăn mày lạc lõng không nhà cửa, không thân thích. Tôi sống qua ngày để chờ dịp trở lại quê hương. Tôi vừa ở tù ra, cần tiền xe về… An liệng chiếc tăm xuống cỏ, nghe chân răng ngứa ngáy, thèm những ngụm nước trà bỏng rát lưỡi làm trơ hết cả vị giác. Con phố bên trái chạy men theo vườn hoa, vào giữa hai hàng cây xanh và biệt thự im lặng hoàn toàn. Sự im lặng thanh nhã của cái thế giới tôi đã bỏ đi không muốn ngoái cổ nhìn. Đã bỏ đi và không khi nào còn trở lại. Chỉ còn chừng ấy thôi. Ít nhất còn chừng ấy, với mình, để không ai có quyền phán đoán mình ngoại trừ mình. Tôi có thể làm mọi điều để giữ được điều ấy. Không ai hiểu như thế cả. Tự dưng nghe một nỗi nhớ mông lung làm chảy nước mắt. Nước mắt dưng không như vậy. Những giọt nước mắt sẽ khô lạnh thành ngấn trên gò má xương sẩu. Và sẽ không còn nữa. “Anh khóc… Thôi anh đừng khóc nữa. Đàn ông như anh tồi lắm. Anh không nuôi nổi mẹ con tôi thì tôi phải đi làm chứ. Chẳng nhẽ anh muốn mẹ con tôi chết đói hay sao? Tôi đi nhảy chứ phải tôi đi làm đĩ đâu mà anh ghen.” Không, không, đó là những giòng nước mắt bất lực. Tôi không làm gì được cả, râté hoàn toàn. Phúc đi nhảy như thế Phúc đã hơn xưa. Nhưng còn tôi? Những đêm nằm trong nhà, nghe tiếng chân Phúc trở về cùng tiếng cười ròn vui trong ngõ vắng nín bặt khi đến trước cửa, phải nín thở như ngủ say không biết. Một đêm lần mò đến nơi làm việc, ngồi trong một góc nhìn Phúc nhảy với những tên Lê-dương say mèm và cười một mình như một triết nhân. “Anh đến đây làm gì? Về đi? Đừng sinh chuyện. Anh cần tiền phải không? Anh cầm lấy đến chỗ của anh đi”. Ở ngoài đường, đêm rét cóng đặc gió. La Cumparsita… Khúc nhạc ấy vẫn còn lại như một dấu vết không bôi xóa được. Cuộc đời không phải là một thí nghiệm, tôi đã lầm, không bao giờ là một cuộc thí nghiệm. Rồi những tên đàn ông đến tận nhà đưa đón Phúc, lẩn mặt vào buồng trong nhìn đứa bé con gọi mình bằng cậu và con ở nhưng chẳng tự coi ngang hàng. Không còn cả sức ham muốn để khiến nó phải kiêng dè nể mặt. Một cái bóng khốn nạn. Khốn nạn, nhưng biết làm gì hơn?

An đi dọc theo đường Cát Dài, kiểm lại những nhà quen có thể gõ cửa. Người ta sẽ không cần dấu diếm vẻ ghê tởm khinh bỉ khi trông thấy mặt. Nhưng không thể không tiếp, người ta cũng không đủ can đảm để xô đuổi ngay tức khắc. Vừa ngượng ngùng, vừa khoái trá ở giữa sự lúng túng khốn khổ của nạn nhân. Chúng ta biết nhau quá rõ và chúng ta vẫn diễn mãi một tấn kịch giả trá. Moi cần một món tiền, con đau nặng, vợ đau nặng không đi làm được… Bao nhiêu? Một trăm, hai trăm, năm ba chục cũng được. Moi sẽ trả. Không cần, lần này là lần cuối đến phiền toi cũng ngượng chứ. Cám ơn, không bao giờ moi dám quên ơn toi. Không, lần này sẽ khác hơn những lần trước. Ông cụ moi ra Hà-nội, toi xem báo thấy chứ. Moi cần tiền tầu lên gặp ông cụ, về moi sẽ thanh toán ngay. Moi cần năm trăm, cố giúp moi như toi cứu người sắp chết vậy. Moi không không khi nào quên ơn toi đâu. Hà-nội, ờ, tại sao không về Hà-nội? Tôi sẽ đi lại trong thành phố mấy ngày Tết rồi lại biến mất như bóng ma. Không phải trở về với gia đình. Về Hà-nội thôi, để nhìn lại… Nhìn lại gì? Thành phố này chật chội, bụi bậm quá ngay trong mùa đông. Sẽ đi lại những con đường phố cũ, sẽ ngồi lại trên những bờ hồ, mùa này lộng gió và xanh mướt. Bước vào trong ngôi nhà yên tĩnh bên vườn tược nhìn Đồng thanh thản đọc sách. Hai năm, chưa đến, tôi như đã sống hết một cuộc đời mình, còn nó vẫn là thằng si tình, si tình muôn thưở. Không hàng quán nào còn mở cửa, An thèm một tách cà-phê đặc đắng đến ứa nước bọt, dừng chân bên đường xe hỏa chạy xuyên ngang phố châm một điếu thuốc lá thay thế. Điếu thuốc rách hở hút không thấy khói nhưng vẫn ngậm trên môi. Rất có thể sẽ gặp ông bố ngoài đường; ông hỏi: “Bây giờ mày làm gì? Mày đã sáng mắt chưa con? Mày vẫn còn kịp thì giờ để làm lại cuộc đời mày”. “Làm lại. Có gì đâu con phải làm lại. Con rất bằng lòng về con như thế này… Chính con muốn. Cậu mợ yên tâm”. Sẽ chia tay như thế nào? Ông bảo: “Dù sao mày cũng là con tao… Cầm lấy món tiền này và nhớ là mày chẳng làm nên trò trống gì đâu con ạ”. Một món tiền. Bao nhiêu? Sẽ từ chối, nói: Không, tôi không cần. Sẽ nhận, cũng vẫn chẳng còn kiêu hãnh nữa. Thế thôi. Không phải, ông ta ngồi trong ô-tô, có người hộ vệ và không nhìn thấy hai bên vỉa hè. Chỉ có tôi trông thấy ông. Không đi qua nhà cũ, không qua những nhà quen gia đình và khỏi gặp ông. Ở ngoài phố, ông cũng như người khác không liên hệ.

An rẽ vào phố Trại Cau, giờ đã quá trưa, có lẽ họ đang ăn cơm. Cánh cửa nhà Hòa mở hé, Hòa ngồi quay lưng ra ngoài. Vợ Hòa trông thấy trước, giật mình ra dấu cho Hòa. Phải chính tôi đấy, cái bóng ma ám ảnh khuấy rối sự yên vui của các người. Hòa giấu nhanh được sự bực dọc, buông đũa đứng lên vồn vã:

– Đi đâu đây? Ăn cơm chưa? Ăn luôn thể với moi đi.

– Cứ ăn đi. Mời chị. Không sao, tôi ngồi chơi được.

– Thì ăn. Đi giờ này chắc chưa ăn uống gì phải không?

An đặt cái mũ dạ lên chiếc bàn nhỏ gần đấy, chóng mặt vì mùi trầm trên bàn thờ, mỉm cười ngượng nghịu. Vợ Hòa gọi xuống bếp lấy thêm bát đũa, kéo ghế mời ngồi vào bàn. Sự sốt sắng ân cần cũng là một cách khóa miệng. Đã bao nhiêu lâu chưa trở lại đây? Phải vài ba tháng rồi. Lần trước Hòa đã dúi vào tay một trăm khi đưa tiễn. An cầm đũa, ăn chậm chạp không thấy đói trong khi vợ Hòa vừa tiếp vừa đưa mắt dò ý chồng. Hòa cau mặt tỏ ý khó chịu về thái độ của vợ. Họ đang tính toán âm thầm. Biết làm thế nào? Vợ Hòa đứng dậy sớm vào buồng trong. Hòa tự tay pha cà phê mời, nói chuyện công việc ở trường, nhắc đến Cảnh – Ngày An mới xuống, cũng xin được mươi giờ dạy ở một trường tư cùng với Hòa và biết được Hòa và Cảnh khá thân nhau. Giờ này Phúc cũng đang ngủ trưa rồi dậy trang điểm sẵn đợi tối, hắn sẽ đón giao thừa ở dancing, sẽ say khướt như đêm Noël và hai tên đàn ông sốc vực hắn vào nhà. “Tăng-xông. Thằng chồng moa nó nằm trong kia. Bon-a-nê há”. Hòa đã che tay, hả miệng ngáp. Mình sắp phải đứng lên, ra ngoài. Đột nhiên Hòa hỏi:

– Thế nào? Được không? Đằng trường nó bảo cậu có thể về dạy trở lại miễn là…

– Làm sao?

Hòa khoát tay làm một cử chỉ rộng, hiểu ngầm. Cái mặt béo tròn trông rõ. Thỏa thê, nó thỏa thê với hạnh phúc của nó. Một đứa tốt lành đến gần như giả dối. Nó là đứa duy nhất còn có những ý tốt với mình. Làm thế nào có thể cứu vớt nổi mình. Không được đâu, đừng mất công. Không ai phải chịu trách nhiệm về cuộc đời tôi cả. Chỉ mình tôi, tôi thôi. An lắc đầu nhìn ra cửa.

– Cậu đã thử cái thuốc tôi giới thiệu chưa? Không công hiệu à…

An ngao ngán muốn bỏ đi ngay. Đến lượt mình buồn ngủ. Chân tay bắt đầu máy động không tự chủ được.

– Không lẽ… cậu không thấy chướng. Sống mãi thế cậu không thấy chướng.

Còn phải chịu để cho nó hành hạ cho xứng với lòng tốt của nó. Lòng tốt. Kiếp sống của tôi trở thành một bằng chứng cho lòng tốt cũng như lòng độc ác của mọi người. Mệt quá.

– Cậu phải có can đảm dứt bỏ. Sống riêng một mình, tôi tin cậu sẽ thoát khỏi.

– Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng…

Phải phủ phục xuống cho vừa lòng nó. Chẳng còn gì kiêu hãnh và cũng chẳng còn gì xấu hổ nữa. Vợ Hòa quát nạt đứa con nhỏ khóc inh ỏi trong nhà, đứa nhỏ đánh đổ nước lên chiếc áo mới. Giọng đàn bà sắc nhọn. Hòa làm như không nghe thấy, nó còn phải đóng nốt vai trò cho màn kịch. Nó mong mình sẽ rút lui êm vì lòng tốt của nó.

– Cậu lười quá. Cậu chết.

An ngước mắt, nhìn lên cười, nhặt cái mũ đặt lên đầu gối nắn lại vành. Nó tự cho nó mọi thứ quyền đối với mình và nó sẽ mất quyền từ chối.

– Có lẽ tại cậu chưa có trách nhiệm.

Trách nhiệm? Nghe vang quá nhiều lần nên thấy trống rỗng. Trách nhiệm? Bắt đầu ngáp mỏi quai hàm.

– Chắc cậu cần tiền ăn Tết. Đợi tôi một tí.

Hòa đứng dậy sỏ dép đi vào trong không đợi xem phản ứng. An tựa lưng vào ghế, xương ống, bắp đùi, ống chân mỏi nhừ. Mình sẽ không thể nói thêm một lời nào. Ông bố, chuyến đi Hà-nội đều là thừa, vô dụng. Hòa trở ra, nhét vào túi An năm trăm bạc và đưa tay cho bắt.

– Tôi không thể quên ơn anh. Mai Tết rồi…

– Đừng, đừng. Tôi hy vọng đây là lần cuối tôi phải đưa tiền cho cậu. Cậu biết chứ thực sự chúng mình chẳng có bổn phận gì với nhau. Ba tháng nay tôi vẫn đợi cậu trở lại. Món tiền này vợ chồng tôi để dành cho cậu, là của cậu.

Hòa đứng trên bực thềm, mặt nghiêm nghị, không đùa, An cầm cái mũ dạ loay hoay trong tay ấp úng:

– Tôi hiểu… tôi hiểu… Tôi làm phiền anh chị nhiều…

Nụ cười khoan dung rộng lượng. Mình như là cái đen cuối năm của vợ chồng nó. Nó muốn tống đi nhanh cho khuất để thảnh thơi đón năm mới. An đội mũ lên đầu, nói lời cuối cùng:

– Tôi không quên ơn anh chị…

Hòa đưa mắt lơ đãng trông sang hè bên kia, gật đầu với hai ba đứa học trò con gái đang xô đẩy nhau cười khúc khích. An quay lưng đi, hai tay lại thọc vào túi áo, sờ thấy mấy tờ giấy bạc của Hòa. Ở đầu một ngã tư, một đoàn convoi chạy rầm rầm ngang mặt. An móc tiền ra nhìn đếm. Nỗi nhớ mông lung đã tan biến. Chỉ còn lại cảm giác thoải mái dễ chịu. Thèm được nằm duỗi thẳng tay chân, thiếp đi trong quên lãng hoàn toàn. Quên cả những ước vọng gần gũi nhất…

Tiếng còi rớt vào trong bầu trời âm u mỏi mệt. Nước sông đục lầm phù sa. Hải cảng xám ngắt, hoang vắng như nằm giữa sa mạc. Trên ke một đám người túm tụm trơ vơ đón tàu cặp bến. Hành khách các hạng đều đã ra trên boong đứng lóng ngóng. Gia đình ở chung dưới hầm với Liêm đang kiểm lại hành lý dưới chân. Người vợ hỏi: “Chắc là còn xe về chứ?” Người chồng đáp: “Còn kịp. Mình sẽ ăn cơm chiều ở nhà”. Liêm đứng giữa đám người nôn nao nhấp nhỏm, nghĩ trời không đến nỗi rét lắm như tưởng tượng. Chiếc áo dạ khoác trên mình còn thấy hơi hấp nóng. Tàu trôi sát vào một bờ gỗ làm bằng những tấm ván ghép. Dưới đất một hai người chạy đi chạy lại, bắc loa tay hét lên cao. Trên mũi tàu có những tiếng vọng đáp, người ta đang neo tàu. Gió ngoài sông thổi vào sau lưng. Quê hương tôi đây sao? Dưới bầu trời chìm lặn của mùa đông già, trong những điệu nói tíu tít bao vây. Một người đàn bà nói với chồng: Không thấy ai thế này thì làm thế nào về kịp Hà-nội. Không khéo lại phải đợi mồng một về thì rông cả năm. Người chồng bình tĩnh hơn: Chắc họ đón mình ở ngoài, trưa nay họ còn phải bận cúng chứ. Tôi không biết phải nói với ai về nỗi lo lắng của mình. Gia đình anh chàng thông ngôn cũng đã quên hẳn người bạn đồng hành trong ngày qua.

Trên chiếc thang treo đong đưa nhẹ nhàng, Liêm hai tay sách hai chiếc va-ly chậm chạp nối bước người đi trước, hai người đàn bà thì thầm về một món hành lý còn gửi lại trên tàu, ngoái cổ nhìn mấy người làm tàu nhàn nhã hút thuốc tựa vào thành sắt ngó xuống đám hành khách đang rời khỏi tàu. Có lẽ hai người đàn bà là dân buôn lậu, cũng có thể là những tay kinh tài đắc lực của kháng chiến, họ đều có vẻ đẹp đáng lẽ phải được dấu ở trong nhà. Liêm đặt chân xuống mặt gỗ, đi một quãng vào trong nền xi-măng rộng thoáng không còn bị vướng người, để hai cái va-ly xuống đất, nghỉ tay hít thở khoan khoái. Không khí có một mùi vị mới lạ, trong và nhẹ hơn bầu không khí dưới hầm tàu. Từ sau lưng một người phu khuân vác tiến lên đột ngột nói: Ông để cháu xách ra ngoài cho… và cúi xuống nắm lấy hai cái va ly nhấc mang đi. Lối xưng hô lạ tai, ông, ông Liêm; mình đã thành một người khác, nên nhớ sự thân mật dễ dãi không có ở đây. Phải nhớ lại những kiểu cách, những phong tục, những lễ nghi. Liêm châm thuốc hút, bước theo chân người phu đi thoăn thoắt về phía một nhà kho lớn cửa chỉ mở một khoảng. Hành khách đi tản ngang trên một khoảng dài. Những nhân viên thuế quan và công an khám xét giấy tờ và hành lý ngay giữa trời. Họ làm việc mau chóng, mọi người đều nóng nảy trở về nhà. Chiều ba mươi đã chớm rồi với bầu không khí ấm cúng của gia đình chờ đợi. Tại sao không ở lại ăn Tết với gia đình Hạnh? Đâu có việc gì cần phải hoảng lên đi gấp như vậy? Ra đến ngoài Liêm hoàn toàn trơ trọi, mọi người đều vội vã lên xe nhà đón hoặc thuê xe chạy mất. Cả một khúc phố khuất tịch. Liêm tìm trong túi lót của chiếc áo dạ, hai bức thư giới thiệu của Tường đọc lại địa chỉ và phải xách va-ly đi bộ một quãng mới kiếm được chiếc xích-lô.

Thành phố chật chội hãy còn những dấu vết chiến tranh. Trong những phố tây vẫn còn một vài khu nhà đổ bỏ hoang. Phố ngắn hẹp không thể bằng Sài-gòn. Khu trung tâm buôn bán đông đúc bé nhỏ, tàu như Chợ-lớn-cũ. Liêm xách va-ly, đứng xuống dưới vỉa hè của một phố chính tương đối sầm uất, tuy mọi cửa hiệu đều khép cửa nghỉ Tết nhưng nhìn những tấm bảng hiệu la liệt trên mái, trên các đầu tường Liêm cũng có thể đoán biết Liêm gõ cửa một hiệu bán đồng hồ. Có lẽ nhà ở sâu, cả đến năm phút sau mới nghe tiếng chân người ra mở cửa. Người thiếu nữ ở trong nhà ra, tóc uốn trễ, ngắm nhìn từ đầu đến chân không giấu nổi vẻ ngạc nhiên:

– Ông hỏi ai?

– Thưa cô tôi hỏi nhà ông Phát.

– Vâng, ông là ai?

– Tôi vừa ở Sài Gòn ra đây. Tôi có bức thư của ông… trong Sài Gòn gửi cho ông Phát.

Người thiếu nữ trố mắt kinh ngạc như không tin. Một người đàn bà vấn tóc trần bước ra hỏi con gái: Chuyện gì đấy? Một lần nữa Liêm lại phải tự giới thiệu. Cuối cùng Liêm cũng được mời vào gặp chủ nhà. Người đàn ông bệ vệ an nhàn trong bộ pyjama, mắt hấp háy sau đôi kính trắng, tiếng the thé như đàn bà. Đó là người bạn thân một thời của Tưởng. Không thể tưởng tượng nổi người đàn ông ngồi trước mặt một thời lưu lạc giang hồ và chỉ mới trở về Bắc năm 45. Phát trông đặc vẻ con buôn nhà nòi tính toán lợi hại kỹ lưỡng, không ai có thể trông mong nhờ cậy. Liêm được mời uống nước trà sen, nghe hỏi han về Sài-gòn trong những năm qua, Phát thở ra hơi phản động chống báng kháng chiến và không hề đả động đến lời gửi gấm của Tường; Sài-gòn được nhắc lại như những kỷ niệm, kỷ niệm về khí hậu thời tiết, trái cây cảnh vật… Liêm cáo từ, Phát không cầm giữ đưa ra đến cửa dặn với:

– Sang năm, nếu có dịp, mời ông ghé nhà chơi.

Liêm lại đứng trên vỉa hè với hai va ly dựng hai bên. Trời gần chiều, lạnh êm xuống. Mùi hương trầm trong nhà kín còn phảng phất. Liêm quay nhìn hai cánh cửa đã đóng chặt, một bên dán tranh ông Thiện một bên ông Ác, những khuôn mặt còn đó thản nhiên của một thời thơ ấu. Thành phố hoàn toàn lạ, không còn một chốn quen thuộc. Phải về Hà-nội, ít nhất cũng là nơi mình đã biết. Tường nói đúng đây không phải là quê hương của những người như mình, như Tường. Không thể ngủ trên một ghế bố ngoài đầu hè được và chắc cũng không ai mở cửa đón vào nhà một người lạ mặt trong mấy ngày Tết. Không hiểu những ngày tới về Hà-nội thế nào? Trong một lúc thất vọng Liêm ân hận đã quyết định trở về. Mai mốt có thể như Phát, Sài-gòn và đoạn đời hoạt động cũng lẩn mờ thành kỷ niệm để nhắc nhở cho vui trong một vài dịp. Liêm xách va-ly, đi bộ từng quãng dài trên vỉa hè lại đặt xuống nghỉ hút thuốc với ý định đến ga xe lửa. Trên đường không còn tìm thấy bóng một chiếc xe. Mỗi lần hỏi thăm đường bọn con nít, Liêm lại nhận được những tràng cười vui thú của chúng vì giọng nói và bộ tịch của mình. Xe lửa, cái gì là xe lửa chúng mày, bến xe lửa, bến xe lửa ở đâu? Chúng cười khúc khích, dương mắt ngắm nhìn như vật lạ. Một đứa đã lớn hiểu biết hơn hỏi: Ông là người Sè-goòng. Liêm gật đầu và lũ trẻ vỗ tay reo mừng trước một khám phá kỳ thú, nhiều đứa bỏ chạy vào nhà kêu gọi người lớn ở trong: Có một người Sài-gòn, một ông Sài-gòn hỏi thăm đường và thêm nhiều đứa trẻ khác đổ ra đường. Liêm đứng bên cột đèn, nhìn lũ trẻ vây quanh, trong một vài khung cửa có cả mấy cô thiếu nữ ngấp nghé tò mò. Giống như ngày nào trong xóm Đồng ông Cộ, bọn con nít cũng đã chạy ngang ngoài ngõ nhà Hạnh hát vang thành nhịp: Bắc-kỳ sạo ke, ăn me chấm… Liêm phải loay hoay mất mấy phút mới tìm đúng chữ diễn ý. Bọn trẻ lại được dịp ồ lên cười như nắc nẻ: À, à ông ấy hỏi nhà ga, ga tàu hỏa; lúc nãy ông ấy gọi là gì nhỉ, xe gì. Xe lửa, a, xe lửa là tàu hỏa. Ông định đi đâu? Liêm nhắc lại: Phải, ga tàu hỏa. Phải đi ngược lại một đoạn phố đã qua. Một vài người đàn ông đi dạo trên hè, quần áo giầy dép tề chỉnh ít thấy trên các đường Sài-gòn. Trời xẫm rất nhanh rồi đứng lại như không thay đổi nữa. Gió bắt đầu gấy rét, vẫn quyện mùi hương cúng. Phố xá đìu hiu không còn hoạt động. Khỏi những dãy nhà thu kín, đến những bãi trống đổ rác và xóm lao động bẩn thỉu. Trên một vài khoảng đất chỉ còn nền nhà và gạch vụn chất đống. Chiến tranh ở đây nhìn rõ hơn không như Sài-gòn. Có lẽ rồi sẽ trở vào. Cứ bầu trời mùa đông u uất này với cảnh vật như đang tàn tạ vây kín cả chân trời cùng với cái đời sống rút khép vào trong hất đẩy mình ra ngoài. Mình không còn ai ở đây ngoài mình, nhưng tôi đã biến đổi quá nhiều.

Nhà ga vắng vẻ, trơ trọi trước con đường loang lổ ổ gà. Tiếng còi tàu kêu không ở trong ngắn ngủi không âm vang. Liêm bước vào khách sạn trước cửa ga. Trong phòng khách chỉ có một ông già gác đang tiếp ba người khách: hai người đàn bà đã đi trước Liêm lúc rời tàu buổi sáng và một người đàn ông, đội mũ dạ, mặc chiếc áo vét nhầu cũ xốc xếch, chân đi xăng-đan. Hai người đàn bà đợi ghi xong thẻ căn cước vào sổ khách sạn nói: “Thôi, thế cũng xong. Mai đành đi tàu hỏa về vậy”, rồi bỏ ra ghế dài ngồi đợi. Đến lượt người đàn ông hỏi thăm về giá cả các loại phòng, rồi quay sang Liêm đề nghị: “Hay mình thuê chung một buồng cho đỡ tốn, chắc ông cũng chỉ cần một chỗ ngủ đêm nay thôi. Nhất là giao thừa có bạn cũng đỡ buồn, ông nghĩ sao?” Một người đàn bà ngồi ở ghế nhanh nhẩu: “Ông nghĩ cũng phải. Chắc các ông mai cũng đáp tàu về Hà-nội. Về nhà vào đúng ngày đầu năm kể cũng vui”. Người đàn ông gầy gò bẩn thỉu, bàn tay đen đủi cáu ghét, hơi quay lại sau hỏi: “Các bà ở đâu đến thế? Tôi, tôi là người ở đây”. Hắn cười khì trước vẻ ngạc nhiên của hai người đàn bà và Liêm. “Tôi không thích ăn Tết ở nhà. Rắc rối phiền phức. Ăn Tết ở khách sạn có lẽ thú vị hơn. Ông nghĩ sao? Nếu ông đồng ý ông đưa thẻ căn cước tôi ghi luôn hộ. Tôi cam đoan với ông rằng lên phòng có nước nóng tôi sẽ tắm, tắm tất niên mà để ông khỏi ghê tởm. Và nếu có thể sáng mai tôi sẽ đưa chân ông về đến Hà-nội. Tôi không hứa trước. Vâng. Cảm ơn ông. Lê-văn Liêm số… thợ in. Ông là vô sản chính cống bà lang Trọc đấy. A, ông lại ở Sài-gòn. Thật là may mắn cho tôi”. Người đàn ông chìa tay bắt, cặp mắt lờ đờ dại dột, hơi say; hắn còn trẻ thì phải, giống như mấy chàng văn sĩ thất nghiệp chán đời lang thang nơi các tòa báo ngày nào. Hắn cúi xuống, nằng nặc đòi mang chiếc va-ly nhỏ hộ: “Tôi xách được mà. Tôi còn đủ sức ông bạn” Người lệch hẳn vai, chân lết trên những bực cầu thang. Hai người đàn bà vẫn đi trước, thỉnh thoảng liếc dòm tỏ vẻ thương hại.

Vào đến buồng, Liêm chỉ muốn được nằm nghỉ ngơi. Người bạn bất đắc dĩ một đêm, đặt chiếc va-ly lên bàn gần cửa sổ đứng tựa cạnh bàn nói:

– Tôi là An. Rất hân hạnh được quen ông. Nếu ông thích đêm nay mình sẽ uống rượu đón giao thừa. Tôi còn chai rượu đây.

Hắn rút chai Cointreau vẫn đút lủng lẳng một bên túi áo, giơ ra trước mặt. Cũng hay, nếu không có lẽ mình cũng chẳng biết làm gì đêm cuối năm trong buồng khách sạn này. Liêm ngồi xuống giường bảo:

– Ông hơi đã rồi đó.

Hắn nghiêng tai nghe, chừng không hiểu – Liêm nói lại: Ông hơi say – bật lên cười rũ, vừa cười vừa nhìn bóng mình trong gương.

– Ông nói nghe du dương ghê.

Liêm hơi bực mình, nhíu mày. Chẳng hiểu còn làm những trò gì nữa, khi không lại chịu đựng một tên say giữa đường. Liêm nghĩ nên xuống phố kiếm cơm ăn, rồi đi xem giao thừa ngoài phố, khuya về có lẽ hắn đã say vùi, đỡ mất công. Chiều nhọ nhem ngoài cửa kính. Và Liêm đứng dậy hỏi:

– Tôi chưa ăn cơm. Ông biết còn quán nào mở cửa không?

– Bây giờ thì hơi khó đấy. Ông thử đi xuống dưới đầu phố xem. May ra thì còn.

– Ông để cửa đừng khóa. Tôi có lẽ về muộn.

– Được. Được mà. Đồ đạc của ông không mất đâu. Ông cứ đi dùng cơm. Tôi sẽ đi tắm rửa sạch sẽ, đợi ông về mời ông uống rượu. Nếu ông lại mua được món nhắm thì tuyệt…

Hắn đến đứng trước gương soi sát mặt và không quay lại. Ra đến cửa Liêm ngập ngừng dặn:

– Ông coi chừng, đừng tắm. Gặp lạnh nguy hiểm lắm.

– Không sao, ông khỏi lo. Tôi phải sạch sẽ để mừng năm mới.

Liêm bước ra hành lang khép cửa lại, có lẽ trong cả khách sạn này chỉ có bốn khách trọ, nghe tiếng chân mình bước vang âm. Hạnh không thể nào tưởng tượng được cái cảnh ngày đầu tiên tôi đặt chân về xứ. Nàng nghĩ tôi đang vui vẻ giữa những người thân và cảnh vật được gặp lại chắc đã quên hẳn xóm Đồng ông Cộ. Tôi đang cười, đang nói, đang kể lể trước sự hỏi han dồn dập của bà con quyến thuộc, không bao giờ Hạnh chịu tin tôi là không có gia đình. Tôi trở về xứ như phiêu lưu vào đất lạ. Gian phòng tiếp khách dưới nhà bỏ vắng không dưới ánh điện. Ngoài đường gió thổi ào, lần đầu tiên thấy rét thật sự. Liêm thọc sâu hai bàn tay vào túi áo, khép chặt hai cánh tay, nghe trong thân ửng nóng nhưng mặt và tai giá buốt. Quãng đường vắng, điện đường không đủ sáng hết. Liêm tìm được một hàng gánh bánh mì cà-phê ngay đầu phố. “Thật hên, bữa nay mà ông còn bán” “Tôi sắp về. Kiếm được đồng nào hay đồng nấy. Nhưng ế quá…” Người bán hàng lặng lẽ quan sát, chắc muốn hỏi đôi câu nhưng lại thôi. Liêm ngồi trên chiếc ghế con được nhường lại, còn người đàn ông ngồi co ôm gối và hơ tay lên bếp đang nấu cà-phê. “Bây giờ mới hơn bẩy giờ chứ gì phải không ông? Còn lâu mới đến giao thừa. Tôi vừa ở bên Hạ-lý về nghỉ ở đây. Nghèo là chẳng thấy Tết đâu cả. Chứ bán bên phố này ai mua”. Gió thổi động các chòm cây dài mút phố. Ngoài hiên, trước cửa nhà đã thấy lác đác bầy bàn thờ đợi cúng giao thừa. Nhà nào nhà nấy đóng ỉm cửa nhưng đèn sáng rực. Liêm mua thêm hai chiếc bánh mì, bỏ vào túi, một cái cho va, lỡ đêm đói còn có thức ăn; rồi đứng lên tiếp tục đi sâu vào trong phố. Chỉ nghe gió thổi, đêm đen kịt, mùi trầm hương thoang thoảng lẫn tiếng cười đùa quanh chiếu bạc trong các nhà. Người ta đang đánh tam cúc. Thỉnh thoảng mới gặp một chiếc xe hơi nhà binh hay một vài người đi xe đạp co rút cổ. Tại sao tôi lại đang ở đây? Liêm quay trở lại, con phố mập mờ không hình thù rõ rệt như chạy suốt vào đêm tối, trong một thoáng tưởng như tòa nhà khách sạn đã biến mất. Có thể tên chán đời ở nhà tự tử thì rầy, Liêm đi vội như bị ma đuổi.

Nhảy hai bực thang một, Liêm chạy trong hành lang rồi đứng khựng lại để nhận số phòng. Phòng hai người đàn bà tắt đèn, có lẽ họ chưa về. Hắn làm gì trong phòng mà cửa khép kín không nghe tiếng động? Liêm gõ cửa, cầm xoay quả đấm. Người đàn ông ngồi gục mặt trên bàn, run lật bật. Hắn đã tắm rửa thật. Không nghe nói gì, Liêm phải bảo: để tôi cho ông mượn cái áo len mặc tạm, và mở va-ly kiếm chiếc áo Hạnh đã mua ngoài chợ Bến-thành. Hắn ngửa mặt nói: Cám ơn ông, tôi làm phiền ông. Nước da đen xám, môi tái mét, hàm răng vàng ởn, đúng là dân ghiền. Liêm an tâm, dân ghiền không có can đảm để làm gì cả. Và Liêm bỏ mặc, thay quần áo, rửa mặt mũi tay chân. Liêm ở lâu trong phòng tắm, một lúc sau nghe tiếng gọi: Ông bạn xong chưa? Mời ông ra uống rượu với tôi cho vui, giọng tỉnh khô. Trở ra ngoài, Liêm bảo:

– Tôi buồn ngủ quá. Mấy hôm đi tàu biển thật nhọc. Xin lỗi ông. Ông cứ tự tiện. Tôi ngủ trước.

Người đàn ông nài nỉ:

– Ông uống một tí cho ấm, ngủ càng say.

Liêm bắt buộc phải tu một ngụm trong chai và sực nhớ:

– Tôi có mua hai ổ bánh mì để trong túi áo. Ông có đói cứ ăn. Tôi mua đề phòng đấy.

– Cám ơn ông. Ông cũng cho tôi tự nhiên.

Liêm leo lên giường chui vào trong chăn bông nồng mùi băng phiến. Vải nệm và chăn còn lạnh giá. Chỉ có lúc này là dễ chịu nhất từ khi đặt chân xuống đất, nếu không có hắn đỡ bận tâm biết mấy. Liêm nằm duỗi thẳng ngó lên bóng đèn để khỏi chú ý đến người lạ.

– Ông có cần tắt đèn không? Tôi ngồi trong tối cũng không sao.

– Không cần. Ông lấy cái áo dạ của tôi khoác thêm cho ấm. Trong túi có bánh mì đấy.

– Vâng. Ông có muốn xem giao thừa không? Tôi sẽ đánh thức ông.

– Không. Tôi cần ngủ.

Một lúc không nghe gì nữa, Liêm lắng theo tiếng gió ngoài cửa kính và thiếp ngủ mau. Loáng thoáng nghe người lạ hỏi: Ông về Hà-nội có việc gì? Hay thăm gia đình? Ông ở Sài-gòn lâu không? Dường như ú ớ không đáp được vì bị giấc ngủ dìm kéo. Không chắc mau hay lâu, Liêm thức giấc vẫn thấy mình nằm trên giường một mình và xung quanh tối om, gió thổi lạnh cả mặt, vội quơ tay tìm nút bật điện. Cửa sổ buồng mở toang, người đàn ông ngồi gục đầu trên bàn như ngủ quên. Liêm ra khỏi giường, đóng cửa sổ, định đánh thức, bắt gặp khuôn mặt hốc hác ngước lên, hai mắt đỏ hoe, nước mắt nước mũi tèm nhem.

– Giao thừa chưa nhỉ?

Hắn không trả lời, cúi mặt bật khóc nức nở. Tội nghiệp hắn muốn tâm sự mà mình buồn ngủ quá. Liêm kéo cái ghế ngồi xuống. Chai rượu đổ nghiêng lênh láng cả mặt bàn, hắn tuyệt vọng. Hắn vẫn khóc như không hay biết có người ở trước mặt. Liêm không thể đừng được phải che tay lên miệng ngáp. Kỳ cục, hắn thất tình, chán đời, bị ruồng rẫy, bị lường gạt, hay điên. Cuối cùng Liêm phải xốc nách dìu vào giường, hắn vùng vằng yếu ớt, chân khuỵu lết bước không nổi, tay lạnh như đá. Nằm trên giường hắn vẫn còn khóc, nhưng Liêm bỏ mặc, Liêm cần ngủ.

CHƯƠNG II

Trời trên ô cửa kính xám ngắt như màu mái tôn. Mùng một Tết. Năm mới rồi. Người nằm bên cạnh vẫn ngủ mê, rớt rã lòng thòng, thở phì phò mặt tái mét. Hắn còn phải ngủ đến trưa mới tỉnh nổi. Liêm bước xuống giường đi về phía buồng tắm, dừng lại giữa phòng. Dưới sàn gạch hoa, vũng mửa hồi đêm chưa khô hết lầy nhầy, thoảng bốc mùi hôi chua. Không nghe một tiếng động ngoài đường cũng như ngoài cửa buồng. Khuôn mặt nhăn nhúm đáng thương. Trong phòng rửa mặt, nước nóng vốc lên mặt làm tỉnh táo, cảm giác mới mẻ bén nhậy sau mấy ngày ê mòn. Tiếng còi xe hỏa rúc trong ga vẳng bên ngoài cửa kính.

Liêm thay quần áo, xếp dọn va-ly xong, đến đứng cạnh giường nhìn người đang ngủ. Mắt khép không kín hở lòng trắng. Phải đi cho kịp chuyến, không thể đợi, Liêm gọi: “Anh…” nhưng quên mất tên. Dưới lần da cổ mốc và cáu ghét, tiếng rên khe khẽ. Liêm kéo tấm áo da bị đè dưới chăn, hắn lăn quay người phía khác những vẫn không dậy. Liêm đặt tay lên trán nhờn ráp và yên tâm, mong là anh chàng không tự tử. Ngoài hành lang, cầu thang, buồng tiếp khách lạnh tanh. Khách sạn vắng lặng, lầm lì, không một hương vị, màu sắc của ngày Tết. Ngày Tết. Có cả mười năm không biết cái Tết là gì. Và có lẽ cũng sẽ chẳng còn được biết nữa. Nơi caisse, một thiếu phụ tươi cười chào đón. Nụ cười đầu tiên từ khi đặt chân lên đất. Liêm trả tiền phòng một ngày, cười khì che đậy vẻ lúng túng không quen khi nhận lời chúc mừng đầu năm của thiếu phụ. Bà ta sẽ nghĩ là mình bất lịch sự khi mình chỉ biết cám ơn nhưng có biết đâu cái thói quen mừng tuổi theo công thức có sẵn mình đã mất. Liêm nói: “Trên phòng vẫn còn một người ở lại”. Thiếu phụ lộ vẻ ngạc nhiên, lật sổ cái dò xem. “Ông ấy có lẽ ăn Tết ở đây và sẽ thanh toán tiền phòng sau”.

Nhà ga ở xế cửa khách sạn, ngoài thềm không một bóng người. Liêm đi ngang qua đường, nhìn vào trong phố thấy thấp thoáng một vài người xuất hành sớm lẩn sau các gốc cây. Trong phòng vé cũng không người, người bán vé đứng bên lối cửa ra ke. Ông ta thu tiền, bỏ vào trong một túi vải xám buộc giây đeo ở cổ tay, rồi tự tay bấm vé, trỏ về phía đoàn toa không đầu máy trên con đường sắt thứ nhì. Chiếc đầu máy đang lấy nước ở phía xa. Trong sân ga chỉ thấy những toa than. Liêm giẫm lên những hòn đá xanh lổn nhổn, đi chéo về phía toa hành khách có bóng đàn bà đứng ở cửa sổ chống soải tay trông ra ngoài. Trên cả toa tàu chỉ có bốn hành khách, kể cả Liêm. Hai người đàn bà cùng từ Sài-gòn ra không thấy, có lẽ họ về Hà-nội bằng xe hơi. Toa xe thật rộng, ngoài hai băng ghế chạy dài bên thành toa, ở giữa còn thêm hai băng dài khác ghép dựa lưng vào nhau. Những người khác cũng đều đi một mình. Hai người đàn bà nhà quê với quang gánh và hai bồ hàng hóa. Một thiếu nữ, Liêm đã trông thấy lúc ở dưới sân ga nhìn lên, mặc áo dạ đen, buộc khăn trùm tóc, hành lý chỉ có một chiếc làn mây đặt ngay cạnh chỗ ngồi. Liêm đặt hai chiếc va-ly lên ghế, rồi bỏ ra đứng ở đầu toa chỗ bực lên xuống. Toa nối là một toa hàng xám kín mít. Tàu rời ga, chạy qua một vài đường trong thành phố. Nhà đóng cửa, người ta mặc quần áo mới đi bộ nhàn tản hai bên hè và cả trên mặt lộ. Đường không có xe cộ. Liêm nghĩ đến anh chàng còn ở trong buồng khách sạn, hắn không thể tự tử được, chỉ mai hay mốt, có khi ngay bữa nay, hắn sẽ trở về nhà lủi thủi như con chó cúp tai… Quả là buồn cười, đêm đầu tiên, đêm giao thừa ở chung một buồng với một anh chàng chán đời. Điềm gì? Không hiểu sẽ còn gặp thêm những chuyện lạ gì nữa, nơi không còn phải là quê hương… Liêm bất chợt thấy mình đang sợ hãi. Không gia đình, không thân thích, một bức thư giới thiệu của Tường và Hà-nội. Tại sao lại trở về? Trở về cũng như lúc bỏ đi ngày niên thiếu là phiêu lưu, phiêu lưu ở trong quê hương đã xa lạ. Dường như ở đây đầy rẫy những chuyện ngoài trí tưởng của mình, dường như vậy…

Con tàu nặng nề, chậm chạp trong một nhịp điệu buồn tẻ. Không còn cái cảm giác say sưa được ôm trong gió vút của tốc độ ngày bé bỏng. Cánh đồng và chân trời xa tít như không thay đổi. Liêm nhìn bờ cỏ dốc của mô đắp đường rầy, những viên đá và then ngang, các móc nối và bàn sắt ủi giữa hai toa, giòng giây điện chạy song song nhịp nhàng để thấy sự chuyển động. Trong toa hai người đàn bà nhà quê ngủ gà gật trong góc, thiếu nữ ngồi quay nghiêng trên ghế nhìn qua cửa sổ. Dưới chân rác rưới bừa bộn, lá chuối khô, giấy báo rách, bã mía, quết trầu… Gió lùa trống. Màu trời giống như màu thiếc gò trong nhà anh Xuân. Căn phố cao nền đất, cửa tiệm đồ sắt chiếm phân nửa để ở và nhà bếp; trong nhà bếp khói đen, một bộ ván để ngủ gần trạn bát ngay lối cửa sau thông ra ngõ hẻm; Ngõ hẻm mở nhiều lối về các ngả, một ngả dẫn xuống phố Phước Mỹ. Trước hè la liệt những bàn bầu cua, tài xỉu quây quần người lớn cùng con nít; tiếng cãi lẩy, giành dật đòi chung tiền, tiếng kêu chóe từng chập của những chiếc bóng hơi có lắp kèn ở đầu thổi, tiếng hối la của xẩm tài xỉu lẫn tiếng rao bộp chộp của bàn bầu cua, bên kia đường rầy xe lửa điện, chợ bà Chiểu chạy dài trước các mặt phố lầu trên nền gạch trống với dãy quán cóc, nắng lên sáng rỡ trùm nắng nhà ga nơi góc đường; một gánh hát Sơnông bán thuốc nổi trống chiêng tập họp người xem. Hạnh đang làm gì? Trong xóm Đồng Ong Cộ cũng chỉ gặp những bàn bầu cua, những xòng bài cào trên các lối đất, tiếng chuông leng keng của xe cà-rem tàu đẩy rong qua các đám bạc, người lớn và con nít ngang hàng với nhau. Thiếu nữ quay mặt lại, bắt gặp Liêm đứng nơi cửa toa. Cô ta nhìn thẳng, quan sát không dấu diếm. Liêm lúng túng đi tới ngồi xuống gần chỗ đặt va-ly. Trên nét mặt thiếu nữ có ánh cười thân thiện. Liêm mỉm cười bâng quơ đáp lại, tựa lưng để cho sự lúc lắc ru ngủ. Không ngờ vẫn còn buồn ngủ đến thế. Tôi sẽ về đến Hà-nội và tôi sẽ đi tới đâu nữa. Có lẽ chỉ còn thành phố ấy là quen nhất. Thằng em chắc vẫn còn ngoài kháng chiến. Gặp lại hai anh em sợ khó nhận ra nhau. Mẹ? Bà còn sống…

Tàu đỗ im từ lúc nào, rất lâu. Tiếng hơi phì phì, đều nhỏ. Ga nhỏ không có bóng người, biển tên nhà ga tìm không thấy. Gian nhà gạch vắng tanh, tường bị cạo trắng loang lở, có lẽ là những khẩu hiệu nào bị bôi xóa. Sau lưng nhà ga là cánh đồng mùa đông, một con đường đất dẫn vào làng với một bụi tre còn mang rõ vết cháy vàng. Chiến tranh ngoài này khốc liệt hơn. Không hiểu con tàu đỗ lại chờ đợi gì. Một người xoát vé bước lên toa, ông ta dở mũ và ngồi xuống ghế giữa toa hỏi chuyện hành khách. Trong toa thêm một chị bán bánh dầy bánh giò, cả bốn người đều là khách quen. Ông ta đưa mắt nhìn Liêm như một kẻ lạ mặt đáng ngờ, nhưng không chú ý tới lắm. Ông ta không hỏi vé mà nói chuyện: chuyện ngày Tết, chuyện chiến tranh, chuyện làng Tề, chuyện kháng chiến. Liêm được biết tên thiếu nữ là Bích; trong câu chuyện người soát vé hỏi thăm Bích về Liên, một bạn thân thường buôn chung với Bích đã lâu không thấy đi tàu, “Chị ấy ốm. Chồng chị không cho đi chợ nữa.” “Cô xuống Phòng có việc gì mà hôm nay mới về? Dạo này cô lại buôn gì xuống Phòng. Bỏ đường Cẩm-giàng rồi à?” Người soát vé hỏi. “Tôi xuống thăm chị Liên. Chị Liên bây giờ dọn xuống Phòng rồi. Với lại đòi tiền mãi mới được nên bị mắc kẹt không về kịp trước Tết? Toa tàu bỗng trở nên vui vẻ ồn ào thân mật hơn khi Bích muốn ăn bánh giò và mời mọi người: “Tôi mới trúng áp-phe mà… Đừng từ chối. Mùng một tôi rông cả năm”. Và Bích quay lại nói lớn với Liên để át tiếng động của tàu đang chạy: “Mời ông xơi bánh.” Liên bối rối đáp: “Cám ơn cô”. Chị bán bánh bưng thúng bánh đến ngồi bên Bích, theo lời Bích, bóc bánh đưa đi mời cả toa. Trước hết là người xoát vé, rồi đến hai người đàn bà nhà quê, hai người này nhận bánh và mang đến chỗ Bích ngồi ăn nói chuyện. Khi đến lượt mình, Liêm chưa biết nên nhận hay từ chối Bích đã nói: “Mời ông đến ăn với chúng tôi cho vui. Chẳng mấy khi mà lại phải ăn Tết lưu động như thế này”. Liêm đành cầm cái bánh đã bóc trên tay, đến ngồi cùng ghế với người xoát vé, vừa ăn chậm chạp vừa nghe người khác trò chuyện không biết cách góp. Trong câu chuyện, người soát vé hỏi Bích: “Cô nghĩ thế nào về chuyện bà Cát Hanh Long trên Thái-nguyên?”

 “Tôi có người nhà mới vào nói chuyện đấu tố là có thật. Kinh khủng lắm, không thể ngờ được”. Liên hỏi: “Ông nói cái gì, đấu tố là cái gì?” Người soát vé nhìn Liêm bằng cặp mắt hoài nghi và Liêm vội giải thích mình vừa ở Sài-gòn ra. Ông ta thuật lại câu chuyện về bà Cát Hanh Long, đại điền chủ, đã từng cúng hết sản nghiệp cho kháng chiến từ lúc đầu, có ba đứa con trai đi bộ đội, bị đưa ra trước tòa án nhân dân phải tự vẫn. “Trong tuần lễ vàng, bà đã cúng đến cả chục kí vàng cho chính phủ. Bao nhiêu đồn điền của bà ở Thái-nguyên đều dâng cho chính phủ kháng chiến hết… Vậy mà bị kết tội là địa chủ phản động bóc lột”.

 

Và câu chuyện chuyển sang ngả khác. Bích hỏi về chuyện Sài-gòn. Liêm kể về cuộc kháng chiến trong Nam, tinh thần của dân chúng, các tổ chức nằm ngay trong nội thành. Trẻ con, thanh niên hát những bài kháng chiến ngay ngoài đường phố, một lời kêu gọi bất hợp tác với quân Pháp tung ra học sinh công chức cả công an nữa bỏ thành ra bưng tới độ phải mời bớt họ về thành, những kẻ cộng tác hương chức trong làng hay nhân viên chính phủ bị ám sát giữa ban ngày… Và thành phố Sài-gòn vẫn nguyên vẹn rực rỡ, tấp nập. Bích hỏi: “Tài nhỉ? Tại sao thế?” “Vì Sài-gòn Chợ-lớn cũng là một chiến khu…” “Rồi ông sẽ thấy Hà-nội khác hẳn. Không giống như Sài-gòn đâu”. “Tôi cũng nghĩ thế”. Liêm thấy Bích dễ thân mật, con gái Bắc đã thay đổi chăng, không còn kiêu kỳ như mình vẫn tưởng chăng?

– Bỏ đi lâu quá, tôi chẳng còn nhớ được mấy tí. Sắp đến đâu rồi cô.

Tàu đang chạy chậm, leo vòng lên một dốc cầu. “Cầu Phú-lương”, Bích nói, “Đến Hải-dương đấy”. Người xoát vé chào Bích, đội mũ đứng lên đi ra ngoài đầu toa. Chị bán bánh, dẹp cuốn lá, ném ra ngoài cửa sổ, đập nắp thúng sửa soạn rời toa. Liêm bạo dạn ngắm Bích, đứng chống tay khum người nhìn ra ngoài.

Tàu chạy thật chậm trên cầu. Thành phố Hải-dương trông xa lô nhô những mái nhà thấp bé và một vài phố ngắn, thành phố buồn tẻ Bích đã xuống vài lần với Liên không lâu quá hai tiếng đồng hồ. Con phố chính từ dốc cầu này chạy đổ xuống, gồm hai dãy nhà một tầng hai tầng cũ mới lẫn lộn, chạy qua nhà thờ, phòng Thông-tin, rạp chiếu bóng và đến nhà ga; những công thự ở lui trong các phố ngang. Trong một hiệu cao lâu ở phố chính, Bích ngồi nhấm nháp một cốc chanh quả, nhìn qua cửa kính ra phố nắng bụi mỗi khi xe chạy qua, trong khi Liên đi tìm gặp Labay, tên Tây lai chánh sở mật thám liên bang. Có lẽ họ gặp nhau trong bàn giấy, rồi về nhà hay đến một Hôtel bẩn thỉu nào trong tỉnh. Bích vừa thương hại, vừa giận Liên. Không thể tưởng tượng Liên có thể nằm trong tay những người đàn ông như thế. Nghĩ đến cái thân thể ốm o, bẩn thỉu của Tích, cánh tay lông lá, cặp môi dầy, mắt đục như mèo của Labay sẽ đụng đến da thịt muốn lợm giọng buồn nôn. Một người đàn bà làm sao có thể yêu hai ba người đàn ông khác nhau, làm sao có thể nhận được những thân thể khác nhau. Cái thân thể đàn ông, Bích nghĩ, may ra vì yêu chịu đựng nổi một trong đời đã quá lắm. Không hiểu Liên có yêu những người ấy không, những người mà mỗi hơi thở là một tội lỗi với đồng loại. Không sao hiểu nổi Liên, cũng không sao hiểu nổi mình. Tại sao tôi cứ mãi là kẻ làm chứng trong những cuộc tình của Liên? Sau cái vẻ mặt hiền lành đến độ nhẫn nhục, nụ cười buồn bã như ánh nắng muộn, che dấu những gì? Mỗi lần trở lại đón Bích để lên tàu về, Liên ngượng nghịu bối rối trông thấy. Bích đã hỏi thẳng về những cuộc gặp mặt mờ ám ấy và Liên dối quanh. Chỉ là người quen cũ của gia đình, xuống nhờ việc, chạy một áp-phe. Không hiểu bây giờ Liên còn gặp Labay nữa không?

Còn anh chàng Thạch nữa, không hiểu thuộc hạng người nào? Hắn mất tích sau lần tìm đánh Tích sau nhà tắm công cộng Chợ Gạo, không thấy trở lại hỏi tin Liên nữa. Lầm lì, hung hãn giống như tên côn đồ. Không hiểu sao tôi lại bằng lòng đưa hắn đi tìm Liên tối hôm ấy? Có lẽ vì sợ. Bề ngoài tôi vẫn tỏ ra cứng cỏi đương đầu với bọn đàn ông luôn luôn vây quanh tìm mọi cách lợi dụng, khác với Liên mềm mỏng khôn khéo trong khi còn buôn chung, nhưng thật ra tôi cũng sợ. Hắn có thể gây những chuyện rắc rối phiền phức, trong cái xã hội tranh tối tranh sáng này không biết đâu mà lường trước được. Nhưng chắc chắn không thể như Liên, không thể như thế được. Chiến tranh sẽ chấm dứt, xã hội này sẽ thay đổi và Bích… Bích nghĩ tới Hội còn ở ngoài hậu phương. Hội. Anh như một mối hy vọng duy nhất, anh sẽ trở về. Sự thật chưa có gì cả, ngày ấy tôi còn nhỏ, nhưng tôi vẫn tự coi anh như người tình để được chờ đợi. Anh có thể không yêu em nhưng anh có thể chết, và anh thuộc về em. Nhưng anh trở về. Còn gia đình? Ông bố nghiện, lũ em nheo nhóc. Gia đình này thay đổi được không? Không còn dám nghĩ tới nữa. Cả nhà đợi mang tiền về ăn Tết, mà hôm nay đã mùng một Tết. Đáng lẽ có thể về từ hăm chín, tàu đang vào ga, sân ga cũng chẳng vắng hơn ngày thường mấy, chỉ tại Liên. Người đàn ông đã cởi chiếc áo dạ mặc ngoài, có những nét hao hao quen thuộc không nhớ gặp ở đâu. Tàu đỗ hẳn và người đàn ông nói:

– Nhờ cô nhìn dùm mấy cái va-ly, tôi xuống đất một chốc cho thoải mái. Tàu đỗ lâu không cô?

– Còn lâu. Ông cứ tự nhiên.

Hắn nhảy xuống dưới đất, đi ngược lên phía đầu máy. Bích nhìn chiếc áo dạ nằm vắt phủ trên hai chiếc va-ly, đã cũ trụi gần hết lông màu ngả bạc. Trời hé chút nắng ấm nhưng không thấy bóng. Nhìn đồng hồ tay, Bích nghĩ phải quá trưa mới về đến ga hàng Cỏ. Bích mở chiếc làn mây, kiểm lại các món vật hình như còn quên một thứ nghĩ không ra. Cảm tưởng mất mát lúc buổi sáng khi vội vã ra ga lại xuất hiện. Cả đêm ngồi tâm sự với Liên đến ba bốn giờ sáng mới chợp mắt một lúc. Tích ngáy khò khò trên giường, hắn có vẻ hãnh diện về việc làm hoàn tất của mình. Mãi chín giờ tối hắn mới mang tiền về, trao đủ cho Liên để trả Bích. Bích thở phào như thoát nạn. Bích mang xuống hai cân hàng mo, lẽ ra đưa hết cho chỗ tiêu thụ nhưng nghe Liên than phiền thiếu tiền ăn Tết đã trao cho Liên một cân để chạy ăn hoa hồng. Liên đưa cho Tích và giao hẹn trước mặt Bích: “Cô ấy giúp tôi tiền ăn Tết. Anh không thể làm lăng nhăng được đâu”. Tích thề bán sống bán chết và mỗi buổi chiều hắn đều nhăn nhó khổ sở vì bị khất. Đáng lẽ Bích có thể về từ hôm hai mươi chín nếu không đưa hàng cho Liên. Cũng may, giao thuốc phiện cho anh nghiện chưa ai dại bằng Liên với mình, chẳng hiểu cớ gì hắn có thể sòng phẳng được như thế. Liên gầy và xanh hơn trước nhiều. Không hiểu còn gặp những người đàn ông khác nữa không? Trên cánh tay và bắp chân Liên có những dấu bầm tím. Tại sao Liên có thể chịu mãi được? Liên chỉ biết chảy nước mắt than thở: “Cái số của tôi nó khốn nạn như thế.” Lúc ấy giao thừa vừa xong và hai người còn ngồi trên ghế con ngoài hàng hiên ngắm những ngọn nến lay động chực tắt. Bích không muốn nhắc nhở Thạch với Liên trong suốt mấy ngày, cũng chẳng ích gì, nói rằng Thạch tìm Liên, nhắn không bao giờ quên Liên để làm gì. Chuyện đã quá xa cũ, Liên không thể làm hơn được. Phải không? Một ngày nào họ gặp nhau lại, họ sẽ tự nói lấy, nếu họ còn được gặp nhau lại. Cũng mong là Liên yêu Thạch vì dù sao có lẽ chỉ có Thạch là người đàn ông yêu Liên.

Người đàn ông trở về, tay cầm mấy phong bánh khảo, bánh đậu xanh, mời Bích. Bích nói:

– Bánh khảo đây ngon có tiếng. Ông để dành về Hà-nội làm quà.

– Thú thật với cô, tôi chưa có ai quen ở Hà-nội để làm quà. Chính tôi về cũng chưa biết ở đâu.

Bích ngạc nhiên, hoài nghi:

– Ông không có gia đình mà lại về vào ngày Tết này. Sao ông không ở lại Hải-phòng đợi đến mùng bốn đã.

– Tôi đến Hải Phòng chiều hôm qua. Ở Hải Phòng tôi cũng chẳng có ai quen. Đêm qua tôi ăn giao thừa ở hôtel với một anh chàng say chán đời. Chán quá nên tôi nghĩ cứ về bừa Hà-nội. Chẳng lẽ cả thành phố lại không có chỗ nào tá túc được hay sao. Năm tôi vào Sài-gòn tôi còn ngu ngơ hơn bây giờ mà chẳng chết nữa là…

Bích nghĩ thầm: làm đàn ông thật sướng, bạt mạng chẳng sợ gì hết. Nghĩ đến những đêm phải ngủ trọ nhà lạ, thao thức trằn trọc, suốt đêm thấp thỏm lo sợ những hình thù mò mẫm trong bóng tối, Bích thấy tuy phải nằm ép mình giữa hai đứa em trong gian buồng chật chội, hôi hám hơi người và khói thuốc phiện còn hơn. Nhất là mấy đêm ngủ lại nhà Liên, nhà chỉ có một buồng nghe rõ tiếng lục đục bên giường, Bích nằm trên đi-văng cứng mỏi, ghê tởm. Nhiều lúc giật mình, tay chân giá cóng, hơi thở dồn, tim đập nhẩy, tưởng như Tích đến gần sờ mó vào người và Bích có thể giết chết được đứa đàn ông bẩn thỉu. Thế mà Liên chịu đựng được? Người đàn ông nói: Xin lỗi cô, và hắn xách va-ly nhỏ sang băng phía bên kia kê đầu nằm nghiêng duỗi thẳng chân. Hai người đàn bà nhà quê đã xuống ở ga Nam-sách, không có hành khách lên thêm, chỉ còn hai người trong toa rộng với gió nắng lùa chạy vùn vụt. Bích tháo khăn chùm tóc, nghe hai tay tê giá dần dần. Người đàn ông nào cũng giống người đàn ông nào, nặng nề, chậm chạp, ẩm ướt, nhiều khói bụi. Bích không tưởng tượng ra người chồng tương lai của mình như thế nào, Hội, lâu ngày đã quên hẳn mặt, nghĩ đến như một lý tưởng trừu tượng xa vời. Tình yêu chăng? Tình yêu như hướng vọng, đợi chờ một ảo tưởng có thể thành sự thật hay sự thật lúc nào cũng có thể thành ảo tưởng. Anh chàng Thiện, y tá bệnh viện Phủ Doãn, cao lòng khòng, chỉ có cái thú độc nhất là vô-lê-ban, người lúc nào cũng thơm nức mùi nước hoa, đỏm dáng như con gái; bà mối giới thiệu anh chàng sẽ là một người chồng, người cha gương mẫu, mỗi lần hắn gỡ đôi kính trắng lấy khăn lau mắt hấp háy như gặp nắng trông đần độn khó chịu, nhìn vào mắt hắn như nhìn vào đôi mắt mù. Một anh chồng không nhìn được gì vượt khỏi tầm mắt cận thị. Bích sực nhớ mình đã hai mươi hai tuổi, hai mươi bốn tuổi với tình yêu tự tạo để tưởng nhớ, để thuật với bè bạn khi cần chuyện tâm sự. Một thiếu nữ trong thành chờ đợi người tình ngoài kháng chiến. Ngọc bảo: đó là một hạnh phúc, và lúc ấy quả cũng cảm thấy tâm hồn bay bổng như được vuốt ve an ủi. Hội ở đâu? Hội ra sao? Hội còn nhớ đến tôi không, đứa con gái ngày đó mới chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Tàu đỗ lại Cẩm-giàng, đợi chuyến xuống. Nhìn ra ngoài ga, phố quận đìu hiu hơn. Người đàn ông chừng ngủ say mệt, quay mặt ra ngoài lối đi. Nét mặt gồ ghề, sáng tối lẫn lộn. Bích loay hoay lục lọi trí nhớ tìm cái khuôn mặt giống đã gặp. Một khuôn mặt già sạm đứng im nhưng lẩn khuất những nét ngây thơ dại dột. Bích nghĩ không hiểu ở nhà bà cụ có xoay đỡ được ít tiền tiêu Tết không. Sáng mùng một, nhà tấp nập khách khứa mà không có tí gì coi cũng không được. Bích mừng thoát khỏi phải tiếp khách mệt nhoài. Ông bố chắc đã dẹp bàn đèn vào tận giường trong cùng và cả ngày bữa qua bọn em phải xoay trần dọn dẹp nhà cửa. Con Loan mệt, tối sẽ tìm một só ngồi khóc rấm rứt; đã hai năm nó vẫn mơ ước một cái áo dài. Tiếng chân đi dẫm trên đá xanh lổn nhổn bên thành toa. Kính đứng dưới đất nói lên:

– A, cô Bích. Hôm nay cô cũng đi chợ nữa sao? Năm mới chúc cô năm nay cho tôi uống rượu.

– Năm mới chúc Thiếu-úy thăng chức. Có nhắn gì Ngọc không, tôi về nói lại cho.

Kính đỏ bừng tai, chớp mắt, nhe răng cười. Hắn là trưởng đồn, vốn thầy tu xuất, vẫn theo đuổi Ngọc. Ngọc lấy làm xấu hổ vì bị một người như Kính mê, cô nàng nói: “Trông nó bề ngoài lờ mờ vậy mà giết người không gớm tay”. Ngọc nghỉ chợ vì ngại gặp Kính, cô nàng đi buôn như làm những chuyến du lịch, con một gia đình thầu khoán phong lưu, Ngọc đòi đi buôn để được theo Bích và Liên xuôi ngược hằng ngày. Chiều nay sẽ lại thăm Ngọc, cô nàng bây giờ lại hoạt động hướng đạo trong khi chờ đợi lấy chồng.

– Hôm nào thiếu úy về Hà-nội?

– Có lẽ còn lâu.

Kính rút khăn tay lau mặt và cổ, có lẽ hắn muốn hỏi thăm Ngọc nhưng không biết cách mở lời, hắn cũng biết Ngọc ghét hắn. Hắn đứng nép vào thành toa ngửa cổ nhìn đoàn toa xuống ép hắn vào giữa, tiếng máy chuyển động át mất câu nói của hắn. Mãi sau Bích mới nghe được đoạn cuối: … Các cô nghỉ chợ, Cẩm-giàng buồn quá. Bích cười nhìn theo Kính mập mạp, lùn thấp len giữa hai đoàn tàu và leo lên mất hút ở một toa tàu bên. Người đàn ông thức dậy ngồi lên ngơ ngác.

– Gần đến Hà-nội chưa cô?

– Chưa. Ông có thể ngủ một giấc nữa.

Hắn móc thuốc lá châm hút, nhìn qua đoàn tàu ngược tò mò. Bích cố nhớ lại những nét quen trên mặt người lạ và một chốc những nét quen bị bôi xoá chỉ còn lại hình ảnh xa lạ hoàn toàn của một người đàn ông giống như những người khác.

Trời còn se lạnh nhưng vẫn nghe mồ hôi dâm dấp, có lẽ đói và khát. Cảnh vật trở nên nhàm mắt. Đồng ruộng, đồn bót, làng xóm trong bầu trời thoáng nắng ủ ê. Con đường cái chạy theo tàu lúc sát tới, lúc lui xa, lúc cắt ngang mất tích. Lâu lắm mới gặp một chiếc xe hơi trên đường. Tàu đỗ lại những sân ga không người, chỉ có tường gạch loang lở hoặc lỗ chỗ vết đạn bên những đầm nước bèo cỏ mọc hoang mọc tủa lên những cọc nứa giăng hàng, một hai phố quận chỉ là hai dãy phố lụp xụp dựng bên đường cái với đồn canh chặn đầu. Vẻ hoang tịch trên mọi vật phơi bầy. Liêm muốn được nhìn thấy cảnh tượng đang diễn trong vòng những lũy tre dầy cô lập các làng mạc giữa vùng đồng ruộng bát ngát. Ở đây vừa trống trải, vừa cô đơn. Không còn sự luông tuồng nối kết dằng dặc bởi bờ bụi, cỏ cây, nương rạch từ làng này qua làng khác như đồng ruộng trong Nam. Bất cứ chỗ hẻo lánh nào giữa bưng biền vẫn có thể gặp người và nhà ở. Ở đó hoang dã nhưng không cô đơn. Liêm nghe thốn trong bụng cảm giác mình đang dấn mình về nơi không được che chở. Bích bỗng hỏi:

– Ông về Hà-nội định làm gì?

– Tôi chưa biết. Cũng có thể ít lâu tôi lại vào Sài-gòn.

– Ông có vẻ thích Sài-gòn.

– Tôi có cảm tưởng như tôi đã là người Sài-gòn. Tôi đã ở trong ấy hơn mười năm. Về đây thấy cái gì cũng lạ. Cũng sợ. Chắc tôi không thể sống được ở Hà-nội.

Bích cười, nàng búi lại đầu tóc, tiếng cười trong đơn giản. Liêm cười theo, rồi đứng dậy nhấc va-ly đặt về chỗ cũ.

– Quê ông ở đâu?

– Từ nhỏ tôi đã sống ở tỉnh. Tôi đã bao giờ về quê đâu. Mười bảy tuổi là tôi bỏ nhà đi rồi.

– Ông anh hùng nhỉ?

– Không phải. Mỗi người có một hoàn cảnh.

Anh hùng. Không tôi không phải là anh hùng. Đó là lời nói mỉa. “Tôi không phải sinh ra để làm cách mạng. Tôi tầm thường, tôi sống như mọi người. Tôi phục chị Hai nhưng tôi không muốn làm như chị.” Chị Hai, vợ của nhà cách mạng nổi tiếng đã chết ngoài Cônảo trong thời Pháp-thuộc, được anh em tôn gọi và kính nể, sống hẩm hút với mấy đứa con tại chùa Bàầm nhưng vẫn nuôi chí chồng, cầm đầu tổ chức phụ nữ nội thành; Tường đã dẫn Liêm đến thăm sau ngày Liêm được thả và thất vọng chán nản vì bị bỏ rơi, hy vọng Liêm trông gương chị. Tường bảo: “Ở bất cứ địa vị nào người ta cũng có thể tham gia cách mạng.” “Không. Tôi không làm cách mạng, tôi chỉ muốn làm việc.

– Tôi có người bạn cũng người Bắc vào Nam từ lâu, lúc tôi về anh có khuyên tôi không nên. Tôi không tin.

– Ông vội quá. Ông đã về đến Hà-nội đâu.

– Cô đã chẳng nói Hà-nội không giống Sài-gòn hay sao?

– Tôi nghĩ ở đâu rồi quen đấy.

Vấn đề không phải là quen, sống không thể chỉ là thói quen. Trưa đang nhẹ dần, không khí ấm hơn. Tàu bắt đầu chạy chậm, qua cửa sổ những mái nhà thấp bé bắt đầu xuất hiện. Bích nói: Đến Gia-lâm rồi. Bỗng dưng Liêm nghe nao nức lạ lùng, thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn. Quang cảnh nhà ga đượm vẻ thân cũ, những bồn nước, cần ghi, các kho tối đóng cửa, các toa than rải rác, đường sắt dan díu, nằm nguyên chỗ như chưa bao giờ đổi thay. Trong một phút, tâm trạng biến đổi hẳn, tôi đang đặt chân bước vào ranh giới của một vùng mơ ước của tuổi nhỏ.

– Tôi không hiểu Hà-nội thay đổi thế nào nhưng tôi thấy Gia-lâm không thay đổi mấy.

Bích quàng khăn lên đầu, mở nắp làn mây có lắp tấm gương con soi mặt. Liêm nhấp nhỏm chờ đợi con tàu huýt còi rời ga để chạy lên cầu Long-biên. Đường phố Gia-lâm vắng ngắt như trong một bức ảnh chụp kỷ niệm. Ngày nào xa lắm, tôi đã ngồi trên chuyến tàu này cùng đứa em trai và mẹ lên Hà-nội sau khi bố chết. Thạch đội chiếc mũ nồi đỏ, chiếc mũ nồi lúc qua chợ Đồng-xuân bị kẻ cắp giật mất khi nó ló đầu ra ngoài cửa sổ tàu điện dáo dác nhìn phố; sức giật quá mạnh khiến môi nó vập xuống thành cửa gẫy mất một cái răng. Gió bốc lên từ mặt sông Cái nước đã rút bớt, thành cầu ầm ì vang động lùi mãi. Giải đất nổi chia đôi mặt sông xanh um cây cối, thỉnh thoảng xen những khoảng vườn ngô đều hàng thưa trống. Tiếng động của gióng cầu như một khúc nhạc vang âm và từ phóng trong thời gian của trí tưởng. Hà-nội như một niềm thân mật cuối cùng còn sót phải tìm lại. Đường bộ trên cầu chỉ là lớp gỗ nằm gung đen bóng thỉnh thoảng điểm một vệt sáng đen của sắt. Đường bờ sông bến Nứa, bồn nước Hàng Đậu… vẫn còn nguyên. Tàu chạy trên cầu đá qua hàng Giấy, sông Tô-lịch, men theo đường Thành. Như từ đỉnh cây dòm xuống, thành phố nghiêm trang vắng người bốc lên một bầu không khí huyền hoặc.

– Hà-nội vẫn không thay đổi gì cả.

Bích đứng lên, Liêm nhích người nhường chỗ cho nàng trông xuống phố. Bích quay nghiêng mặt khẽ mỉm cười, hai bàn tay nàng víu lấy thành cửa tím trắng.

– Tôi chỉ thấy nó nhỏ quá, không còn lớn như trong trí nhớ.

Tàu đã chạy xuống phố, ngang qua những rào cản. Một vài người, hai ba chiếc xe đạp, một chiếc xe hơi đứng đợi dưới phố. Con tàu như chạy quá nhanh và khi đỗ lại bên một mái hiên chụp tối của ga, Liêm bàng hoàng ngơ ngẩn. Bích nhấc chiếc làn mây đeo vào tay tiến ra ngoài đầu toa. Liêm chậm chạp khoác áo dạ vào người, xách hai chiếc va-ly lên. Bước xuống đến sân ga, Liêm đã thấy Bích tiến vào đến cửa vào nhà ga. Mươi hành khách nữa xuống ở một toa gần cuối, trong ấy có hai người đàn bà cùng đi trên chuyến tàu thủy. Họ không trông thấy Liêm và Liêm nhìn họ như những người quen cũ. Ra đến cửa ga Liêm gặp Bích vẫn còn đứng trên thềm. Con đường hàng Lọng thật xa thật thấp.

– Ông về đâu?

Liêm móc túi tìm lá thư của Tùng, đọc lại địa chỉ, đưa cho Bích xem. Bích nói: Ông gọi xe về, đây vô đấy khá xa. Chúc ông năm mới mọi sự như ý. Bích thoăn thoắt bước xuống các bực thềm, đi khuất vào phía tường ga nhô ra thu hẹp con đường. Liêm nhìn khoảng trống trước mắt. Mặt đường rộng, con đường tàu chôn dưới nhựa, xe tuần cảnh nhà binh đậu ở một góc đường, hàng cây xanh sâu sao động.

Liêm không vào thành phố, địa chỉ Tường giới thiệu là nhà thương Bạch-mai. Phải mất gần giờ đồng hồ mới tìm được một chiếc xích lô bằng lòng ra ngoại ô, người phu xe già rách rưới hom hem trông như mùa đông vẫn còn xung quanh, như hình ảnh miền Bắc đói rét co ro không thay đổi. Chiếc xe tuy đã mất, nhưng còn lại những người phu xe này. Tối mùa đông, cửa ngõ đóng kín, Liêm nghe tiếng gõ cửa gọi, bà cô có môn bài thuốc phiện phải bật đèn dậy càu nhàu, mở hé khuôn cửa gỗ tròn đút lọt một cánh tay dơ bẩn khẳng khiu van nài, gió rít ào ào ngoài trời, bóp thuốc đặc quánh trong chiếc hộp đồng đục hai lỗ nhỏ vào trong vỏ hến; người phu xe kì kèo xin thêm một giọt, le chiếc luỡi thâm tái liếm sạch chất thuốc trong lòng vỏ trắng có vân xanh đỏ hoặc năn nỉ xin mua những chiếc rẻ rách lau hộp đồng; trong đêm lạnh giá, bình nước nóng ủ dưới chăn bông của bà cô, tiếng vỏ không ném rơi trên hè đường. Bên trái khu đóng quân của quân viễn chinh, bên phải hàng tường dài của ga, lấp ló vài mái nhà. Ngã tư Khâm-thiên – hàng Lọng. Phố Khâm-thiên hiện một khúc ngắn, đường tàu chạy ngang, lầm lội bụi bậm. Con đường chạy ra ngoài giữa cánh đồng, chuyến tàu điện một toa loong koong như không có hành khách. Buổi chiều chớm nở nhạt nhẽo trong khoảng gió lớn, lất phất mưa bụi. Một vài chiếc vận tải nhà binh chạy như giông gió nhắm hướng thành phố, mỗi lần người phu tạt xe vào vệ đường đỗ lại, Liêm nhắm mắt tránh gió tạt cay, làu nhàu nguyền rủa bọn tài xế bất lương. Ngày quá dài, chiến tranh cũng đã quá dài. Tôi như kẻ mệt mỏi đào ngũ, về đây… Liêm mường tượng điệu hát của người thiếu nữ trên tàu biển trong buổi mai sảng khoải, im cơn say sóng; Mới đó, đã tưởng thuộc vào một quá khứ xa vời. Ở đây mọi vật, mọi người, cả trong không khí lửng lơ, đều khép kín, nghi kỵ, đầy bất trắc. Rồi tôi sẽ phải đi tới nữa. Khu vực nhà thương rộng, nhiều tòa nhà lớn, cây cối um tùm. Dãy phố lá trước mặt bệnh viện không có vẻ Tết, các cửa hiệu vẫn mở nhưng không có khách, một vài chiếc xích lô đậu nghênh gếch một bánh trên mặt nhựa cao, một bánh dưới đất lún trước các nền nhà, chỉ có những đứa trẻ mặc quần áo súng sính đứng ngơ ngẩn nhìn quanh. Trong sân nhà thương, một hai người lẽo đẽo đi mãi tới tòa nhà ba tầng ở sân. Liêm xách va-ly, đi vào cửa ngách, hỏi thăm người canh gác, một người đàn ông đứng tuổi lầm lì như mặt ngày trời lạnh.

– Ông Hỗ hả? Ông Hỗ làm bên khu lao phải không? Không biết ông ấy có về quê ăn Tết không? Đâu ông thử vào trong tìm xem.

Người gác ra khỏi chỗ ngồi, trước một cái bàn mộc có đặt ở góc một quyển sổ bìa đen, đi ra ngoài phòng, chỉ trỏ rắc rối: đi thẳng vào, bên trái tòa nhà thứ nhất, đi nữa đến chỗ để xe, rẽ tay phải, một cái ngõ, đi vào rẽ tay phải, qua một cái sân, đằng sau tòa nhà thứ hai, dãy nhà ngang, nhà thứ hai thứ ba gì đấy. Lối đi trải nhựa đen nổi hằn vết đá lồi lõm, cây lớn và cao, mương xi măng khô cứng dưới chân tòa nhà lầu nhiều cửa sổ. Liêm loanh quanh một lúc, lạc lối vào một sân cỏ không người hôi mùi y dược và rác rưởi ở đâu quanh, đi liều vào trong một hành lang tường lát gạch men trắng với những phòng cửa kính bôi trắng không nhìn qua được và cũng không gặp ai để hỏi thăm. Dù sao cũng phải tìm cho bằng được Hỗ, ở tạm cho qua mấy ngày Tết không thể lang thang ở Hà-nội được. Từ trong một cửa phòng mở đột ngột, một dì phước đi ra và quay lưng đóng cửa; Dưới lần khăn che một khuôn mặt trái xoan xanh mướt và cặp mắt mơ màng, ngước lên tò mò. Liêm dừng bước không biết có nên hỏi thăm không. Dì phước quay mặt bỏ đi vội vàng, vạt áo xòe kêu sột soạt trong hành lang vắng. Nửa giờ Liêm mới tìm được nhà của Hỗ, nhà đóng cửa đi vắng. Nhìn qua cửa sổ nhà bên cạnh, một bàn bất đông đúc quây quần trên một tấm phản. Một người đàn bà hỏi ra: “Ông hỏi ai? Ông Hỗ à, ông Hỗ ở trên buồng hộ sinh”. Liêm đặt va-ly, xuống hè, nhìn trời, thỉnh thoảng liếc nhìn vào bàn bạc vang động tiếng cười đùa ồn ào vui vẻ. Liêm nghe mệt nhoài cả thân xác và ý nghĩ, chỉ muốn được một chỗ ngả lưng, đứng tựa vào tường thất vọng. Một người đàn ông, mặt mày đỏ sậm đi đến trước mặt Liêm hất hàm hỏi. “Ông Hỗ, có khách hỏi thăm ông đấy. Ông ấy đấy” “Hỏi tôi?” Thái độ của Hỗ ngang bướng sấc xược, không đợi nghe Liêm nói, quay lưng mở cửa nhà và bước vào. Liêm theo chân, móc túi lấy thư của Tường và tự động ngồi xuống ghế. Hỗ chăm chú đọc thư, chậm chạp như phải đánh vần từng chữ, còn Liêm ngồi quan sát thân hình vạm vỡ, khuôn mặt ngang ngạnh của Hỗ. Đọc xong thư, Hỗ thay đổi hẳn thái độ, tươi cười vồn vã, Liêm thở phào khoan khoái.

– Ở đây, chú không có nhà ở tạm đây với tôi. Chú thân với anh Tường cũng như là thân với tôi. Không có gì ngại cả. May mà vợ tôi nó đi vắng, cũng đỡ phiền. Chú biết đàn bà là hay kiêng cữ. Tôi thì không có. Chẳng như mười mấy năm mình sống ở Tây về mà lại vẫn còn lạc hậu.

Hỗ thao thao không ngớt, quay tròn bén gót Liêm, đưa Liêm vào buồng trong rửa mặt thay quần áo, xách cất va-ly, dọn bánh chưng, rượu ra bàn. Chưa bao giờ Liêm được ăn một bữa ngon miệng như vậy. Hỗ, biểu lộ một bản chất bộc trực, quê mùa, đã đi lính thợ sang Pháp, lấy vợ đầm và khi về nước “bỏ thẳng cánh không thương tiếc”. Hỗ cười ha hả như trả được một phần mối thù của dân tộc. Nhưng khi ăn Hỗ vẫn dùng dao, nĩa, “không quen cầm đũa, dao nĩa sạch sẽ vệ sinh hơn” như dấu hiệu khoe khoang một thời ngang dọc đã qua; Hỗ nhắc đến Tường bằng giọng kính phục như bậc đàn anh trí thức ngang hàng: Hỗ gặp Tường ở Pháp khi anh vừa ở trường Mỹ-thuật ra, mở cuộc triển lãm đầu tiên tại nhà hàng Continental, gia đình bắt cưới vợ, bỏ nhà trốn sang… “Tôi tưởng anh Tường vẫn chỉ ở Sài-gòn. Không nghe anh ấy kể…” Liêm hỏi. “Tính anh ấy thế, anh ấy không thích kể chuyện đã qua. Năm tôi về nước gặp anh ấy ở Sài-gòn trông anh ấy lại thành người khác rồi. Có lẽ không ai biết rõ quá khứ anh ấy hơn tôi”. Hỗ kể chuyện ngủ với đầm, hành hạ đầm một cách sướng khoái “một con đầm, nhà khá giả mê anh Tường như điếu đổ mà anh ấy không thèm. Chú thấy không? Anh ấy thật là cách mệnh”. Hỗ uống rượu như hũ chìm, không để cho Liêm nghỉ ngơi. Tối đến Hỗ dẫn Liêm sang nhà hàng xóm giới thiệu, bắt Liêm cùng ngồi đánh bất với mọi người. Người ta hỏi thăm bệnh tình vợ Hỗ, Hỗ nói: “Yên rồi. Mấy ngày nay tôi mệt đứ đừ với nó. Hôm nay có người bạn ở Sài-gòn ra, tôi phải chơi cả đêm không thì mai hết Tết rồi”. Vợ Hỗ bị xảy thai, Hỗ bảo vì thiếu vệ sinh, người Việt-nam thiếu vệ sinh. Nhiều người cười. Khoảng mười một giờ đêm, Liêm cáo mệt đứng dậy và Hỗ cũng thôi. Nhưng suốt đêm mùng một, Liêm chỉ ngủ được một cách chập chờn vì Hỗ không ngớt chuyện trò. Hết chuyện bên Tây đến chuyện Sài-gòn, hết chuyện Sài-gòn đến chuyện Việt-nam, Việt-nam bẩn thỉu, khốn nạn, không hòng ngóc đầu lên nổi, hết chuyện nước đến chuyện nhà, chuyện vợ con, công việc… Liêm nằm ngửa như bị một cơn say trống đuổi mất giấc ngủ, lâu lâu ậm ừ phụ họa, nghĩ không ra mục đích những ngày sắp đến, kiếm việc, đi làm, sẽ trở về thăm Bắc-ninh, hỏi thăm tin tức bà cô, mẹ và đứa em. Có lẽ sẽ trở lại Sài-gòn và chuyến về Bắc này chỉ như chuyến thăm gia đình?

Sáng mùng hai, thức dậy Liêm không còn thấy Hỗ trong nhà, anh ta đi thăm vợ. Liêm ngồi ở bàn ngoài đợi Hỗ, nghe những lời chúc tụng đầu năm hai bên hàng xóm, mấy chục năm những lời ấy không chút đổi thay. Tòa nhà lớn áng dọc một bên tầm mắt, ngoài cửa là một khoảng vườn rộng lối đi lớn chạy đến xa tít mới có một dãy nhà ngang song song với bên này, cuối dãy là một khu rào xi-măng riêng biệt. Hỗ trở xuống trong bộ blouse trắng bệ vệ như một bác sĩ, hai mắt thâm quầng mệt mỏi. Liêm hỏi thăm bệnh tình của vợ Hỗ, chị bị xảy thai. Hỗ rất buồn vì mất đứa con, gần bốn mươi tuổi anh cần một đứa con hơn bao giờ hết. Liêm trả nhà cho Hỗ lên phố chơi. Thành phố Hà-nội vắng, cổ kính. Vẻ tưng bừng rực rỡ của những ngày cũ vẫn mang trong ấn tượng bị xóa nhòa, so với Sài-gòn Hà-nội như một thành phố nhỏ. Cửa hiệu buôn bán chưa mở, Liêm đi trên vỉa hè nhận ra bộ quần áo của mình quá cũ giữa những người dạo phố. Không mục đích, Liêm đi loanh quanh trong các phố lớn nhìn ngắm thiên hạ ăn Tết trong nhà và ngoài đường, không có một ý niệm rõ rệt nào về sinh hoạt hằng ngày. Mọi người đều có vẻ nhàn nhã, phong lưu và vô tư. Liêm mua vé vào xem chợ phiên bên bờ Hồ, đi đi lại lại hai ba vòng trước các gian hàng trải dài từ nhà Thủy Tạ đến góc phố Trường Thi. Mỏi chân Liêm muốn vào ngồi nghỉ trong một quán giải khát nhưng không còn bàn trống và không thể ngồi chung bàn như ở Sài-gòn. Lúc trở về, Liêm đi tàu điện Kim Liên và phải đi bộ mất một quãng dài mới về đến nhà thương. Buổi trưa Hỗ và Liêm lại ăn bánh chưng trừ cơm, cả buổi chiều Liêm được ngủ một mình ở nhà. Tối khi Hỗ đã lên phòng trực, Liêm dạo quanh trong khu bệnh viện trên những lối âm u không nghe tiếng động. Những khung cửa sổ đều thắp sáng trống trải. Trên không trung vọng tiếng phi cơ ầm ì và súng đại bác nổ thật xa. Một lúc đứng dưới một gốc cây, Liêm nghe tiếng rên la thảm thiết trên lầu cao vang trong một phòng rộng, rồi tắt biến, bộ mặt nhà thương cũng chẳng thấy náo động hơn chút nào. Trở lại dãy nhà ở, bàn bất bên cạnh đông hơn đêm trước, gần như hàng xóm đều sang tụ họp ở đây. Liêm đứng ngoài lắng nghe những câu đùa cợt trêu chọc lẫn nhau trong không khí đầm ấm, tự nhủ; mình về đây ích lợi gì? Cuộc đời người ta không phải mỗi lúc đều có thể bắt đầu trở lại. Dù thế nào đáng lẽ cũng phải tiếp tục… Ngày mùng ba Hỗ đưa Liêm lên phố, đến thăm nhà một người họ. Liêm ngạc nhiên khi bước chân vào một gian nhà một từng thông suốt được ngăn chia làm nhiều phần cho gia đình khác nhau trú ngụ. Cảnh hỗn tạp ầm ĩ luộm thuộm do sự chung đụng của những nếp sống trái ngược hẳn nhau không thể tưởng tượng. Vẻ tạm bợ bức bối vây chặt mọi người. Liêm hỏi và được biết phần lớn nhà ở Hà-nội đều chịu chung cảnh như thế, có một gian nhà riêng là một mơ ước viển vông. Chiến tranh đã lùa về thành phố ngày một thêm đông số người hồi cư. Gia đình ông bác Hỗ cũng mới từ Vĩnh-yên xuống cách mấy tháng, may mắn lắm mới kiếm được một khoảnh chừng mười thước vuông làm chỗ tá túc cho năm người vừa lớn vừa nhỏ. Mặt trận ngày càng mở lớn dữ dội, nhà quê không còn là vùng ẩn trú như ngày trước nữa. Chỉ còn những thành phố và thành phố chỉ còn Hà-nội là dễ thở. Nỗi sợ hãi lo âu ghi rõ trên nét mặt những người trong gia đình cuộc sống tạm bợ này không thể kéo dài hết năm này qua năm khác được. Không thể lìa bỏ cái khung cảnh thân quen mấy chục năm để dựng một đời sống mới trong thành phố xa lạ này. Hỗ nói:

– Nhưng làm thế nào được. Về quê chết cả nút hay sao. Ở đâu quen đấy. Đến sang Tây tôi còn sống được nữa là mới ở Hà-nội. Cứ hãy lo cho yên ngày nào hay ngày nấy. Tính sau.

Ông bác thở dài, hai vợ chồng người con bó gối nhìn bố, hai đứa con nhỏ ngồi lê dưới gạch. “Làm gì” “Thiếu gì việc, tìm khắc ra. Bác đừng lo. Mình phải như Tây, lúc này là mỗi người đều phải lo tìm lấy việc mà làm, không ai nuôi ai nữa.” Rời khỏi gian nhà, Liêm dễ chịu nhẹ nhõm cả người và bắt đầu nhìn qua cửa những gian nhà bên đường bằng cặp mắt khác. Liêm nói với Hỗ: “Ở ngoài này khổ hơn Sài-gòn nhiều quá”. Ngày mùng năm, vợ Hỗ về nhà, chị vẫn còn phải dưỡng bệnh, bắt buộc nằm trên giường ít đi lại. Chị trẻ hơn chồng ít nhất là mười tuổi, gầy gò xanh xao. Có chị trong nhà, Liêm mất tự nhiên, phải bỏ đi cả ngày. Buổi sáng đi bộ lên tàu điện vào thành phố, xuống ở đầu hàng Bông và lang thang suốt ngày tìm việc, làm quen với những tờ báo treo trước phòng Thông-tin, các tòa soạn, ngồi nghỉ trên các ghế đá quanh bờ Hồ nhìn Tháp Rùa rêu ẩm trong gió xuân, xem những người ngồi câu tôm ven hồ hoặc trên bờ đá ướt sau đền Ngọc-Sơn, đứng trên cầu Thê Húc ngắm xe chạy và người đi sau những hàng cây xanh các phố; buổi trưa ăn bánh tây vào ngồi ngủ trong vườn hoa Chí Linh hay thềm nhà băng cao, hay thềm viện bảo tàng, vào Ấu-trĩ-viên nhìn trẻ con chơi đùa và xế chiều lên tàu điện trở về. Suốt tháng giêng Liêm lang thang ngoài thành phố, không kiếm được việc. Vợ Hỗ khỏe dần, vui vẻ, thích chuyện trò tâm sự, thích săn sóc Liêm và Liêm sợ những chuyện rắc rối. Chị hay than thở anh chồng gàn bướng lúc nào cũng coi chị là con trẻ quê mùa, thuật lại những ngày con gái ở Vĩnh-yên được anh đồn trưởng pạc-ti-dăng và một anh lính Tây mê say theo đuổi. Hỗ không hay biết về những ý nghĩ của vợ, anh vẫn tưởng chị ta khiếp phục mình là kẻ từng trải giang hồ. Một bữa vợ Hỗ đòi Liêm đưa lên phố, chị ta bảo sẽ giới thiệu với một người quen tìm việc hộ Liêm. Hỗ bảo: “Chú đi với nhà tôi”. Vợ Hỗ dẫn Liêm xuống chợ Hôm, tìm một người cùng làng chính chị cũng không nhớ rõ số nhà. Hai người đi quanh hỏi thăm không ra, Liêm có cảm tưởng người mà vợ Hỗ nói đến chỉ là cái cớ. Chị ta gọi Liêm bằng chú một cách ngọt ngào, khuyên Liêm không nên vội chán nản rồi rủ Liêm vào một hiệu giải khát bên đường nghỉ chân. Liêm kiếm cách tháo lui, nói mình phải đến một người quen khác có hẹn trước nhưng chị ta nằng nặc bắt Liêm phải cùng đi và đưa về đến nhà. Chưa khi nào Liêm kinh hãi sự táo bạo của người đàn bà như lúc ấy, vợ Hỗ nắm lấy cánh tay Liêm đi trên hè, cười nói luôn miệng không một chút e dè ngượng ngập. Liêm nghĩ: sau buổi này, không thể ở lại trong nhà Hỗ và không biết mình sẽ đi đến đâu. Người đàn bà dường như không đến xỉa đến thái độ lảng tránh, khó chịu của Liêm. Mặt chị ửng đỏ che khuất màu da còn xanh, mắt ướp lấp lánh, hơi thở cồn cào trên ngực áo, môi hé mở một hàm răng đen bóng, tóc rối lòa xòa trên vừng trán lấm tấm mồ hôi. Liêm rùng mình nghĩ nếu chỉ có một mình với chị trong nhà lúc này… Đưa được vợ Hỗ về nhà, Liêm bàng hoàng như thoát nạn nhưng nhìn vào mắt chị ta Liêm biết người đàn bà chưa tỉnh, cặp mắt chị nheo lại tình tứ coi như Liêm đã thành đồng lõa. Trong bữa cơm chị ta nói với chồng: “Không gặp anh ấy ở nhà. Mai lại phải đi nữa. Thật là mất công quá”. Buổi chiều Hỗ đi làm, Liêm cũng bỏ đi, vòng vào lối đường đất bụi sang bên chợ Bạch Mai, không biết mình phải làm thế nào để thoát khỏi tình thế khó xử. Con đường ngoại ô đông đúc, hai dãy nhà lụp xụp bẩn thỉu dẫn đến một ngôi chợ nửa quê nửa tỉnh với ga cuối của con tàu điện chạy suốt lên đến Bưởi. Xe cộ đủ loại chen chúc trên một đoạn đường hẹp lẫn lộn với người gồng gánh qua lại, con đường tàu lồi cao trên mặt đất như là một chướng ngại của cả một bên hàng phố trước chợ. Bọn lính Tây-đen lang thang bên đường hoặc chui rúc vào trong các quán lá thấp với bọn gái trang điểm lòe loẹt chướng mắt. Liêm leo lên ngồi trên tàu điện đợi được đưa trở lên phố. Đôi giầy bám bụi vàng khè, tay chân nhờm nháp, đầu óc trống rỗng quay tít. Tại sao tôi lại về đây? Không có gì ràng buộc tôi ở nơi này; Mẹ tôi, em tôi nếu còn sống cũng coi như tôi đã mất tích, đã chết từ hơn mười năm nay. Tôi đã thành một người khác với một đời sống khác. Liêm bỏ xuống chỗ tàu tránh nhau gần rạp Majestic, sang đường vào xem tranh ảnh dán trên tường, hành lang rạp chớp bóng mát mẻ thơm tho, xin một tờ chương trình ở ghi-xê và đứng đọc không bỏ sót một chữ. Liêm ra ngồi trên ghế đá, quay lưng vào toà Thị-chính, nhìn buổi chiều trên Hồ Gươm. Ánh sáng trống trải bị bao giữa màu xanh của đám cây ven hồ và mặt nước, sự im lặng mơ màng trên mặt hồ bị vây giữa một vòng phố náo nhiệt chuyển động. Liêm nhớ những ngày đi lại trong Sài-gòn – Chợ-lớn rộng rãi đông đúc gấp bội nhưng chưa khi nào bị bơ vơ lạc lõng, bất cứ chỗ nào cũng có thể kiếm được một chỗ ghé chân. Những người qua lại trước mặt, sau lưng không nhìn ngó chú ý đến những người ngồi ngây trên cùng một chiếc ghế không trao đổi với nhau một lời. Liêm liếc nhìn người đàn ông, đầu cắt ngắn, quần áo cũ nhàu, chân đi dép cao su cáu ghét vừa ngồi xuống ở đầu ghế, vẻ mệt mỏi chán chường. Liêm tìm thuốc lá hút, hỏi xin lửa, mời thuốc người đàn ông, bắt chuyện làm quen. Người đàn ông nói giọng Nghệ-tĩnh khó nghe, anh ta ở khu Tư trốn vào bị giữ ở Công-an sáu tháng, mới chỉ được phóng thích nhân dịp Tết Nguyên-đán vừa qua và cũng đang thất nghiệp. Liêm vẫn có nhiều thiện cảm với dân Nghệ, những người cần cù kỹ lưỡng trong công việc, khắc khổ cứng rắn trong tình cảm, kiên nhẫn dẻo dai trong tranh đấu, thứ dân sinh ra đã có máu cách mạng chứ không phải làm loạn. Trông anh ta còn ngơ ngác lạc lõng hơn cả mình và Liêm hài lòng với ý nghĩ ấy. Lúc chia tay, Liêm hẹn với người bạn mới sáng hôm sau gặp lại tại ghế đá đã ngồi, và trở về nhà Hỗ trên chuyến tàu điện cuối cùng. Buổi tối Liêm trốn chạm mặt với vợ Hỗ, đi dạo hàng giờ trong vườn nhà thương, nghe nhen nhúm những hy vọng mới mẻ kỳ lạ. Có được một người bạn mới, Liêm nhìn trước những buổi lê gót trên vỉa hè phố xá dễ dàng hứng thú hơn. Hỗ hỏi: “Ngày mai chú lại đi với nhà tôi chứ?” Liêm vội đáp: “Khỏi làm phiền chị. Tôi đã có một nơi mai người ta hẹn đến gặp”. Vợ Hỗ bảo: “Thì chú cứ đi với tôi. Bắt cá hai ba bốn tay cho chắc” “Thôi, mất công chị. Để lúc nào tôi hỏng việc này, tôi sẽ phải nhờ chị.” Vợ Hỗ tỏ thái độ không hài lòng và Liêm nhẹ nhõm. Ngày hôm sau Liêm lên phố rất sớm, đi thẳng đến nơi hẹn như đến một nơi quan trọng, ngồi trên ghế đá một mình đợi. Buổi sáng mùa xuân mát rượi dịu dàng. Người bạn mới đến, rủ Liêm xuống phòng Thông-tin đọc báo. Trong một tờ báo cũ đến cả tuần lễ Liêm đọc được lời rao cần thợ xếp chữ. Ra khỏi phòng Thông-tin; Liêm bảo: “May ra tôi có việc. Tôi phải đi ngay” và hỏi tên người bạn, hẹn chỗ gặp lại. Anh ta tên là Khôi và hẹn buổi trưa anh ăn ở dưới trại Tế Bần, đầu hàng Bột. Liêm nhảy tàu điện, xuống chợ Hôm tìm đến địa chỉ đăng cần thợ. Đó là một tòa báo, đặt trong ga-ra một biệt thự, phần ngoài kê hai bàn viết, phần trong là chỗ xếp chữ và đặt một máy in nhỏ. Anh xếp ti-pô, thử nghề Liêm và nhận vào ê-kíp, lương theo lối chấm công: “Nếu báo ra đều đặn không hết tiền hay không bị đóng cửa thì lương anh một tháng khoảng chín trăm đến một ngàn. Chủ nhật không nghỉ, báo ra cả bảy ngày. Anh nhận không? Bao giờ anh đến làm?” Liêm hẹn ngày hôm sau. Ra khỏi tòa báo, Liêm không biết mình phải đi đâu nữa. Vẫn còn một vấn đề phải giải quyết là tìm một chỗ ở, tránh những chuyện phiền phức với vợ Hỗ. Liêm nghĩ có thể điều đình về ở chung với Khôi.

Mười hai giờ trưa Liêm đến nhà Tế bần. Ngoài trời nắng sáng nhưng vẫn còn mát. Bước chân vào phòng ăn, Liêm choáng váng mặt mũi mất vài giây vì mùi hơi người bẩn thỉu hôi thối lẫn lộn với mùi tanh tưởi lâu ngày của thức ăn vãi đổ đóng thành mùn trên gạch và gỗ. Phần đông thực khách là hành khất rách rưới ghẻ lở, một số phu xe và lao công ăn mặc tương đối lành lặn hơn, tất cả đều ngồi dưới đất hai bên những chiếc bàn dài thấp đến ngang bụng. Khôi ngồi tận mãi góc trong, Liêm phải đi len giữa hai hàng lưng người hở những mảng da cháy xám xịt như màu thức ăn trong các bát đĩa tiến vào. Khôi hỏi: “Được chưa”? Liêm gật đầu, Khôi nhích người nhường chỗ cho Liêm. Người bên cạnh Khôi là một lão hành khất, cánh tay tróc loét nhèm màu thuốc đỏ ruồi bâu không thèm đuổi, cũng ngồi lui lại sau để mở rộng chỗ trống, lão cầm đũa và bát trên một tay, còn một tay kéo theo sát bên mình chiếc bị và cây gậy như sợ bị đánh cắp. Cơm và thức ăn đều nguội tanh, khó nuốt hơn cả cơm trong bót Catinat. Ở nhà Tế bần ra, Khôi đưa Liêm sang Văn Miếu, ngả lưng ngoài thềm nhà thờ lát gạch Bát-tràng sạch sẽ và mát mẻ. Dưới sân cỏ, gần hàng mả đá xây hình mai rùa với những tấm bia to dựng đứng, hai anh học sinh chăm chỉ đi đi lại lại giữa mấy gốc cây học bài. Khôi cũng không có nhà, tối đến anh về ngủ trong trại Tế bần. Anh nói anh sẽ đi làm nhưng chưa biết làm công việc gì, chắc chắn không thể vào công sở vì hồ sơ công an. Anh không có nghề chuyên môn, nếu có thể gọi được là nghề thì anh là nghề cán bộ. Anh quen đi họp, thảo luận, hoạt động, vận động dân chúng. Anh vỡ mộng vì thực tế. “Kháng-chiến không còn nữa chỉ còn Cộng-sản. Tôi đã là đảng viên dự bị sắp được tuyên thệ thì bỏ trốn về.” Anh chỉ có thể làm cán bộ nhưng về đây làm cán bộ cho ai. Liêm nghe, hai tay khoanh đỡ gáy, ngửa mặt nhìn kèo cột và mái ngói có những tiếng chim kêu rúc vỗ cánh nấp ở trong. Sau cùng khi Khôi lặng im mơ màng như ngủ, Liêm nói: “Nhưng cũng phải kiếm việc gì làm mà sống chứ” “Tôi không biết làm gì cả. Chữ không hay, nghề không có. Ai cần đến tôi? Có chỗ cần thì tôi không làm được vì người ta không cho tôi thấy lý tưởng” Liêm nằm lim dim không thể thốt một lời khuyên nào nữa. Một anh học sinh mỏi chân đến ngồi ở đầu thềm xa, mắt vẫn dán vào quyển vở, và thiếp ngủ ngon lành lúc nào không biết. Mở mắt Liêm nhìn thấy dãy cửa gỗ đỏ đóng kín, phần trên có song khít trông qua vào trong tối om. Liêm bảo với Khôi mai mình đi làm, định cùng ở chung với Khôi nhưng như thế không thành, hỏi nếu muốn gặp lại thì tìm ở đâu, để lúc nào có chỗ ở riêng rủ Khôi về ở chung cho vui; Khôi bảo tìm thì xuống Tế Bần. Buổi chiều về gặp mặt vợ Hỗ khó đăm đăm không nói lời nào. Tối Hỗ phải trực. Trong bữa cơm Liêm báo tin đã tìm được việc, Hỗ vui mừng bảo vợ phải làm gà ăn khao chú Liêm, vợ Hỗ không nói gì cả. Khi Hỗ đã đi khỏi, Liêm sửa soạn ra ngoài sân nhà thương, vợ Hỗ đón hỏi: “Chú ghét tôi lắm phải không?” Liêm chối: “Không, tôi chịu ơn anh chị. Khi nào tôi lại thế. Không có anh chị tôi chết đói từ ngày mới ra Hà-nội kia” Vợ Hỗ ngồi xuống ghế và bật khóc thút thít một cách mau chóng. Liêm bối rối ngồi theo xuống ghế đối diện, trông chừng ra cửa sợ người vào bất ngờ. “Có phải chú có việc và chú sẽ đi ở chỗ khác không?” “Vâng. Tôi chẳng muốn làm phiền mãi anh chị. Tôi định khi nào tìm được chỗ ở tôi sẽ thưa với anh chị” “Làm phiền tôi. Từ ngày chú về ở, tôi cảm thấy đời tôi đỡ buồn tẻ, đỡ khổ hơn. Chú không biết hay sao?” Liêm nhấp nhỏm đứng lên, không biết phải ăn nói thế nào. Vợ Hỗ cúi gầm mặt, kể lể nho nhỏ những nỗi thống khổ của kiếp làm vợ “… Tôi xảy thai là vì bị anh ấy đánh. Chú không biết…” Liêm không nói gì cả, đi ra đứng tựa cửa. Trên một khung cửa sổ cao, một người nghiêng đầu nhìn xuống sân. Mấy tối nay tiếng súng đại bác nổ nghe gần hơn, tiếng động cơ không rõ của phi cơ cất cánh ở phi trường hay xe hơi chạy ngoài đường cái. Khi Liêm liếc nhìn phía sau, vợ Hỗ đã vào trong buồng nằm nín tiếng từ lúc nào. Liêm khép cửa bước vào trong bóng tối, đi theo những lối đã thuộc lòng. Sài-gòn đã quá xa, Hạnh cũng quá xa. Mai tôi bắt đầu đi làm và bắt đầu một đoạn sống khác chưa biết dài đến bao giờ. Có những gì thay đổi? Gió từ những bãi ruộng xa thổi vào thơm mát. Tôi cũng vẫn bấp bênh như lúc mới lớn lên không rễ buộc. Sẽ đi ở chỗ khác và chưa biết đến dịp nào có phương tiện trở lại Sài-gòn. Liêm trở về nhà, đèn ngoài vẫn thắp sáng nguyên, dón dén dọn chỗ ngủ của mình ở đi-văng buồng ngoài rồi tắt đèn. Nửa đêm Liêm hốt hoảng choàng thức dậy thấy mình bị ôm ghì bởi người khác. Một nửa mặt đàn bà đè chặt lên mặt, mái tóc dài sổ rơi nặng trên vai, hai cánh tay ôm vòng giữ đầu, hai chiếc chân dài quặp giữ lấy chân; cả tấm thân cựa quậy rẫy rụa chậm chạp với tiếng rít âm ỉ sau hàm răng nghiến, hơi thở nóng như người sốt. Liêm ngộp hơi, cố cựa mình lách ra khỏi sự đè ép nhưng không thoát. Liêm tỉnh trí lại, nằm thẳng, nghe một bàn tay với những móng dài vuốt ve run rẩy và Liêm thở, rồi thấy tay chân mình cũng bắt đầu cử động đáp ứng mỗi lúc một thêm tàn bạo cho đến lúc Liêm lật mình nằm lên… Không phải là một giấc mơ, người đàn bà vẫn còn nằm gối ngang trên ngực, tóc phủ cả lên miệng, bàn tay mềm nhũn vẫn ấp trên nhớp nháp, há miệng thở. Mãi đến gần sáng, khi xe đã chạy ngoài đường cái, vợ Hỗ mới chịu trở vào giường trong. Liêm xuống nhà rửa mặt, gặp vợ Hỗ đã ngồi bên bếp đun nước. Chị ta thản nhiên nhìn Liêm cười lẳng lơ nhưng không nói một lời nào. Liêm đi làm trước khi Hỗ về đến nhà. Buổi sáng hơi lạnh ủ kín những ý nghĩ. Không còn cách nào khác hơn, bỏ đi càng sớm càng tốt. Liêm đi vòng sang chợ Bạch-mai để lên tàu điện, đến nhà in sớm nhất và phải đứng ngoài cửa. Anh xếp ti-pô hài lòng, đưa Liêm vào giới thiệu với những người trong ê-kíp. Ông cụ San tóc bạc trắng, đeo kính lão; Tuất người trông vạm vỡ lực sĩ; Hải trắng trẻo nho nhã; thằng Long láu táu khoảng chừng mười sáu mười bảy. “Còn tôi là Ngọc” anh tự giới thiệu. “Làm ăn tử tế thì bọn này cho nhập đảng”. Cả bọn phá lên cười và ông cụ San đùa: “Đằng ấy đừng đi theo bọn nó mà hư”. Buổi trưa Liêm theo thằng Long ra chợ Hôm ăn cơm và hỏi nó xem có biết nhà cho thuê hay chỗ trọ giới thiệu, Long bảo về hỏi Hải, Hải hứa sẽ để ý giúp. Chiều khi Liêm từ chợ Bạch-mai đi bộ về đến nhà thương trời đã tối. Cơm đã dọn, vợ chồng Hỗ ngồi đợi, mâm cơm có món gà quay khao Liêm. Hỗ uống rượu, cười đùa vui vẻ, đề nghị Liêm lĩnh lương nên tìm mua cái xe đạp đi làm cho tiện, tháng này chưa phải giả tiền cơm vội. Vợ Hỗ gắp món ăn tiếp Liêm một cách tự nhiên: “Chú ăn đi. Làm khách thế”. Mấy hôm sau, Liêm lại nhắc Hải ý định tìm chỗ ở của mình và Hải bảo nếu Liêm thích có thể về ở tạm nhà Hải ở trong xóm Chùa Vua. Buổi trưa Liêm theo Hải về nhà cho biết, gia đình Hải chỉ có hai mẹ con ở trong một gian buồng nhỏ cạnh bếp một ngôi nhà gần bãi đất trống cỏ hoang rác rưởi và một ao rau muống; bà mẹ bán bún riêu bánh đúc, bánh khoái, chè đậu đen tùy theo mùa, Hải ngoài giờ đi làm tối đạp xe theo học lớp tối của Hội Phụ-huynh Học-sinh. Hải đề nghị Liêm sẽ ngủ chung luôn với mình trên bộ phản rộng, bà mẹ Hải ngủ trên một chiếc chõng nhỏ gần ngay cửa vào. Tối hôm ấy Liêm báo với Hỗ ý định đổi chỗ ở của mình, nại cớ đi làm quá bất tiện. Hỗ vui vẻ bảo: “Ngày nghỉ xuống đây chơi đổi không khí”. Vợ Hỗ không tỏ thái độ nào, chỉ cười tủm tỉm, trái lại sáng hôm sau còn nằng nặc đòi xách va ly hộ cho Liêm ra cổng nhà đón xe xích lô. Chị ta hỏi: “Chú ở một mình?” “Không, tôi ở nhà một người bạn làm cùng ở nhà in”. Liêm mang va ly đến nhà in, trưa mang về nhà Hải. Bà mẹ Hải thổi cơm cho cả Liêm ăn, mỗi tháng Liêm đưa năm trăm cả tiền ăn ở. Những ngày đầu tiên mới đến, buổi tối khi Hải đi học, Liêm ngồi nói chuyện với bà cụ. Bố Hải là Việt-nam Quốc-dânảng bị thủ tiêu năm 45, các anh Hải đều còn ở hậu phương theo kháng chiến, người chị gái duy nhất của Hải mắc bệnh lao mất năm ngoái mới có hai mươi hai tuổi, Hải mười tám. Bà cụ kể chuyện với giọng thầm thầm ẩn nhẫn, không than thở không oán hận, mắt tối mờ trong những đau đớn hành hạ của số mệnh trời đất, giữa tiếng ếch nhái kêu om ngoài bãi, tiếng huyên náo của hàng đoàn trẻ nít còn reo hò chạy đuổi tít trước đền thờ Hai Bà và bóng tối mù mịt của xóm không điện. Hải trở về, bóp chuông xe chạy vào sân, nhiều hôm đến lúc ấy mới ăn cơm, thắp ngọn đèn dầu lớn đặt lên phản, kê chiếc ghế đẩu đã cưa chân ngồi ngay lối cửa đón gió lấy phản làm bàn học. Liêm nằm trên phản nghe tiếng động của nhà quê ở bên ngoài, đập muỗi, thỉnh thoảng đáp một câu hỏi của Hải hay của bà cụ. Bốn năm giờ sáng bà cụ đã lục đục dậy nấu bún hoặc làm bánh và Hải theo mẹ giúp một tay mang theo quyển sách ngồi đọc bên bếp lửa lớn. Bà cụ nói: Mày học vừa vừa chứ, không thì lao sớm. Tao già rồi không sao. Cuối tháng bà cụ nhất định chỉ nhận bốn trăm của Liêm.

Một buổi sáng chủ nhật rảnh rỗi, Liêm xuống nhà thương Bạch Mai thăm Hỗ. Hỗ đi vắng và vợ Hỗ nói: “Tôi tưởng chú không thèm về chơi nữa” Vợ Hỗ đang thổi cơm, giữ Liêm ở lại đợi chồng cùng về ăn cơm. Hơn mười hai giờ Hỗ vẫn chưa về, vợ Hỗ dọn cơm ra và bảo cứ ăn trước để phần cho Hỗ. Cơm xong Liêm muốn về nhưng vợ Hỗ giữ lại bảo đợi thế nào Hỗ cũng phải về, và dẹp giường cho Liêm nghỉ lưng. Lúc ấy đầu mùa hè, trưa nắng gắt, Liêm nghĩ ngại quãng đường bụi bậm. Rửa bát xong, vợ Hỗ lên đóng cửa ngoài lại che ánh nắng chiếu xiên vào đến đi văng Liêm nằm và bảo: “Chú vào trong nằm cho mát. Nhà gạch hoa tôi đã lau sạch. Liêm đi vào sau bếp xối nước rửa mặt, trở ra thấy người đàn bà xổ tóc nằm nghiêng trên gạch nhìn nói: “Chú đóng hộ tôi cửa sổ với cửa ngang”. Buồng tối xầm lại như đầu óc Liêm và Liêm bước chập choạng tới chỗ thân người đàn bà nằm vươn dài trên một nền nhẵn trơn không mảy bụi. Người đàn bà lần này không hung dữ trâng tráo như trong đêm, trái lại đầm thắm dịu dàng khuất phục một cách êm ái. Hỗ không về, đến tối mới về. Liêm không nói gì, nhưng vẫn nằm lại để mặc cho bàn tay người đàn bà vầy nghịch . Khi Liêm về đến nhà in đã trễ giờ, Ngọc hỏi: “Anh đi đâu thế?” Liêm nói thác vì gặp người thân cũ của gia đình. Đầu óc hoang mang, Liêm nghĩ: mình cần, mình cần… Những đêm mùa hè dài, ngột ngạt và nhầy nhụa. Tấm phản dội nước bị hút khô ngay trong năm phút. Bà mẹ Hải quạt phành phạch suốt đêm. Ánh đèn của Hải ngồi học loá mắt và nóng nực. Ở bên ngoài tiếng chân bước nặng nề tiếng xì xồ của lính Tây ra vào quanh xóm kiếm gái. Trong giờ làm việc mọi người đều cởi trần kể cả anh cò sửa bài, chỉ trừ ông chủ báo người xương sẩu lúc nào cũng cổ cồn cà-vạt, lưng áo sơ-mi ướt như nhúng nước. Một buổi sáng đang làm việc, Liêm nghe anh thầy cò gọi có người nhà hỏi thăm. Liêm vẫn còn cầm trên tay cái dẻ chùi chữ đi ra thấy vợ Hỗ đứng tận ngoài cổng biệt thự. Mắt chị đỏ hoe, mặt hốt hoảng, bảo: “Anh Hỗ bị bắt rồi” “Tại sao thế?” “Tôi cũng không biết”. Liêm đứng ngẩn trên hè nhìn xuống chiếc rãnh đang rỉ chảy nước. Vợ Hỗ bảo bây giờ đi lên Công-an hỏi thăm tin tức và hẹn trưa sẽ quay lại gặp Liêm. Vợ Hỗ cầm khăn tay lau một vết nhọ dầu trên ngực Liêm một cách âu yếm. Liêm không còn thể hiểu nổi mình, khi Hải hỏi: Ai đấy? Liêm đáp: Người nhà bị bắt. Trưa tôi không về ăn cơm. Trưa vợ Hỗ đòi Liêm đưa vào hiệu phở, nói cho biết chưa được tin tức gì rõ rệt, chiều chị sẽ trở lại nữa, rồi săn hỏi về công việc và chỗ ở của Liêm và bảo: “Chú đừng làm gì bậy. Chú mà bị bắt nữa là khổ tôi” Trong hai tiếng đồng hồ, Liêm phải dẫn vợ Hỗ lang thang trong những phố rợp, thỉnh thoảng ngồi lại trên những thềm nhà cửa đóng. Vợ Hỗ băn khoăn không hiểu lý do bị bắt của chồng. Sáng hôm qua anh lên phố không thấy về và sáng nay có người xuống cho hay tin anh bị bắt. Đến chiều vợ Hỗ vẫn đón Liêm ở đầu ngã tư gần nhà in. Thoáng nhìn thấy bóng, Liêm bảo Hải: Tối nay tôi không về nhà, cậu nói với bà cụ cho tôi. Và Liêm đi tới, trong khi vợ Hỗ quay lưng lại làm như không chú ý. Chị nói: “Vẫn chưa có tin gì cả” “Bây giờ chị về đâu?” Không có tiếng đáp, Liêm vẫy một chiếc xích lô và kéo tay người đàn bà lên. Mùi hôi nhễ nhại trên tóc cổ lưng, hơi nóng như lửa chiều. Phải có một chỗ để nằm, một chỗ kín đáo để nằm. Liêm hỏi: “Đi đâu?” “Đâu cũng được”.

CHƯƠNG III

– Chú Liêm này, tôi có mang.

Câu nói không gây ngay xúc động, lẫn trong tiếng ve sầu kêu ran theo hàng cây dài ngoài phố vắng trong buổi chiều đã thật tối. Đầu óc lười biếng, mồ hôi khô rít trên da trần, lưng nằm ngửa trên nệm giường nhầu nhẽo nóng bức. Không một cơn gió, đám lá cây ngoài cửa sổ với ánh điện đường mờ nhạt vừa bật lên lấp ló im phắc. Vợ Hỗ không nói thêm và câu nói đã mất hút không còn chút vang động nào. Màu trần vôi trắng nhiều vết hoen lang vàng khé, những vết lở lói của vôi, vỡ từ ngày nào, nhòa lần vào bóng mờ của gian phòng. Tôi có mang, một đứa con, Hỗ bị bắt, một đứa con với vợ Hỗ. Những ý nghĩ diễn qua lặng lẽ rửng rưng như bầu không khí buổi chiều mùa hè trong một phố khuất không tiếng xe cộ, không tiếng trẻ con nô đùa. Người đàn bà ngồi nhỏm lên, bới lại đầu tóc, da thịt nhễ nhại toát ra một hơi thở nồng khó chịu; hai cẳng chống lên, đầu cúi, lưng nghiêng về đằng trước, cặp vú hơi chảy xệ đụng vào bắp đùi. Liêm với tay, tuột đầu khỏi gối, đặt lên chiếc bụng da căng không có một dấu hiệu nào khác lạ, hỏi: “Mấy tháng?” “Hai tháng” “Đúng không?” Người đàn bà cười rúc một cách vô duyên, buông mình ngã sấp lên người Liêm. “Còn phải hỏi nữa. Con mình chứ con ai”. Con mình, không bao giờ tưởng tượng ra như thế. Rồi làm sao? Vợ Hỗ không đả động gì thêm nữa, mải lo đùa nghịch. Liêm lạnh mình, chợt nghĩ: bây giờ Hỗ nằm ở đâu? Liêm du người đàn bà sang một bên, “làm đau người ta, bắt đền bây giờ”, bảo: “Đi ra Bờ Hồ cho mát”. Vợ Hỗ phụng phịu xong cũng ngoan ngoãn chiều ý. Xuống dưới đường, Liêm quay cổ nhìn vào khách sạn trong khi vợ Hỗ cẩn thận buộc chiếc chìa cửa khóa phòng vào khăn mùi soa. Trên tấm bảng hiệu treo một bóng điện vàng bám bụi và muỗi, trên đầu bờ rào dăng giây thép gai với cọc sắt như trại lính. Đi vài bước bờ hè đã tối ngay dưới bóng những cây me già. Vợ Hỗ hỏi: “Đi đâu?” Liêm nghĩ giá vợ Hỗ ở lại trong buồng, được thong thả một mình sướng hơn. Xung quanh bờ hồ đông người dạo mát, các quán nước đều chật khách, những chỗ cỏ tốt đều có người chiếm. Vợ Hỗ sung sướng ra mặt, “anh ấy chưa bao giờ đưa tôi đi hóng mát bờ hồ buổi tối”, chị ta nhìn ngắm những người qua lại tò mò. Đi qua đoạn đường sáng, bến tàu điện đầu bờ hồ, vợ Hỗ nhìn chăm chăm vào mặt Liêm hỏi: “Thích không? Có con thích không?” Ngồi xuống bờ cỏ bên bờ hồ, chỗ tối, Liêm gọi mua kem vừa ăn vừa nhìn mặt nước lấp loáng đằng xa, nghe tiếng vọng của máy phát thanh từ bên kia bờ hồ. Vợ Hỗ vẫn nói luôn miệng những chuyện đâu đâu. Thích không? Có con thích không? Tiếng xe, tiếng chân bước, tiếng cười nói vắng dần, chỉ những quán nước còn tụ tập được khách. “Bây giờ hết tàu điện về Bạch-mai rồi nhỉ” “Hết lâu quá rồi”. Liêm nghĩ sợ đêm nóng bóc ngột ngạt này, giấc ngủ sẽ bị khuấy động từng lúc vì người đàn bà, chắc chắn như thế, trong gian phòng chỉ có chiếc giường nệm là chỗ nằm được. Vợ Hỗ phải giục hai ba bận Liêm mới chịu đứng lên. Ở đầu ngã tư, Liêm giữ người đàn bà đứng đợi cho hai ba tên Lê-dương say đi với gái vào khách sạn một lúc lâu rồi mới tiến tới. Vợ Hỗ lúi cúi mở khóa còn Liêm nhìn bâng quơ những cánh cửa đóng, chữ số viết bằng sơn trắng trên gỗ. Bước chân vào buồng, quờ quạng trong tối, Liêm có cảm tưởng vào trong nhà tù. Liêm ngồi ngây trên giường như người mất hồn, ánh điện bật lên trơ trẽn. Vợ Hỗ đứng rửa mặt trước tấm gương ố góc phòng mỉm cười khi lau mặt và cởi cả áo cánh mặc ngoài bỏ nửa thân trần. Nhìn mắt Liêm, đột nhiên người đàn bà quay mặt gắt: “Cấm nhìn người ta” rồi chạy đi tắt điện. “Bức quá, cởi quần áo ra cho mát” và trong bóng tối tràn ngập Liêm nghe người đàn bà chậm chạp cởi bỏ nốt những gì còn lại mang treo lên mắc rồi thong thả đi về phía Liêm ngồi. Liêm không thể cưỡng được những cử động, cũng tự động trút hết áo quần trên người. “Như thế này có phải sướng không”. Vào khuya Liêm nghe hàng quà rao không phân biệt được rõ tiếng dưới đầu phố, anh lính Tây say hát lè nhè qua ngoài cửa buồng, súng nổ âm rền một góc trời xa trong không khí lặng thinh không cản trở. Liêm chợt nhớ đến Bích, tôi về Hà-nội đã nửa năm. Nửa năm giời, ý định trở lại Sài-gòn đã quên khuấy. Tại sao khi ở Sài-gòn mười năm không khi nào có cảm giác tạm bợ nhất thời, còn ở đây trong thành phố này cứ thấy như mình bập bềnh trôi nổi? Nằm bên cạnh tôi lúc này, không phải là anh chàng thanh niên chán đời ngày mới đặt chân xuống đất Bắc, một người đàn bà cũng mệt mỏi rã rời và một đứa con của tôi đang thành hình trong bụng. Vì đời sống tan nát vây quanh chăng? Bà mẹ Hải với hai đứa con trai lớn theo kháng chiến không biết mất còn, đứa con gái mệnh yểu và ông chồng mất không kiếm thấy xác. Và Khôi, Khôi không biết đã tìm được công việc làm chưa hay còn ở nhà Tế-Bần. Thành phố này thật nhỏ thật xa. Hỗ bị bắt và vợ Hỗ nằm đây. Liêm đi ra cửa sổ nhìn xuống phố đang trong giờ giới nghiêm. Một con chuột chạy nhởn nhơ ra vào ở một lỗ cống gần bãi rác dưới ánh điện vằng vặc. Những mảnh chai nhọn cắm dài trên đầu tường. Tôi đã trông thấy những gì, nghe thấy những gì? Tại sao thế? Ngày mai nhìn từ thành phố này rắc rối bất trắc. Sài-gòn yên ổn, dễ dãi và đơn giản cách xa mấy ngàn cây số. Liêm đói bụng, quay trở vào giường, không thể ra chợ kiếm thức ăn bất cứ giờ nào như ở Sài-gòn. Trong giấc mơ, Liêm thấy mình trở lại Sài-gòn, gặp Hạnh và Hạnh bồng một đứa con đứng trước cửa quán, Sài-gòn chỉ còn nhà cửa đường phố không như trong những ngày bom Nhật.

Sáng Liêm thức dậy sớm nhưng người đàn bà còn ôm giữ lại, “còn sớm mà”, rốt cuộc đầu Liêm nặng như khối chì đặc. Người Liêm ráo hoảnh, nổi gai trong buổi sớm không gió. “Tôi về trước. Chị ở lại về sau.” Như buổi sáng nào, Liêm ra khỏi khách sạn một mình, đi bộ về chợ Hôm ăn quà sáng. Hè phố còn vắng và dơ bẩn, trời mùa hè trắng như trần nhà. Chưa đến tám giờ đã bắt đầu thấy nắng. Ở nhà in, Hải hỏi: “Đêm qua anh ngủ đâu?” “Ở nhà người quen. Đi tìm chỗ vận động cho cái anh bị bắt” “Được không?” “Chưa biết”. Buổi trưa về nhà, mẹ Hải cho ăn bún chả khai trương món hàng mới của bà. Cơm nước xong bà bỏ ngủ trưa vội gánh hàng ra phố. Gần đến kỳ thi, Hải xanh xao gầy sút trông thấy. Vợ Hỗ vẫn lên xuống, bụng mang mỗi lúc thêm rõ, Hỗ vẫn chưa được thả. Ngày nào Hỗ về không còn được tính tới nữa. Chủ nhật Liêm về nhà Hỗ ở cả ngày, vợ Hỗ bảo: “Chú về nhà cho có đàn ông để họ đỡ bắt nạt tôi, nhà thương đang muốn đuổi nhà”. Liêm cười, nghĩ cứ tình thế này kéo dài không biết mình sẽ đi đến đâu. Hàng xóm chắc cũng biết chuyện, Liêm có ngượng nhưng thấy vợ Hỗ thản nhiên cũng yên tâm. Một hôm trong bữa cơm, mẹ Hải bảo: “Cả hai cậu dạo này đều xanh đấy. Phải giữ sức mới được”. Liêm soi gương chỉ nhận thấy mình già hơn nửa năm trước. Hải thức đêm mỗi lúc một khuya hơn, mặt mày hốc hác ngơ ngác trông tội nghiệp. Liêm khuyên Hải không nên cố gắng quá và Hải nói: “Tôi phải học như đi ăn cướp vậy. Không cách nào khác hơn anh tính nếu tôi muốn thoát khỏi cảnh ngộ của tôi”. Liêm tự hỏi: còn tôi làm cách nào thoát khỏi được cảnh ngộ của tôi? Làm cách nào? Cuối cùng vợ Hỗ cũng phải dọn nhà ra khỏi nhà thương, thuê một gian nhà lá ở Kim-mã trong một ngõ dốc bên đường tàu điện Ô Cầu Giấy. Con đường nhỏ lát gạch như đường vào làng chạy giữa những bụi chuối, bụi dứa dại xanh mát, nhà ở trước một ngôi từ đường đổ nát vàng bị các gia đình lao động xâm chiếm chia nhau thuê từng buồng trừ gian chính cửa vẫn đóng ỉm bụi bậm. Về đây Liêm không còn sợ ai dòm ngó và mỗi tháng ngoài bốn trăm đưa cho mẹ Hải, Liêm còn phải đưa cho vợ Hỗ ba trăm. Mặc dầu vợ Hỗ khuyên Liêm nên về ở chung đỡ tốn, Liêm không chịu, bảo: “Thế nào anh ấy cũng còn về chứ”. Nhưng Liêm vẫn lui tới thăm nom, sờ tay lên bụng người đàn bà nghe cái thai mấp máy. Và chờ đợi những ngày tháng sắp tới trong tâm trạng ù lỳ buồn bã. Những ngày tháng sẽ tới trong thành phố ngợp ngụa lạ hoắc mà khi trở về tôi tự nhận là quê hương của mình.

Nắng chợt tắt nhanh, gió thổi là trên mặt cỏ. Chỗ Đồng nằm là khoảng cỏ thoải nhiều gốc cây giữa hai con đường, dưới lưng một lớp lá khô ròn. Trong đám cỏ nhìn sát được phóng lớn, những con kiến đen bóng chạy loăng quăng không thành đường, một con leo bò dọc theo cánh tay duỗi, gân phồng ở dưới lần da, buồn buồn. Thật xa cùng trên giải cỏ, chỗ nghiêng vòng thấp hơn, hai thiếu nữ áo trắng ngồi trên hai chiếc nón mở ngửa dưới hai gốc cây đối chếch bứt cỏ chuyện trò. Họ vừa từ trong Nha Học-chính ra, dựa xe dưới đường thấp lên ngồi đấy; có lẽ họ đi lấy phiếu báo danh, lát nữa họ sẽ vòng xuống Cổ-ngư ăn bánh tôm. Buổi chiều êm mát lười biếng trong vườn, nắng không lên nữa. Gió đang bắt đầu bốc lên cao, trên các con đường không tiếng động nào khác hơn những chiếc lá khô cuốn chạy. Sắp mưa, những trận mưa rào giông gió sẽ dập tắt mùa hè. Mùa hè như tiếng cười trong sắp sửa trôi xa, đôi bạn gái đã đi khuất sau các gốc cây lên xe đi. Hai chiếc xe, bàn đạp quay ngược từng nửa vòng một, từ từ qua ở con đường dưới họ im lặng cùng quay đầu nhìn lên chỗ mình đang nằm. Hắn đang mơ mộng gì? Hết cả hình ảnh để mơ mộng, trừ nỗi cô đơn gói kín. Nỗi cô đơn của một thời gian quay vòng tròn, trói khít dần. Éternel retour. Đồng đứng lên phủi quần áo, dắt chiếc xe đạp dựa gốc cây, đẩy lên đường trên, đạp ngược dốc về nhà. Dốc là acte sexuel, mặt hồ xanh biếc dưới xa tít nhìn ngắm hằng ngày là cái bộ phận của người đàn bà, vừa vượt dốc vừa thở và nhìn Hồ Tây; Trí óc đang hư hỏng dần như cái máy chạy không. Gió thổi ngược ào ào như trận mưa đã tới, chiếc xe đạp chao nghiêng muốn đứng im. Đồng đứng nhỏm lên khỏi yên xe, hai tay nắm chặt, môi bậm lại, nhấn bàn đạp. Tiếng người gọi nhau ơi ới trong các sân nhà lan truyền, cây gạo Quảng-bá đã chìm mau vào màn mưa trắng. Đồng đẩy xe chạy mau xuống lối dốc sau nhà, đập cửa thình thịch, chỉ nghe tiếng thở dồn lùng bùng trong tai. Cánh cửa bật mở tự động, Đồng nhấc xe qua cửa, nhảy lên yên đạp lách qua các gốc cây, đầu cúi thấp tránh những cành cây xòa chắn ngang. Vào đến sân gạch tiếng chó sủa quẫng ngoài cổng trước cùng tiếng mưa bắt đầu rơi lộp độp trên ngói, náo động. Đồng cho xe chạy thẳng vào nhà ngang, chỉ gặp u già đang loay hoay xếp mấy mẹt cau khô vừa bưng cất. Đồng nghe tiếng gọi của chị Đạo ở nhà trên: Có người hỏi cậu ở ngoài cổng; chị ngồi ở bực cửa trên thềm tay cầm quyển truyện tóc vừa gội còn rũ hong. Đồng đứng thở nghỉ mệt nghĩ: còn ai đến tìm mình. Ai đến tìm mình nhỉ? Mẹ Đồng tay che tóc, chạy vào suýt vấp vào hai con chó theo bén gót, mắng: Tiên nhân cha con đẻ mẹ mày… Không biết Đồng đã về, bà lên ngay nhà trên, chị Đạo hỏi: Ai hỏi gì đấy cụ? Mưa trút ào ào át hết mọi tiếng động khác, Đồng nhìn lên chỉ thấy mẹ đang đứng nói chuyện với chị Đạo. Chị Đạo đứng lên, chỉ tay về phía Đồng, bà quay lại giơ tay vẫy gọi. Đồng nhe răng sua tay lắc đầu, cố sức la lớn: Con không nghe gì cả. Bà bước ra đầu thềm gần lối xuống nhà ngang, chị Đạo đi theo một tay vẫn cầm quyển sách, một tay vuốt đuôi tóc, chỗ ấy ống máng đổ nước xuống ào ào dẫn vào cái bể đầu nhà. Chị Đạo nói to: Cụ bảo… Thạch… Đồng bắc loa tay vào miệng: Để chốc nữa con lên, rồi cười đi vào ngồi xuống cái ghế con nhặt một miếng cau trong mẹt cọ răng. U già ngửng lên bảo: “Cậu hút thuốc nhiều quá. Tay vàng hết.” “Cả ngày ngồi một chỗ buồn quá” “Các cậu ấy đi đâu cả không thấy xuống chơi nhà nữa. Còn cậu Thạch dễ đến cả năm không thấy về.” “Bây giờ người nào có công việc nấy, đâu như dạo còn đi học nữa u.” U già bỏ dở câu chuyện, đi lại bếp ghế nồi cơm. U vừa vần nồi cơm trên bếp vừa hỏi: “Tại sao mợ Đạo ra vào luôn được mà cậu Đạo không về chơi nhỉ, cậu Đồng?” Đồng cười: “U lẩn thẩn. Ai người ta cho về. Mà cậu Đạo cũng sắp về u khỏi lo”. U nghiêng đầu, hấp háy đôi mắt kém hỏi: “Sắp yên rồi hở cậu Đồng?” Đồng gật đầu, vứt miếng cau sơ ướt ra sân. Mưa đã vợi nhẹ nhưng trời tối xầm, sans amour et sans haine, mon coeur a tant de peine. Đèn nhà trên đã thắp, mẹ ngồi trên phản với cháu ngồi giữa hai chân tay đang múa may. Chị Đạo có lẽ đã lên nằm ở võng. Đồng sách chiếc nón lá của u già đội lên đầu, chạy ù qua sân, nước bắn tung tóe. Mẹ Đồng ngửng lên nói: “Cậu Thạch cho người nhắn về cậu ấy bị thương nằm trong nhà thương Bạch-mai”. Đồng khựng lại ở ngưỡng cửa, cúi đặt cái nón xuống đất, vuốt lại tóc. Một lát hỏi: “Có nặng không mẹ?” Bà bồng cháu đứng xuống: “Tôi cũng không biết. Mai cậu có vào thăm cho tôi đi với” “Phòng số mấy hở mẹ?” “Vội quá tôi cũng quên không hỏi”. Đồng nói: “Mai mẹ đừng đi, xa lắm. Để con xuống trước đã” và Đồng vào buồng thay quần áo, nằm dài trên giường. Trên đầu giường quyển La chute de Paris, trang đầu có chữ ký của Cảnh với An, nằm dưới cùng chồng sách. Mưa đã tạnh, Đồng cũng không mở cửa sổ buồng, bóng tối đặc quánh dần trong mắt. Trong bữa cơm chị Đạo hỏi Thạch là ai, mẹ bảo bạn học của Đồng. Tại sao lại đi lính cho Tây? Cậu ấy bị động viên. Bao nhiêu người bị động viên đều trốn, sao cậu ấy không trốn? Chị Đạo nhìn hỏi Đồng và Đồng chỉ cười. Không có ai thương nó cả, đáng đời nó, nó tưởng mình là anh hùng, anh hùng theo cái kiểu của nó. Nếu Thạch chết? Mai tôi xuống đến nơi nó có thể chết rồi. Sau bữa cơm Đồng vào ngồi trước bàn viết, lật quyển sổ ghi những ý nghĩ vụn vặt hằng ngày từ khi đi làm. Câu trơ khấc, cộc lốc không nhớ được những cảm xúc phát sinh; những câu thơ chép lại, ý tưởng không đầu đuôi. Tôi già hay tôi trưởng thành? Trưởng thành là một ý thức, ý thức về mình về người và về sự vật một cách rõ rệt. Tôi không làm gì được cho Thạch và nó cũng bất cần. Đồng lên giường đắp chăn nghe mưa bắt đầu rơi trên mái.

Buổi sáng trời trong mát mẻ. Đồng dắt xe ra ngõ, mẹ Đồng gọi với theo hỏi có tiền mang theo ghé chợ Đồng-xuân mua cam cho Thạch. Đồng dựng xe trước cổng, quay trở vào bảo: “Cụ có tiền thì cho con thêm cũng được.” Bà mần mò mở cái túi vải đựng tiền, đưa cho Đồng một trăm, dặn dò: “Cậu nói tôi sẽ xuống thăm cậu ấy” Đồng cười khì: “Sợ nó chết mất rồi”. Bà mắng: “Cậu chỉ độc mồm độc miệng” Đường nhựa còn ướt như xe phun nước vừa đi qua. Xe đạp nhẹ hơn ngày thường, cây lá xanh tươi rậm rạp. Đường Cổ-ngư hàng phượng đỏ ối bên bờ nước thẫm. Còn lâu nắng mới lên. Biệt thự gia đình Nga không thay đổi, im lặng thâm nghiêm, các cửa sổ mở rộng, sau những đám lá trong vườn. Đồng tạt vào chợ Đồng-xuân, mua nửa cân cam, đèo sau xe và đến hiệu ảnh xin phép nghỉ. Cúc bảo: “Anh cứ đi. Tôi sẽ nói lại với chú tôi”. Cúc mặc áo dài xanh nhạt, nàng cũng vừa đến, mặt hồng hào khỏe mạnh hơn ngày mới hồi cư đến tìm ông chú để xin được giúp đỡ. “Cô phải trông hộ tôi mệt đấy” “Không sao. Thứ bảy, chủ nhật anh giúp lại tôi. Tuần này tôi cũng có việc bận” Đồng bặm trợn đùa: “Hẹn với ai thế? Cô dạo này trông đặc Hà-nội rồi đấy”. Cúc cười không tỏ vẻ khó chịu, cặp mắt liếc tránh vào phía trong. Tại sao không yêu Cúc nhỉ? Đồng nhớ trong một nhịp rung mau tâm trạng của người mới lớn, khoan khoái thảnh thơi. Tôi có thể làm thơ được. Và bây giờ thì sẽ đọc những bài thơ tình cho Cúc nghe, không giấu giếm sợ hãi để rồi ném theo dòng nước cuốn. Trên đường xuống nhà thương, Đồng đạp xe thong dong, từ lâu rồi, từ ngày Nga đi, mất cái thú đi chơi các vùng lân cận thành phố. Những ngày tháng chật hẹp, bất giác nghiền ngẫm một cách âm thầm. Con đường tàu điện ngắt lưng chừng giữa một khoảng đồng trống. Gió còn lùa nhưng nắng bắt đầu hé. Sau lũy tre xa, tiếng còi tàu Văn Điển mất hút. Xuống đến cổng nhà thương, Đồng mới nghe mệt rã rời. Gửi xe ngoài cổng, Đồng hỏi thăm, đi lòng vòng đến mười lăm phút mới tìm ra chỗ Thạch. Trong phòng hai giường, Thạch nằm quay đầu nhìn ra cửa sổ, một chân bó bột treo đặt trên một mảnh gỗ, Thạch như chợt thức giấc mở mắt nhìn Đồng và mỉm cười. Đồng ôm gói cam, đứng ngẩn ngơ quan sát bạn, nó không chết. Giọng của Thạch trầm yếu hơn lúc thường. Thạch chỉ Đồng kéo chiếc ghế sơn trắng pha màu xanh loãng đến ngồi gần. Đồng hỏi: “Thấy thế nào?” “Đỡ rồi. Đợi tuần sau tháo bột là xong. May không phải cưa là phúc. Hai hôm đầu mê man chẳng biết giời đất. Cậu nhận được tin hôm nào?” Thạch giẫm phải mìn ở Hưng-yên, được trực thăng chở ngay về Hà-nội, khi tỉnh là yêu cầu báo tin cho Đồng biết. Thạch nói đùa: “Làm gì mua quà như đàn bà đến thăm chồng thế.” “Của bà cụ. Bà cụ sẽ xuống thăm cậu” Đồng nhìn quanh gian phòng, người nằm giường bên bó kín ngực và băng quấn quanh đầu che cả mắt. “Hắn có lẽ mù”. Đồng ngửi mùi ê-te phảng phất, mùi y dược sực nồng, chóng mặt. Đáng lẽ chỗ của tôi phải ở trong nhà thương này, cái không khí yên tĩnh biệt lập một màu trắng xóa giống như những ngày tôi đang sống, hợp với tôi. Ở đây lắng nghe bệnh trạng của mình, tha hồ đuổi theo những ý nghĩ, tưởng tượng.

“Có tin tức gì của Cảnh với An không?” Đồng lắc đầu, nếu nó không bị thương, nếu nó chết ngay tức khắc, tôi cũng chẳng hay biết. “Còn tình hình thế nào?” “Tình hình. Có gì thay đổi đâu. Cậu biết hơn tôi chứ” Thạch quay nghiêng mặt ra ngoài một cách khó khăn: “Từ ngày đi lính như mù mắt. Chẳng hay biết chuyện gì cả.” Đồng sực nhớ cuộc gặp gỡ với Nghiêm và nói: “Cách đây một tháng tôi có gặp Nghiêm. Nhớ Nghiêm không? Có nghe hắn nói chuyện chính trị. Hắn bảo tình hình sắp sửa có nhiều chuyện lạ. Chiến tranh Đông-dương sẽ phải chấm dứt bằng hòa ước như Cao-ly và có thể mình cũng bị cắt đôi chia cho hai phe giống như Đức với Cao-ly. Ranh giới sẽ rõ rệt. Tình hình thế giới đẩy đến như thế. Hắn có hỏi thăm tôi về các cậu và bảo chúng mình nên hy vọng. Thời cơ sẽ đến với những người đang ở ngõ bí.” Thạch đưa tay xuống gãi chân hỏi: “Nhưng hắn, thái độ của hắn vẫn mơ màng như cũ hả? Vẫn cái lịch sử của dân tộc Việt nhai mãi hả?” “Hắn nói mình nghe, tôi cũng chẳng hỏi thêm. Cậu nghĩ thế nào?” “Lâu lắm tôi hết nghĩ rồi. Nghĩ cũng vô ích, vô ích một cách ghê gớm. Nói chuyện cậu đi” “Tôi, chuyện tôi. Chẳng có gì đáng nói. Không còn cả chuyện yêu đương nữa”. Đồng tự chế riễu mình, nhăn mặt nhíu mày, Đồng hỏi: Hút thuốc được không? và rút châm cho Thạch một điếu, nhặt một chiếc hộp các-tông để trên đầu giường làm gạt tàn. Không ai vào thăm Thạch, hắn sẽ phải nằm cả tuần lễ như thế này, với bô lót dưới mông, điều dưỡng giúp cho ăn uống, thay quần áo “Mai tôi phải đi làm không xuống thăm được. Cậu cần gì không?” Thạch muốn có sách đọc, những sách gì Đồng đang đọc. Trời bên ngoài nắng lớn, Đồng ngại trở về, xuống trước cửa nhà thương ăn cơm trưa rồi lẻn trở vào với Thạch. Thạch mệt, nhắm mắt ngủ chập chờn chốc chốc lại hỏi Đồng một câu vu vơ, Đồng cũng ngồi ngủ gật trên ghế. Buổi trưa không cả tiếng chân người ngoài hành lang, nghe rõ tiếng một con nhặng vo ve lọt vào buồng bay quẩn cao ở trên trần, tiếng ve kêu ran ở hàng cây lấp sau dãy nhà song song đối diện. Thạch tỉnh táo hoàn toàn từ lúc nào và cũng như đang dỏng tai nghe ngóng tiếng động trưa nắng trong bệnh viện. Đồng bỗng nói: “Ngồi ở nhà thương gần người bệnh, tôi cứ nghĩ đến truyện của Tchékov”. Thạch hỏi: “Có ở nhà không? Cho tôi đọc Tôi chưa đọc Tchékov”. Ý tưởng bất chợt đến Đồng nói: “Nhìn cậu, nghĩ đến bọn mình, tôi thấy giống như bọn thanh niên Nga hồi thế kỷ 19 mà Tourgueniev tả, idéalistes, utopistes mỗi đứa một cách. Đọc Gogol, Dostoïevski xong mới hiểu nổi Tchékov. Tchékov như sự rớt xuống tầm thường hay sự trở về đời sống hằng ngày cũng thế. Tôi chắc là cậu sẽ không thích Tchékov. Chỉ có một điều khác là bọn mình không phải là bọn aristocrates”. Thạch cựa quậy, chân bị đụng mạnh, nhăn mặt kêu khẽ và nhắm mắt đợi cơn đau dịu xuống: “Chắc không? Có chắc mình không phải là một bọn aristo không? Tôi nghĩ có khi mình là bọn aristo mới của cái xã hội đang phân hóa. Cậu có thể được chấp thuận vì cậu là poète, hả, còn như thằng An hay tôi hay thằng Cảnh hả, nous sommes condamnés à mort, condamnés à se détruire… Tôi có ý nghĩ ấy từ lần trước khi tôi đưa một tên đồng đội về nhà thương này, gặp cái bọn cùng lớp với mình nội trú ở đây. Tôi nhìn bọn chúng, vẻ quan trọng của chúng trước đám bệnh nhân và thấy chính mình cũng có thể trở thành như thế. Chỉ một vài năm nữa thôi, nếu không có gì thay đổi, hả, cậu sẽ là poète nổi tiếng của nước này và ở mọi ngành khác đi đến đâu cậu cũng gặp bọn quen với cậu từ những năm còn đi học. Mình không phải là aristo còn là gì nữa? Cậu có thể nguyền rủa chúng nó, chúng nó có tức cũng chỉ cười, car nous sommes des amis, quoi? Thạch mở mắt, nhếch mép cười hỏi: “Cậu có can đảm gọi tôi bằng phản động không? Không, chắc chắn là không. Chúng mình đồng lõa. Tôi hiểu rõ như thế. Cách đây mấy tháng tôi phải đứng dàn chào đón các phái đoàn chính phủ đến quan sát mặt trận có ông bố thằng An. Ông ta bắt tay tôi, nhìn tôi hồi lâu như cố nhớ, rồi ông ta hỏi: Mobilisé? Oui. Thiếu úy trước ở Hà-nội? Tôi bảo: Không, tôi chưa hề ở Hà-nội. Ông ta đã nhìn thấy ở tôi cái dấu hiệu nào đó của sự đồng lõa với ông: cái marque Hà-nội. Cậu thấy không? Một ngày nào cậu cũng sẽ bị chúng nó bảo: À, thằng Đồng ấy à, cùng promo đấy mà, biết nhau quá. Cùng lắm có ghét cậu chúng cũng chỉ bảo: nó tốc-kê. Hòa cả làng.” Đồng rung rung lưng ghế, tưởng như bọn An với Cảnh cũng có mặt trong buồng: “Mà tôi đã bảo đời nào tôi trở thành poète được. Jamais”. Người bệnh cùng phòng rên rỉ, Thạch bấm chuông gọi: “Cô y tá săn sóc bọn này khá lắm. Để cậu xem. Hắn bị cùng một lượt với tôi. Đêm nó rên nghe mới sợ”. Cô y tá vào đến bên giường Thạch, trong khi Đồng ra đứng tựa cửa sổ, lên tiếng hỏi: “Thiếu úy cần gì?” Thạch bảo: “Cô xem hộ tên kia. Vừa nghe nó rên.” “Ông thấy trong người thế nào? Ông uống nước không? Tối rồi ông nên ngủ cho khỏe” Đồng cười thầm, trời nắng dịu trong, quay mình nhìn cô y tá đang cho bệnh nhân uống nước. Ngày vẫn còn dài, Đồng lại ngồi xuống ghế, bóc cam cùng ăn với Thạch. Thạch như quên lửng câu chuyện đã qua, nói chuyện khác: Những cái chết vô nghĩa hằng ngày trước mắt, cảnh tang tóc khi ruồng trong các làng bỏ ngỏ, những cơn hung bạo của bọn dưới tay phải chấp nhận, đêm tối bơ vơ rình rập và bị rình rập. Cậu không thể tưởng tượng đến được. Cái nguy là tôi bắt đầu quen. Nằm đây nhớ mới chết. Tôi cũng mong như tên Nghiêm nói chấm dứt cho xong xem mình thế nào”. Đồng đưa khăn tay của mình cho Thạch lau miệng bảo: “Cái gì rồi cũng quen. Tôi thì bắt đầu quen với cái đời ngày hai buổi đi làm đều đặn. Không biết bây giờ thất nghiệp thì sẽ ra sao nữa”. Vào khoảng bốn giờ Đồng từ biệt Thạch và nói: “Lúc nào tôi rỗi, tôi sẽ vào hả. Đừng buồn. Cần gì nữa không?” Thạch dặn: “Cậu gửi cho tôi mượn Tchékov”.

Trên đường về, Đồng rẽ vào đường Cổ-ngư, ngồi bên hồ Trúc-bạch nhìn những lưng nhà lô xô men bờ mạn Quan-thánh và trong Ngũ-xã. Tôi đang ở phía sau của thành phố, thành phố mà Thạch cho là một dấu tích tủi hổ phải từ chối. Những giọng cười đùa trong trẻo phía xa, những cánh buồm trắng lửng lơ, những chiếc périssoires ở ngoài khơi hồ Tây… cả buổi chiều mùa hè quang đãng đang nhẹ bay này cũng đều là tội lỗi như những xúc cảm của tôi. Quá khích, nó vẫn là đứa quá khích. Lẩn quất ở ngoài hay ở trong những vang vọng quen của những câu thơ muốn thành hình, nhưng tôi nhất định không viết, và chỉ chốc lát sẽ tan hút vào đáy sâu của bản thể và bản thể sẽ tiêu mòn cùng ngày tháng. Jamais. Đồng bước vào nhà, cảm tưởng như đã đi vắng xa lâu ngày, phải trả lời những câu hỏi săn đón của mẹ. Sau bữa cơm Đồng chỉ dẫn đường đi cho bà và suốt buổi tối bà loay hoay sửa soạn làm giỏ như ngày hôm sau đi lễ đền chùa nơi xa. Chị Đạo bảo: “Để mai con đưa cụ đi luôn thể cho biết. Cho cả cháu nó đi chơi nữa.” Đồng bỏ vào buồng nằm nghỉ, giấc ngủ đến thật mau, bóp siết đằng sau lưng ê ẩm rời rã, Đồng không kịp dậy mắc màn.

Mùa hè đã hết. Những trận mưa rào cuối mùa không còn. Đêm tối vắng bặt tiếng ếch nhái trong đầm ao, bắt đầu nghe gió thổi nhẹ ngoài những bãi trống lùa vào nhà lay động màn ngủ và ngọn đèn dầu soi bài học cho Hải. Đã gần tuần lễ không xuống Kim-mã, Liêm như quên hẳn vợ Hỗ và cũng không thấy chị lên tìm ở nhà in. Liêm ngại trông thấy cái bụng đã trương phềnh, dáng điệu uể oải mệt nhọc của người đàn bà. Trong giấc ngủ Liêm nghe chập chờn tiếng đọc thì thầm hoặc tiếng ho húng hắng của Hải cùng tiếng trở mình thở dài của bà mẹ. Thường khi bà cụ hỏi: Đi ngủ chưa con, và Hải vừa đập muỗi dưới chân vừa trả lời: Chưa mười hai giờ mà mẹ. Buổi sáng ngày Hải đi thi, hai mẹ con dậy từ tờ mờ sáng. Bà đưa tiền cho Hải, nói với Liêm: “Hôm nay tôi khao hai cậu ăn phở. Anh đi ăn phở cùng với em cho vui”. Liêm đèo Hải trên xe đạp của Hải ra phố lúc trời còn nhọ nhem. Hải nói: “Anh đèo tôi đi một vòng chơi cho thoáng lấy tinh thần, chốc nữa vào làm bài”. Và Liêm đạp xe ra đường, bờ sông. Dải đê cao cỏ tối chạy dài như một bức tường. Đèn đường còn thắp nhưng ánh sáng tỏa xuống mặt nhựa đang tan. Gió từ sông thổi vào gợn lạnh. Đến Cột Đồng-hồ, Liêm vòng lại xuống bờ Hồ. Hải gõ tay xuống ghi đông làm nhịp hát:  Liêm rẽ vào đường Trường-thi, nhìn vòm cây xanh mát dài đến cuối tầm mắt. Hải chun miệng thổi sáo vang lừng. Những bông hoa ngày mai, đón tương lai vào tay. Những xuân đời mỉm cười ca hát lên… Ngưng hát Hải quay ngước lên nhìn mặt Liêm nói: “Tôi đỗ kỳ này, tôi sẽ phải tìm việc khác chiếm ít thì giờ hơn để học tiếp. Tại sao anh không cố học thêm? Liêm bỏ một tay sờ hàm râu lởm chởm một ngày không cạo: “Tôi già rồi. Tôi bỏ học hằng chục năm nay. Chỉ tại cô Ái-Liên. Hôm nọ thấy ảnh in trên báo cô ấy bây giờ già cú đế. Cậu còn trẻ, nhiều hy vọng lắm.” Hải gập người xuống, khuỳnh hai khuỷu tay chống lên ghi-đông nhìn thẳng trước mặt: “Mai kia xã hội mới, cách mạng rồi, anh sẽ phải học. Được học là sướng nhất. Đi học không còn là đặc quyền của bọn nhà giàu”. Liêm bảo: “Cậu trông tẩm ngẩm thế mà ghê hả”. Liêm dừng xe trước cửa hàng phở gần chợ Hàng Da, Hải khóa xe cẩn thận trước khi vào. Trong hàng phở, Hải không nói thêm gì nữa. Liêm vừa ăn vừa ngắm Hải cũng vui lây vẻ hy vọng cương quyết. Liêm nghĩ: mình đã dại bỏ về Bắc, chỉ cần một lòng tin và hoạt động với những người thân sẽ có đủ mọi thứ. Liêm không hiểu mình đang buồn hay vui. Ở hàng phở ra, Liêm đèo Hải trở lại trường thi. Vẫn sớm, bọn học sinh còn tụ tập trên vỉa hè trước cổng trường. Liêm đứng cùng với Hải dưới gốc cây sát vệ đường, Hải nhìn những đứa học trò khác qua lại có bạn bè bằng đôi mắt xa lạ. Hải nói: “Anh thấy không. Tôi đi học như tên ăn trộm lẻn được vào nhà.” Liêm cười xòa: “Thế mới hay chứ.” Khi tiếng trống nổi trong sân trường, Hải dục Liêm về nhà in cho kịp và dặn: “Hôm nào thi xong tôi sẽ nói chuyện với anh lâu hơn”. Liêm đi bộ về nhà in trong buổi sáng mùa thu mới chớm với nhiều cảm xúc mới lạ dễ chịu. Tâm thần thoải mái, những nặng nhọc của ngày hè đã tan. Hà-nội khoác một bộ mặt quyến rũ hơn trong màn trời và cảnh phố. Trong khi làm việc không còn phải cởi trần, ấm nước chè tươi khi nguội lạnh có mùi vị đặc biệt, và những hơi thuốc lá đầu tiên trong ngày thơm dịu. Buổi trưa ăn cơm nhưng giấc ngủ ngắn ngủi âm u mệt mỏi như trời đất. Tối phải đắp chăn đơn, Hải trong mấy ngày thi cũng ngủ sớm hơn thường lệ, bọn trẻ cũng vẫn reo cười khắp xóm nhưng không còn thức khuya như những đêm mùa hạ. Hải đỗ, bà mẹ mừng chảy nước mắt. Anh em trong nhà in khao Hải một chầu Siêu-Nhiên và xi-nê. Mọi người uống thật say và khi kéo nhau ra khỏi hiệu mì, ông già San chập choạng ôm lấy Hải suýt ngã xuống cống bảo: “Đâu con rể lại đây với bố.” Cả bọn được mẻ cười thỏa thích khi ông San đẩy lưng bắt Hải phải đi vào ngõ hàng Giầy. Cái ngõ hẻm chật tối bẩn thỉu nhiều lính Tây và những ả mặt phấn, Hải kêu trời nhưng cả bọn phụ họa thúc dục “bố vợ cho con đi chơi cho biết mùi đời” khiến ông San không buông tha Hải. Chỉ khi một tên Tây đen đang đứng giữa ngõ chắn lối nắm lấy Hải, ông San sì sà sì sồ đối đáp bị nó xô ngã, và dẩy ép Hải vào trong tường, mọi người mới tỉnh rượu. Tuất nóng mắt xông vào đánh thằng Tây đen, cả bọn vội ùa theo trợ lực. Cả ngõ náo loạn: bọn lính trong các nhà chứa đổ ra kéo theo bọn gái điếm, bọn con gái trở mặt quay đánh lính Tây thêm mấy bác xích-lô bỏ xe chạy đánh vào đánh hôi. Liêm bị một chiếc đòn gánh nước phang vào lưng tỉnh hẳn, bỏ chạy ra khỏi ngõ, mua vé chui vào trong rạp tuồng ở phố hàng Bạc. Giờ đồng hồ sau, Liêm bỏ ra khỏi không khí nồng nực hơi người, phố xa đã thưa vắng hồ Gươm đang thiếp ngủ trong heo may. Hải đã về đến nhà, mắc màn ngủ. Bà mẹ Hải hỏi: “Các anh làm gì nó thế?” Liêm đáp: “Không có gì.” Sáng đến nhà in vắng mặt ông San và Long, Tuất sưng vếu một bên mắt, Ngọc bị một vết trầy bầm máu ở cánh tay phải. Hải bầm một bên gò má, chỉ có Liêm không mang dấu vết gì nhưng đau ê ở bả vai. Một lát cô con gái ông San đến báo cho Ngọc biết bố mệt cảm không đi làm được. Tuất cười khúc khích trong góc nói khẽ với Hải: “Chỉ tại cô ấy thôi” Hải nghiêm mặt lừ mắt. Mãi tới mười một giờ Long mới đến, hắn bị giữ ở quận cảnh sát “suýt nữa thì bị chở xuống trại Ngọc-hà, tôi phải cãi mãi là chưa đến tuổi”. Long đang nói chuyện huyên thuyên, Liêm nhìn ra cổng nhác thấy bóng vợ Hỗ. Anh thầy cò gọi: Anh Liêm ơi. Liêm còn cầm theo bản vỗ mo-rát ra đưa cho anh này, nói vài câu bâng quơ, xong mới đi ra cổng. Liêm giật mình khi nhận ra Hỗ đứng lấp sau cột gạch ngoài vỉa hè. Trông anh già và gầy nhom, mắt lờ đờ ngơ ngác. Hỗ nói: “Tôi mới được ra ba bốn hôm nay. Đợi không thấy chú xuống chơi. Nhân tiện đi qua ghé thăm, cám ơn chú. Nếu không nhờ chú giúp đỡ trong thời gian tôi bị bắt, vợ tôi lại có mang, thì chắc là…” Hỗ lúng túng không nói tiếp, mắt anh thành thực đáng thương. Liêm ngượng ngập đáp: “Có gì đâu anh. Anh cũng đã giúp tôi nhiều lắm.” Hỗ bảo: “Chiều chú về nhà ăn cơm với vợ chồng chúng tôi.” Liêm chỉ biết nói theo: “Vâng”. Trước khi quay đi, vợ Hỗ ân cần: “Chú xuống sớm đừng để vợ chồng tôi đợi.” Trong mắt người đàn bà không tiết lộ tình ý gì. Liêm trở lại bàn đứng làm việc ngơ ngác như người mất hồn. Buổi chiều, Liêm mượn xe đạp Hải nói thác phải đi ăn giỗ tối về cho tiện. Sau mấy tháng bị giam Hỗ đổi hẳn tính trông thấy, thâm trầm kín đáo hơn xưa. Anh nói anh chưa biết làm gì, ít nhất cũng phải nằm dưỡng tinh thần nửa tháng mới lo kiếm việc được. Anh cầm bát đũa ăn cơm, không còn đòi dùng dao phống-sét như ở dưới nhà thương, không thấy chê bai cách ăn ở thiếu vệ sinh của người Việt Nam. Vợ Hỗ chốc chốc liếc Liêm mỉm cười âu yếm một cách tự nhiên như người trong gia đình cũng săn sóc một người thân. Liêm hoang mang không biết nói năng cách nào, chỉ ngồi im nghe, thỉnh thoảng nghe giọng cười lạc lõng của mình nổi lên. Lúc Liêm ra về, trong ngõ xóm đêm như đã khuya, dắt xe đẩy trong bóng tối rậm rịt cây lá. Lên đến trên tường Liêm ngơ ngác bên đường tàu điện trống nhìn những căn nhà lụp xụp tối om ở ngã ba Kim-mã, hàng điện thẳng chấp chới dẫn vào trong phố. Gió thổi từ ô vào vi vút, trên cao phía sau lưng những đám cây cao trên đồi Giảng-võ rào rào. Bây giờ tôi phải làm gì? Liêm tự hỏi. Tôi phải làm gì?

Làm gì? Bỗng dưng nhớ mùi sình lầy trên một bờ sông san sát nhà sàn ven thành phố Sài-gòn, mùi nồng nặc trong không khí sau những trận mưa rào ngắn giữa trời nắng; nỗi nhớ đột cuồng như một sức đẩy mau trong máu, dưới thịt và tan hòa cũng nhanh. Gió khỏa sau lưng, tuôn về trước chạy theo một đường phố um tùm bóng cây, lấp ló những ngọn điện, không người. Bờ tường đá cao chạy dài, vây những khóm cây rậm cái tháp tối của một nhà tu kín, lầm rầm huyễn hoặc tiếng cầu kinh đông người, tiếng vọng mong manh của một thế giới khác, bay biến gờn gợn như gai ốc trên cánh tay vén trần. Tiếng hát ầm ĩ trống trải của hai ba tên lính tây say ngả nghiêng trên một bờ hè khuất, phía bên kia vườn hoa sáng trơ những bãi cỏ, lối đi, ghế đá; chúng tiến về phía nhà khiêu vũ, ngọn đèn hiệu ngoằn ngoèo xanh yếu như lửa đom đóm, tiếng nhấn trên vòng quay bàn đạp trùng nhịp với điệu hát cổ của một thời vẫn được nghe lính Lê-dương hát ở tỉnh nhỏ. Mùa thu đó, nỗi bâng khuâng mệt mỏi tách lìa váng vất, thành phố như im tiếng khắp lượt chờ đợi vu vơ. Các cửa hiệu buôn bán cũng đang lên cửa. Liêm mường tượng những ngày biến động cũ trên những đường phố này, cái dáng vẻ ngây ngất triền miên mơ mộng của thành phố như bất tận. Các rạp chiếu bóng chưa tan, đèn thắp sáng ở hành lang bên ngoài sau những màn cửa sắt đã kéo lại. Vợ Hỗ sẽ sinh vào gần dịp Tết, một đứa con của tôi; biết đâu Hạnh đã không mang trong bụng nàng một đứa con khác nữa. Những đứa bé một mai lớn lên như tôi trong một khung cảnh nhất định rồi cũng bỏ đi như nhớ tiếc một điều gì xa vời tìm không thấy.

Xóm ở không đèn đóm, đường đất gồ ghề dội lên tiếng lọc xọc của dây xích. Gió lùa từ các hốc tối với tiếng côn trùng. Hải bắt đầu học lại, ngồi tựa lưng trên phản, sách mở trên hai đầu gối co, ngọn đèn đặt trên thành cửa sổ. Liêm cất xe đạp vào nhà, nghe da mặt ướt lạnh. Hải cười bảo: “Đi ăn cỗ về mà trông anh có vẻ buồn.” Lúc Liêm đã đi nằm, Hải bỗng hỏi: “Tối mai anh rỗi không? Anh đi chơi với tôi.” Liêm nói đi thì đi. Trong đêm khi Liêm kéo chiếc chăn đơn lên đắp, trong một quãng thức tỉnh, nghe một nỗi buồn vang dội như tiếng âm trong một tòa nhà cao rộng. Giọng nói của Tường bỗng nghe thấy rồi trộn vào trong giấc ngủ. Buổi sáng ở nhà in, Hải nói với Ngọc: Tối nay anh Liêm cũng đến. Ngọc nheo mắt cười: Tốt. Liêm hỏi: “Hai người âm mưu gì thế? Không được đùa dai”. Ông Kiêm, chủ bút, vào đứng giữa buồng xếp chữ nói chuyện bông đùa, nhìn Liêm xếp một tin quốc tế bằng chữ corps 6. Ông hỏi: “Nghe nói anh đã ở Sài-gòn?” Ông San ngồi bên cạnh đang chọn chữ đùa: “Anh ấy có vợ Nam-kỳ đấy.” “Thế hả? Có lẽ rồi chúng mình đến vào Sài-gòn cả thôi.” “Tại sao thế ông?” “Có thể nước ta chia đôi. Một nửa cho Cộng-sản, một nửa cho Quốc-gia” “Thật như thế không?” Ông Kiêm người gầy gò, xương sẩu, da mét như nghiện, mắt hấp háy sau đôi kính cận vốn người lừ nhừ ít nói, theo lời Hải ông là bạn đồng chí cũ với ông bố Hải bây giờ là một chính khách chờ thời. Ngày trước ông Kiêm và một số đồng chí khác ngày nay đều trở thành các “chiến sĩ quốc gia” tên tuổi đến ăn dầm ở dề nhà Hải, Hải còn nhỏ, không nhớ nhưng được nghe mẹ kể lại. Ông Kiêm không biết Hải, Hải cũng không bao giờ muốn nhận những bạn của bố; Hải nói: “Thuộc về quá khứ. Bố tôi là Việt-quốc, còn tôi không bao giờ là Việt-quốc”. Ông Kiêm tháo cặp kính lau mắt: “Chỉ nay mai là điều đình thôi. Như thế cũng tiện. Ai thích quốc gia thì ở với quốc gia, ai thích cộng sản thì ở với cộng sản. Cho dứt khoát.” rồi cười khà, điệu cười ngắn ngủi nhạt nhẽo. Tuất hỏi: “Còn những người chẳng thích thứ nào hoặc thích cả hai thứ họ mới tính sao đây?” Liêm nghĩ đến Sài-gòn, thấy thoáng hiện mơ hồ tia hy vọng có cơ hội trở lại. Lúc đó… trí tưởng tượng cụt hẫng không thể phóng tới một tương lai chưa thành hình. Trở lại Sài-gòn? Để làm gì? Ở lại đây? Hết giờ làm việc buổi chiều, Liêm đi cùng với Hải ra phố Huế đến một cửa hiệu sửa xe đạp và mô-tô. Trước cửa, ngay ngoài hè, người chủ nhà đang xoay trần quanh chiếc Motobécane ráp lại máy. Hải đứng sau lưng gọi: Anh Thái. Thái ngoái cổ cười: Chú Hải, đợi tôi xong ngay, rồi cúi xuống vặn nốt những con ốc cuối cùng. Thái đứng thẳng người dậy, chùi tay vào một cái dẻ lớn, nghe Hải giới thiệu Liêm, nở miệng cười – Thái có nụ cười rộng rãi chân thực – đưa cổ tay cho Liêm bắt: “À, anh Liêm. Tay tôi bẩn quá. Mình vào nhà chơi. Ngọc đâu?” Hải đáp: “Anh Ngọc đến sau.” Thái đẩy chiếc mô-tô vào nhà; trong cửa hiệu còn hai chiếc mô-tô khác và dăm chiếc xe đạp, những chiếc sườn xe mới sơn treo thành hàng, hai bên tường là tủ kính chia ô bầy các món phụ tùng. Vượt qua cái tủ kính thứ ba dùng làm vách ngăn chia cửa hiệu với bên trong, là một căn buồng giả kê một tấm phản và một bộ bàn ghế uống nước. Thái đi trước vào trong sân – sân gạch dài trống chỉ có ba bốn cái vại đặt bên tường rồi đến bếp – trèo lên một cầu thang xi-măng mà tay vịn nhiều chỗ loang lở. Buồng trên gác là chỗ ở của gia đình Thái, vợ Thái đang ngồi chơi với hai con trên chiếc giường sát bên cửa sổ trông xuống phố. Chị bồng một đứa, dắt tay một đứa, lặng lẽ chào khách bỏ xuống nhà dưới. Liêm theo Hải ngồi xuống bên một cái bàn gỗ chữ nhật đặt bốn chiếc ghế trong khi Thái đi theo vợ dặn dò một vài điều nơi đầu cầu thang. Thái trở vào, ngồi trước mặt Liêm, hỏi về những chuyện kháng chiến miền Nam. Vui câu chuyện, Liêm nhớ được lại những kỷ niệm bất ngờ chính Liêm cũng cảm thấy thú vị như truyện bà Năm Lửa dưới Hậu-giang tự xưng mình là Phàn Lê Huê đội mão mang hia cầm quân xuất trận. Ngọc đến và lúc bấy giờ Liêm mới vỡ nhẽ Hải đã đưa mình đến một tổ kháng chiến nội thành. Đó chỉ là một cuộc sinh hoạt thường lệ để học tập đường lối. Có lẽ Hải đã nói sao đó nên cả Ngọc lẫn Thái đều mặc nhiên coi như Liêm đã là người trong nội bộ và Liêm đành ngồi im nghe.

Thái lấy trong giỏ ấm một cuộn tài liệu in nhập nhòe trên giấy xấu trao cho Hải và Ngọc, nói: “Chú Hải và anh Liêm nghiên cứu chung một tập cho tiện”.

Tám giờ hơn, Liêm và Hải mới ra về. Ở ngoài hè, Liêm hỏi: “Tại sao cậu không hỏi ý kiến gì tôi cả mà đưa tôi đến? Nhỡ tôi không thuận thì sao?” Hải bối rối giây lát đáp: “Tôi nghĩ thế nào anh cũng thuận. Người lao động nào cũng có ý thức cách mạng.” Liêm mỉm cười, nhớ đến câu đã nói với Tường: Tôi không phải sinh ra để làm cách mạng. Chưa khi nào tôi muốn tìm hiểu sâu về cách mạng? Tại sao phải làm cách mạng? Tôi chỉ muốn được làm việc, được sống. Không khi nào tôi quen được cái không khí của những buổi hội họp. Tôi muốn làm những công tác cụ thể và trở về trong xóm gặp Hạnh. Nhưng bây giờ không có các thứ ấy, hằng tuần Liêm theo Hải đến gặp Thái và Ngọc, những giờ rảnh rỗi phải thảo luận đối đáp với Hải. Một lần Liêm bảo Thái: “Anh có thể giao phó một công tác nào cho tôi. Tôi vẫn quen hoạt động nội thành”. Thái đáp: “Chưa cần. Chúng ta là những phần tử nòng cốt của cách mạng. Không thể phí phạm. Chừng nào đến nhiệm vụ chúng ta, chúng ta sẽ làm. Hiện nay hoạt động nội thành không cần thiết nữa, đã có những người khác phụ trách. Không nên có cái mặc cảm anh hùng cá nhân. Lúc này là lúc chúng ta được nuôi dưỡng để phát triển ý thức cách mạng lao động”. Công tác của Ngọc và Hải chỉ là báo cáo những luận điệu phản động nghe được trong tòa soạn và thỉnh thoảng giả vờ lơ đễnh bỏ sót một đoạn tin tức hoặc bình luận bất lợi cho chính phủ kháng chiến. Nơi họp mặt cũng thay đổi luôn, lúc nhà Thái, lúc nhà Ngọc, lúc trong một ngôi đền ở phố hàng Đàn, người giữ đền là một anh đồng cô bạn học của Thái từ thời nhỏ. Ngọc ở phố Lòúc, cuối một ngõ hẻm, gia đình gồm một vợ, bốn con, vợ Ngọc tóc hoe vàng, có máu lai, nên những đứa con tuy trông lam lũ vẫn có vẻ trắng bụ bẫm. Người đàn bà mang nét mặt ủ rũ ẩn nhẫn của Việt-nam tương phản với những dấu tích Tây-phương còn ghi lại trên dung nhan, chị ru con bằng những điệu quê mùa chưa thuần và chưa một lần nghe chị thốt tiếng nói trước người lạ. Những ngày tháng ấy của Liêm trống trải đầy ắp. Một đôi khi Liêm chẳng còn ý nghĩ, thản nhiên xuống thăm vợ chồng Hỗ và quên mọi chuyện thắc mắc. Hỗ đã xin được một chân chào thuốc cho một công ty nhập cảng dược phẩm, phải về các tỉnh, vắng nhà luôn. Vợ Hỗ hài lòng về việc thỉnh thoảng Liêm trở lại thăm và những lúc Hỗ vắng chị giữ Liêm ở lại để khoe về những biến động của cái bào thai. Có Hỗ ở nhà thì ba người ngồi ăn cơm để nghe Hỗ thuật lại về những chuyến đi của anh. Liêm tự hỏi không hiểu Hỗ có rõ chuyện không, hay anh cũng học theo Tây coi thường việc ngoại tình của vợ. Vợ Hỗ ngày càng trở nên ì ạch, nặng nhọc vì bụng quá to, Hỗ tỏ ra lo lắng sợ chị quen dạ như lần trước và thường nhắc Liêm: “Chú phải xuống luôn nhỡ tôi đi vắng còn có chú xoay sở hộ. Đàn bà xảy một lần là đáng ngại lắm”. Liêm nghe như Hỗ nhắc lại một bổn phận của mình, và Liêm sực tỉnh thảng thốt ngơ ngẩn, còn vợ Hỗ lại nhoẻn miệng cười lẳng lơ, ngớ ngẩn. Vợ Hỗ thì nói: “Chú phải để dành tiền đưa tôi cất cho. Sau này còn phải lo cho con. Ai lại con mình mà bắt người khác chịu hết”. Người đàn bà nằm trần truồng với cái bụng phưỡn căng trắng hếu, tỏa ra một hơi nóng trong bầu không khí ủ đặc của buổi chiều thu muộn, tiếng chuông tàu điện leng keng tít đầu ngõ, tiếng kèn ô-tô vang khuất như gặp ống hút, Liêm nằm câm như thóc vừa xấu hổ vừa tức giận. Nhưng Liêm không nỡ nói một lời tàn nhẫn. Mỗi lần người đàn bà quay nghiêng, chiếc bụng ấp vào mạng sườn gồ lên, nghe tỏ cả những tiếng lạo xạo cồn cào. Liêm chỉ còn biết mong ước một cách sợ hãi đứa nhỏ không thể ra chào đời được hoặc một tai nạn làm cho hai mẹ con cùng chết lúc sinh nở, Liêm sẽ được giải thoát. Liêm cũng tự hỏi những đêm mất ngủ, Hải vẫn còn dong đèn ngồi học, tại sao không dời chỗ ở, không thay đổi việc làm; lúc đầu tôi chỉ có ý định ở tạm trong gia đình Hải rồi tôi quên hẳn ý định ấy. Muốn thay đổi chỗ ở, công việc phải có thì giờ tìm kiếm, tôi không còn tự do nữa. Lúc ấy Liêm bỗng trực nhớ đến Khôi, người bạn đã gặp trên ghế đá ngày thất nghiệp sống nhờ nhà Tế Bần, không hiểu còn sống hay chết. Rất có thể anh đã tự vẫn vì chẳng biết phải làm gì ở đây; trong mấy tháng thành phố đã vớt được ba bốn xác đàn ông tự tử ở hồ Bảy-mẫu, hồ Thiền-cuông không mang căn cước trong người và một người chết còng queo một buổi sáng trong nhà Tế Bần mà người ta độ chừng là một tên hành khất. Một tên hành khất. Liêm vẫn tham dự những cuộc sinh hoạt của tổ, nhưng từ chối khi Thái đưa cho một tờ khai lý lịch đảng viên dự bị mà Thái đã long trọng tuyên bố trước như một vinh dự lớn lao không phải ai muốn cũng được. Liêm thối thác: “Lập trường tôi vẫn chưa vững. Vả lại từ ngày còn ở trong Nam, tôi cũng chỉ hoạt động như một công dân. Tính tôi không ưa đảng phái.” Thái bảo: “Anh nói lập trường anh chưa vững thì tôi tin. Vấn đề ấy rồi tất cả anh em trong tổ sẽ mang ra mổ xẻ. Nhưng còn anh không ưa đảng phái là một điều sai lầm.  Nếu anh muốn phục vụ thực sự cho cách mạng, anh cần phải hy sinh cá nhân cho đảng.” Liêm đáp: “Các anh để cho tôi nghĩ lại”. Sau buổi ấy, Liêm hết sức lẩn tránh câu chuyện của Hải, ngại phải thảo luận, phải phanh phui con người mình, tôi cũng chưa biết rõ hẳn về tôi, những ngày tới của tôi sẽ được xếp đặt như thế nào; những đuổi bắt ý nghĩ hôm nay có thể buộc tôi phải lựa chọn, sự lựa chọn cầu âu vô nghĩa lý. Ở nhà in, Liêm chăm chú vào công việc ít chuyện trò vẩn vơ; sau giờ làm việc buổi chiều, Liêm thác cớ mệt mỏi không về nhà ngay đi bộ ra mạn bờ sông thơ thẩn. Gió thổi lộng trên mặt đê, con đường vắng vẻ với cây cối bàng hoàng thảng thốt, nhà cửa kín mít một bên hè như không người ở, Liêm nghe trong người rời rã như bị cơn bệnh không tên xâm nhập; trong nỗi rã rời quyện theo hất hơi nhẹ bay bốc lên đầu cứng và rỗng, tỏa ra một vùng sương ngăn cách trí nhớ và tưởng tượng len lỏi một thứ âm thanh đìu hiu xa khuất. Thành phố như một sức hút chậm chạp không ngừng nghỉ, một sức nặng đè không gỡ thoát. Những ngày cuối mùa thu hoang mang vẩn đục trong cảm giác mù mịt bất định. Một hôm bà mẹ Hải nói riêng với Liêm, nhờ Liêm khuyên Hải chỉ nên chăm lo học hành đừng tham gia hoạt động chính trị, bà sợ những tai nạn có thể xảy đến, sợ Hải giống như số của người chồng, Liêm hứa cho bà yên lòng, nhưng biết chắc mình không khi nào nói lại với Hải. Những lo nghĩ của bà không thể nào lay chuyển được đứa con trai ham mê lý tưởng ấy, hắn sống trong cái thế giới của tương lai ở đó không có những vướng bận nhỏ nhặt phiền toái của những người như bà. Và cả mình nữa. Làm sao nói được?

Một ngày đầu mùa đông, Liêm rủ Hải đi chợ Giời tìm mua một cái áo lạnh cũ, cái áo dạ cũ của Tường không hợp với công việc đang làm. Ngọc cho phép Liêm và Hải nghỉ vào nửa buổi sáng. Liêm đèo Hải trên xe đạp xuống đầu phố Sinh-từ. Chợ chỉ là một cái ngõ đất lầm lội nằm bên tường nhà ga, đồ đạc vật dụng tạp nhạp đủ thứ bầy trên mặt đất – phần lớn là của nhà binh ăn cắp. Vào buổi sáng chợ vắng người trông quang cảnh giống như khu cháy nhà người ta phải dọn đồ đạc ra ngoài. Liêm dắt xe đi lên đi xuống chọn mua được một cái áo dạ của lính với giá trăm bạc, Hải mua hai quyển sách đóng bìa da của một gia đình Pháp – Hải cười nói: “Bọn Tây đã sửa soạn về nước”, và một tờ báo in trên giấy bản ngoài hậu phương. Trở về còn sớm Hải bảo Liêm đạp xe theo ngả hàng Lọng, để đi qua phố Ôn-Như-hầu Hải sẽ chỉ cho xem gian nhà trụ sở của Việt-quốc thời 45 nơi người ta tìm thấy những người bị thủ tiêu chôn ở ngoài vườn. Đến ga hàng Cỏ, một xe cảnh sát đỗ trong một góc khuất thổi còi bắt ngừng. Liêm vừa ngừng xe chưa kịp xuống, hai ba người cảnh binh đã chạy đến đứng vây quanh. Một người ra lệnh cho Liêm xuống xe dắt lại gần chỗ ô-tô đỗ. Hải vừa bước xuống đất vùng bỏ chạy sang phía quán rượu đầu phố hàng Cỏ, người cảnh binh đứng gần bắt hụt chới với, rút chiếc còi bên lưng thổi inh ỏi. Hải sang đến bên đường đứng sựng, từ mấy gốc cây gần đấy một người cảnh binh và hai người lính võ trang chạy ra nắm lấy tay Hải bẻ quặt ra sau lưng dẫn trở lại. Người cảnh binh thổi còi lúi húi đi nhặt mấy quyển sách bỏ rơi trên đường. Trên xe đã có khoảng mười thanh niên khác ngồi, một người ở trong cười bảo lớn: “Đen quá. Chúng nó khôn quá.” Liêm đem theo xe đạp lên, Hải được ngồi đằng trước giữa người tài xế và người lính. Mấy người cảnh binh leo lên đóng cửa, đứng khom lưng quay mặt vào trong trông thẳng vào Liêm tựa giữ xe đạp đứng giữa hai hàng người ngồi. Xe trở về bót Cửa Nam và mọi người được lùa vào trong ty cảnh sát, xét hỏi giấy tờ; riêng Hải bị còng tay dẫn vào phía sau. Chỉ có Liêm và một người nữa được ra về, còn bao nhiêu được trở ngay xuống dưới Ngọc-hà, Hải còn phải ở lại. Liêm dắt xe ra đường còn đứng ngơ ngác vài giây, phố trong giờ làm việc vắng vẻ hiu quạnh, chuyến tàu đang chạy xa tít trên đường hàng Đẫy. Lúc Liêm giật mình nhìn lại, người thanh niên cũng được về đang cắm cúi đi như chạy bên phố hàng Bông. Liêm nhảy lên xe đạp nhanh về nhà in báo tin cho Ngọc, mọi người ồn lên mỗi người một câu. Long bảo nếu Hải bị đưa xuống trại Ngọc-hà thì có đường trốn. Tuất nói: Thế nào Hải cũng được cho vào Thủức vì Hải đỗ bằng Trung-học Phổ-thông. Ông San bàn nên nói với ông Kiêm xem có cách gì vận động cho Hải. Ngọc nói đến trưa sẽ ghé cho Thái hay tin. Liêm nghĩ còn mình phải báo cho bà cụ mẹ Hải. Liêm về nhà nằm một mình đợi; gian nhà chật hẹp đến nỗi không có chỗ cho kỷ niệm – tường vôi ám không một khung hình ảnh, một tấm lịch; bàn thờ những người đã chết chỉ là một chiếc xích-đông treo trong một góc. Mẹ Hải về, lên tiếng từ ngoài cửa sổ: “Sao hôm nay các cậu về sớm thế?” Liêm ngồi lên đón bà cụ, bà cụ xếp quang gánh ngoài hè lục tìm gói giò chả – hôm nào hàng bán hết bà cũng cho ăn món chả cốm hàng Mành – cầm vào nhà. Bà đưa mắt tìm Hải và nhìn thấy bộ mặt của Liêm: “Em đâu?” “Hải nó bị bắt rồi” “Bao giờ?” “Nó bị bắt động viên”. “Khổ thân tôi. Làm sao bây giờ?” Bà cuống cuồng hốt hoảng, quay lưng như sắp chạy ra cửa. Liêm gọi: “Bác đi đâu?” “Tôi đi tìm nó. Nó ở đâu?” “Bác bình tĩnh lại mới lo cho Hải được.” Bà cụ quay trở lại sững sờ, ngồi xuống phản: “Tôi thân cô thế cô. Chỉ có hai mẹ con thì làm thế nào” và bà bật òa khóc. Liêm cúi mặt ngồi im, không biết cách xoay sở. Một lát cơn xúc động qua đi, bà cụ bình tĩnh lại than thở: “Khổ thân tôi quá, bây giờ nó ở đâu? Tôi đi thăm nó.” Liêm không dám nói thực, bảo: “Bác để chiều nay cháu đi tìm trước đã. Biết chắc chắn bác hãy đi. Bác ở nhà sửa soạn quần áo để đưa đi cho Hải.” “Cậu thương em, giúp tôi. Tôi không còn biết tính sao.” Liêm dắt xe đi ngay, lúc ấy đã mười hai giờ trưa, thở nhẹ nhõm khi ra đến ngoài đường. Bà cụ sẽ bỏ bữa cơm trưa nay và nằm khóc trong gian buồng than thở với người chồng và đứa con gái đã khuất mặt, chờ Liêm mang tin về. Trưa mùa đông không lạnh lắm, Liêm mặc trên mình tấm áo mới mua nghe hầm hơi, ghé vào hiệu phở đầu phố ăn bữa trưa. Từ trong hiệu nhìn sang bên đường là bờ tường một nghĩa trang đặt trong thành phố, không khí khuất tịch nín lặng trải trên mặt đường không có nắng. Liêm đến nhà Ngọc, bảo mình nghỉ buổi chiều để đi hỏi thăm tin tức Hải cho bà cụ. Ngọc nói vừa ở nhà Thái về, đã thảo luận với Thái về trường hợp của Hải, nếu Liêm biết tin Hải cũng báo ngay cho hai người để định liệu. Vợ Ngọc nằm lim dim trên võng, vạch trần nửa bên ngực cho con bú, đứa con ngủ lơ mơ miệng vẫn nút chóp chép. Chưa đến giờ làm việc, Liêm đạp xe xuống thẳng Kim-mã. Buổi trưa ngoại ô tiêu điều buồn bã hơn. Những chuyến xe hàng chạy đường Sơn-tây cũ kỹ già nua không người đỗ trước dãy nhà gạch lụp xụp dơ bẩn. Con ngõ gạch dốc chỉ có bờ bụi rậm rạp. Gian nhà của Hỗ, cửa đóng kín như không người ở. Vợ Hỗ tóc xổ dài, đi đất ra mở cửa. Trong nhà tối lạnh không nhìn rõ đồ đạc khi cửa khép lại, chỉ nghe hơi nhiệt của thân người đàn bà đứng kề bên cùng tiếng thì thào: Anh ấy đi Hải-phòng từ sáng sớm làm sao chú cũng biết, nhớ quá. Liêm bước mò mẫm như một người say có cánh tay đỡ ngang lưng vào giường, nằm ngửa thẳng bất động, nhìn ánh sáng mờ nhạt ở một khe hở trên đầu vách, nghe trùng nhão các thớ thịt và gió ào trên các bụi cỏ sau nhà. Người đàn bà bắt Liêm tháo gỡ hết áo quần như mình; để được mặc tình ôm ấp da thịt gợn lạnh dưới chăn bông, Liêm hoàn toàn thụ động, chán nản mặc người đàn bà xoay trở một mình. Và Liêm thiếp ngủ ngay trong khi người đàn bà còn chưa chịu rời xa. Liêm tỉnh sau một giấc dài, ánh sáng trên đầu vách không đổi, ngoài cửa nghe tiếng chân nhảy lò cò thình thịch của trẻ con. Người đàn bà còn nằm nguyên trong thế gắn bó và cũng ngủ quên, Liêm tung chăn trở dậy, không rửa mặt. Người đàn bà hỏi: “Tối chú về không?” “Tôi sợ có nhiều việc bận.” “Muộn muộn về cũng được. Chú có xe đạp mà.” Buổi chiều bắt đầu u ám. Liêm lên đến phố đã gần hết giờ làm việc. Trong bót cảnh sát Liêm hỏi thăm, Hải không còn ở đây nữa, người cảnh sát còn trẻ, giở sổ tìm tên Hải không thấy; những người đã bắt buổi sáng không thấy. Liêm nghĩ Hải đã bị đưa sang Công-an, nhưng khi về lại nói với mẹ Hải là Hải đã bị đưa xuống trại Ngọc-hà. Bà cụ nóng ruột đã xếp đủ các vật dụng vào trong làn chỉ chờ Liêm về là đi ngay, suốt từ trưa bà không ăn uống gì cả và không thấy đói. Chỉ một buổi chiều, nhà cửa trông hoang lạnh buồn thảm. Liêm mua theo bánh tây về cho bà cụ nhưng bà không ăn được, Liêm đành ngồi ăn một mình với gói chả buổi sáng trong buổi chiều sập tối không thắp đèn. Bà cụ nằm trên ghế mở mắt đợi trời sáng. Liêm không thể nào ở lại trong nhà, lại đến Ngọc và hai người đi bộ đến Thái. Tối mùa đông phố vắng sớm, chỉ những rạp chiếu bóng tụ tập đông đảo. Cửa hiệu của Thái cũng đã đóng, dưới nhà đèn tắt, ngửng lên gác thấy đèn sáng, nghe tiếng Thái nói chuyện lớn. Ngọc phải gọi cửa một lúc trên gác mới có người xuống. Cửa mở, một người thanh niên dắt xe đạp ra trước, Thái ở đằng sau. Người thanh niên cười khúc khích như chưa hết thú vị về câu chuyện đã qua và nói “Anh có khách này”, rồi đẩy xe thẳng ra đường. Thái cất tiếng gọi: Đồng ơi, người thanh niên đã ngồi trên yên, ghếch chân trên hè ngoảnh cổ, Thái chạy đến dặn dò nho nhỏ và người thanh niên lại cất tiếng cười ròn ấm trước khi đạp xe xuôi về mạn chợ Hôm. Thái quay trở lại rủ Liêm và Ngọc đến hiệu cà phê cùng phố còn mở cửa. Ngọc nói: “Có lẽ Hải bị đưa sang Công-an”. Thái bảo hai người yên trí anh sẽ nhờ người bạn trong Công-an hỏi hộ. Liêm nói: “Tôi phải nói dối bà cụ, mai bà sẽ xuống dưới Ngọc-hà. Nếu anh được tin gì anh nên cho tôi biết ngay.” Sau đó Thái có ý trách Liêm tại sao không cản để cho Hải mua cầm theo tay một tờ báo kháng chiến, nhất là một tờ báo văn chương, cho rắc rối. Liêm đèo Ngọc về đến nhà đã gần mười một giờ đêm. Gió thổi giá buốt thêm, trời tối kịt. Liêm không còn đủ can đảm đạp xe xuống Kim-mã nữa. Suốt đêm bà mẹ Hải trằn trọc thao thức làm Liêm cũng mất ngủ. Nửa đêm gió nổi ào ào, Liêm mệt thiếp như chết. Bà cụ lịch kịch trở dậy lúc trời còn tối đen. Thấy ánh đèn Liêm ngỡ như thường lệ bà sửa soạn hàng bán. Sực nhớ, Liêm vội cố nhướng mắt dậy bảo: “Bác đi đâu sớm thế? Giờ này ai người ta cho vào. Để chốc nữa cháu đèo bác đi.” Bà cụ khăng khăng đòi đi, bà sợ xe đạp, bà sẽ đi tàu điện xuống hàng Đẫy và đi bộ một quãng. Bà chỉ sợ người ta đưa Hải đi mất không cho bà nhìn thấy mặt con. Bà hẹn Liêm sáng xuống sau gặp bà. Liêm nằm trở lại ân hận đã dối bà nhưng rồi cũng ngủ thiếp thêm một giấc nữa. Buổi sáng Liêm xuống trại Ngọc-hà, nhưng không thấy bóng bà cụ, không dám vào, đến ngồi ở quán nước xế trại ngóng nhìn. Đến chín giờ, Liêm quay về nhà in làm việc. Buổi trưa về nhà cũng không thấy bóng bà cụ. Mãi đến chiều tối bà mới về đến nhà. Bà đã hỏi thăm trong trại, không ai biết Hải và bà đã ngồi ngay ngoài cổng cả ngày rình các xe cộ ra vào xem có Hải đến hoặc đi không. Liêm bảo: “Như thế có lẽ Hải chưa xuống. Mai bác ở nhà cháu đi hỏi lại xem.” “Không, mai tôi lại xuống nữa. Tôi tìm cho bằng được mới thôi” Liêm dỗ dành: “Bác ở nhà nghỉ cho khỏe. Để cháu tìm thế nào cũng thấy”. Bà cụ mếu máo: “Ruột tôi nóng như lửa làm thế nào ngồi yên được.” Ba ngày liền, bà dậy đi từ tờ mờ đất đến tối mịt mới trở về nhà, mệt mỏi phờ phạc, mặt hốc hác mất hồn; đêm ngủ nói mê ú ớ. Liêm chỉ sợ bà ngã bệnh, người bà vốn gầy gò ốm yếu. Ngày thứ tư gần trưa bà tìm đến nhà in để báo cho Liêm biết đã gặp Hải. Sáng nay người ta mới đưa Hải xuống trại, tay bị còng, bà từ bên vệ đường đã nhào đuổi theo xe mặc người lính gác ngăn cản hăm dọa, kêu réo lên ầm ĩ, cuối cùng người ta đành để cho bà vào gặp mặt con và bà đã trao cho Hải được giỏ quần áo và món tiền dắt lưng. Hải nhắn về bảo Liêm nói với Thái Hải bị đưa đi Thủức nội nhật ngày mai. Bà đang nói chuyện với Liêm ngoài cổng thì ông Kiêm ra về. Ông sửng sốt nhìn bà hỏi: “Có phải chị Tín không?” Bà ứa nước mắt: “Anh còn nhận ra tôi ư? Thằng Hải bị bắt đi Thủức rồi. Anh có cách nào giúp mẹ con tôi không?” Ông Kiêm càng sửng sốt hơn: “Thằng Hải là con chị? Tôi đâu có biết.”. Ông mời bà mẹ Hải vào trong hỏi han gia đình. Bà mẹ Hải chỉ nhắc đi nhắc lại một câu: hai đứa con lớn bà còn ở ngoài kháng chiến, bây giờ có cách nào cho Hải được ở gần bà. Ông Kiêm chỉ biết an ủi, hứa đợi Hải ra trường ông sẽ tìm nơi quen biết gửi gấm: “Chị yên chí. Con trai thời này là phải đi lính cả. Không bên này thì bên kia. Không chết đâu chỉ sợ.” Bà chùi nước mắt bằng vạt áo, đứng lên, bà lại trở xuống để xin vào gặp Hải. Được tin Hải, Thái cũng lắc đầu: “Tưởng nó đưa sang Công-an thì có cách xoay ra. Chứ thế thì chịu. Nếu anh có gặp Hải nhắn chú ấy hộ tôi là ở hoàn cảnh nào cũng có thể phục vụ cho cách mạng được”. Buổi chiều, Liêm định xuống Ngọc-hà thăm Hải nhưng lính gác không cho vào, không gặp được mẹ Hải, Liêm đạp xe thẳng xuống nhà Hỗ. Hỗ đã về, được nghỉ ở nhà, trông thấy Liêm hỏi: “Chú ốm hay sao mà gầy tọp đi thế?” Liêm tự hỏi: mình gầy thật ư? và đưa tay lên sờ mặt. Vợ Hỗ lên Phủ Doãn thăm thai, “Tôi mệt quá không đưa nhà tôi đi được.” Liêm ngồi lại một lúc rồi lại về phố, đạp xe lang thang đến tối quên cả bữa cơm chiều. Về đến nhà, Liêm thấy cụ lại đang xếp những món đồ mang thêm cho Hải vào làn, bà đưa cho Liêm một mảnh giấy của Hải viết vội: Anh Liêm. Mai tôi phải vào Thủức rồi. Tôi đi vắng anh cứ ở lại nhà cụ đỡ quạnh quẽ. Học xong, chắc tôi lại được trở về. Anh nói với anh Thái, anh Ngọc không bao giờ tôi quên các anh ấy. Gửi lời anh ấy thăm ông San anh Tuất, Long, vì hoàn cảnh không thể từ biệt được. Hải.

Sáng hôm sau khi bà cụ xuống đến Ngọc-hà, trời chưa sáng rõ, người ta đã mang Hải đi mất. Buổi trưa đi làm về, Liêm gặp bà nằm dài trên ghế quay mặt vào tường, chiếc làn còn nguyên vẹn không trao được đặt dưới đất. Liêm ngồi lên phản, không biết phải ngỏ lời thế nào. Nếu tôi gặp lại mẹ tôi, nếu bà mẹ Hải nằm kia chính là mẹ tôi, bà có thể là mẹ tôi được chứ, bà vẫn chỉ là kẻ xa lạ không dính dấp không ràng buộc. Nỗi thống khổ của bà, tôi hiểu, tôi hiểu rõ hơn ai nhưng tôi làm gì được. Tôi ở lại bên cạnh bà cho bà bớt quạnh quẽ, thay thế những đứa con ruột của bà, tôi ở lại và tôi vẫn chỉ là kẻ xa lạ. Cố gắng mãi Liêm lên tiếng: “Bác ăn gì không?” Bà cụ không quay mặt ra, bảo với Liêm lục tìm trong làn lấy bánh tây mua từ sáng cho Hải mà ăn. “Bác ăn cho đỡ đói.” “Không. Cậu cứ ăn đi.” Bà ngơ ngẩn ra vào không làm ăn gì được đến hơn tuần lễ và Liêm như bị nhốt tù trong vùng ủ ê buồn bã của bà. Chỉ ngay hôm sau bà thổi cơm lại cho Liêm ăn nhưng không đi bán hàng, Liêm phải về ở trong nhà ngoài giờ làm việc không bỏ đi đâu được. Đêm mùa đông, cửa đóng kín, gió xô đập, Liêm nằm một mình trên tấm phản rộng, đèn tắt sớm, lắng nghe sự im lặng đè nén của bà cụ lẫn trong bóng tối buốt lạnh. Hơn một tháng qua, Liêm nhận được thư Hải gửi về cho mẹ. Tối hôm ấy, Liêm đọc thư cho bà cụ nghe, bà vừa cười vừa khóc và Liêm nhẹ nhõm thơ thới cả người. Liêm kể cho bà nghe cảnh vật, phong tục miền Nam, bà say sưa nghe và Liêm tưởng như chính mình đang ở trên đường trở về Sài-gòn. Rồi Liêm thay bà viết thư vào cho Hải, Liêm muốn giới thiệu Hải lúc nào được về Sài-gòn tìm đến Tường nhưng không nhớ số nhà, muốn viết thư cho Hạnh nhờ Hải đưa đến nhưng nghĩ Hải không thể vào xóm Đồng Ong Cộ. Vả lại một năm rồi biết bao nhiêu đổi thay làm sao lường được – nên chỉ viết vài dòng hỏi thăm thường tình. Ngày hôm sau, bà cụ dậy sớm đi chợ, bà về trước giờ Liêm đi làm với đôi quang gánh đồ vật, bà bảo: “Mai tôi lại đi chợ. Ở nhà cũng buồn”. Bà đưa cho Liêm mấy cái bánh khúc còn nóng. Liêm vừa thổi vừa ăn nhồm nhoàm, bảo: “Ở trong Nam không có bánh khúc”. Buổi sáng càng ngày càng rét cắt, Liêm hé mắt nhìn ánh đèn chập chờn, nghe tiếng động lịch kịch quen thuộc; một mình bà cụ trong tấm áo kép, thỉnh thoảng miệng suýt soa, nhóm ngọn lửa đầu tiên trong xóm, sửa soạn gánh hàng buổi sớm; Liêm cũng mong ngày Hải được trở về để trả lại gian nhà và bà mẹ.

CHƯƠNG IV

Trời thành phố những ngày mùa đông tái ngắt trong gió bấc, những trận mưa tầm tã – nước nhọn buốt như mũi kim đâm trên da mặt căng nứt, da tay nhăn nhúm. Chiếc áo cũ mua ngoài chợ Giời không đủ ấm, Liêm đành lôi chiếc áo dạ của Tường ra mặc thêm, áo đã bị dán nhấm tôi rũ lùng thùng vướng víu mỗi lần ngược gió làm chiếc xe đạp nặng thêm lao đao trên những đoạn đường đất mấp mô; Liêm nghĩ mình giống như anh hề của gánh xiếc Tạ Duy Hiển được xem thuở bé. Bọn trẻ trong xóm vẫn dẫm chân đất, những ống cẳng thâm tím khép lại run rẩy, co ro tựa vào các mặt nhà há hốc miệng phà khói nhìn. Những chuyến tàu điện từ ngoại ô vào nhớp nháp vẫn chở chật những người nhà quê lủng củng quang gánh, áo tơi và nón; mặt đường in hằn những vệt bùn dài của bánh xe nhà binh, xích-lô trống che kín mui và cánh gà. Liêm thức giấc bất cứ lúc nào cũng tưởng như chưa sáng, ngọn lửa bếp cháy sèo trên những thanh củi ướt và tiếng húng hắng của bà mẹ Hải trong gian buồng ẩm thấp như muốn chảy thành nước, hoạt động của phố xá trong những giờ giấc phải qua trái ngược: người đi bộ trên hè tay giấu kín đi nhanh hơn còn xe đạp dưới đường chậm chạp không vững. Thành phố vào mùa đông hợp với Liêm hơn, sự giá lạnh gói chặt vào mình che chở cho mình, mọi vật mọi người đều đông cứng riêng biệt. Chỉ trừ những buổi tối trong nhà phải đón nhận sự săn sóc thái quá của bà mẹ Hải, và Liêm bối rối vì chưa từng quen săn sóc người khác.

Một ngày đầu tháng chạp, Liêm đến nhà in thấy mọi người ngồi tụ tập ngoài buồng tòa soạn, đang bàn cãi ồn ào. Liêm hỏi Tuất: “Chuyện gì thế?” Long mau miệng: “Anh chưa biết gì cả hay sao? Báo bị đóng của.” Liêm nhìn Ngọc đang mải nói với ông San, tính toán công việc, từ ngày Hải đi, Liêm làm quên không đến với Thái và Ngọc, cũng không nghe Ngọc đả động đến nhưng trong công việc hàng ngày Liêm thấy rõ Ngọc tỏ vẻ kiêng mình giữ thái độ lạnh nhạt. Đợi đến chín giờ, ông Kiêm không thấy lại tòa báo; anh thầy cò hớt hải đạp xe tới báo tin ông đã bị bắt và có lẽ bị đưa vào Sài-gòn an trí. Ngọc nói lớn: “Còn tiền lương của anh em bây giờ đòi ai?” Anh thầy cò ngơ ngác: “Cả tôi nữa. Hai tháng nay tôi đã lĩnh hết lương đâu.” Viên quản lý tờ báo dăm thì mười họa mới gặp mặt ở tòa soạn, còn chủ nhiệm từ ngày Liêm vào làm chỉ đọc thấy tên chứ chưa biết mặt, lương nhân viên đều do ông Kiêm phát. Liêm hỏi: “Thế còn nhà in này của ai?” Tòa báo và nhà in đặt ở tầng dưới của biệt thự, một nhà chứa xe và hai gian buồng ngang, dường như không liên quan gì đến những người cư ngụ trong biệt thự – một gia đình công chức đông con ra vào theo lối cổng riêng. Anh thầy cò bàn để anh chạy đi tìm quản lý và hẹn ba giờ chiều anh em trở lại sẽ biết tin, anh quyết sẽ kéo bằng được quản lý đến nếu gặp. Ngọc bảo đành vậy, dặn mọi người buổi chiều đúng hẹn, lấy tiền xong sẽ tính công việc khác. Anh thầy cò hỏi xin ông San điếu thuốc trước khi nhảy lên xe đạp đi. Mọi người đều bỏ ra đường và Ngọc chỉ khép các cánh cửa buồng lại. Tòa báo trống không người coi. Ông San khoác tay Liêm ở ngoài cổng bảo: “Rỗi chẳng làm gì về đằng tớ uống rượu cho ấm. Nhà có chai rượu thuốc ngon lắm”, ông quay gọi Ngọc: “Về nhà uống rượu đi” Ngọc từ chối, đi cùng với Tuất và Long ngược về phía khác. Còn ông San giữ chặt tay Liêm, cặp kè như bạn trẻ thời đi học xuôi xuống nhà Rượu. Con phố hẹp không cây cối, hai dãy nhà một tầng kín cửa, từng quãng bị ngắt bởi những con đường thẳng góc lớn hơn; càng về cuối quang cảnh càng buồn tẻ hơn khi bức tường dài của nhà Rượu trồng mảnh chai và chăng giây điện ở trên chiếm hẳn một bên đường. Hai người đi lấn gần hết nửa mặt đường không gặp xe cộ, Liêm dắt xe một tay còn tay bị quặp đút trong túi áo, nghe tiếng nước lép nhép trong đế giầy của ông San. Ông San nói suốt dọc đường không nghỉ, ông kể về ông Kiêm bằng giọng thán phục: từng được mời làm bộ trưởng không nhận, làm báo nghèo kiết mùng tơi mà lại phải nuôi hai vợ tám chín đứa con, bây giờ lại bị bắt. Liêm lơ đãng nghe, chốc chốc mỉm cười phụ họa. Nhà ông San ở trong xóm nhà lá dựng trên bãi đất trống quá nhà Rượu, một nơi đổ rác của thành phố; ông nói như xin lỗi: “Ở chỗ này hơi bẩn thật nhưng được cái không phải ở chung. Tôi chúa sợ cái cảnh ở chung chỉ tổ cãi nhau điếc tai.” Ông liếc mắt ra hiệu cho Liêm nhìn vào những gian nhà đầu tiên, bảo khẽ: “Lúc nào cần giải quyết, cậu có thể đến đây được. Xong sang nhà tôi nhắm tí rượu lấy lại sức.” Trước mặt nhà ông San là khoảng đất cỏ xa chỗ đổ rác cũng sạch sẽ; nhà nền đất quét dọn và bầy biện tươm tất, bộ bàn ghế mộc đặt cạnh cửa sổ dùng làm chỗ tiếp khách. Ông có năm người con đều đã lớn, ba người lập gia đình sống riêng, còn cô con gái nói đùa gả cho Hải bán vải ngoài chợ Hôm và đứa con trai út mười lăm tuổi học trường Trung-học. Vào đến nhà, khi ông đã thay quần áo đi lại nhàn hạ mang rượu mời, ông khác hẳn, có vẻ già, nghiêm trang đạo mạo đúng với tuổi ông hơn khi còn ở chỗ làm việc hay ngoài đường. Trong bữa rượu, ông San bỗng hỏi: “Tôi xem hình như anh với anh Ngọc có chuyện gì xích mích phải không?” Liêm chối: “Không. Không có chuyện gì cả.” “Sao lúc nãy tôi rủ anh Ngọc về chơi thấy anh ấy có vẻ không bằng lòng.” “Anh ấy nghĩ thế nào, tôi không biết.” Rượu thuốc vừa nhạt vừa đắng, Liêm chỉ nhấm nháp lấy lệ chiều lòng ông San. Liêm nghĩ đây là dịp tốt để tách khỏi Ngọc. Tôi sẽ làm gì? Còn bà mẹ Hải? Tôi phải làm sao? Ngà ngà ông San bắt đầu thổ lộ tâm sự: “Đáng lẽ Ngọc nó là con rể tôi. Tôi vẫn tiếc nó mãi. Tôi dự đinh gả con gái cho nó. Đứa lớn đã lấy chồng rồi ấy. Tôi biết nó từ ngày bé kia mà. Anh đến chơi nhà nó bao giờ chưa? Anh trông thấy vợ nó chứ? Nghĩ cũng tội nghiệp cho nó. Tôi không hiểu vì đâu nó lại chịu như thế. Chuyện nó với vợ nó bây giờ có lẽ chỉ có tôi biết rõ hơn cả. Bà mẹ vợ nó người cùng làng với tôi mà. Hồi xưa cô ta lên trên Tông lấy Tây đẻ được hai đứa con gái. Vợ thằng Ngọc này tên là Mùi. Con chị tên là Mão. Sau anh chồng chết, cô ta lấy một thằng Tây khác. Thằng này nó lấy tuốt cả mẹ lẫn hai đứa con riêng lúc ấy mới độ mười mấy tuổi. Rồi là mẹ con ghen nhau tán loạn. Cả con Mão lẫn con Mùi đều có con với thằng chồng sau, phải đưa đi đẻ giấu rồi mang về nuôi, cứ gọi con Mão con Mùi bằng chị. Gia đình ấy bây giờ cũng ở Hà-nội này, mấy đứa con đi học trường Tây lớn tướng. Không biết hồi tản cư thằng Ngọc gặp gỡ thế nào mà lại bằng lòng lấy con Mùi này. Sợ mấy đứa con đầu của thằng Ngọc cũng vẫn còn là của thằng Tây dê xồm kia chớ chẳng chơi. Tôi cứ tiếc cho nó mãi. Nó là đứa tốt mà làm sao lại chịu cái cảnh chướng như thế được”. Ông San cười khà khà, giọng cay đắng uất hận hộ cho Ngọc. Liêm cũng cười theo bảo: “Trông chị ấy cũng ngoan chứ bác.” Ông xì miệng bắn cả bọt rượu xuống bàn: “Cái thứ máu lai ấy làm sao mà tin được.” Liêm ngồi đối diện với ông San, ngoài cửa sổ trời như tấm chăn dạ ẩm tung trên bãi cỏ rộng, nghe tiếng hát trong im vắng của người gái chơi mãi tận đầu xóm. Một bài cải cách thịnh hành. Buổi trưa ông San tự thổi cơm lấy ăn với đứa con trai, món ăn con gái đã mua sẵn từ chiều hôm trước, xế chiều con gái đi chợ về mới lo cơm nước cho cả nhà. Ông thường uống rượu trong bữa cơm chiều, đó là giờ khắc hạnh phúc trong ngày của ông; ông nhất định nếu gả cô con gái này ông sẽ bắt rể. Liêm nói đùa: “Nhưng Hải nó còn một mẹ già, đời nào nó chịu ở rể.” Ông San cũng nửa đùa nửa thật: “Không thì anh làm rể tôi càng tốt. Anh chỉ có một thân lo gì, ở đâu chẳng được.” Liêm cười phá lên: “Bác lầm to. Cháu có hàng tá vợ rồi.” “Cũng không sao. Hàng tá vợ mà ở một mình kể như không. Đàn ông ai chẳng thế”. Rồi ông nhắc lại những thành tích thời thanh niên của ông, giọng đắc ý tự mãn; những người đàn bà ông đã bỏ, mỗi người một vẻ, nhưng ông không thể yêu ai hơn mẹ của mấy đứa con hiện thời của ông. Bà chết ngày còn ở ngoài hậu phương, ông thương tiếc bà nhất; trông dáng bộ, nét mặt, nghe lời nói của ông thì bà là người đàn bà đẹp nhất, đáng yêu nhất không một người đàn bà nào sánh kịp, không ai có thể thay thế nổi. Liêm tự hỏi người đàn bà ấy khi còn sống như thế nào, có thật như hình ảnh ông San ghi khắc trong trí chăng. Nếu chẳng may ông San chết trước bà, bà sẽ nhắc lại về ông ra sao? Tôi, chính tôi đây cũng là đứa con của ái tình. Mẹ tôi đã trốn bỏ gia đình nệ cổ để về sống với cha tôi trong cảnh nghèo, sinh ra tôi và em tôi. Và cha tôi đã mất và bà… Tôi chắc không còn mong gặp bà nữa. Lúc Liêm từ biệt ông San, cũng hơi chuếnh choáng; ông San đứng tựa cửa cười dặn đi xe cẩn thận không ngã, về ngủ một giấc là khỏe ngay. Hai cô gái chơi đầu xóm vỗ tay, cười chế nhạo khi Liêm đạp xe ngang, giây xích kêu cót két. Liêm cũng nhe răng cười, đảo ghi-đông xe như sắp ngã, tôi đang làm hề, từ khi lớn tôi nghiêm mặt đóng một vai hề tôi vẫn thích khi bé đi xem xiếc mà không biết. Tôi không cười, tôi sục sạo trước mắt đám đông xa lạ giữa những khoảng rộng mênh mông tìm kiếm vu vơ, làm trò tìm kiếm, tôi không nói, tôi chỉ làm những cử động. Dis qu’as-tu fait, toi que voilà. De ta jeunesse. Vẫn những bài học thuộc lòng không bao giờ quên được. Những bài học ấy có dùng làm gì đâu.

Sau giấc ngủ trưa rỗng nặng, Liêm trở dậy bỏ quên hẳn những việc buổi sáng vẫn tưởng mình đi làm như thường lệ. Đến nhà in gặp ông San hỏi: đã tỉnh chưa? Đợi đến cả tiếng đồng hồ, viên quản lý mới đến. Không có tiền, chỉ có những lời nói huyên thuyên đâu đâu và lời hứa hão huyền. Ngọc nổi cục: “Các ông tranh đấu gì tôi không biết. Gần Tết nhất đến nơi, chúng tôi cần tiền lại còn phải để thì giờ đi tìm công việc khác nữa. Chúng tôi dân lao động, mà các ông cứ lằng nhằng thế này thì chúng tôi chết đói hết cả lũ. Viên quản lý ngọt nhạt: “Anh em cứ yên tâm. Thế nào cũng có, chỉ ngày mai ngày kia thôi. Để tôi gặp ông chủ nhiệm xem sao”. Ngọc nhất định khăng khăng không trì hoãn, đòi được gặp chủ nhiệm để thanh toán dứt khoát vấn đề. Cuối cùng viên quản lý phải nhượng bộ, hẹn sáng hôm sau sẽ đưa anh em gặp chủ nhiệm. Ngọc nhắc đi nhắc lại bắt viên quản lý phải cam kết đúng hẹn trước khi buông cho hắn ra về. Lúc ấy Liêm nhìn nét mặt Ngọc hầm hầm tức giận trông hung dữ như sẵn sàng có thể giết người được. Ông San nói bỡn cho không khí bớt ngột ngạt: “Mình lại được nghỉ thêm chiều nay với ngày mai nữa. Rồi tính sau.” Rời nhà in Liêm xuống Kim-mã. Bầu trời vẫn ủ dột tuy không mưa. Đường gần đến ngoại ô trơn, nhiều vũng nước đọng. Ngõ vào xóm lạnh lẽo xa hút như một con đường làng. Tôi vẫn phải quay trở lại những chốn gọi là quen thuộc, dù tạm bợ cho tới khi gây được những chốn quen khác. Như thế tôi sống trôi trong ngày tháng. Buổi tối lại trở về trong gian buồng khuất xóm chùa Vua. Từ đầu thành phố này đến đầu thành phố kia, những nơi mà thành phố bị nhận chìm vào trong tối tăm ghẻ lạnh. Liêm nghe tiếng giầy lộp cộp sau lưng, ngoảnh lại. Hỗ cắm cúi đi mau tới, kêu lên mừng rỡ: “Tôi định về nhà rồi lên tìm chú. Chị chuyển bụng đưa vào Phủ Doãn rồi. Mà sáng mai tôi lại phải xuống Phòng sớm. Một hai hôm mới về được. Chú ở nhà trông nom hộ tôi nhé.” Hỗ mặc bộ âu phục xám, đeo kính cận thị, tay cắp cặp, vừa trịnh trọng vừa ngờ nghệch. Liêm thấy mình ngồi trước mặt Hỗ trong nhà vắng như ngày nào mới đặt chân đến Hà-nội. Gian nhà mờ tối với gió động xung quanh. Hỗ bảo: “Chắc chỉ đêm nay hay sáng mai là cùng. Chốc chú đi ăn cơm với tôi rồi ta vào qua nhà thương để chú biết chỗ”. Liêm châm thuốc hút, miệng nhạt khô, đầu váng vất. Hỗ ra vào nhặt nhạnh một vài món cần dùng của đàn bà bỏ vào cặp. Bỗng anh đứng im giữa nhà hỏi: “Chú thích con giai hay con gái. Tôi mong nó là con gái quá”. Liêm nhìn bóng Hỗ không rõ mặt rồi cúi đầu. Chiếc áo dạ bị vướng kéo từ trên vai. Tôi mong một đứa con chết ngay khi lọt lòng mẹ. Hỗ đi xích-lô, Liêm đạp xe theo lên phố. Về chiều thành phố chỉ còn tiếng gió lùa trên các chòm cây cao bên đường, nước rớt lộp độp trên mặt nhựa. Ngồi trong thùng xe bị vây kín, chốc chốc Hỗ lại ghé miệng nói chuyện vẩn vơ. Bữa chiều ăn trong hiệu phở gần cửa Nam. Nhìn qua con đường nhỏ là một công viên hình tam giác, xuống đến con đường lớn ăn thông với hàng Đẫy và Cột Cờ; bên kia đường là đồn Cảnh-sát có lính gác Hải và Liêm đã bị bắt về đấy, sau lưng đồn hai con phố gặp nhau thu hẹp lại về phía chợ Cửa Nam. Mang máng nhớ như ngày trước khi mới trốn lên Hà-nội Liêm đã ngồi ở đây, đã nhìn cái công trường chằng chịt đường phố này rộng bát ngát với xe cộ. Bây giờ nó đìu hiu trống trải nhỏ hẹp và đang chìm sập vào bóng tối mặc những ánh đèn lạnh lẽo của các cửa hiệu đã được thắp. Dưới sàn gạch, trong các gầm bàn và lối đi, bừa bãi rác rưởi. Liêm thấy no, chỉ ăn một bát phở, uống cốc cà-phê ngồi đợi Hỗ. Đi ngược trên hè phố Trường-thi, bên cạnh vòm cây hút che mặt đường cao, Liêm nghe sự vắng lặng rét mướt ủ từng nỗi cô đơn một. Trước cổng nhà thương Phủ Doãn, xe cấp cứu vừa đỗ, tiếng còi còn rền rĩ, người ta đang sửa soạn mở cánh cửa sắt. Liêm bảo Hỗ: “Thôi anh vào một mình đi. Mai tôi xuống. Bây giờ tôi có việc”. Hỗ đi đến trạm gác, tìm người quen quay trở ra chỗ Liêm kéo vào giới thiệu: “Mai chú đến ông này sẽ cho vào bất cứ giờ nào hả.” Rồi Hỗ chỉ đường cho Liêm biết chỗ nằm của vợ. Liêm nhảy vội lên xe đạp ngược chiều một đoạn phố.

Bà mẹ Hải vẫn chờ cơm ở nhà, Liêm ngồi vào mâm sới nửa bát một để ăn cùng với bà. Liêm bảo: “Ông Kiêm bị bắt rồi. Tòa báo đóng cửa bác ạ. Thế là cháu thất nghiệp”. Bà cụ nói: “Lo gì, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo. Bao giờ cậu đi làm được cậu lại trả tôi cũng không sao. Có cậu ở nhà tôi cũng đỡ nhớ thằng Hải”. “Nhưng cháu…” “Không có cậu tôi cũng phải thổi cơm ăn chứ. Thêm bát thêm đũa mà vui. Với lại tôi cũng coi cậu như người nhà”. Liêm không nói gì được nữa, mình đã bị buộc chặt vào bà cụ. Cả buổi tối xong công việc, bà ngồi lo lắng thắc mắc về tình cảnh của hai người vợ ông Kiêm. Bà nói chỉ có người đã ở trong cảnh ngộ mới hiểu thấu nỗi khổ tâm của đàn bà, ngày chồng mới mất tích bà không thể nào ngờ mình có thể nuôi con khôn lớn đến như ngày nay. Người đàn ông khi làm việc không đếm xỉa đến gia đình, nếu chồng bà còn chưa biết ngày nay gia đình bà ra sao. Nhưng có lẽ đứa con gái duy nhất của bà sẽ không chết và Hải có hy vọng học đến nơi đến chốn. Bà khuyên Liêm nếu còn thích lăng nhăng thì đừng lấy vợ chỉ làm khổ vợ con mình thôi. Liêm thiếp ngủ còn nghe loáng thoáng tiếng bà cụ chốc chốc hỏi một câu. Trời thật lạnh, mưa rả rích cả đêm, Liêm mặc chùm tấm áo dạ nằm co quắp nhường chăn cho bà cụ như ngày nằm dưới hầm tàu trở về Bắc, bấp bênh hốt hoảng, chân tay mê mỏi ê ẩm. Sáng ngày sau, Liêm vẫn tới nhà in cùng đợi viên quản lý đưa cả bọn đến gặp chủ nhiệm. Long sốt ruột bỗng nói: “Cứ làm cái kiểu này chán bỏ mẹ. Chưa biết chừng kỳ này tôi đăng vào lính quách, đi đây đi đó một dạo cho sướng. Trước sau gì nó cũng bắt mình đi lính.” Ngọc hỏi: “Mày đi lính để đánh ai?” Long cười khềnh khệch ngây thơ: “Vào lính khỏi sợ ai bắt nạt, khỏi sợ gì hết”. Ngọc cười mỉm: “Mày là lính ta vẫn sợ lính Tây như thường”. Long vỗ ngực hùng hồn: “Ai sợ chứ thằng Long này không sợ. Đã vào lính còn sợ Tây thế nào được. Choảng nhau với nó khỏi sợ tù.” Ngọc giảng giải: “Mày ngu lắm. Tây nó vẫn có quyền mà mày ở dưới quyền nó mà mày không sợ nó.” Long vẫn cãi bướng: “Mình độc lập sợ đếch gì nó. Lôi thôi mình quạng chết thôi.” Câu chuyện bỗng xoay ra cãi nhau xem mình đã độc lập chưa. Không ai ủng hộ Long cả, nhưng nó vẫn khăng khăng bảo thủ ý kiến và Ngọc mắng: “Mày là thằng phản động.” Long tức đỏ gay mặt, không cãi nữa nhưng ai cũng biết nó không thay đổi ý kiến. Ông San cười dàn hòa bảo: “Thằng Long nó tin quốc trưởng Bảo-Đại mà. Phải không mày?” Long văng tục: “Tôi đếch tin ai hết.” rồi bỏ ra riêng một góc. Viên quản lý đến chậm cả giờ đồng hồ, vừa bước chân vào đã xin lỗi rối rít, Ngọc hầm hầm nét mặt hỏi ngay: “Đi chưa?” Viên quản lý bảo được, nói địa chỉ, tên phố hẹn mọi người lên đấy hắn sẽ đứng đón ở ngoài cổng. “Phố Cao Bá Quát gần hàng Đẫy anh em biết không?” Cả bọn không ai biết phố ấy ở chỗ nào và viên quản lý phải mất năm phút chỉ cho từng người một. Liêm đèo ông San trên xe đạp của mình, Tuất đèo Long, anh thầy cò có xe riêng, Ngọc đi xích-lô chung với viên quản lý. Dọc đường ông San nói về người sắp đến gặp, ông ta là người nổi tiếng từng du học Pháp về, thời thực dân còn đô hộ ông ta dám tát tai quan Sứ Tây mà Tây không làm gì được ông; từ ngày hồi cư ông là nhà tri thức trùm chăn có uy tín Pháp rất nể. Liêm hỏi: “Nể sao còn đóng cửa báo của ông?” “Đâu phải Tây. Mình đóng đấy chứ. Quốc gia với nhau nhưng vẫn gờm nhau mà”. Liêm nói bâng quơ: “Từ ngày ra Bắc đến giờ tôi mới nghe nói đến Quốc-gia, lúc nào cũng người quốc gia. Trong Nam không có…” Ông San hơi nhổm người lên nhìn sang bên đường bảo: “Từ 45 ngoài Bắc này đã có Quốc-gia với Cộng-sản rồi. Tôi cho là mối thù dằng dai, đánh nhau còn lâu. Tây về nước cũng chưa xong. Còn khổ lâu”.  Con phố ngắn chạy vòng gồm toàn biệt thự sang trọng, một đầu thông với con đường đôi cạnh vườn hoa Canh-nông một đầu thông với phố hàng Đẫy. Ngoài đường trống trải, cây sơ sác nhưng các vườn trong biệt thự cây cỏ hoa lá rực rỡ xanh um. Không khí khuất tịch trong buổi sáng mùa đông sau một đêm mưa dài nổi rõ tiếng chân rào rạo trên lối sỏi, tiếng động nhẹ trong cỏ lá. Viên quản lý dẫn đường đi trước, mọi người tự dưng nói nhỏ thấp giọng. Leo mấy bực thềm lên đến một bao lơn nhô ra vườn với những chậu cúc vàng hoa đã nở đặt trên thành, mọi người đứng lại nhìn qua hai cánh cửa mở vào một phòng khách tráng lệ, gạch hoa chùi nhẵn bóng. Viên quản lý một mình đi vào trong, khuất vào một cửa buồng trên tường phản chiếu một thứ ánh sáng mờ tím lọc qua những mặt kính dầy nổi vân của các cửa sổ đóng. Tiếng nói oang oang từ trong xa vọng dội khi chưa thấy người: “Anh em đã đến đấy à, mời vào, mời anh em vào tự nhiên”. Một ông già trạc năm mươi trông vạm vỡ quắc thước trong bộ quần áo ngủ Nhật tươi cười bước ra. Ông thân mật bắt tay từng người mời ngồi, xin lỗi về sự chậm trễ. Ngọc vừa ngồi xuống, đã cất mình nhỏm lên nói: “Thưa cụ, chúng tôi…” ông già xua tay bảo cứ ngồi và viên quản lý vội đỡ lời Ngọc trình bày câu chuyện. “Tôi biết, tôi biết. Tôi mời anh em đến đây là để thanh toán với anh em vì dù sao tôi cũng có trách nhiệm. Luôn tiện cũng là xin lỗi, gần ngày Tết mà công việc rắc rối gây khó khăn cho anh em. Nhưng chắc anh em cũng hiểu, chúng tôi đâu muốn thế. Tôi tuy nghèo nhưng tôi có bổn phận… Anh em đừng thấy nhà sang thế này mà cho là tôi giàu. Nhà của người ta cho tôi ở nhờ đấy. Anh em nghĩ thử mà xem hoạt động như chúng tôi làm thế nào mà mua được căn nhà này. Chỗ thân tình người ta gọi về cho ở vừa làm chân giữ nhà hộ. Tôi không nói dối anh em đâu. Tôi đã lo xong món tiền của anh em rồi. Yên tâm”. Ông quay sang viên quản lý hỏi về số tiền còn thiếu và móc ngay trong túi áo một cuộn bạc trao cho hắn đếm đưa Ngọc về chia trả anh em. Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm không ngờ việc nhanh chóng như thế. Ông già đứng lên đi về phía tủ rượu nói: “Anh em ở lại uống chơi với tôi chén rượu gọi là tôi cảm ơn trước khi chia tay. Rượu cũng của người ta. Nhưng rượu mà có người uống cho là hân hạnh lắm.” Ông cười ha hả, mang cốc ép mọi người phải nhận, tự tay rót cho từng người. Ông uống rượu thật khỏe, ực từng hơi dài không khề khà nhấm nháp. Khi đưa tiễn ngoài bao lơn, ông bắt tay từng người, hỏi han tên tuổi như để nhớ và dặn: “Anh em chịu khó tìm việc làm tạm. Rồi thế nào cũng phải đến lúc có cơ hội cho chúng mình làm việc lại chung với nhau”. Ông bảo viên quản lý ghi địa chỉ anh em để báo ra lại hay có công việc khác tìm gặp anh em cho dễ, viên quản lý vâng dạ một cách lễ phép. Liêm có cảm tưởng như sau lần gặp gỡ này ông ta mặc nhiên coi mọi người là đồng chí của mình rồi, ông nói hai tiếng chúng mình một cách ngọt ngào thân ái. Ông còn đứng lại trên bao lơn, đợi mọi người ra đến cổng đưa cốc rượu lên cao chào rồi mới quay vào. Viên quản lý bấy giờ bắt đầu lên tiếng ca tụng đạo đức cách mạng của nhà chiến sĩ cách mạng lão thành, bình dân rộng rãi sẵn sàng chịu hy sinh thiệt thòi vì người khác, “Cụ mà lên cầm quyền anh em mình đỡ nghèo biết mấy. Cụ ghét Tây lắm”. Ngọc cắt ngang cảm hứng của hắn: “Cảm ơn ông. Bây giờ chúng mình còn phải lo việc ngày mai nữa.” Cả bọn dắt xe đi bộ đến vườn hoa Canh-nông, ngồi lại trên ghế đá giữa vườn và Ngọc chia phần trả lại từng người. Ngọc nói: “Tôi đã điều đình được một chỗ làm. Nhà in này ít việc chỉ cần ba người thôi. Anh em tính thế nào? Ai có thể tìm việc ở chỗ khác đợi công việc nhiều lại về làm cùng ê-kíp hay nếu không mình tính chia tua theo công việc?” Liêm ngắt lời ngay: “Tôi có thể tìm được việc chỗ khác”. Ông San hỏi: “Ở đâu”? “Chưa biết. Nhưng tôi tìm được.” Ông San đề nghị: “Anh em đã làm chung với nhau, bỏ đi cũng buồn. Mình cứ nhận tạm chỗ này thay tua mà làm trong khi tìm chỗ khác có hơn không?” Liêm nói: “Cám ơn cụ. Tôi tìm việc khác cũng dễ mà.” Long xen vào: “Tôi cũng vậy. Tôi rút lui chỉ còn anh Tuất với bác San là dễ tính nhất.” Ngọc đưa mắt nhìn Liêm rồi đến Long, Long ngồi trên bãi cỏ tay bứt những cọng cỏ ướt, Liêm đứng tựa bên xe đạp sẵn sàng bỏ đi: “Nếu các anh không thích làm chung với nhau nữa thì không kể. Còn không mình vẫn còn cách thu xếp.” Liêm cười: “Không phải thích hay không thích. Nhưng lúc này ai cũng cần tiền mà việc ít quá chia sẻ cho nhau chẳng được bao nhiêu. Tôi độc thân có nghỉ từ giờ đến ra giêng cũng không sao”. Anh thầy cò đứng lên lấy xe đạp nói: “Chỉ có mình tôi là riêng rẽ khỏe ăn. Thôi xin chào tất cả” và dắt xe ra đường. Ông San và Tuất cố khuyên Liêm và Long ở lại làm chung cho vui, Ngọc lên xích-lô một mình về trước, bốn người còn đi bộ chuyện trò đến đầu phố hàng Bông. Khi chia tay ông San bảo: “Thôi thế cũng được. Nhưng lúc nào rỗi xuống tôi uống rượu tán gẫu hả? Tết này thế nào anh cũng phải xuống chơi nhá.

Còn một mình, Liêm đạp xe loanh quanh vòng đến Phủ Doãn. Ở ngoài nhìn vào, nhà thương trông quang đãng: vườn rộng, lối đi, cây trồng thẳng, những luống bụi cắt xén ngay ngắn tỉ mỉ. Nhưng khi vượt qua vòm cổng đục trong dãy nhà nằm ngang quay nhìn ra đường, Liêm lọt vào trong thế giới bệnh hoạn bẩn thỉu. Đầu tiên là vài người bệnh lang thang dưới vườn, quần áo màu xanh bạc phếch nhầu nát như da mặt, một người chống nạng chân còn quấn băng kín hoen máu lẫn mủ ruồi nhặng vo ve quanh, đứng tiểu vào một hốc cây khuất, mắt ngơ ngác nhìn kẻ mất hồn. Trông các hành lang, bệnh nhân nằm tràn bừa bãi trên những tấm chiếu rách, giấy dầu, một vài người thân trong gia đình vây bám xung quanh. Trẻ con lê la kêu khóc inh ỏi, tiếng người quát tháo dẹp đường, tiếng rên rỉ than thở lẫn mồ hôi thối nồng nặc. Phần lớn ở khu vực ngoại thương toàn là dân quê bị thương trong các cuộc hành quân hay pháo kích được chở về và không bao giờ đủ chỗ nằm. Người la liệt trong buồng, trên giường, dưới đất, ngoài hành lang với những vết thương đã được băng bó hay còn phơi trần lở loét, thiếp im như chết hay than thở khóc lóc. Liêm không nhìn thấy bóng y tá hay bác sĩ, chỉ có những người phu sau đeo tạp-dề cáu bẩn mặt lặng thinh hay nhăn nhó. Cảnh tượng hỗn loạn quái đản như xúc động nhận được qua các giác quan, làm chóng mặt muốn nôn ọc. Khu hộ sinh cũng vậy, một mùi nồng nặc ngai ngái khó chịu. Trong gian phòng lớn dài mấy chục giường vẫn còn nhiều sản phụ phải nằm dưới đất, hài nhi còn đỏ quấn bó trong vải dầy đặt cạnh ga-men cơm bằng thiếc xỉn. Da mặt người nào người nấy thâm tím, mắt tráo trâng nhìn người qua lại trên đầu mình. Vợ Hỗ được nằm trong một gian phòng nhỏ hơn chỉ có sáu giường, cửa kính sơn trắng cao khỏi tầm mắt. Liêm đẩy cửa nhìn vào, không thể nhận ra người đàn bà đã từng ôm ấp nằm ở giường nào. Trong buồng có một chiếc giường trống. Liêm nhìn vào đấy. Lúc quay lại Liêm bắt gặp một cặp mắt gần ngay chỗ đứng đang giương chiếu vào mình và nghe tiếng gọi khẽ:

– Chú Liêm.

Liêm giật mình như bị người bất chợt từ xó tối nhảy vồ lấy mình. Khuôn mặt nằm ngửa gói trong chiếc khăn len, những nét bỗng trở nên mềm mại dịu dàng hơn. Người đàn bà chỉ cho Liêm ngồi ghé xuống mép giường, mỗi lần nói Liêm phải ngoảnh cổ lại trông xuống. Những lúc ngồi im, Liêm ngó thẳng đằng trước nhìn những sản phụ nằm các giường bên; Người cuối dãy nằm nghiêng gối đầu lên tay hướng mắt vào Liêm. Vợ Hỗ nhắm mắt mỉm cười, thò một bàn tay ở dưới chăn nắm chặt lấy bàn tay Liêm chống trên nệm, rất lâu. Xa quá Liêm không thể trông được ánh mắt của người đàn bà tò mò. Những người khác đang ngủ hoặc đang cố gắng ngủ. Liêm rút tay ra và lúc ấy mới hỏi: “Con trai hay con gái?” Người đàn bà mở mắt nghiêng đầu hơi ngửng lên nhìn chiếc nôi bên giường, chiếc nôi bằng sắt sơn trắng bong nhiều chỗ hở cả cốt, cánh màn nhỏ buông rủ ngả vàng. “Chú nhìn xem”. Liêm đứng lên vén màn nhìn vào chỉ thấy một đống chăn và giẻ, mãi sau mới nhận ra cái đầu của đứa trẻ chùm trong chiếc mũ len tím. Đó chỉ là một gương mặt tròn nhỏ bé với những nét mờ của lông mày, mắt, cái mũi, cái miệng. Liêm không thấy gì cả và cũng không biết là con giai hay gái. Liêm hạ cánh màn, đứng ngẩn người, nhìn vào mắt người đàn bà đang chăm chú theo rõi thái độ mình rồi lại chậm chạp ngồi xuống mép giường như cũ. Vợ Hỗ hỏi: “Giống không?” Giống ai? Giống tôi ư? Tôi không nhìn thấy gì cả, đó là một đứa trẻ sơ sinh người ta có thể tráo đổi dễ dàng. Hỗ có thể nhìn thấy đứa bé và thấy giống anh. Anh đã trông thấy nó chưa? Đó là con của tôi và không phải là con của tôi. Liêm hỏi: “Anh ấy vào đây không?” Có, Hỗ đã ở nán lại cả sáng sớm nay đợi sinh xong mới đi, anh đã nhìn mặt đứa trẻ. Anh ta vui, đó là con gái. “Chú muốn đặt tên nó là gì? Anh Hỗ bảo đặt nó là Vân, Kiều-Vân”. Liêm nói: “Đặt tên nó là Vui đi. Tên Sài-gòn mà, nhỡ có vào Sài-gòn nó hợp hơn”. Liêm cười một mình, ít khi Liêm cười như thế trước mặt vợ Hỗ, Liêm cũng không hiểu sao. Vui, con Vui. Liêm hỏi lảng không để cho người đàn bà kịp tỏ phản ứng: “Chị cần gì không?” “Tôi thèm ăn nho”, người đàn bà lại luồn bàn tay dưới chăn tìm tay của Liêm. Liêm vội đứng lên, tiến đến gần bên chiếc nôi nhìn gương mặt mờ mờ của đứa bé trong màn. Một lát Liêm bảo: “Thôi, tôi về.” “Chiều chú vào không?” “Không, tôi bận lắm”. Người đàn bà tỏ vẻ giận dỗi, quay mặt lơ đãng nhìn sang giường kế cận. Liêm đẩy cửa ra ngoài hành lang, bước cắm cúi không muốn nhìn cảnh tượng xung quanh. Dắt xe ra đến hè, Liêm dừng lại nhìn về hai đầu phố xa vắng vẻ và nghĩ: phải nhớ tìm việc làm, bắt đầu từ bây giờ là mình đang ở trong tình trạng thất nghiệp. Liêm vào một hiệu giải khát trong con phố dốc cạnh nhà thương trầm ngâm tính toán nhưng đầu óc rối bung không mạch lạc. Bên kia vỉa hè bức tường nhà thương rêu ướt loang lở, để lộ những mái nhà dài ngói nâu xẫm, dưới chân tường một đống rác lớn có lẽ từ bên trong vứt ra còn lẫn cả một cuốn băng bột hình cánh tay. Ngoài bờ tường này người ta không bao giờ nhìn thấy cảnh bên trong. Liêm ngồi gần cả buổi mới rời chỗ. Không thể trở lại nhà thương lần thứ hai, cũng không thể trở lại nhà Hỗ. Liêm nghĩ đây là dịp để trốn người đàn bà, chị sẽ không biết tìm gặp ở chỗ nào. Đứa bé vẫn sống, vẫn lớn lên và chẳng liên quan tới tôi, cũng như tôi… Buổi tối Liêm bảo với mẹ Hải: “Cháu thất nghiệp thật sự rồi”. Bà cụ chỉ có một mối lo là tòa báo đóng cửa thư từ của Hải gửi về sẽ thất lạc, bà bảo Liêm viết ngay thư cho Hải biết tin, đề địa chỉ của một người họ trên phố. Từ ngày chồng chết, bà không muốn liên lạc nhờ vả họ hàng bên chồng nhưng lần này bà sẽ phải ghé lên dặn nhờ giữ hộ thư Hải gửi về. “Thế này là Tết nhất tôi lại phải đi lên đi xuống,” Liêm không có địa chỉ nào để cho Hải gửi thư về khỏi sợ thất lạc.

Sáng vào giờ đi làm, Liêm lên bưu điện rồi ngồi trên chiếc ghế đá dạo đầu năm đã gặp Khôi. Ghế đá ướt lạnh, bờ hồ vắng vẻ, Liêm kéo cao cổ áo ngồi gù lưng ngắm vợ chồng người Tàu bán lạc rang cho khách qua lại trên hè. Ngồi chán ngoài hè, Liêm ngược lên phòng thông tin đọc báo, đọc cả những tờ báo cũ, những đoạn tin chính tay Liêm đã xếp tuần lễ trước. Mười một giờ hơn Liêm trở về nhà, hý hoáy tìm cách nhóm bếp, thổi lửa phù phù không cháy nước mắt ràn rụa. Bà mẹ Hải về sau bảo: “Để đấy. Không biết thì làm làm gì cho tội thân”. Liêm lau nước mắt cười: “Cháu ở nhà ăn không, phải tập làm cơm là vừa”. Những ngày tháng chạp ngắn và mau, mới nửa chiều trời đã xẩm tối. Liêm quanh quẩn trong buồng chật ngồi bó gối nhìn qua cửa sổ cảnh sinh hoạt của những gia đình ở chung. Sống gần cả năm, Liêm vẫn không quen biết, không nhớ nổi hết mặt những người ngụ trong gian nhà trên. Những gia đình lao động này, đàn ông cũng như đàn bà đi làm từ sớm và tối mịt mới về nhà, ban ngày chỉ toàn thấy trẻ con vài đứa con gái chừng mười lăm, mười sáu, vài bà già còn khỏe trông nom bếp nước chạy nhảy đi lại trong sân. Căn bếp chật không đủ chỗ, ngay sát buồng lúc nào cũng ồn ào chí chóe, bếp của bà mẹ Hải phải đặt ngoài sân dưới một tấm tôn. Nhiều lúc không hiểu trẻ con ở đâu kéo đến chạy túa ngoài bãi rác vào đến sân như một cảnh chợ, Liêm không thể ngồi nhà quá nửa buổi, đành đạp xe lang thang ngoài phố nhìn thiên hạ sắm Tết, vào ngồi nghỉ trong vườn hoa không người lui tới, những ngày lãng đãng trong một nỗi tuyệt vọng rửng rưng. Mình sẽ làm gì? Bây giờ chính Sài-gòn là nơi mơ ước được trở lại. Trở lại, nghĩ tưởng đến những háo hức của mỗi lần đổi thay đã tan biến trong ngày tháng cũ. Hà-nội, tôi đã về Hà-nội được một năm. Những ngày cuối năm bà cụ nhận được thư Hải. Hải than được nghỉ Tết bốn ngày nhưng không có nơi mà về, có lẽ nằm lại trại. Liêm ước được đánh đổi chỗ ở với Hải. Nhưng còn gì không? Hay lại đặt chân xuống Sài-gòn như đã đặt chân xuống Hà-nội? Hải cũng hỏi Liêm không còn liên lạc với Thái và Ngọc nữa hay sao mà không lấy địa chỉ Thái cho tiện. Hai mươi tám Tết, mẹ Hải nghỉ chợ, dọn dẹp nhà cửa bàn thờ, tối ba mươi bà đi lễ đền Ngọc-Sơn cùng hàng xóm, Liêm cũng mặc quần áo ra phố. Trời tối lạnh, cửa ngõ đóng kín, phố xá vắng tanh như trong giờ giới nghiêm nhưng từng quãng nghe tiếng chân và tiếng cười nói của đám người lẩn trong các bóng tối trên hè rủ nhau đi lễ giao thừa. Liêm đi bộ vào những đường vắng nhớ lại cảm giác đêm mùng một năm trước khi mới xuống Hải-phòng phải ngủ chung với anh chàng thanh niên tuyệt vọng, nửa đêm còn mở cửa uống rượu, chợt nảy ý kiến đến nhà ông San. Vượt khỏi bức tường nhà Rượu, Liêm đứng trước một khu vực trống tối đầy gió không trông rõ lối, lắng nghe những tiếng nói thoảng bay ở xa như trong bãi rác. Liêm phải lần mò theo ánh đèn lay động đi vào trong xóm. Mấy căn nhà của các cô gái chơi đóng ỉm cửa tối om. Liêm đi sát vào các cửa sổ, trông thấy ông San ngồi một mình trước bàn quần áo tề chỉnh. Ông ngạc nhiên tưởng nhìn nhầm, mừng rỡ mở cửa hỏi: “Anh đi đâu đấy?” Liêm cười: “Đến xin bác cho về ăn Tết. Thất nghiệp không nhà cửa.” Ông kéo tay Liêm vào nhà bảo: “Đang ngồi nhà một mình buồn quá. Bọn trẻ nó đi lễ Ngọc-Sơn cả rồi. Giao thừa nó mới về”. Liêm ngồi uống rượu nghe ông San nói, hơi rượu làm ấm người nóng mặt, câu chuyện của ông San làm khuây khỏa trí nhớ. Ông bảo với Liêm có chỗ làm rồi nhưng để sang năm ngày rộng tháng dài hẵng tính. Nghe khuya gần giao thừa, Liêm mới từ biệt ông San. Bước ra ngoài trời, Liêm nghe gió lạnh lẽo hơn, nhớ đến gian nhà của vợ chồng Hỗ ngoài Kim-mã. Gió ở đấy lộng trên cây cối rậm rạp hơn. Đứa bé gần đầy tháng, Hỗ chắc đang hỏi vợ: Sao lâu không gặp chú Liêm? hay vợ Hỗ hỏi: Mình có gặp chú Liêm không? Sao không rủ chú về nhà ăn Tết như năm ngoái. Trước khi đóng cửa ông San nói bỡn: “Đừng ngã vào đầu xóm nhé. Xúi quẩy đấy. Mùng một hay mùng hai đến đây chơi, ăn cơm.” Liêm khép tay ôm chặt tấm áo dạ, bước thấp bước cao, muốn hát nghêu ngao như bọn lính Tây say. Mấy cô gái chơi đã về, thắp đèn cười rúc rích ở trong nhà. Liêm ghé miệng vào cửa sổ nói lớn ngoài sức tưởng tượng: Năm mới năm me lấy que chọc đít… rồi cười khô khố bỏ chạy. Đến đầu bãi rác, đứng lại thở, đi tiểu. Một cô gái chơi mở cửa, thò đầu nhìn theo rồi lại trở vào. Ngoài đường phố, người đi lễ giao thừa đang lục tục trở về từ hướng bờ hồ, mỗi người cầm trên tay một cành lộc. Một vài đứa trẻ còn quơ nghịch những chùm hương cháy dở, gió thổi tàn sáng rỡ. Liêm nghĩ nếu không vướng bà mẹ Hải có lẽ tôi cũng đi tìm gian buồng trọ trong khách sạn ở mấy ngày Tết. Tôi cũng sẽ uống rượu và tôi cũng có thể sẽ khóc như anh chàng… Liêm về đến nhà, bà mẹ Hải đang sửa soạn giường chiếu, chiếc chiếu hoa mới được trải lên phản. Bà ngửng lên: “Cậu xông nhà đấy”. Liêm đứng dừng ở cửa buồng sóc lại áo ngay ngắn, chắp tay hỏi: “Giao thừa rồi hả bác?” “Hơn mười hai giờ rồi. Năm mới rồi. Tôi chúc cậu…”

Đồng đầm mình giữa những linh cảm, những dự tưởng như trong một cơn mê mở mắt, một sự sáng suốt hoảng hốt; hiện tại bị lật ngược vào quá khứ, quá khứ nhào chụp lấy hiện tại không còn phân biệt. Những chuỗi huyễn tượng liên tiếp xô đẩy như mây nặng trên trời mùa đông, màu xám chì dằng dặc nối kết ngày tháng. Đêm trằn trọc thao thức, Đồng nhìn rõ mình – mình cứ mọc cao lên mãi một cách kỳ quặc như một thân cây đã khô héo chờ đón cơn giông thổi trốc rễ nhào đổ vô giác, cơn giông còn xa tít tận chân trời và thân cây cạn nhựa mỗi giây phút vẫn tủa mọc những nhánh cành trơ trụi. Thành phố u ám vẫn rực rỡ nhởn nhơ không nhìn thấy một dấu hiệu nào của cơn khủng hoảng sẽ tới, trong nhà đời sống gia đình, với đứa con anh Đạo chập chững tập đi, chị Đạo lúc ra lúc vào giữa hai vùng, vợ chồng anh Thái đưa con cái về chơi những ngày nghỉ – đã thấy như hội đủ mặt không còn không khí vắng thiếu, chỉ chờ người đi xa trở về đúng ngày hẹn – anh Đạo mỗi lần vợ về nhà đều gửi theo lời nhắn ngày đoàn tụ. Những linh cảm dự tưởng mở thành những huyễn tượng làm ngõ thoát sự cô lập, nhưng không thể thay thế được bè bạn coi như đã mất, chỉ dẫn đến niềm cô đơn buồn bã. Không hiểu xung quanh mình những gì đang biến diễn, trong mù tối, chỉ nghe những tiếng vọng dội của ám ảnh, những ám ảnh của tuổi thiếu niên khuất mặt.

Một ngày mưa dầm, Nhai hốt hoảng đến tìm ở hiệu ảnh, nằn nì, lôi kéo đi cùng với hắn ra phố để hắn được tâm sự, Đồng từ chối không xong. Đã có đến hằng năm Đồng mất cái thú khoác áo mưa đi men trên hè cùng với bạn, nhìn phố xá rét mướt, bàn những chuyện viển vông. Nhai đi đầu trần ngoài mái hiên các nhà, người cao lênh khênh, nói mà không nhìn, mặt ngửa trông mưa đáp xuống, những thất vọng, tuyệt vọng dồn dập không ngăn giữ nổi, Đồng nghe bằng tai lơ đãng, cảm như được ru trong thế giới mơ mộng của mình đã thoát bay ở ngoài. Nhai thổ lộ về người yêu bé nhỏ của hắn, ngây thơ trong trắng như một nàng tiên; những khó khăn cách trở mà gia đình nàng tạo ra để cản hắn không tới gần được, nàng đau khổ, hắn đau khổ và cái chết hò hẹn đã trùm phủ lên hai đứa như những đám mây đen chĩu. Ngồi lại trong hiệu cà-phê vắng, nhìn qua tấm kính mờ hơi nước, một con phố hẹp dốc dẫn xuống nhà thờ lớn, Đồng bỗng nghĩ có lẽ Thạch cũng đã nghe những lời tâm sự của mình bằng một tai giống như thế và Đồng nhắc với Nhai một câu nói đùa của Thạch: “Cậu như người ở thế kỷ mười chín rớt lại”, Nhai không chú ý đến lời riễu cợt, hắn mơ màng, hắn thoạt tỉnh, hắn nói, hắn đọc thơ, hắn cười, hắn buồn bã, hắn trầm ngâm, hắn vùng vẫy một mình trong tấm lưới của tưởng tượng đã dăng trải. Đồng uống từng ngụm cà-phê, tự hỏi mình cũng đã rửng rưng rồi hay sao. Tuần lễ sau, Nhai lại tìm tới cuống cuồng như người mất trí bất kể sự có mặt của Cúc và khách hàng, hắn nói như sắp bật khóc: Nàng chết rồi, hai mắt đỏ ngầu dữ dội. Đồng lại đi theo Nhai vào bệnh viện Đặng Vũ Lạc ở phố hàng Cỏ. Trong nhà xác Nhai đứng cúi gầm ở một góc cửa không nhúc nhích, bên những tiếng than khóc nỉ non của gia đình người thiếu nữ, không ai buồn đếm xỉa hỏi han đến Nhai và hắn cũng bất kể đến sự khó chịu bực dọc của những người khác. Đồng đứng vơ vẩn ngoài sân, nhìn chán những cửa kính đóng dài trên gác, cây hoa đại trụi lá bên bờ tường trong một khoảng đất nhỏ, lại ra đứng ngoài bờ hè phố trong sang nhà Đấu Xảo, trông lên nhà Ga. Rồi Đồng lững thững trở về hiệu ảnh một mình, không đợi Nhai nữa. Trời không mưa nhưng đường vẫn trơn ướt giá lạnh, Đồng không hiểu, không kịp hiểu ý nghĩ lúc ấy như thế nào. Chỉ biết trong sự nôn nao trống rỗng cào trong buồng ngực, dội âm u trong đầu những tiếng động vô lý, những đợt sóng ùa ào hỗn loạn, tay chân bứt rứt đòi vung vẩy có thể xô chạy tự động nếu không cố ghìm hơi thở để chế ngự. Cơn khủng hoảng thổi qua mau như cơn gió cuốn. Gặp Cúc, Đồng cười bông đùa: “Tôi sắp điên. Cô sợ không?” Cúc bĩu môi chế nhạo: “Anh điên lâu rồi mà anh không biết.” Đồng gật gù: “Có lẽ. Có lẽ. Ở trước mặt cô mà tôi không nhìn thấy đẹp quả là tôi điên thật. Mãi đến sáng nay. Tôi vừa đến chứng kiến sự tan vỡ của một mối tình đẹp nhất thế kỷ này. Cô có ước được một mối tình lớn như thế không?”

Câu chuyện tình của Nhai được đăng trên trang nhất các nhật báo, Cúc đưa chỉ cho Đồng xem, Đồng bảo: “Hà-nội đang buồn, hết chuyện nói rồi.” Cúc nghiêm mặt: “Tôi thì không bao giờ tôi tự tử dại như thế cả. Việc gì mà phải tự tử.” “Tự tử vui chứ. Được nhiều người thương. Có khi sống mình không được như thế.” Cúc hỏi: “Thế có nghĩa là anh không được ai thương hay sao?” Đồng nhả nhớt: “Tôi hỏi thế cô có thương tôi không đã nào? Giả thử ngày mai tôi tự tử chết, chắc chắn cô sẽ bảo tội nghiệp anh chàng ngày nào mình cũng gặp anh ta hai buổi mà không ngờ. Trông chẳng ra gì, chỉ được cái đùa nhả, thế mà lại là một anh chàng chung tình nhất đời. Biết đâu anh ta không yêu thầm mình và thất vọng.” “Nếu tôi biết anh yêu tôi thật thì tôi yêu anh ngay” Đồng nhìn Cúc chằm chằm, Cúc không nao núng má nàng chỉ hơi ửng hồng như màu áo len khoác ngoài ánh lên. Buổi sáng mưa rả rích ngoài phố, trong cửa hiệu chỉ có những dãy hình bóng nhập nhòa ở trên tường. Đồng bật cười khì: “Tôi sợ ở ngoài chắc cô làm địch vận,” và Cúc không trả lời. Đồng nghĩ Nhai sẽ trở lại tìm để được tâm sự, hắn không thể một mình vượt nổi cuộc khủng hoảng, nhưng cả tuần lễ không thấy bóng. Một buổi chiều trời tối sớm, Đồng ghé thăm Nhai, gặp hắn ngồi thu lu trong một góc tối của căn gác như một người vừa ốm dậy, mắt thất thần, râu tóc tua tủa, quần áo hôi hám. Mọi người trong nhà đều nói khẽ và né tránh, bà mẹ bảo với Đồng, giọng nghẹn ngào: “Hình như nó mất trí.” Đồng vừa bước đến gần vừa gọi: Nhai, cậu làm sao thế? Hắn cử động thân mình trên phản, nói một tiếng gì không rõ; Đồng ngồi xuống cách khoảng một thước, mẹ Nhai dụt dè phía sau lưng. Một phút bà ghé vào tai Đồng thì thầm: Cậu ngồi đây chơi với nó, có lúc nó tỉnh. Gian gác không có ánh sáng, tối om, dưới phố đèn đã thắp. Đồng ngồi nhìn trừng trừng qua bóng mờ cái hình bóng thảm hại của Nhai gục đầu trên gối im lìm không động đậy chốc chốc phát ra những tiếng rên nhỏ nhỏ trong cổ họng. Phía đầu gác những bước chân lên thang dón dén lọt vào buồng rồi lại rút mau. Đồng nghe rõ nhịp hơi thở lúc hổn hển, lúc yếu ớt như đã mất; Nhai không thốt một lời nào và Đồng bị bỏ rơi trong gian gác đến lúc tối mịt không thấy bóng một người trong gia đình Nhai trở lại. Đồng sắp sửa cố gắng đứng lên để ra thoát cái không khí nửa tỉnh nửa mê, bỗng thấy Nhai ngửng đầu lên, mắt hắn chiếu từ trong tối lấp lánh như mắt mèo. “Đồng hả?” Đồng dịu dàng thận trọng: “Cậu tỉnh rồi phải không Nhai?” Nhai thở mạnh như sắp sửa rời chỗ nhưng sau đó vẫn ngồi im.

“Tôi điên rồi. Điên thật rồi. Không có ai ở nhà sao? Anh đến lâu chưa? Anh có cười tôi không? Nhưng quả tình trí tôi cuồng loạn. Không biết từ lúc nào. Có lẽ tôi phải xin vào ở trong nhà thương. Anh thấy không? Ở nhà không ai dám gần tôi. Tội sợ ánh sáng bây giờ mà anh bật đèn lên tôi chóa mắt là tôi phát cơn điên ngay. Không hiểu mấy ngày nay gia đình tôi phải sống ở đâu? Tôi không thể sống nổi nữa. Sống để biết nàng đã chết tôi càng thêm oán thù những người khác. Tại sao họ lại làm như thế? Họ được lợi cái gì? Không ai hiểu tình yêu của chúng tôi cả. Đây này thư của Ngân tôi còn xếp đầy trong túi đây này. Tại sao người ta có thể ác đến như thế, Ngân chết rồi, chết thật phải không? Tôi cũng chết, lúc ấy tha hồ mọi người hối hận. Hối hận ăn thua gì. Hối hận rồi họ cũng quên. Tôi còn nhớ, tôi không thể quên Ngân nổi… Tôi không thể quên Ngân…” Nhai bật khóc òa như một đứa con nít, Đồng không biết xoay trở cách nào. Khóc chán, Nhai lại im không nói gì nữa, bỗng hắn như muốn nhảy chồm lên hét ra ngoài cửa gác: “Chúng mày sướng lắm, rình xem tao khóc sướng lắm hả.” Đồng giật mình quay nhìn thoáng thấy bóng hai đứa em gái của Nhai thụt lui xuống nhà. Đồng bảo: “Cáu làm gì. Cậu đừng nghĩ gì nữa.” Nhai thở gấp một hồi, giọng cao hơn và rung động: “Tôi cũng bảo tôi thế những lúc tỉnh. Không nghĩ nữa, vô ích. Tôi cũng phải bình tĩnh như Ngân mà chết. Không được. Tôi cứ trông thấy Ngân nằm đó phủ trong tấm khăn trắng và đầu óc tôi bắt suy nghĩ quay cuồng.” Nhai ngừng bặt như nghe ngóng những tiếng động bên dưới, những tiếng động tạo hình cho im lặng của phố xá. “Anh về đi. Tôi nghe như không chịu nổi nữa.” Đồng đứng dậy, đế giày trơn cọ trên cát bụi của nền gác nghe sắc, mỏi mệt ê ẩm cả người. Gia đình Nhai vây Đồng ở ngoài đầu cầu thang hỏi xem Nhai còn tỉnh không, Đồng lắc đầu. Ông bố Nhai bảo: “Sáng mai đưa nó xuống Bạch Mai. Tôi đã điều đình xong cả rồi.” Đường về phố vắng tanh, lạnh buốt. Liếc nhìn vào trong các quán rượu còn mở cửa, những khoảng sáng đỏ kệch trên con đường lớn cây um tiếng gió, Đồng sực nhận thấy quang cảnh tẻ nhạt không náo động ầm ĩ như những năm trước. Bọn lính Tây dạo này bớt phá phách, thành phố có vẻ yên tĩnh thanh bình, đêm tối thêm thân mật. Có thể lên phố về đêm, đạp xe dạo chơi để không nghĩ, tôi cần không nghĩ như đã khuyên Nhai. Sáng hôm sau Đồng báo cho Cúc biết Nhai đã loạn óc. Cúc hỏi Nhai có phải là bạn thân với Đồng không, Đồng đáp lững lờ bảo là phải cũng được mà không phải cũng đúng. Cúc vặn: “Anh không có bạn thân hay sao?” “Có chứ. Sao không?” “Tôi có gặp anh đi chơi với ai khác ngoài anh chàng điên đó đâu?” Đồng ngẩn mặt nghĩ ngợi: “Ừ nhỉ. Cô có muốn gặp chúng nó không? tôi giới thiệu. Chỉ sợ cô lại mê chúng nó mất.” Cúc trễ dài môi dưới: “Anh nói nghe dễ thế. Hôm nào anh thử giới thiệu xem.” Cúc rẽ câu chuyện sang lối khác thuật những chuyện đồn khắp thành phố về bọn lính Ta-bo bắt cóc trẻ con ăn thịt. Ông chú của Cúc từ trên gác xuống lại hỏi đến chuyện Nhai, ông trách hắn là đứa con trai không có lý tưởng. Trong khi ông nói Cúc liếc nhìn Đồng mỉm cười như nàng và Đồng có chung một ý kiến nào đó; Đồng không hiểu ý của Cúc và nghĩ không rõ Cúc nhìn thấy mình như thế nào. Chủ nhật ấy Đồng xuống thăm Nhai, gió ngoài đồng thổi ngược cản xe như không muốn chạy, hai lỗ tai buốt ù lùng bùng. Đồng tiếc những ngày nắng khi Thạch còn nằm dưỡng sức trước khi rời bệnh viện trở lại đơn vị. Khu điên nằm khuất một góc sân phía trong cùng của nhà thương, con đường dẫn vào chạy ngang qua nhà xác mở cửa và tối om. Bờ rào xi măng vây một khoảng đất trống đào thành những luống trồng – không thấy cây mọc; ở giữa một ngôi nhà nhiều buồng cửa sổ chấn song sắt với một hành lang xẻ đôi thẳng lối từ cổng vào; trong các góc sân cỏ và chuối mọc lan bẩn thỉu. Mùa đông rét mướt vẫn thấy hai ba người đi lại vơ vẩn giữa các luống đất, đằng sau những cánh cửa sổ bất động những khuôn mặt ngơ ngác nhìn ra ngoài cánh tay trần bíu chặt lấy song sắt. Đồng đẩy cánh cổng, bước vào lối gạch, không nghe tiếng động huyên náo như tưởng tượng, đi thẳng vào gian nhà không gặp ai ngăn cản, những người đang đi lại ngoài sân không ai biết đến Đồng. Người giám thị khu điên ở ngay trong gian buồng đầu tiên mở cửa, gian buồng trần trụi với một chiếc giường sắt cũ và một chiếc bàn mộc không có ghế, chùm chìa khóa lớn ném ở trên bàn. Ông ta nhìn Đồng bằng cặp mắt soi mói, tôi cũng có vẻ điên chăng, hỏi trống không cọc cằn: “Đi đâu?” Đồng nói muốn được gặp một người bệnh tên Nhai rồi đưa trình giấy phép của bác sĩ. Ông ta đọc đi đọc lại như nghi ngờ giấy giả mạo, quan sát Đồng từ đầu đến chân. Thốt nhiên trong buồng kế cận tiếng la rống thất thanh khiến Đồng giật mình sởn gai ốc, tiếng giây xích va chạm loảng xoảng. Người giám thị chạy tới, kiễng chân ghé mắt nhìn vào, khi quay lại chỗ Đồng ông nói như dọa: “Sợ chưa? Xích rồi đấy?” Đồng tưởng đó là Nhai vội hỏi: “Sao người nhà bảo bác sĩ nói bệnh không có gì nguy hiểm cả?” Người giám thị ngơ ngác hỏi: “Ai?” và sực nhớ ra: “À, số 21 hả? Trường hợp này cũng hiền thôi, không bị giam, phòng mở cửa mà. Ông đi theo tôi, cẩn thận, nhỡ mà có bệnh nhân lên cơn bất thình lình trở tay không kịp.” Những cánh cửa sắt dầy nặng khoét những khung hổng lớn độ hai bàn tay, nhìn qua chỉ thấy một mảng tường trắng nhờ nhờ. Đến trước cửa một gian buồng gần cuối mở một nửa, người giám thị nghiêng mình thò đầu vào trong rồi quay trở ra bảo: “Không có. Có lẽ đi dạo ở ngoài. Số 21 này lúc nào lên cơn chỉ có khóc, khóc ti tỉ cả ngày. Thỉnh thoảng cũng bị xiềng vào giường, nhưng ít lắm. Không phá mấy.” Đồng theo người giám thị ra đứng trước thềm nhà, đưa mắt nhìn quanh sân chỉ thấy một người đang đứng bên bờ rào trông ra bên ngoài – con đường chạy giữa hai hàng cây như chết rũ. Người giám thị bắc loa tay gọi: Số 21 phải không? Có người nhà đến thăm này. Người bệnh quay nhìn vào, lững thững đi theo lối rãnh giữa hai luống đất dẫn thẳng đến bên hông nhà. Không phải Nhai, người giám thị đảo mắt tìm. Đồng bất chợt trông thấy Nhai ngồi nép vào bờ tường bên góc nhà, hai khuỷu tay chống trên đầu gối, mặt cúi nhìn đất, Đồng nói vội cảm ơn và đi mau về phía Nhai. Nhai ngửa mặt lên bỗng hé miệng cười, miệng méo xệch ngây dại, hắn điên thật tình, Đồng đứng cúi nhìn xuống. Không thấy Nhai biểu lộ thêm cử chỉ nào, Đồng cũng ngồi ghé vào mép tường hỏi: “Đỡ không?” Nhai lắc đầu, một lúc lâu: “Tôi muốn chết.” Đồng rùng mình như gặp gió lạnh, tôi muốn chết, thật là buồn, Đồng không tìm được câu nào để hỏi nữa đành ngồi lặng nghe gió lùa trong đám cây ngoài đường. “Tôi muốn chết.” Nhai như quên hẳn Đồng ở bên cạnh dán mắt xuống dưới chân. Bàn tay gầy guộc tái thâm, đất cục lổn nhổn lăn lóc mang những rễ cỏ trắng bệch. Lại nghe những tiếng rú từng hồi ở trong nhà như lợn bị chọc tiết. Một người đàn ông ngồi ẩn sau gốc chuối gần bờ tường chạy xổ ra, vỗ ngực bành bạch: Vũ Tam Kỳ đây, ông là Vũ Tam Kỳ đây, ta gơn, ta gơn. Đồng nhận ra người đàn ông rách rưới mấy năm trước vẫn dẫn một mụ ăn mày già mù mắt đi hát nghêu ngao ngoài phố và chửi nhau với bọn trẻ con. Vũ Tam Kỳ đây, Tây ông còn chẳng sợ nữa là thứ mày. Nghe chưa con. Tăng xông, ta gơn. Một bàn tay vỗ lên vai, Đồng giật thót mình, người thanh niên Đồng đã trông thấy đứng cạnh bờ rào đến cạnh Đồng lúc nào không biết. “Trông anh quen quá mà không nhớ.” Chưa hề gặp mặt người này bao giờ: cặp mắt sâu đen, đầu tóc chải mượt, khuôn mặt xanh xao hốc hác, hàm răng vổ như lúc nào cũng cười, dưới nách cắp một quyển sách dầy đóng bìa da. “Anh học ở đâu?” Đồng lắc đầu: “Có lẽ mình hay gặp nhau ở phố.” Hắn khẽ nhíu mày xong cũng ngồi xuống mép tường ép Đồng vào giữa, Nhai vẫn không động đậy. Hắn hất hàm sang Nhai hỏi Đồng: “Thất tình? Bệt quá.” Đồng ngạc nhiên nhìn người lạ mặt, hắn cười ranh mãnh, ánh mắt chiếu sáng tinh quái: “Anh tưởng tôi điên hay sao?” hắn ngừng lại dò xét phản ứng rồi hạ giọng thì thào: “Tôi không điên đâu. Chúng nó gọi tôi động viên tôi không muốn đi thì vào ở đây. Chẳng việc gì phải trốn mất công. Anh thấy không? Khi nào ra tôi lại có thừa tài liệu viết một quyển sách về nhà thương điên. Thật sống nhé. Tội gì chết thiệt thân một cách vô ích.” Hắn cười khanh khách khoái trá. Lúc ấy trong nhà vang lên những tiếng đập cửa sắt thình thình, tiếng người giám thị quát tháo trong hành lang và người đàn ông ở ngoài sân chạy lại lồng lộn vỗ ngực bành bạch, hét nhai nhải; Vũ Tam Kỳ đây, ông là Vũ Tam Kỳ đâu, ta gơn, ta gơn. Anh chàng thanh niên bên cạnh Đồng đứng bật dậy, chạy một hai bước rồi cũng hét: Faut pas gueuler comme ça, couillon. Tao mới là Vũ Tam Kỳ. Vũ Tam Kỳ chính cống bà lang Trọc đây. Vũ Tam Kỳ đây… Người đàn ông đứng ngoài sân ngẩn mặt im bặt, trong khi tiếng la inh ỏi vẫn vọng ở trong nhà, rồi lủi thủi chui vào ngồi sau bụi chuối. Anh chàng thanh niên trở lại chỗ Đồng nói: “Anh xem tôi có điên không? Ở trong này tôi được tự do đi lại. Lúc nào chán thì cũng la hét đập phá để họ giam mình lại nằm im một chỗ mà suy nghĩ, nghiền ngẫm. Anh xem tôi còn đọc được sách mà.” Đồng bật cười hỏi: “Anh vào đây lâu chưa? Kể cũng thú”. Nhai chẳng nói chẳng rằng, bỏ chỗ đứng lên, Đồng cũng vội theo, anh chàng thanh niên với nắm cánh tay Đồng kéo lại bảo: “Mặc nó. Ngồi nói chuyện một chốc đã.” Đồng gỡ tay hứa sẽ quay ra, nhưng anh ta cũng theo bén gót phía sau. Nhai vào nhà, đi thẳng về phía buồng của mình không nhìn ai, người giám thị cản Đồng đứng lại bảo: “Thôi ông về đi. Anh ta đến cơn rồi,” rồi quay sang hỏi anh chàng thanh niên: “Đi đâu?” “Đi đọc sách.” Anh chàng lại lững thững quay lưng đi ra ngoài thềm. Đồng vừa bước xuống thềm, anh chàng đã níu tay đi kèm bên cạnh, ghé sát tai thì thầm: “Tôi nhớ rồi. Tôi vẫn gặp anh ngoài thư viện. Đúng không?” Hơi thở hôi hám xông lên mũi khiến Đồng phải nhăn mặt đứng lại. “Bọn các anh có mấy người mà. Đâu cả rồi?” Đồng kiếm cách tháo gỡ những ngón tay bấu chặt lấy tay áo như móng quặp, nhìn trừng trừng vào mắt người đứng gần bảo: “Buông ra”. Hắn buông tay, cười toe toét: “Anh sợ tôi điên thật hả? Điên không phải là bệnh truyền nhiễm. Tôi không sợ bị lây mà. Tôi ở đây đã cả hai ba tháng.” Đồng nghe hai tay lạnh giá, đầu nặng và trống lao đao, hơi thở dồn dập mệt nhọc, phải ngửa mặt lên trời hít mạnh không khí. “Tình hình ở ngoài có gì lạ không?” Đồng bước mau ra cổng, vừa sợ hãi vừa phẫn nộ, tôi hiểu Thạch, hiểu những cơn giận dữ vô lý của nó, còn tôi nhu nhược, nghe tiếng gọi với bên bờ rào: Thỉnh thoảng xuống chơi nói chuyện. Đồng dắt xe đạp đẩy đi không dám nhảy ngay lên yên, sợ chóng mặt ngã lúc nào không biết.

Vào đến phố, Đồng mệt nhoài, thở không thấy hơi, mồ hôi ướt đầm trong mình giá lạnh. Gió bưng kín đầu mặt choáng váng, quang cảnh chập chờn mờ nhạt trong những bóng sắc trôi nổi, thành phố như không còn thực. Xe đạp vẫn lăn bánh, ghìm chặt tay lái, không dừng lại được. Tôi sắp ngã, chết, đập đầu xuống mặt đường… Tôi sắp ngã, chết, óc vung vãi. Đồng nhắm chặt mắt trong một giây, cắn mạnh vào môi dưới; mở mắt kịp lượn tránh cục đá ném bên vệ đường. Xe lảo đảo cọ bàn đạp vào vỉa hè, lạng ra giữa đường. Phố đìu hiu, không xe cộ, im khuất và Đồng hồi lại dần trong cơn lạnh toát khắp thân. Chuyến xe điện chạy ngược lên muốn đẩy lùi xe về phía sau. Hàng cây xanh um mở ở ngã tư cuối phố một vùng ánh sáng xa xôi. Cảm giác vĩnh viễn – con đường đi không hết, không đến chỗ nào, dằng dặc và sâu hút – trôi nổi và chẳng chuyển dịch. Đồng bỗng thấy mình đang khóc, nước mắt chảy ròng và vội nở một nụ cười với mình. Actes gratuits, phải không? Ngón tay cái tự động bóp chuông xe tiếng kêu lạch cạch, lạch cạch, lạch cạch hoen rỉ. Mặt hồ nước phẳng, cây xanh bò lổm ngổm lên cao, con đường ngoại ô không hoạt động, đường sắt đen nhánh, ngõ hẹp quanh co men theo bờ tường rêu. Đồng đứng tựa lưng khá lâu vào trong góc tường nhờn ướt trước cánh cửa gỗ nhà đóng. Có phải không? Ở trong ấy, những ngày tháng. Và cái chết, tôi sắp chết, lần này thì quỵ hẳn.

Tiếng trò chuyện vui vẻ, bát đũa khua quanh mâm cơm trên phản, vợ chồng anh Thái và những đứa con. Không kịp trả lời những câu chào hỏi ríu rít. Đồng đi thẳng vào giường, rơi mình xuống cơn sốt lạnh lẩy bẩy mê man chờ sẵn. Cơn sốt chụp kín mít, bốc ra khỏi sự nhịp nhàng của ngày tháng, ném vào giữa vùng tối ám hỗn loạn ào ạt. Lúc tỉnh, lúc mê, Đồng không nhớ được gì ngoài một ý nghĩ vắng vẻ hiu hắt không vang động bao nhiêu: tôi sắp chết. Sắp biết hình dung của cái chết với đôi mắt bơ vơ vẫn nhìn mình. Đôi mắt đen láy như trời đêm cuối năm mướt lạnh, không chớp và mở lớn. Et la mort aura tes yeux… Hồng-hà ơi, trôi cát đến chân làng xa… Cuối sông… Vẫn những điệu hát, điệu hát đuổi nhau trong một giấc mơ đã rách bươm trong những cơn ho xốc người, những giòng nước mắt vô tình khô như muối trên gò má. Điệu hát của vĩnh viễn dăng mở và quấn quýt chôn vùi, vang trong một vòm rộng thênh thang kéo dài không cùng. Không cùng nên trở thành đường hầm sáng quắc ầm ĩ những tiếng dội liên miên không ngớt, Đồng đứng ở trong đường hầm ấy choáng váng ngơ ngác nghe lẫn tiếng la hốt hoảng không phải phát ra từ miệng mình nhưng là của mình. J’ai un projet: devenir fou… Devenir fou. Faut pas gueuler comme ça. Những khúc hát cũng là bóng dáng của cái chết bay nhởn, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai, đó là vĩnh viễn. Vĩnh viễn buồn nhạt như mây mù trên hồ buổi mai, buổi chiều, vĩnh viễn như nhịp sống vẫn đập quanh nín thinh tội lỗi, vĩnh viễn như tình yêu không bao giờ thỏa. Cái miệng rộng ngoác của Thạch, Thạch, Thạch trên một thân thể trần truồng dựa vào hai chiếc nạng đang hát – Thạch không bao giờ hát, không biết hát – một bài ca tuyệt vọng ồ ồ. Một bài hát trơ trẽn, xúc động rẻ mạt. Mắt nhắm tít lại say sưa, Thạch, Thạch, a quoi bon? C’est moche. Thạch nói: Mày sắp chết rồi và tao hát đưa mày. Những con vi trùng chạy buồn buồn trong ngực, đang tìm lối bò ra miệng. Và Nga quỳ hôn xâu chuỗi tượng trên đầu giường. Anh biết không, em đẹp như một tội lỗi? Anh có yêu em như một tội lỗi không? Không biết, không thể nào biết được, Nga ạ. Chính nó, nó cũng đau ngực mà cậu không hay, nó cũng bệnh hoạn. Thật không? Sao anh không nghĩ đến điều ấy nhỉ? Rồi niềm im lặng rã rượi của những ngày đông tàn dần, ngọn lửa âm ỉ thiêu tàn những lượng máu dịu dàng, dưới lớp chăn bông nghe chân tay quều quào khô héo. Gương mặt già cả của mẹ nghiêng trong bóng mờ tối, di động ngập ngừng, lá rụng chạy ngoài vườn từng chập. Đồng dương mở hết mắt, bao nhiêu ngày bao nhiêu đêm đã qua, đời sống chia tay biền biệt không còn quay mặt trở lại. Tôi một mình, tê liệt ngóng đợi chuyến đi của riêng tôi. Đồng vẫn mỉm cười trong trí với mình.

– Anh Thái bảo đưa cậu xuống nhà thương. Cậu nghĩ thế nào?

Đồng lắc đầu phều phào không rõ tiếng. Còn gì nữa đâu để nói nhưng nước mắt vẫn ứa. Tiếng nói vô ích, thừa thãi đã rút xuống tận dưới cuống họng khò khè nín lặng, nhưng sự nín lặng tràn lan như một nỗi kinh hoàng bóp giật các bắp thịt mỏi rời. Lần này không phải là đùa rỡn, đang chết dần từng chút một đây.

– Hôm qua cô Cúc xuống thăm cậu. Cái cô làm cùng chỗ với cậu ấy.

Cúc hả? Hôm qua là bao giờ, những chuyện thật xa xôi. Cúc, Cúc còn trở lại lần nữa không? Một gương mặt nữa để nhìn, để thấy. Một dấu hiệu nào đó giữa muôn vàn dấu hiệu hoảng hốt. Đồng nhắm mắt lại nhưng không tưởng tượng được gì. Một luồng hơi ấm tỏa từ ngực nhẹ nhẹ bay lên đầu chỉ làm tăng cơn gió lạnh cùng tột. Đồng khóc gào lên nghe rõ như tiếng chó tru hãi hùng trong xóm. Giữa hồ lớn mênh mông, không còn đủ sức vào đến bờ, cố nhắm hướng cây gạo trụi lá Đồng tự nhủ tại sao không trở lại gốc cây sung sau đình nơi vẫn ngồi xem sách. Đồng thụt sâu, ngoi lên, sặc sụa nghẹt thở, thụt mãi xuống đáy dẫm chân trên bùn lầy nhầy. Sắp chết, không ai đến vớt được. Màu nước xanh rêu thật đẹp. Anh Thái cao giọng: Tôi không ngờ cậu hỏng đến thế. Cậu đã làm được gì cho ai? Để mà nói… Cậu vào nhà thương điên ở là vừa… Không, tôi không… Thạch đang cúi xuống cười, còn Đồng nằm ngửa trên cỏ, đầu ê ẩm gối trên một rễ cây sù sì. Tôi vừa ngất đi chăng? Cảnh vật im sững như trong một bức ảnh. Và tôi đang gắng cười, hơi nước lạnh toát như đá chườm. Từ một giòng sông thao thiết chảy dưới một bầu trời đỏ ối và đen thẫm. Trên con đường đất không ánh đèn lửa nhìn những đốm sáng dăng lơ lửng thật cao dài. Cầu Long Biên. Những đà sắt nặng xa tít không thấy chắc là đầm hơi sương. Chạy thật mau, chạy một lúc như thoát bay bổng rồi rớt xuống bò lết và cây cầu vụt biến mất. Chỉ còn cảm giác đau đớn râm ran, giữa một phố tối mịt, hai dãy nhà như phông vẽ. Người nữ tu làm dấu thánh giá, cười rũ rượi. Nga, Nga, em đau ngực phải không? Ai bảo anh thế? Anh bảo, anh sẽ hôn em không sợ gì cả. Em vào nhà tu rồi, đừng nghịch. Để anh nhìn tóc em. Em thấy không? Anh có thay đổi không? Hà-nội có khác trước không? Em nhớ Hà-nội và em nhớ anh. Em đã bỏ trốn. Chốc nữa em lại phải xưng tội, phải sám hối. Tội nghiệp Nga quá nhỉ? Nga không còn khăn, tóc chảy dài, tóc đen trên chiếc áo đen dài lòa xòa. Em bỏ nốt tấm áo kia ra, anh không nhìn, anh nhắm mắt mà. Đẹp bằng Phương không? Phương đây. Một bức tượng đá khắc nổi im lìm. Cánh tay giơ lên không cử động. Đôi mắt của bức tượng động đậy hé mở. Em chết rồi, em về đón anh đây. Đừng khóc, đừng khóc chứ. Em chết thật rồi ư? Chết nó như thế nào? Nga thốt cười rũ, gặp đôi người, chết như anh mơ thấy chết.

– Anh Đồng.

Cúc đứng ở bên đầu giường. Mở mắt nhưng không thể đáp. Không biết là lúc nào mà bặt không tiếng động. Ánh mờ tối bao quanh không đổi thay. Đồng muốn nói: Cám ơn cô và cố mỉm cười. Cúc không nhìn thấy, đứng đó, khắc dần vào bóng tối thành một hình nổi. Không rõ Cúc biến mất lúc nào, chỗ đứng vẫn thấy loáng thoáng những đường tan biến nửa vời. Có phải Cúc đã yêu tôi? Hay tôi mê gặp Cúc? Cúc đến làm gì?

– Anh đỡ chưa?

Đồng ra dấu muốn mở cửa sổ. Tiếng chân dẫm nhẹ đi vòng lên trên đầu, cánh tay nhoai lơ lửng ấn vào cánh cửa, mùi hương ấm. Cửa không mở. Cúc trở lại nhấc chiếc ghế đẩu ngồi xuống cách giường một khoảng.

– Ở ngoài lạnh lắm.

Tôi muốn được nhìn mặt Cúc. Trong nhà không còn ai? Không thể nhìn quá khỏi cửa buồng.

– Hôm nay anh thấy trong người thế nào? Khá hơn chứ. Hôm trước tôi đến anh mê đâu biết gì phải không? Tết đến nơi rồi. Anh tĩnh dưỡng cho khỏe mà ăn Tết. Anh nói được chưa?

Đồng mấp máy môi, đắn đo, sợ hãi. Tấm chăn bông dầy ấn nặng trên ngực, bên mạng sườn cấn giỏ nước nóng được ủ thêm. Đầu óc choáng váng, da mặt lạnh săn, gió nổi ở ngoài xa dữ dội và mơ hồ. Đồng nhắm mắt, hít hơi mạnh cố phát âm:

– Cúc.

Đồng không rõ mình có nói được thành tiếng không, trong tai lùng bùng như nước vỗ, đưa lưỡi liếm môi khô nẻ, nuốt miếng đờm khò khè vướng víu.

– Cúc.

Đồng thở mệt nhọc như vừa leo đến đầu dốc, đầu gối yếu khuỵu ngã lăn bất tỉnh. Dường như Cúc dạ. Dạ. Đồng tỉnh trở lại, nghe đâu đây tiếng chuyện trò của mẹ và Cúc. Tay chân bải hoải rũ liệt, nhưng cái đầu bập bềnh trôi bay như một quả bóng nhẹ. Muốn được nhìn mặt Cúc, nhìn cây nhãn ở ngoài cửa sổ, mặt nước hồ sau đình. Đồng rớt nghẹo đầu khỏi gối, bị dốc ngược vào cơn buồn nôn chóng mặt.

Khi Đồng có thể ngồi được lên, dựa vào thành giường, húp bát cháo nóng với muối và đậu om, Đồng nghe vẳng tiếng guốc của Cúc bên ngoài, tiếng Cúc trò chuyện với u già thân thiết dưới sân và nhìn thấy mắt mẹ tươi cười mừng rỡ. Bà không nói gì cả, chăm chú theo rõi cử động của Đồng, bưng bát cháo bỏ dở đi ra ngoài. Đồng ngả người xuống giường, thả trí bông lông trong bầu không khí se lạnh dịu dàng nhận được như dấu hiệu của đời sống vẫn miệt mài xung quanh. Một chốc Đồng sực nhìn thấy Cúc đang đứng trong buồng gần cửa, cũng vẫn còn mờ ảo như một chiếc bóng được tạc vào tường và Đồng hồi hộp, mồ hôi toát ướt hai lòng bàn tay giấu trong chăn. Đồng nghiêng hẳn mặt về phía Cúc, hơi ứ dồn trong miệng không dám mở. Có thể tiếng nói chưa phát được, Cúc vẫn đứng im, nàng trông chờ gì nơi mình? Một mối tình bệnh hoạn. Sự tỉnh táo sáng suốt còn chông chênh như màu sáng mờ tỏ trên nét mặt cách xa của Cúc và những bước loáng thoáng dưới nhà ngang.

– Anh có thích mở cửa sổ không?

– Thích.

Tiếng còn yếu nhưng lan động như một niềm vui đột ngột quá mạnh rồi tắt dần như sự luyến tiếc âm thầm chua chát. Cúc rời chỗ, vòng lên đầu giường, nhoài người mở cửa. Đồng quay đầu, ngửa cổ, nhìn thấy khuôn mặt Cúc treo ngang trên cao với nửa thân nghiêng gẫy tỏa xuống hơi ấm của tóc và áo như một luồng gió mạnh thốc làm nghẹn thở. Cánh cửa bị đẩy mạnh xô đập vào tường, ánh sáng bật lên nhức nhối như những tia nhọn cùng với nụ cười ngượng nghịu của Cúc khiến Đồng phải nhắm mắt. Đồng đợi cho Cúc rời chỗ, không nghe rõ Cúc tiến về hướng nào, đứng ở đâu, Đồng thấy mình đang quay trên một tấm thảm bay mất phương hướng một hồi lâu. Đồng vẫn không chịu mở mắt, đợi tâm thần bình thản đặt trả lại mình đúng vị trí nhận thức được rõ ràng. Đột nhiên nghe như một tiếng cười khẽ nhưng khi mở mắt Đồng chỉ thấy Cúc nghiêm trang đứng nhìn trong một vùng ánh sáng không rực rỡ như Đồng tưởng. Áo dài xám như màn trời, chiếc áo len đen khoác ngoài, gương mặt bầu bĩnh hơi trắng quá. Và Đồng mỉm cười đón trước nụ cười của Cúc:

– Tôi tưởng tôi chết.

Cúc kéo ghế ngồi xuống, kéo tà áo phủ lên đùi, quay nhìn nhà ngoài trước khi nhìn xuống Đồng. Trong mắt Cúc, Đồng đọc rõ những nét thảm hại của khuôn mặt mình, cảm thấy ngứa ngáy khó chịu vì hàm râu tua tủa. “Sợ không? Hôm nay thứ mấy nhỉ?” Cúc lắc đầu, cắn lấy môi trên của mình như đang đắn đo về một ý nghĩ. “Cám ơn Cúc”. Cúc lại lắc đầu, cúi nhìn vạt áo phủ dưới chân. Đồng kéo chăn phủ lên ngang miệng, quay ngó ra cửa sổ, những đám lá xanh nặng xóa mờ đi những cảm xúc.

– Anh thấy lạnh không? Đóng cửa lại nhé.

Đồng nằm chờ Cúc rất lâu, theo bước chân nàng ra khỏi buồng, xuống dưới sân gạch, ra vườn, mất dấu một quãng, rồi trông thấy mái tóc nhô trên mép khung cửa trước khi hai cánh được khép lại từ bên ngoài. Dường như Cúc còn đứng ngoài vườn một lúc mới rời bước, sự trông ngóng loanh quanh trong bóng mờ làm mắt Đồng nặng díu. Đồng chợp ngủ quên và lại nghe tiếng guốc Cúc dón dén vào buồng. Cúc về đây, Đồng thở những hơi thật dài yên tĩnh dễ chịu. Tuần lễ sau, Đồng rời được khỏi giường, bước những bước bấp bênh ra được đến nhà ngoài nằm trên võng, nhìn mẹ và u già dẫn vài người khách mua hoa Tết đi qua sân ra vườn rồi lại tiễn chân ra cổng. Nhìn lên bàn thờ đỉnh đồng lư hương chùi sáng; mấy tấm vải đều thay mới Đồng biết Tết sắp đến trong một hai ngày nữa. Đứa con anh Đạo chắc đã được gửi xuống anh Thái, sợ bị truyền nhiễm. Một chốc mẹ Đồng lên bảo: “Hôm nay hai mươi tám Tết rồi. Chắc là vợ anh Đạo ăn Tết ở ngoài với chồng không vào đâu. Tôi nhờ cô Cúc xin cho cậu thôi việc rồi. Có lẽ hôm nay cô ấy cũng xuống chơi đấy”. Đồng đùa buồn bã: “Con dâu tương lai của cụ đấy. Cụ thấy thế nào? Cụ có thích không?” Bà nghiêm giọng nhỏ to: “Tôi thích thế nào được. Cần nhất là cậu phải làm thế nào cho khỏi hẳn bệnh mới mong người ta thương chứ.” Cúc xuống bà mừng tíu tít khoe với Cúc về những cành hoa vừa bán được; Cúc không biết Đồng nằm trên võng, đứng ngoài sân quay lưng vào. Đồng nghĩ Cúc đang chứa chan hy vọng, mối tình nào cũng điên như mối tình nào nên cũng buồn thảm như nhau. Cúc bỗng quay mặt lại thấy Đồng và hỏi to: “Anh khỏe thật rồi à?” Mẹ Đồng bảo: “Cô lên nhà chơi” và bà bỏ ra vườn. Cúc bước lên thềm, đi thẳng vào chỗ Đồng: “Trông anh đã đỡ nhiều”. Đồng không còn thấy hồi hộp, người nhẹ nhõm, nhưng vẫn nằm dài trên võng hơi đu đưa, nhìn Cúc không chớp mắt. Có lẽ Cúc chỉ là một người bạn tốt? Một người bạn tốt còn quý hơn người yêu lúc này, Đồng bảo: “Cúc ngồi chơi.” Cúc giữ được vẻ tự nhiên như ở nơi làm việc, cười vặn: “Anh đổi lối xưng hô lúc nào thế?” Đồng cười xòa lấp liếm, định nói: Trong giấc mơ, tôi còn gọi bằng em. Buổi sáng trôi qua êm ả không một vẻ gì đổi khác nếu Đồng không thỉnh thoảng trông thấy bàn tay gầy guộc nổi gân xanh của mình và cảm giác láp nháp như cát mỗi lần sờ lên má. Cúc kể những chuyện lặt vặt ở cửa hiệu những ngày Đồng vắng mặt và nói có lẽ ra giêng nàng cũng xin nghỉ việc. Đồng hỏi Cúc định làm gì, lấy chồng chăng. Cúc bảo nàng có ý định học nghề hoặc thợ uốn tóc hoặc thợ may, hoặc y tá hay cô đỡ… chưa biết nhưng nàng muốn có nghề nghiệp. Cúc ra về vui vẻ, hẹn mùng hai xuống chúc Tết mẹ Đồng, Đồng tự hỏi phải chăng những lần Cúc bước vào buồng Đồng đã chỉ nhìn thấy những mơ tưởng của mình phóng lên những cử động của Cúc. Đời sống của mình cũng rẫy đầy những mơ tưởng như vậy. Đồng ngơ ngác nhưng không buồn, sự trống rỗng vẫn ôm đầy ngực hút hết mọi ảnh tượng và luôn cả mình ở trong ấy. Cái chết có nhiều đôi mắt khác nhau, của bè bạn, của người yêu, của người thân… Và Đồng hy vọng Cúc trở lại, ngồi ở ghế với khoảng cách đo lường và chuyện trò hay im lặng cũng được.

Ngày hôm sau, trời kín gió như một chiếc bầu đặc không một âm vang nào khác hơn tiếng chuyển động vù vù quanh quẩn. Đồng vẫn nằm trên võng, quấn chăn quanh mình, ngây ngất trong một giấc ngủ lúc nào cũng có thể tới và lúc nào cũng có thể mất. Đồng nghe tiếng ai gọi ở ngoài cổng, giật mình hốt hoảng rồi lại mơ màng chìm đắm, tiếng gọi bị gió cuốn bay không vượt xa được; Đồng nghe gọi tên mình: Đồng, Đồng ơi nhưng không động đậy. Ai? Mẹ Đồng dẫn Thạch vào lên đến trên thềm nhà Đồng mới biết. Thạch bảo: “Tôi về ăn Tết. Thế nào ốm đau ra sao?”

– Tôi tưởng chết.

Thạch bước khập khễnh, dáng đi trở nên hấp tấp hơn, đứng bên cạnh võng: “Thật không?” Đồng không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt bạn nhưng tự dưng cũng thấy nước mắt cồm cộm trong mi. Thạch xoay mình, ném mẩu thuốc ra sân: “Vẫn bệnh cũ?” tiến đến đặt cái sắc tay lên phản, rồi trở lại: “Tết buồn nhỉ? Tôi đi chơi một mình à. Điệu này đến mùng hai lại phải đi sớm mất thôi”. Thạch chỉ ở nhà buổi sáng hôm ấy, sau bữa cơm Thạch xuống phố biến mặt. Tối có lẽ Thạch lại ở lại với một người đàn bà nào, có lẽ trong cái nhà chứa đã có lần Thạch dẫn Đồng đến, Đồng không hiểu Thạch nói những chuyện gì với những người đàn bà không quen. Chiều ba mươi Tết, Thạch mới lò dò trở về trong khi Đồng còn ngủ. Thấy Đồng từ trong buồng men tường ra, Thạch rời võng đứng lên: “Cậu gầy thật. Trông như ông già sáu mươi”. Đồng nằm xuống võng, ngắm Thạch đi qua đi lại trong gian nhà đã sạch bóng, chiếc chân phải hơi lết trên gạch, mặt càng ngày càng khắc sâu những nét đen đủi lầm lì. Thạch hỏi: “Vợ chồng anh Thái không về ăn Tết?” Đồng bảo chắc sáng mai, anh Thái sợ ngừa cho sức khỏe của mấy đứa bé. “Nhiều lúc tôi nghĩ xin vào nằm quách trong nhà thương là yên chuyện. Đỡ phiền người khác. Chỉ sợ lại không chết”. Thạch không nói gì cả. Buổi tối, Thạch và Đồng ngồi ở nhà trên, mẹ và u già loay hoay dọn dẹp nhà dưới và sửa soạn mâm lễ giao thừa. Đồng tỉnh táo và căng thẳng lạ thường, tưởng chừng không thể kéo dài được lâu chỉ chốc lát có thể tắt thở bất ngờ. Thạch bỗng nói: “Sáng đi chơi buồn quá tôi ghé thăm Nghiêm. Gặp lúc hắn đang in báo bí mật. Chẳng kịp nói chuyện gì cả.” Rồi Thạch nhắc đến hôm về suýt bị mìn trên đường số Năm. “Chiến tranh sắp kết liễu mình không biết sẽ đi về đâu nữa. Có khi chính tôi chết trước cậu là khác. Lính bắt đầu đào ngũ nhiều, rồi đến lượt sĩ quan. Chẳng biết đám như Nghiêm còn hy vọng gì không?” Gân máu bên thái dương Đồng nhảy giựt hai ba cái một. Mùi hương trầm trên bàn thờ làm nôn nao khó chịu. Trong không khí vắng lặng rì rào trên xa, mắt Đồng sụp xuống, quên hẳn Thạch, một phía khác vọng lại nỗi bát ngát của mặt hồ lạnh. Thạch ngồi trên ngưỡng cửa, quay mặt ra hàng hiên trông xuống sân hút thuốc lá, Đồng chỉ nhìn thấy tấm lưng phẳng và những đốm tàn thuốc gió thổi bay lả tả rồi ngủ quên trên võng. Lúc Đồng thức dậy, tấm chăn đã được phủ ngang ngực, chân đi bí tất vẫn buốt giá, ngoài sân bàn lễ giao thừa đèn nến lung lay. Cảm giác hãi hùng không ngờ như khi bị người lạ mặt trong khu nhà điên nắm cánh tay, ghé sát vào mặt. Tấm phản của mẹ Đồng vẫn nằm đã nhường cho Thạch ngủ, bà sẽ ngủ với u già dưới nhà ngang trên một tấm phản khác. Nếu mình chết, Thạch sẽ hết chỗ tá túc khi về Hà-nội. Lúc ấy Hà-nội còn không? Thành phố sẽ thay đổi như thế nào? Đồng rùng mình tưởng đến lúc cái ý thức vẫn hằng ngày ôm ấp thân quen vụt tắt vào trong một cuộc hôn mê vĩnh viễn không khi nào còn ngoi lên được nữa. Cái ý thức không biết khởi sáng ở đâu, bao giờ và không thể biết tàn lụi lúc nào, chỗ nào; chỉ biết mỗi phút giây vẫn vùng vẫy muốn thoát ngoài những trói buộc một cách mãnh liệt. Đồng chập choạng lần vào giường một mình không tin mình có thể đi đến nơi, nghe tiếng Thạch hỏi theo ở trong màn. Đồng đi ngủ đấy à? Liệu có ngã được không? Đồng muốn đáp nhưng sợ hụt hơi và vội tựa tay vào tường bên cửa buồng.

Những ngày Tết qua mau trong sự tẻ nhạt lạc lõng. Sáng mùng một bà mẹ Hải đi lễ chùa, Liêm vẫn không mở nổi mắt, cơn say đè nặng lấy đầu óc. Mãi đến hơn mười giờ, Liêm mới rửa được mặt mũi, la cà ngoài sân xem những đám bạc của bọn trẻ con trong xóm. Người lớn đánh bạc trong nhà, những canh bạc thâu đêm suốt sáng với những người rời chiếu bạc vội vàng đạp xe sang tận Gia-lâm làm giờ phụ. Bà mẹ Hải vào một ngôi chùa quá Hàông mãi tận chiều mới về, bà bóc sẵn bánh chưng và nồi thịt kho để trong chạn cho Liêm. Ăn xong Liêm đóng cửa và lại ngủ. Tối đến bà mẹ Hải bảo: “Thế là hết Tết” và hỏi: “Cậu không đi đâu à?” Bà ngồi chuyện trò một lúc và đi ngủ sớm, nhắc Liêm sao không tìm cách hỏi thăm tin tức của mẹ và em, bà biết vẫn có nhiều người ra vào buôn bán giữa hai vùng, thuê tiền người ta có thể bắt liên lạc tìm hộ người nhà, Liêm cười: “Thật cháu có biết hiện giờ gia đình cháu ở đâu mà nhờ.” Bà trách: “Các cậu con trai thật tệ”. Sáng mùng hai, Liêm đến ông San, nhà ông khóa cửa đi vắng. Liêm đành trở vào phố, không mục đích, mấy lần định xuống vợ chồng Hỗ. Hà-nội ngày Tết nửa quen nửa lạ, quang cảnh phố phường vẫn như những ấn tượng đã mờ xa trong trí nhớ xuất hiện rõ rệt hơn. Trời rét ngọt thấm thía. Hè phố rác rưởi không quét dọn. Những phố hẹp quanh co nhà thấp cũ kỹ toát ra màu sắc và hương vị cổ kính lâu đời. Gần trưa Liêm trở lại ông San và ở lại uống rượu với ông. Con gái ông San không còn vẻ gì là người buôn bán ngoài chợ, cô trang điểm như một thiếu nữ Hà-nội trung lưu, Liêm nghĩ: ông San nói gì thì nói, Hải làm thế nào lấy được cô. Sau bữa ăn cô rủ em đi xem chiếu bóng và Liêm thấy thoải mái hơn khi được ngồi riêng với ông San trong nhà. Ông San có lẽ hơi ngượng về con gái, ông nói: “Ấy, con gái là thế cả. Nó không bằng lấy một phần mười của mẹ nó. Nhưng cũng tại ở Hà-nội. Ở Hà-nội không thế không được cơ.” Liêm làm như không để ý, lảng sang lối khác. Ông San bảo Ngọc ngỏ ý muốn Liêm cùng về làm với anh em lại cho vui. Liêm thối thác nại tính mình ưa thay đổi cũng không thích làm mãi một nghề. Ông San hỏi Liêm còn nghề gì khác, vui câu chuyện Liêm thuật lại quãng đời lưu lạc từ năm mới lớn. Ông San sửng sốt hỏi tên đứa bạn ngày ấy đã cùng bỏ trường kỹ nghệ Đáp-cầu đi với Liêm sang Hà-nội, Liêm không thể nhớ được. Ông San cười ha hả thích chí: “Thằng con lớn của tôi đấy. Bây giờ nó làm ở sở Lục-lộ trong Hàông ấy. Bốn con rồi. Thằng Sinh đấy mà, phải không? Ngày ấy tôi cứ rủa mãi đứa bạn nào rủ rê nó, không ngờ lại là anh. Ít ngày sau cu cậu thất thểu về nhà và từ đấy ngoan ngoãn hẳn”. Liêm cười: “Chính Sinh rủ cháu mà. Cháu còn kém Sinh một tuổi”. Ông San hẹn hôm nào sẽ vào thăm Sinh để hai người bạn cũ gặp gỡ, hôm qua Sinh cũng đưa vợ con về chúc Tết bố. Từ nhà ông San về Liêm tự hỏi nếu ngày ấy Liêm cũng theo Sinh trở lại, không biết bây giờ mình ở đâu và trở thành người như thế nào. Bây giờ thì mình là anh chàng thất nghiệp vất vưởng chưa biết rõ ngày mai, không nơi trông cậy. Bà mẹ Hải vừa là kẻ cưu mang mình lại vừa là một gánh nặng tinh thần bất ngờ. Suốt ngày mùng ba Liêm nằm buồn ở nhà không bước ra khỏi cửa, bà mẹ Hải lo lắng tưởng Liêm ốm. Mỗi ngày Liêm càng bị dồn vào thế khó xử với bà. Việc kiếm không ra, đạp xe rong cả ngày ngoài phố, tối mới về ăn một bữa cơm với bà và bà vẫn săn sóc tận tình như ngày còn đi làm chung với Hải. Cuối tháng giêng Liêm định đành trở lại với Ngọc, không thể kéo dài mãi tình trạng bông lông, Liêm sẽ đến thẳng Ngọc nói chuyện hơn là nhờ qua ông San. Sẽ nói với Ngọc: tôi cần việc làm, mình bỏ qua chuyện cũ, nguyên do chỉ vì Hải không hỏi ý kiến tôi trước, tôi đã bỏ Sài-gòn về đây cũng chỉ vì tôi không còn thích cách mạng nữa, cách mạng gì tôi cũng không thích, anh nên hiểu cho tôi như thế, tôi không có ý gì khác. Nhưng buổi tối hôm ấy bà mẹ Hải về nhà mang theo thư của Hải, báo cho Liêm tin mừng là trên nhà người họ nhờ bà chỉ giúp cho một người thợ in để giới thiệu với người quen. Bà đưa địa chỉ cho Liêm, bảo sáng mai nên đến ngay cho kịp. Sáng hôm sau bà đánh thức Liêm sớm, trước khi bà gánh hàng ra chợ. Liêm đến trước một ngôi nhà hai tầng gần ngõ Hội-vũ, nằm trong phố Quán-sứ dốc chạy bên nhà thương Phủ-doãn, không bảng hiệu, nhìn qua cửa rào sắt ở trong tối om chẳng có vẻ gì là một nhà in; cách đấy mấy nhà là một tòa báo nhỏ, Liêm nghĩ bà mẹ Hải có thể nghe lầm số nhà. Liêm vào ngồi uống nước trong hiệu đã đến một lần khi đi thăm vợ Hỗ, nhìn sang hè đường cạnh chân tường nhà thương vẫn còn đống rác lớn. Mười lăm phút sau Liêm bấm chuông gian nhà kín đáo, một người đàn ông mặc quần tây dài, áo sơ mi ngắn tay, tóc cắt cua bờm xờm xuất hiện. Ông ta nhìn Liêm bằng cặp mắt dò xét hoài nghi, lặng lẽ nghe Liêm trình bày lý do, đưa vào nhà mời vào bàn nước nói chuyện. Ông hỏi han cặn kẽ đủ điều như lấy khẩu cung: Trước làm ở đâu? Có gia đình chưa? Quen thuộc thế nào với người giới thiệu? Những năm tản cư ở đâu? Có theo kháng chiến ngày nào không? Sức học đến trình độ nào? Có xếp được chữ Pháp không?… Liêm nhức đầu khó chịu trong gian buồng bức bối ở thấp như một căn hầm nằm dưới một tầng gác không cao lắm ở trên. Sau này Liêm mới rõ ông Phạm với ai cũng có những câu hỏi tò mò lẩn thẩn không chán như công việc hằng ngày ông làm. Ông ở nhà soạn sách và tự điển tự in lấy, nhà sau là buồng xếp chữ và một chiếc máy in nhỏ, chỉ có Liêm làm thợ xếp và một người trông máy in khi nào cần mới gọi đến. Mỗi buổi sáng ông xuống nhà dưới bật đèn ngồi làm việc đều đặn như ở công sở đến trưa, ông viết đủ cho Liêm xếp trong một ngày nếu không có công việc làm phụ từ ngoài cửa hiệu sách ngoài hàng Bông đưa về; buổi trưa ông ra ngoài cửa hàng trông nom công việc phụ với bà vợ và Liêm làm việc một mình nhà dưới không bị ai quấy rầy, hết việc có thể ra về sớm. Chủ nhật Liêm được nghỉ. Những ngày làm việc thảnh thơi nhàn hạ không lo lắng thắc mắc về người xung quanh, những buổi về sớm Liêm xuống hàng Da vào xem chiếu bóng và nghĩ cuộc đời mình cũng tạm yên.

Mùa hè đến gần, nơi làm việc hằng ngày của ông Phạm và Liêm bắt đầu sắp thấy ngột ngạt. Dưới ánh đèn da ông Phạm xanh mướt thiếu máu, ông hoạt động uể oải chậm chạp, bỏ nhiều thì giờ trò chuyện với Liêm. Không khí thành phố căng thẳng, xôn xao vì những tin tức loan truyền. Một buổi chiều Liêm ra về sớm, đi vào phố hàng Da, gặp những gia đình dân quê gồng gánh lếch thếch đi rong trên vỉa hè, mặt mũi sạm đen ngẩn ngơ. Một đứa trẻ con ngồi trong thúng giữa đống quần áo rách rưới lẫn gạo gào khóc, người mẹ gánh bồng đầu nặng đầu nhẹ không buồn nhìn đến, người cha cầm cây gậy tre đi trước lủi thủi. Nhiều gia đình trải chiếu ngồi nghỉ ngay trên hè phố, choáng lối người qua lại, dân hàng phố nhìn ngó hoang mang. Liêm không hiểu chuyện gì đã xảy tới. Buổi tối về nhà, trong xóm đồn ầm tin quân Pháp đã bỏ Namịnh – Thái-bình đột ngột không báo trước. Việt-Minh sắp về đến Hà-nội. Bà mẹ Hải cũng thuật lại những chuyện của đám dân chạy loạn mới đổ về Hà-nội không ngờ trước, các anh của Hải sắp về đến Hà-nội và Hải thì gần đến ngày ra trường. Sáng hôm sau, Liêm vừa bước chân vào nhà ông Phạm đã nhận thấy cảnh tượng khác lạ, chỗ làm việc của ông Phạm đồ đạc ngổn ngang, tụ tập đông người, hai ba gia đình dưới quê vợ của ông Phạm mới tìm đến lúc chiều tối qua. Suốt buổi sáng ấy, ông Phạm và Liêm không còn bụng dạ làm việc. Ông Phạm ngồi hỏi tẩn mẩn cả buổi về những việc mới xảy ra. Quân đội Pháp rút lui giấu kín ý định với dân chúng nhưng người ta vẫn biết. Xe vận tải nhà binh không đủ chở, người ta nhảy bám theo kêu khóc ngã lăn lóc xuống đường, tàu thủy đã rời bến vẫn còn người lội đuổi bị nước cuốn chết đuối. Tại sao vậy? ông Phạm hỏi. Người ta sợ. Sợ cái gì? Sợ V.M. về. Trong cái thành phố bị bỏ rơi hỗn loạn, tiếng kêu khóc la ó vang rân, Liêm không hiểu kịp những biến chuyển. Sự sợ hãi, kinh hoàng như một chứng bệnh truyền nhiễm mau lẹ, Hà-nội cũng bắt đầu sống trong thảng thốt khắc khoải. Đám dân quê túa về đã được dồn vào trong các trường học bắt đầu nghỉ hè sớm. Những ngày nối tiếp chập chờn mê hoảng như một giấc mơ dữ, Liêm cũng bị dìm đắm vào trong cái tâm trạng mong mỏi bất an của thành phố. Những gia đình tạm trú trong nhà ông Phạm rời đi, trả lại cái không khí êm tĩnh nặng nề của mùa hè cho nơi làm việc. Ông Phạm không còn xuống nhà được đều đặn nữa và Liêm thì quanh quẩn không công việc trong nhiều giờ. Đợi chiều ra bờ hồ đứng ngóng nghe tin tức ở phòng Thông-tin cùng đám đông tụ tập, tối về xóm lân la sang nhà có máy thu thanh ngồi quây quần bàn tán. Ông Phạm quyết định ngưng làm việc, trả thêm cho Liêm một tháng lương, hẹn thỉnh thoảng ghé ông xem tình hình thế nào nếu làm việc Liêm sẽ trở lại. Trên đường về nhà, Liêm đi qua các phố vắng, các biệt thự Tây ở, trông thấy đồ đạc bầy trên vỉa hè trước một vài ngôi nhà vài mươi người lân la dạm mua bán. Liêm nghĩ: không hiểu mình sẽ đi đâu? Trở lại Sài-gòn chăng? Bằng cách nào? Muốn thoát khỏi cơn mê sảng kỳ quái của thành phố này, cơn mê sảng của những kẻ khác. Tôi chỉ thèm một chốn yên ổn mà không được. Bà mẹ Hải đón Liêm reo mừng “Tuần sau Hải về rồi”, bà đưa cho Liêm xem điện tín của Hải. Liêm thở dài nhẹ nhõm, thoát nạn, nghĩ mình được giải phóng. Tôi sẽ làm gì? Không biết. Tôi tự do, không còn vướng bận. Và tôi… tôi sẽ bỏ thành phố này, bỏ không thương tiếc, Liêm trông đợi ngày về của Hải, đó là vào tháng sáu trời trong sáng không mây, những cơn gió hốt nóng phả đầy vào mặt.

PHẦN THỨ TƯ

CHƯƠNG I

Chiếc xe díp chậm lại, không còn tiếng gió ùa ngược đạp lùng bùng trên vải mui xe, cảm giác tối xầm vụt nhanh rối mắt khi nhìn mãi vào vách núi đá ven đường; tất cả im bặt, buổi chiều bỗng chết lặng trong khoảnh khắc. Con đường dứt quãng, biến vào trong khoảng bờ dốc dài của con sông cạn, dưới nước chiếc cầu phao nổi do công binh bắc trên những thùng hắc ín lập lờ. Người lính ngồi phía sau hơi nhoài người ra trước muốn trông ra ngoài, hai đùi vẫn kẹp giữ khẩu súng dựng đứng, nụ cười thoáng hiện trên nét mặt không rõ rệt như một cơn gió thổi ngang.

Tùng gài số, buông chân thắng, để xe lăn xuống cầu. Thạch nghiêng ra ngoài, cúi nhìn những hạt sạn bắn tia dưới bánh xe, chiếc cầu đung đưa lầm rầm, nước hình như không trôi, liếc nhìn về sau, có thể bị bắn tới từ phía sau, ngay trong xe, xác thả trôi sông và hắn sẽ ôm súng, tước thêm hai khẩu súng lục, bỏ đi vào một làng gần đây. Trời sắp tối, những đêm liên hoan mừng chiến thắng Điện-biên vẫn kéo dài trong các làng xóm vây quanh đồn, hằng ngày lính vẫn ôm súng đào ngũ và Thạch không thể làm gì được. Không thể làm gì được. Không phải mở đường, không phải hành quân, chỉ được lệnh phòng thủ với số quân hao mòn dần, ở trong những vòng rào của đồn, nằm chán lại leo lên vọng canh lấy ống dòm trông vào làng phất phới cờ quạt. Vòng vây còn nghẹt thở hơn dạo nào phải sống hai mươi mốt ngày liền bị tấn công (đồn nhận tiếp tế bằng phi cơ, không đêm nào ngủ yên quá một giờ đồng hồ, lồng lộn vùng vẫy như một thằng điên khát máu) bởi bây giờ những người còn lại xung quanh đều ngơ ngác hoang mang, tinh thần bất định. Liên lạc với secteur cả mấy lần mới được một lần trả lời, không nhận được gì hơn là “chờ lệnh mới. Merde. Chờ cho đến khi còn trơ một mình cháy thui như một con bò giữa đống gạch vụn.

Con đường nổi lên lở lói, giữa một vùng đồng khô vàng cháy. Chiếc thánh giá đeo trước cổ Tùng lấp lánh, hắn vẫn nhìn thẳng bóng dâm đang lùa chạy ngược đằng trước. Đêm mùa hè oi ả như đá tảng vây chặn giấc ngủ, bên tai vang động tiếng loa kêu gọi từng hồi lâu tiếp nối bằng những lớp hò reo vọng tới trong thinh không rỗng tuếch đen kịt. Tại sao tôi còn ở lại đây đầm mình trong tuyệt vọng? Nhớ Liên, nỗi nhớ căng thẳng da mặt bứt rứt ướt nhờn, cào cấu da thịt bằng những móng vuốt của hồi tưởng dữ dội. Càng nhớ càng như rớt chìm xuống tận đáy cùng của căn hầm mù tối bưng bít, Liên không thể xuất hiện, Thạch chạy cuồng lên tháp canh hướng vào làng ra lệnh xả súng bắn. Cho chúng câm đi, câm luôn cả mối kiêu hãnh nhục nhã của mình. Những vệt lửa sáng tia dài trên những thửa ruộng trống, mất hút, không thể đến mục tiêu, đánh thức sự hoảng hốt lan tràn trên các tháp canh khác; súng nổ không cả đến mươi mười lăm phút át được những tiếng động trong làng, rồi im bặt để cho đêm nổi dềnh lên trong các hình thù quái đản của bụi cây bờ cỏ. Thạch lắng nghe những tiếng nổ xa hơn ở đồn bạn cách chừng hai cây số như lời đối đáp vội vàng vô ý nghĩa của những kẻ chung số phận. Merde, dưới sân đồn một vài bóng chạy qua lại ngơ ngác, máy truyền tin mở rè rè, trung úy Tùng hỏi có chuyện gì, chẳng có gì cả, bảo ở dưới cứ ngủ yên. Nếu mày ngủ được, merde, nếu mày cầu kinh và ngủ được với bức ảnh người yêu trên đầu giường và nếu mày thích, cầu nguyện cho tao, cho hết cả. Đồ con một ngu đần. Trong làng đì đẹp vài tiếng súng trường vu vơ, Thạch nắm lấy tay người lính gác không cho bắn nữa, chúng cũng đang đùa. Rồi tiếng loa lại gọi, lần này gần hơn, trước cổng làng, và tiếng hoan hô òa òa phụ trợ. Đủ rồi, đêm nay như thế là đủ, tôi đi ngủ đây. Những vệt lửa vẫn bay tít trong hư không mù mịt, những ánh sao băng, như những đốm đèn xa vời của thành phố khuất dạng, bè bạn khuất mặt, người mình yêu mất tích. Thạch nằm co quắp trên ghế vải, khóc tức tưởi, những tiếng nấc dồn vỡ khúc khắc trong cổ họng. Tại sao? Tại sao tôi ở đây, tôi vẫn ở đây? Trong cuộc chiến tranh này tôi đứng chỗ nào. Tại sao lại khóc? Đồng, tại sao lại khóc? Hiểu được không?

Tùng buông lơi tay lái, ngả người vào lưng ghế bảo:

– Đường số 5 kia rồi.

Xe đã chạy êm hơn trên đoạn đường phẳng. Vùng đất bằng đến chân trời, hai chuyến xe hàng đuổi nhau như ở giữa ruộng. Người lính nói:

– Chúng nó về đến đây rồi. Dạo này chuyên môn đường số 5 bị mìn.

– Như thế coi như xong. Không biết nó đã ký chưa? Tối nào tôi cũng mở đài Hirondelle nghe tin tức đến nửa đêm. Chẳng thấy gì cả. Hà-nội chắc là biết rõ hơn. Anh nghĩ có thể chia đôi được không? Ông cụ bà cụ tôi đã chạy cả lên Hà-nội. Quốc gia mình thật hạng bét.

– Bây giờ mới biết hả?

Trên đường vòng ánh mặt trời đột ngột đập lóa mặt kính xe. Khuôn mặt cháy đen của Tùng vẫn không giấu được những nét ngờ nghệch dễ tin của một tín đồ công giáo lâu đời. Thạch cười sự ngây thơ ấy và Tùng không hiểu.

– Anh định hôm nào về?

– Chưa biết. Để xem.

– Cũng định đào ngũ hay sao?

– Chưa biết chừng.

– Sau đây mới thật là chiến tranh của mình. Nó có ký mình mới có chính nghĩa mà chiến đấu.

Giọng Tùng vững vàng giản di, Thạch không muốn bàn cãi. Nó có những lý do của nó. Thạch bỗng dưng thèm gặp bạn bè, được đối diện với Cảnh nghe chúng biện thuyết để nhìn thấy rõ mình. Hơn lúc nào hết cô đơn trống trải như bị bỏ rơi. Chúng đang làm gì? Mình sẽ làm gì những ngày tới, một mình? Xe lao nhanh trên quãng đường vắng, vượt qua những loại xe chuyên chở hành khách hàng hóa, gió lộng bạt những ý nghĩ. Sau bức tường vàng chạy dài theo đường cái, đoàn tàu hỏa đang chuyển động, con tàu vẫn đi lại hằng ngày, Liên vắng mặt. Đoàn tàu cùng chạy song song trên cầu với những toa than trống rác rưởi khắp tàu. Hà-nội đã nhìn thấy nhấp nhô dưới xa khuất im trong buổi chiều nhòa nhạt trơ trên những cồn cát nổi giữa lòng sông. Thành phố ấy đến bây giờ mới nhận ra cũng là một người bạn, sau khi đã đứng nhìn mãi những vòng rào thép gai, đồng ruộng bỏ hoang bao vây bởi làng xóm thù nghịch. Rồi thành phố cũng sẽ mất như bè bạn, mày chỉ còn trơ một mình trôi nổi vào cuộc phiêu lưu vô cùng đích. Thạch nắm vòng quai da trước mặt, nghiêng người trông xuống con đường chui dưới gầm cầu.

Xuống hết dốc cầu, Tùng xả tốc lực cho xe phóng nhanh trên đường bờ sông, mặt ngước lên khoái trá, hắn vẫn có những phút bất kể sự đời bên những phút khiếp nhược yếu đuối, lòng tin ở hắn vừa vững mạnh vừa bấp bênh một cách đáng yêu, hắn có thể chạy cuồng như thế khắp thành phố. Đến trước viện bảo tàng, Tùng hãm xe lại nhìn sang Thạch bảo:

– Đi một vòng bờ hồ, tìm cái gì ăn rồi hãy về. Anh đói chưa?

Chiều đang ánh rực hấp hối trên mặt nước hồ. Tiếng động vẫn tuôn chảy đủ chiều. Đám đông lũ lượt, tản mác trên các lối đi, bãi cỏ dưới những bóng cây đứng gió. Trên cầu Thê-húc nhiều người đứng tựa nhìn xuống nước, các hàng quán nhộn nhịp. Loa phóng thanh vang vọng ở đầu phố xa đang loan truyền bản tin tức buồn tẻ. Xe chạy chậm cùng với những chiếc xe đạp thong thả.

– Chẳng có gì lạ cả?

Cho đến lúc hấp hối, Hà-nội vẫn không thay đổi, hay không hay biết. Ánh điện quảng cáo nhấp nháy trên các góc cao in bóng xuống nước hồ xa. Đám đông đậm đặc trong những khoảng sáng, tản lẫn vào trong bóng tối của những hàng cây um tùm. Không khí dịu nhẹ dễ thở một thoáng. Một đàn chim tóc trắng bay về ngang trần gian báo tin rằng có nàng Giáng Hương… điệu hát mơ mộng cố hữu vẫn bám chặt lấy thành phố; hình như Tùng hát theo, giọng khàn khàn lẫn vào trong tiếng máy nổ đều. Nếu Liên còn? Và bây giờ? Liên là niềm tuyệt vọng mở lớn đôi mắt đen ở trong hồn, đôi mắt lẩn bay trên các chòm cây, rơi chìm… Người về trong đêm tối ôm cành hoa tả tơi, bóng đêm dài, gác đời… lẻ loi.

– Thôi đi ăn.

Người lính cắm cúi nhồm nhoàm không để ý đến xung quanh, khẩu súng gác cạnh chân bàn. Tùng rót bia vào cốc, cặp mắt vằn lên những tia máu đỏ và ướt trên khuôn mặt màu bồ quân, hỏi:

– Hôm nay thứ mấy nhỉ?

Thạch nhìn vào tấm gương ở sát mặt, râu tóc lởm chởm bẩn thỉu. Trong gương cặp mắt Tùng đờ đẫn ướt nhẹp như khóc; trong đêm Phục-sinh Thạch đã bị dựng dậy nghe báo cáo; bên trung úy Tùng bắn pháo hiệu cầu cứu, đứng ngoài sân đồn nhìn về hướng Tùng vừa kịp trông thấy đạn châu đỏ tắt rụng, những đốm lửa cuối lả tả như tàn lửa bay theo gió; Trung-úy Tùng gọi Trung-úy, giọng mũi khàn và lừ nhừ, và có lẽ với cặp mắt dại khờ này. Chuyện gì thế? Có, tôi đang buồn. Merde. Ngủ đi. Tôi không ngủ được, tôi muốn đi nhà thờ. Đi nhà thờ? Say chưa? Chưa, chưa say. Mấy năm nay tôi không bước chân đến nhà thờ, tôi nhất định không đến nhà thờ. Đêm nay tôi nhớ lời mẹ tôi dạy, có thể bỏ hết nhưng đêm nay thì không. Anh còn nghe tôi nói không? Oui, Idiot. Mẹ tôi dạy hồi tôi còn nhỏ tôi vẫn nhớ, con mất cả và thiên hạ nhưng con được linh hồn là con được tất cả. Mất cả và thiên hạ, anh nghe tôi rõ chứ. Có lẽ giờ này Chúa sống lại và Chúa được tất cả. Et alors. Imbécile. Continue. Chúa sống lại Chúa bất tử, Lui, il est immortel mais toi, n’oublie pas, tu es mortel. Nghe rõ không, thôi ngủ đi. Tôi muốn đi nhà thờ. Nhà thờ đâu mà đi? Ở trong làng. Này thôi đừng điên, nghe bảo đây này, Chúa có mặt ở khắp nơi, cứ quỳ trên giường mà cầu nguyện, Chúa sẽ đến nghe chưa? Trên secteur mà nó biết tự nhiên bắn pháo hiệu cầu cứu thì cứ lo sửa soạn mà nhận củ. Thạch cười hỏi:

– Còn tỉnh mà lái xe không?

Tùng làm hiệu bất chấp, không trả lời. Ngoài cửa hiệu là phố hàng Buồm huyên náo, buổi tối còn mới nguyên. Chiếc xe díp đậu làm chật nghẹt một đoạn phố. Người lính ăn xong trước, nói sẽ chuyển xe sang đậu ở phố ngách gần bên. Tùng bảo:

– Có lẽ ngày kia hay ngày kìa tôi đi là cùng.

– Nếu tôi xong việc tôi sẽ đến tìm cùng về.

Thạch chẳng có việc gì cả nhưng muốn ở lại Hà-nội. Để làm gì? Chưa biết. Có thể sẽ không trở về đơn vị nữa. Những ngày tới vẫn chờ đợi, cần có mặt ở Hà-nội. Chắc chắn đó là một biến động lịch sử, trong biến động lịch sử chân trời sẽ mở rộng tôi có thể nhìn thấy rõ những mộng tưởng của mình còn hay mất. Tout est possible et impossible. Cái xã hội mục nát lần này sẽ tan tành trước cơn sóng lũ và bọn thanh niên sẽ đứng trước những vùng đất mới của riêng mình. Phải vậy không?

– Tôi không hiểu nay mai Cộng-sản về Hà-nội, dân Hà-nội sẽ sống như thế nào?

– Họ không chết và dân thành phố này chỉ còn dám mơ ước có thế thôi.

– Nhiều khi tôi nghĩ nếu chủ nghĩa C.S. không xâm phạm đến tín ngưỡng của tôi, tôi không dám đã trở thành C.S. rồi. Hình như anh cũng vô thần phải không? Tại sao anh không thích C.S.?

– Ngoài tín ngưỡng còn nhiều chuyện khác nữa chứ. Vì anh có tín ngưỡng nên chủ nghĩa C.S. bị phủ nhận ngay khi va chạm vào thành trì ấy. Nếu anh vượt ra ngoài tín ngưỡng anh sẽ nhìn thấy nhiều vấn đề khác nữa. Dài dòng lắm.

– Có thể. Nhưng đại khái với anh…

– Không. Không phải với tôi… Với tôi thì cái lỗi lầm nặng nhất là họ đã dồn tôi phải đứng vào trong hàng ngũ những kẻ tôi cũng thù nghịch.

Cơn giận đột ngột vô cớ tiếp sau câu nói, phải dằn xuống, chỉ có thể nói được với Cảnh, với Đồng và chỉ có chúng hiểu. Tùng gật gù ra chiều thông cảm:

– Mình phải đi lính cho Tây chứ gì… Không phải một mình anh.

– Gần như thế.

– Cho nên tôi đã bảo tôi chỉ mong nó ký mau như nó cởi giây trói cho mình. Lúc ấy quốc gia mình mới ăn nói được.

Thạch cất tiếng cười, mày phải bắt đầu biết chấp nhận nếu không muốn tự tử, chấp nhận cảnh ngộ, chấp nhận những cần thiết của lịch sử. Mày chưa bao giờ có một quê hương, bị chiếm hết ở mọi nơi; bởi mày chưa chết, mày phải chấp nhận, nuôi lấy tuyệt vọng với hy vọng vượt được khỏi tuyệt vọng. Cảnh, hắn cũng đã chấp nhận những cần thiết của lịch sử và chúng ta chỉ nhìn thấy những cần thiết ấy đối nghịch nhau.

Tùng khều vào khuỷu tay Thạch đặt trên bàn hất hàm ra hiệu nhìn sang một bàn ở dãy bên. Một người đàn bà trang điểm diêm dúa, đi cùng với một người đàn ông, chốc chốc lại liếc Thạch cười mỉm; Thạch không nhớ nổi vẻ mặt hao hao quen thuộc là ai và lắc đầu với Tùng. Bất chợt trông vào gương mặt bắt gặp người đàn bà hướng về bàn Thạch, nháy mắt trề môi dưới làm hiệu trong khi người đàn ông cúi mặt vào bát, Thạch mới sực nhớ. Mai. Madeleine. Thạch kêu khẽ: Đúng rồi. Tùng hỏi: Ai thế? Mai, Mai ở dưới Namịnh. Người đàn bà đầu tiên với bài học đầu tiên cho cơ thể. Không khí chật hẹp bức bối, giọng hát líu lo trong những đĩa hát cũ, và những anh lính Lê-dương, Ma-rốc, trong phòng hôi hám, vết thương ở một bẹn đùi. Tùng vừa nghe kể vừa nhìn Mai chăm chú, trông Mai sang và lịch lãm hơn xưa.

– Có lẽ cô ta cũng vừa chạy ở Namịnh lên.

Thạch tiếc rẻ, nếu Mai đi một mình… Người đàn bà như là chỗ chôn vùi những mong nhớ hoang mang. Thạch hỏi Tùng:

– Đi chơi nữa không?

– Tôi đưa anh về rồi còn phải về thăm ông cụ bà cụ.

Buổi tối đã vơi hẳn. Những tiếng guốc thưa thớt xa dần trên một bờ hè vắng. Thạch dành tay lái để cho Tùng rã rượu. Tùng nghẹo đầu vào ghế xe, nghêu ngao hát. Các cửa hiệu đang lên cửa. Khu chợ Đồng-xuân sáng ở ngoài đường, bên trong tối om. Tháp nước bằng đá sừng sững kín mít. Đường Quan-thánh tối mờ, lá cây che khuất bầu trời sao mùa hè. Thạch thả cho xe trôi theo dấu đường sắt tàu điện. Nhìn lên cửa sổ nhà An cũ, đèn vẫn còn sáng, có lẽ gia đình An đã trở về nhà cũ. Thỉnh thoảng bắt gặp một tờ báo, Thạch đọc một đôi bài thơ của An, những bài chán nản phiền muộn. Tất cả sự phá phách từ chối chỉ đến đó, trở thành một nhà văn theo kiểu mẫu có sẵn của xã hội thành phố: nghèo đói, nghiện hút, dơ dáy, khốn nạn, bất mãn, khinh bạc… Đánh đổi mặc cảm tội lỗi lấy mặc cảm bị đày đọa có hơn gì. Cái nhìn lơ láo thất thần trốn chạy đáng thương, đã xong chưa? Cái nhìn Thạch cũng đã gặp ở một đứa khác, mùa hè năm trước, một đứa bạn học cùng lớp không thân lắm từ hậu phương trở về thành phố; Lục, không nói những gì đã xảy ra trong đời hắn, nhưng trông vào mắt nhận rõ hắn không còn hy vọng, hắn bỏ chạy và muốn chết biệt tăm. Tiếng rao hàng khuya khoắt trong một phố ngách (lục tào xá… ơ…) đẩy sâu mãi đêm vào vùng tối đen xa lạ, khuôn mặt giá băng của Bích buổi tối đi tìm Liên trong Ngũ-xã, Bích, có thể nàng đã gặp Liên, trong gian nhà đông chật bề bộn ám khói thuốc phiện… Thành phố im nổi trên tiếng rì rầm của nhà máy đèn Yên-phụ giống như tiếng phi cơ bay qua những đêm ở đồn, chập chờn nghe tiếng kẻng truyền qua các tháp canh, chốc chốc tiếng đại bác phát nổ đều đặn yểm trợ cho cứ điểm xa hơn… Những đêm lạnh giá rợn người dưới hố cá nhân nghe ngóng sự rình rập, ngửa mặt nhìn gió phủ đầy đặc, không nghĩ ngợi, không chờ đón, dưng không ở đó. Như vừa sinh ra đời và sẽ chết trong những phút sau, rùng mình co cứng lại như một hòn đá vô tri. Trời sáng nhợt trên mặt hồ Tây tuy không có trăng. Tùng im lặng như ngủ, thốt nhiên hỏi:

– Kể mất Hà-nội cũng tiếc.

– Thế hả?

– Tôi đâu có được ở Hà-nội nhiều. Thuở bé tôi ở Thanh-hóa mãi đến khi lên Trung-học mới được ra Hà-nội. Ra đến nơi là đánh nhau lại tản cư về Thanh Hóa. Hồi cư về học mấy năm lại đi lính. Tính ra thế mà đã bốn năm đi lính. Thật không ngờ mình lại có thể quen với cái nghiệp làm lính. Anh có ngạc nhiên không? Nếu yên được ra khỏi lính anh có định học lại nữa không?

– Chắc là không.

– Anh định làm gì?

– Chưa yên đâu. Mà chưa yên tôi cũng không ở lại nữa. Hết một giai đoạn rồi.

Tùng ngồi nhỏm lên nhìn sang, con đường đang thẳng bỗng rẽ quặt bên trái chạy theo bên hông trường Bưởi:

– Anh định đào ngũ?

– Oui. Có thể như thế.

Tùng dường như ngẫm nghĩ không hỏi nữa. Ngoại ô đã ngủ kỹ, chỉ còn mấy con chó hoang chạy nhởn ngoài đường. Thạch nhấn mạnh ga cho xe vọt nhanh, vượt quá ngõ nhà Đồng một quãng, phải lùi xe lại. Thạch nhảy xuống trả tay lái cho Tùng hỏi: Tỉnh chưa? Tùng quay xe, ghé sát vào chỗ Thạch đứng gần bên đường tàu, giơ tay chào, ánh điện đường vàng khè soi nửa khuôn mặt Tùng lạ lẫm, trước khi lạng ra giữa đường chạy nhanh vào trong phố. Đào ngũ, không, hắn không thể hiểu được, không phải đào ngũ…

Thạch tháo khẩu súng đựng trong bao da, khóa an toàn, bỏ vào ngực áo. Đêm mùa hè đậm đặc sâu tối, tiếng sóng hồ Tây rì rào, ngõ đã quen. Thạch đứng lại ở khúc quanh, bên cạnh góc một bức tường rào trên thành phủ lòa xòa những lá cây, nghe tiếng giày đinh im bặt. Hai bàn tay không, tôi quay lại khởi điểm, đột nhiên thấy mình đã đổi khác lúc nào không hay biết. Những đêm mùa hè nín lặng như trong vùng chết, được lệnh phòng thủ bố trí cẩn mật, chỉ mặc một chiếc xi-líp nằm trên ghế vải giữa những bức tường bưng bít ngột ngạt, buổi sáng oi bức da dính nhớp mồ hôi bẩn thỉu như màu đất bụi đường trông ngóng đoàn convoi đi ngang đồn với mấy chiếc xe hàng lọc xọc mang theo những tờ báo cũ, mua một vài chai bia, nải chuối, nhìn những bộ mặt đàn bà không son phấn may mắn hiện giữa đám dân quê; buổi chiều dài lênh đênh trên các bờ ruộng; lũy tre khô cằn, những người làm đồng lủi thủi trên đường vào làng, những người ban đêm đào đường và buổi sáng lấp lại; Con đường lỗ chỗ, không cây cối, nắng làm mờ mắt, mặt trời đốt nóng trên gáy và sau lưng áo, bóng người ngã vật cùng với tiếng nổ như một ảo giác trước khi bất tỉnh, Thạch không ngờ mình còn sống, đang đứng đây, mù tối, hoang mang, bồn chồn và trơ trọi trước tương lai, không nhìn thấy gì rõ hơn là sự chán nản suy đồi của người khác bám chặt vào mình, bóp nghẹt thở.

Thạch đẩy cánh cổng khép không gài then, trong sân vang tiếng cười nói. Mẹ Đồng, cùng hai ba người đàn bà khác và trẻ con ngồi ở ngoài hiên nhà trên, điện không bật. Bà lên tiếng hỏi:

– Ai đấy?

– Thưa cụ, cháu. Thạch.

Bà mừng rỡ đứng dậy, bước vào nhà bật đèn gọi Đồng; những người khác nhìn Thạch tò mò. Thạch chỉ nhận ra u già quen thuộc, chị dâu của Đồng ở trên phố với mấy đứa con, còn một người đàn bà lạ mặt chưa gặp lần nào. Đồng ngồi bó gối trên giường trong buồng một mình đang nhìn qua cửa sổ ra vườn đêm. Lúc Đồng quay mặt lại, Thạch giật mình kinh hoảng, Đồng sa sút trông rõ: mặt gầy sọm đen đủi, da như bị cháy, đôi mắt ướt mơ màng lồi lên như hai hòn bi đục, tay chân khẳng khiu quều quào. Đồng mặc chiếc áo lót trên thân ép sát vào ngực chỉ còn là bộ xương, vẫn cố gắng cười như thói quen, tiếng cười khục khục vướng mắc trong cổ không thoát. Thạch nghĩ ngay mình không thể ở lại nhà Đồng đêm nay và nói:

– Nhà đông quá hả?

– Về tối thế?… Bà chị vừa ở ngoài vào.

Tiếng nói của Đồng mệt nhọc phều phào không rõ. Thạch mở tủ của Đồng, tìm quần áo của mình; Đồng vẫn ngồi một chỗ theo rõi. Thạch thay quần áo, nói dối:

– Về thăm cậu rồi lại phải xuống phố có việc. Mai tôi lại lên.

– Có hẹn hả?

Thạch nhét khẩu súng lục vào trong đống quần áo, bảo:

– Tôi để khẩu súng trong tủ. Tối mang theo nguy hiểm.

– Không sợ tôi lấy tự tử?

Đồng cười không thành tiếng rồi bật ho sặc, rời chỗ ngồi xỏ chân vào dép đứng lên rủ Thạch cùng ra ngoài. Hai người đi qua hàng hiên, những người đàn bà nín bặt chuyện trò. Mẹ Đồng lên tiếng hỏi, giữ Thạch ngủ lại và Thạch phải thoái thác. Những dự tính, băn khoăn định gặp Đồng thổ lộ không nói được.

– Có làm được bài thơ nào không?

– Không.

Ngõ thật khuya, tiếng của Đồng khào khào âm thầm như sự xô động vu vơ của cây cỏ lẫn trong bước chân, Đồng không còn thể hồi phục, có lẽ Cảnh nói đúng, thế hệ này bị hy sinh, mỗi đứa một cách. Từ ngày ấy chắc không bao giờ Đồng còn nghĩ đến thơ, chính tôi vẫn thường chế riễu cái thái độ ngây thơ, chính tôi cũng dự phần vào trong việc phá hủy cái tâm hồn mơ mộng của Đồng. Để được gì?

– Chắc cậu mới gặp chị Đạo… chị ấy vẫn thường ra vào… mà cậu không gặp… Lần này… Ở trên phố có gì lạ không?

Ngõ sáng dần khi ra gần đến đường tàu điện. Thạch nghĩ có thể quay vào nhà ngủ chung với Đồng, trong nhà Đồng đã hoàn toàn biệt lập một mình bên cái chết, nhưng Đồng không tỏ một ý muốn giữ Thạch lại. Thạch muốn hỏi: Cậu còn nghĩ đến cái chết nữa không? Nghĩ đến cái chết như khi chăm chú nhìn vào trong mắt của người tình thứ nhất. Cậu có sợ không? Đêm ầm ì khuất tịch, tuổi trẻ đã qua mất hẳn, một đứa đã tới cuối đường và lặng lẽ nhìn xuống vực sâu hút, còn một đứa vẫn quay cuồng với… còn những đứa khác? Thạch cắn chặt môi, nén giữ những xúc động có thể biểu tỏ, khi Đồng choàng tay bá lấy vai dựa vào người, sự đụng chạm vừa hãi hùng vừa đau đớn.

Đồng buông vai Thạch, ngồi bệt trên thanh đường sắt, thở hổn hển, nói như xin lỗi: Hơi mệt. Thạch bảo: Để tôi đưa cậu vào, rồi tôi đi, nhưng Đồng vẫn ngồi nguyên đưa mắt nhìn về phía cuối đường tàu chìm vào trong bóng tối của dãy phố nhỏ đã ngủ say. Đồng nói đã lâu không bước ra khỏi cổng, cảnh tượng cũng chẳng có gì thay đổi và có lẽ mai kia Đồng chết mọi sự vẫn bình yên phẳng lặng như cũ. Chỗ Thạch đứng dưới gốc đèn xi-măng là chỗ cả bọn thường dừng lại nói nốt một câu chuyện dở dang trước khi về phố, nhiều khi vấn đề chuyển đổi kéo dài cuộc bàn cãi Đồng bước qua đường tàu rủ sang phía sau đình nhìn Hồ Tây, hay đi dạo lui tới bên cạnh đoạn đường sắt sáng. Bây giờ chỉ còn sự im lặng biền biệt của vùng ngoại ô phủ ngập bao vây những khoảng sáng.

– Có được tin gì của Nga, em An không? Vào nhà tu thật không?

Đồng không đáp, mỉm cười, làm điệu hóm hỉnh buồn bã. Đứng vài giây, Thạch lại nhắc: Thôi vào nhà đi. Đồng hỏi giờ này Thạch xuống phố bằng cách nào. Thạch đáp sẽ đi bộ và chợt nhớ hỏi: Hà-nội còn giới nghiêm không nhỉ? Đồng bảo chắc vẫn còn. Và nói tiếp không nhìn Thạch: “Chắc Cảnh nó sắp về phải không? Chỉ sợ tôi không còn được gặp mặt đông đủ mấy cậu… Thật là tiếc…” Thạch cười xòa rồi cũng ngồi xuống đường sắt, bên kia là ngôi đình làng um tùm bóng cây. Đồng hỏi Thạch về lần này có dự định gì không và Thạch thản nhiên bảo mình chỉ về chơi. Đồng quay nhìn Thạch rất lâu hỏi chân đã khỏi hẳn hay chưa? Thạch lắc đầu.

– Lúc mới lớn cứ bị cái chết ám ảnh và sợ… Vậy mà… lúc thật nặng lại nghĩ đến một cách dễ chịu… Cậu có thấy thế không?

Đồng cười được một tiếng ngắn, xòe bàn tay đặt trên đầu gối.

– Cậu có nghĩ đã đến lúc… mình trông rõ mình chưa?

Thạch vẫn lắc đầu. Đồng cố ý thở phì phì bằng miệng nghịch ngợm, chỉ còn một vài thói tật giúp nhận ra Đồng, chắc hẳn trong mắt Đồng, tôi cũng xuất hiện vụn vặt như sự câm nín lầm lì khi phải đối diện với khổ đau – Tại sao tôi không thể phơi mở trần truồng những cảm xúc, những ý nghĩ với người khác? Cảm xúc rồi tan biến, tôi muốn trung thành, trung thành tới tận cùng với tôi và tôi bị vây kín trong bất trắc không lường – Sự câm nín phân ly không sao vượt nổi.

Đồng chống tay đứng lên giữa đường sắt hỏi Thạch còn nhớ đã có lần Đồng đi ngoài phố lo sợ viển vông nhỡ những giây điện của đường tàu có thể rơi đứt, trói chết lấy mình, Đồng cười khúc khắc đi vài bước trên những gióng sắt ngang. Dạo còn ở hậu phương thấy người lớn đi qua sông trên một cây cầu xe hỏa bằng cách bước lên trên những gióng sắt ngang dễ dàng không cần chú ý tôi cũng đã đi thử nhưng chỉ được năm sáu bước đã chóng mặt phải bám thành cầu trở lại, Đồng nói, nước chảy siết qua những mô đá, nhấp nhô giữa giòng, đó là vùng thượng du với những buổi sáng mù lạnh. Đồng ao ước được học trở thành bác sĩ về sống ở miền quê, Thạch đã nghe nhiều lần điều ước ấy từ những ngày còn cắp sách đến trường với Đồng, Cảnh bảo dự tính của Đồng là của bọn tiểu tư sản, Đồng đang nhớ đến Hà; cảnh hoang vu thơ mộng của rừng núi Phú-thọ những ngày ấy giống như trong những trang sách Đồng xé dần từng tờ khi đi đồng, ngồi đọc nghiền ngẫm giữa trời, có những đoạn gần như thuộc lòng – quyển Paul et Virginie của người anh tình cờ, lẫn trong những đồ đạc mang theo khi tản cư; người anh ấy đã vào học trường Trần Quốc Tuấn vẫn còn thương nhớ kinh đô, có lẽ người đàn bà lạ mặt ở trong nhà chính là vợ anh. Đồng dừng lại quay lưng, thân hình ốm yếu như sắp ngã; tiếng ve kêu tận trong vườn Bách Thảo lan ra vang lên một lúc. Còn tôi có điều ước nào không?

Thạch đưa Đồng trở vào ngõ, đến trước cổng; Đồng bảo Thạch vào nhà lấy xe đạp mà đi, lúc ấy đã hơn mười giờ. Thạch không biết ngủ đâu cho qua hết đêm, cổng nhà Đồng đã đóng không thể quay lại gọi, cũng không thể làm xáo trộn cái gia đình đang kết hợp lại nơi đó không còn sự trống thừa để dung nạp mình như ngày trước, Đồng cũng đã rút lui, thu nhỏ vào trong một khoảng hẹp còn được dành riêng chờ chết. Đồng đang hấp hối cô đơn, tôi đi dong ở ngoài đường giữa ngoại ô chìm tối, một vài quán rượu còn thức trơ trẽn ế ẩm, trong ngõ thấp thoáng bóng gái ăn sương lẩn lút. Đột nhiên Thạch nghĩ, hoảng sợ Đồng có thể tự vẫn bằng khẩu súng mình để lại, Đồng nằm dài trong một góc vườn hay dưới gốc sung lòa xòa bên hồ nơi vẫn ngồi đọc sách, lỗ thủng khoét bên thái dương, cái chết như lời riễu cợt khúc khích cuối cùng. Thạch nhấn mạnh bàn đạp, cố gắng theo đuổi những hình ảnh khác chưa hiện lên; những ngày tháng tả tơi chia lìa không bao giờ kết nối được chăng, những bạn bè, thân thuộc bỏ đi và mất tích không bao giờ còn nhìn thấy mặt nhau. Vẫn một mình đi tới hay đi quanh, một mình, giẫm lên những xác chết chạy cuồng, như trong lần bị phục kích, truy nã, không cần phương hướng.

Thạch tự hỏi đi đâu, nơi nào có thể gõ cửa ngủ nhờ; bạn bè coi như chẳng còn ai; họ hàng không, một người mẹ không biết còn sống hay chết, một đứa anh lưu lạc từ ngày nhỏ chẳng nhớ được mặt mũi; những người quen cũ của gia đình, tuy biết nhưng không khi nào muốn liên lạc. Chỉ còn cách thuê khách sạn, những gian buồng cho thuê trống trải lem luốc chỉ gợi nhớ đến những người đàn bà thân thể phơi mở như bóng đêm che khuất hẳn mình và sự vật; lúc này sự vỗ về ôm ấp gần gũi của đàn bà chỉ làm tâm thần thêm bực bội. Trong phố buôn bán cửa đã đóng nhưng đèn sáng, nhiều người bắc ghế ngồi ngoài hè hóng mát, quanh các cột đèn trẻ con còn chơi đùa. Thạch ra đến bờ hồ ghé vào quán nước. Các lối dạo quanh hồ vắng người, cây và đèn phố đứng im trơ, hơi nóng dưới hồ thỉnh thoảng bốc lên. Đêm còn dài nồng nực, Thạch nhớ gian nhà nhỏ bên bãi rác trống gần ao, những ngày hạnh phúc tạm bợ với Liên đã xa khuất thành kỷ niệm. Dưới gốc cây bàn đặt nghiêng bên những chiếc ghế trống; sau lưng ba bốn thanh niên cãi nhau oang oang về các kỳ thi vừa qua, không chú ý đến người chung quanh; Men theo bờ cỏ rậm, một người đàn ông lầm lũi xách chiếc vợt vớt cá đi về phía ít ánh sáng và tiếng động.

CHƯƠNG II

Ra khỏi rạp chiếu bóng Liêm nhẹ hẳn người, phố khuya thoáng mát mẻ hơn, đứng ngoài vỉa hè nhìn đám đông tản mác. Hải ra sau ngơ ngác tìm kiếm, Liêm gọi: Hải. Hải. Hải vừa đi đến vừa hỏi: “Anh khát không?” Hiệu kem gần rạp còn mở, máy vẫn chạy đều không nghỉ, một số khách vừa trong rạp ra đã ngồi chật bàn. Hải đứng lại mua kem, bảo: “Nóng quá, vừa nóng vừa khát.” Trên hè vắng dần người, cửa sắt của rạp chiếu bóng được kéo đóng lại, kêu rít. Hải nhìn ra đường nói: “Sài-gòn giờ này vẫn còn vui. Hà-nội mình nhỏ thật. Khác hẳn. Hôm mới về tôi hơi bỡ ngỡ.” Qua một căn nhà còn hé cửa, ánh đèn chiếu ra ngoài hè, Hải dừng lại lắng nghe tiếng máy phát thanh khẽ vẳng. Tiếng nói đều đặn xa xôi lẫn trong những nhiễu âm chíu chít. Hải quay nhìn Liêm đang đứng đợi: “Chưa có gì mới lạ cả.

Liêm tự hỏi mình có chờ đón biến cố ấy không, biến cố mà mọi người đều bàn tán mong mỏi lo âu. Những người ở trong xóm đi làm cho nhà binh Pháp trong thành, bên phi trường Gia-lâm lo ngại bị giải công; ông San dự tính thu xếp gia đình sẽ trở về quê sống; ông Phạm, một bữa Liêm ghé thăm, đang lo thanh toán công việc dời cơ sở gia đình vào Sài-gòn, ông nghĩ bỏ hẳn việc đang làm, chiếc máy in tháo rời các bộ phận sửa soạn đóng thùng gửi đi. Hôm Hải về đến Hà-nội, cách đây bốn hôm, Liêm ra hãng hàng không đón xe; trên chiếc xe ca đưa hành khách vào thành phố Hải ngồi cạnh ông Kiêm, lúc xuống xe đợi lấy hành lý ông Kiêm bảo Hải: “Cháu nên nghĩ kỹ lại. Hôm nào đến bác chơi. Nói với mẹ cháu bác gửi lời thăm”, ông cũng dặn Liêm đến cùng với Hải và hỏi: “Anh còn thích hoạt động không?” Ông Kiêm được phóng thích sau Tết, còn ở lại Sài Gòn dự Đại hội toàn quốc rồi sang Pháp, tình cờ về cùng chuyến phi cơ với Hải; ông nhận ra Hải trước, trách Hải trong mấy năm đã không thành thật với ông, dù sao không thể nào ông quên được những người bạn đã chết. Hải nói với Liêm, ông Kiêm chắc chắn sắp được mời vào chính phủ, ông hy vọng và chờ đợi biến chuyển của tình thế. Hải phê bình: “Anh thấy rõ chưa? Đến bây giờ mấy ông Quốc gia mới lo đòi độc lập với Pháp. Chắc chắn là tôi phải đào ngũ; Tôi cũng mong cho nó nhanh nhanh dễ cho tôi”. Hải trông khỏe, đen, nhanh nhẹn, có vẻ từng trải, trưởng thành. Câu đầu tiên khi chỉ còn hai người đứng với nhau trên hè phố, Hải hỏi: “Anh không còn liên lạc với anh Thái, anh Ngọc nữa phải không?” Liêm gật đầu, thúc giục Hải lên xe về nhà, bà cụ đang mong ngóng. Hải được nghỉ phép nửa tháng trước khi đổi vào Huế, Hải sẽ không đi, bà mẹ không có ý kiến chỉ bảo cậu ở đâu tôi ở đấy. Liêm còn chần chừ chọn ngày từ biệt gia đình Hải, ông Phạm đã hứa sẽ cho Liêm chỗ ở, ông cần một người phụ giúp trông nom trong khi chuyển dọn đồ đạc xuống Hải-phòng để đưa xuống tàu thủy.

Hai người rẽ vào một con phố rộng xẻ đôi một đoạn ngắn trước nghĩa trang tối âm u. Hải hỏi: “Ở Sài-gòn anh ở đâu?” Liêm nói đến những vùng mình đã hoạt động và Hải không biết, chưa nghe lần nào, những ngày chủ nhật của Hải chỉ quanh quẩn trong mấy phố Sài-gòn – Chợ-lớn và những khu giải trí. “Sài-gòn thật là suy đồi. Tôi đã vào mới thấy những điều mình tin tưởng là đúng. Cái xã hội này cần phải cải tạo. Hà-nội chưa thấm vào đâu”. Liêm bất mãn vì nhận xét của Hải, Hải không nhìn thấy được Sài-gòn Liêm mơ ước trở lại và sống vĩnh viễn. Liêm nói: “Hồi cậu còn ở trong trường, tôi sợ làm hại cậu nên không giới thiệu với cậu những chỗ tôi quen. Nếu cậu đến đấy cậu sẽ nhìn thấy Sài-gòn khác hẳn.” “Tất nhiên. Tôi hiểu như thế. Tôi muốn nói về một tình trạng…” Khoảng đất trống tối om, cổng chùa quét vôi trắng hiện lờ mờ không hình thù, ngõ vào nhà khai nồng. Liêm hỏi khi đi ngang gần ao rau muống bên nhà: “Cậu có định đến thăm ông Kiêm không?” “Không”. “Tôi định đến thăm ông ấy. Cũng chẳng sao. Mình có cầu cạnh gì đâu mà sợ. Cậu đi với tôi cho phải phép. Ông ấy cũng tốt”. “Tôi không thích nghe chuyện ông ấy nói tức anh ách chẳng lẽ lại cãi nhau.” Ở trong nhà bà mẹ Hải còn thức, mở cửa. Hải nói tiếp: “Lúc nào ông ấy cũng mang bố tôi ra dọa tôi. May là ông ấy chết rồi, đến ông ấy còn sống ông ấy cũng chẳng làm cho tôi đổi ý nữa là…” Liêm thôi không nói, đứng lại ở gần ngoài, tìm thau múc nước rửa mặt, ngửa cổ nhìn trời lốm đốm sao, nghe bà mẹ nhắc Hải lời hứa đưa bà đi thăm mộ con gái.

Bích nằm im, lưng mỏi nhừ, nghĩ lờ mờ: thế cũng xong một ngày giỗ, từ giờ đến cuối tháng còn một lần nữa… Nhà chật, ở chung chạ, trong bếp thì chật ních ỏm tỏi, trên nhà bừa bộn bầy ra hai ba mâm dọn dẹp đến nửa đêm mới xong; bà cụ vừa làm vừa gắt gỏng bọn trẻ con đùa nghịch vướng cẳng, la mắng bọn con gái vô tích sự, đay nghiến ông cụ cả ngày chỉ biết nằm dài bên bàn đèn, cuối cùng khi mâm cơm cúng dọn lên bàn bà tủi phận hờn dỗi ngồi khóc trong bếp bảo con: Ra gọi bố mày mặc áo vào lễ đi. Không hiểu sao bà vẫn nhớ những ngày giỗ, ngay cả những ngày họ hàng không ai nhớ đến? Trong nhà đã yên lắng, không khí bị đè nén dưới hơi nóng của đêm hè. Chiếc ra-đi-ô cũ đặt ở đầu giường ông cụ vọng ra một chương trình nhạc khiêu vũ liên tiếp, ngọn đèn dầu đã tắt, ông nằm đón nghe bản tin tức cuối cùng của đài con Nhạn, ông ngủ chung với hai đứa em giai. Trên phản gần cửa sổ ngoài, bà cụ nằm với ba đứa khác luôn tay quạt phành phạch. Mai nằm cạnh thở đều đặn, nhưng chắc chắn chưa ngủ, nó đang nghĩ ngợi mơ mộng một mình; buổi chiều trong khi nhà bận tíu tít nó biến mất mấy tiếng đồng hồ, Bích tin chắc Mai đến nơi hẹn với tình nhân, lúc trở về mặc bà cụ chửi rủa, nó cúi mặt không cãi lo tiếp tay dọn cỗ. Nó đã lớn mười bảy tuổi, bắt đầu yêu, không che được mắt Bích. Bích tự hỏi: người yêu của nó như thế nào?

Bích trở mình, lưng áo vừa thay sau khi tắm rửa đã thấm mồ hôi. Trên gác thoáng vọng tiếng cười nô. Một người từ nhà ngoài đi vào bếp, ngang gần nơi đầu phản nằm. Trong bóng mờ, ngực áo trắng của Mai phập phồng giấu kín một niềm vui riêng. Bích nghe da rít nhờn, muốn trở dậy sối nước tắm và rủ Mai ra ngoài hè ngồi hóng mát; giờ đã khuya, cửa ngoài đóng chặt, chỉ còn có thể ngồi ở sân sau nhìn lên một khoảnh trời nhỏ. Trong ra-đi-ô, bản tin tức bằng tiếng Pháp do một cô đầm đọc Bích nghe chẳng hiểu gì, chỉ thỉnh thoảng bắt chợt được một vài tên Việt-nam lơ lớ. Bất chợt nghe tiếng bà cụ hỏi vọng sang về công việc hàng họ trong ngày. Bích nói: “Con đang tính vài hôm nữa xuống Namịnh một chuyến… Nghe nói xe đạp bán dễ lắm. Để xem tình hình thế nào”. Bà cụ im như đang ngẫm nghĩ tính toán. Bản tin tức hết, ông cụ tắt máy, chui ra khỏi màn sỏ chân vào guốc đi đến bàn rót nước uống. Ông bảo Bích: “Mày phải cẩn thận. Lúc này là hỗn quân hỗn quan không biết đâu mà lường. Lỡ một cái thì khổ”. Bích nghe một tiếng cười ngắn không phải của mình, Mai vẫn nằm im làm bộ như ngủ say. Ông cụ lép nhép trong miệng, trở về giường. Mọi lần thế nào bà cụ cũng lên tiếng đối đáp nhưng cơn giận dỗi vẫn chưa tan, bà im lặng đợi ông vào trong màn mới tiếp tục hỏi chuyện Bích. Bà lo lắng không hiểu tình thế bấp bênh này kéo dài đến bao lâu, những chỗ quen thường giao hàng cho hai mẹ con bán trước trả tiền sau bây giờ đều đòi phải trả tiền trước, những chỗ tiêu thụ không chịu đưa tiền khi chưa nhận được hàng.

Tiếng bà cụ thưa dần, nặng chìm, tay quạt uể oải. Bích mở mắt trông lên đình màn trắng, xua đuổi những ý nghĩ lẩn quất như đám muỗi vo ve ngoài màn. Đêm đứng nặng không trôi, ngày tháng bị kéo trì u uất. Mai cựa mình quay nghiêng mặt, hơi thở thổi bên vai Bích. Một lát bỗng nghe tiếng hắng giọng khô khan của ông cụ, rồi bà cụ lên tiếng hỏi giọng tỉnh táo: “Lúc nãy ông nghe tin tức có gì không?” “Vẫn còn đang điều đình, chưa xong”. Bà cụ thở dài, lại im; ông cụ không nói thêm. Bích nằm ở phản giữa, khát nước nhưng ngại dậy uống phải nối thêm câu chuyện buồn tẻ. Bích nhắm mắt, mường tượng đến một phong cảnh nhiều cây cối dỗ giấc ngủ nhưng biết rằng giấc ngủ chưa đến…

Từ trên bao lơn nhìn xuống, hồ Halais sáng mờ không một ngọn gió. Một góc hồ gian nhà sàn gỗ trắng cho thuê thuyền lẫn trong đám cây đen đặc; Con đường đất bên kia hồ chạy ngang xóm nhà lá thưa, đầu tiếp giáp với phố ngôi nhà lầu ba tầng mới dựng xong nổi hiện trong ánh đèn đường lác đác. Sự im lặng như dồn tới từ khu Đấu-xảo, các dinh thự ở phía sau, tỏa lan trong khoảng rộng trước mặt.

Ông Kiêm nắm chặt thành bao lơn bằng đá mài nhẵn, tự nhủ: thành phố sẽ mất không thể cứu vãn. Sẽ mất như khu đồn điền rộng mấy chục mẫu nơi có thể nuôi sống hằng trăm đồng chí trong cả năm, với súng ống trang bị từng chống trả với Việt-Minh một tháng ròng rã. Ông tưởng như sắp khóc, không khí khô nhạt bám trên mặt. Những người trấn giữ đồn điền, số tử trận, số thoát thân lưu vong, số bị bắt, mười tám người bị buộc tội Việt-gian xử bắn ngay giữa chợ Phú-thọ, theo truyền thống đã hô lớn: Việt-nam muôn năm; ông gào lên trong nhà giam: Tại sao không bắn tao cùng với các đồng chí của tao? Tại sao? Tại sao một mình ông được trừ lại để may mắn được giải thoát nhờ cuộc hành quân của Pháp? Những người cách mạng thật sự chết sạch, còn lại một bọn đầu cơ chính trị lưu manh.

Thành phố ngủ say, lững lờ, không hy vọng. “Trăm phần trăm là từ vỹ tuyến 17 được cắt cho Cộng-sản. Chỉ còn một cách tổ chức vũ trang chống lại. Không thể để mất miền Bắc.” Ông quan sát từng bộ mặt gặp trong các cuộc họp, chờ xem phản ứng, và thất vọng. Khí giới lấy đâu? Tiền ở đâu? Cán bộ đâu? Chiến khu đâu? Liệu Pháp có chịu không? Mỹ có chịu không? Có đủ sức làm được việc gì hay lại thất bại chua cay như quá khứ? Thật chán nản với những bộ mặt quen, nhìn lâu ngày trong các phòng khách, thảo luận về chính phủ tương lai được sự ủng hộ của người Mỹ, lập trường đối với chính phủ ấy, những cuộc vận động của bè nhóm này nọ. Bọn quan lại thối nát, công chức đàng điếm, trí thức lẻo mép hèn nhát, chính trị hoạt đầu, bọn chờ thời cầu an, hãnh tiến, tiết tháo kiệt lực… tập hợp với nhau nhan nhản như bèo Nhật-bản. Không tìm đâu được một bạn đồng chí như ngày thanh niên.

“Nếu bố cháu còn sống cũng thế thôi. Cháu vẫn theo con đường đã chọn. Cháu có thể nói thẳng bác và bố cháu đã lầm khi bảo vệ cho một lý tưởng lỗi thời…” Ông Kiêm cay đắng. Hải nói, má nó bạnh ra căng thẳng, giọng vững mạnh u tối lẫn trong tiếng động cơ rung đều; ngoài cửa sổ mây trắng bay từng đùn che khuất màu xanh thẫm của rừng núi trùng điệp bên dưới. “… cái xã hội mục nát. Cháu đã đủ trưởng thành để suy xét. Thanh niên như chúng cháu không tìm được lòng tin ở nó…” Ông Kiêm nổi nóng: “Cháu chưa có kinh nghiệm gì hết về cái chủ nghĩa gọi là Cộng-sản. Sợ đến khi cháu tỉnh ngộ đã quá muộn. Cháu quên là bố cháu bị thủ tiêu hay sao?” “Cháu không quên. Vấn đề không phải là thù hận.” “Bác không bảo cháu báo thù. Cái chết của bố cháu không phải là một kinh nghiệm cho cháu hay sao?” “Có chứ. Cháu học kinh nghiệm ấy theo một cách khác. Người ta không thể nào vận động để kéo lui lịch sử…” Chiếc tàu lắc lư bay vào trong vùng gió động lùng bùng và những cơn mưa rào ngắn ngủi, ông ngả đầu vào lưng ghế mệt mỏi và già cả. Mặt của Hải nhìn nghiêng, đen đủi, chắc chắn giống bố như hệt; người bố mất tích đã bỏ rơi những đứa con lớn lên trong tay đối lập. Ông Kiêm cười buồn: “Cháu bướng giống như bố cháu ngày trước. Dạo ấy bác đã khuyên bố cháu lánh mặt một thời gian mà bố cháu không nghe”. Nếu Trúc còn sống để nghe những lời của Hải…

Hà-nội sẽ mất, ông Kiêm thở dài, lý tưởng mất theo những người chết không còn ai nhớ tới. Trong nhà giam, ông đã chứng kiến sự chia rẽ của hàng ngũ quốc gia tranh giành ảnh hưởng trước sự khuynh đảo uy hiếp của đối phương. Sài-gòn tan nát trong tình trạng sứ quân, đại hội toàn quốc họp dưới sự che chở của một tay anh chị đắc thời. Tình hình bi đát cùng cực, những kẻ khôn ngoan nhất đã sẵn sàng bỏ chạy sang Pháp. Sài-gòn cũng sẽ chẳng còn. Hải có lý của nó, mình đang làm những hành động tuyệt vọng.

Đằng sau lưng, gian phòng mở trong các cửa, đèn tắt, quạt máy quay tít trong bóng tối như tiếng phi cơ ở xa. Ngôi biệt thự hoang tịch như một nhà mồ.

Thạch đứng bên cạnh dãy thùng xếp dài từng đôi trước vòi nước không chảy, dưới chân những bực gạch dẫn lên Bến-nứa. Ở trên cùng những bực gạch, cột đèn của phố cao xoay lưng lại và một khoảng trời đốm sao. Cái ngõ ngắn không trải nhựa ướt lẹp nhẹp được soi sáng một đoạn bởi ánh đèn ngoài phố hàng Đậu. Gian gác cửa mở, ánh sáng từ phố trên chiếu chếch vào. Thạch cất tiếng gọi: Anh Nghiêm, anh Nghiêm, rồi im lặng phân vân, lắng tai nghe những tiếng động xa. Anh Nghiêm. Thạch gọi, cảm như không biết làm gì khác hơn để nghe tiếng của mình. Một bóng đàn bà đột ngột xuất hiện trong khung cửa sổ, quan sát vài giây rồi mới lên tiếng hỏi: “Ai đấy?” Có lẽ đó là vợ Nghiêm, Thạch bối rối ngập ngừng: “Tôi. Tôi hỏi anh Nghiêm. Anh Nghiêm có nhà không?” Người đàn bà vẫn đứng im một chỗ. Nhà dưới dường như có tiếng động của một người thức giấc. Người đàn bà biến mất trong khung cửa lúc lâu, Thạch đã định nhảy lên xe đạp đi luôn, đến đâu thì đến, cùng lắm xin vào ngủ nhờ quận cảnh sát.

Thạch giật mình, khi đèn trên gác bật thấy mình đứng phơi trong ánh sáng, nghe tiếng Nghiêm: “Ai hỏi gì thế?” Thạch cố nói lớn át sự ngượng nghịu: “Tôi, Thạch đây.” Nghiêm im, rồi bước ra bao lơn nhìn xuống. Thạch nhắc: “Thạch đây, anh nhớ không?” Nghiêm hỏi bực dọc: “Có việc gì cần không? Sao không để sáng mai. Giờ này mấy giờ rồi?” “Tôi không có chỗ ngủ. Anh cho tôi ngủ nhờ được không?” Nghiêm quay vào nhà bàn bạc với vợ và Thạch lại đứng đợi. Xe tuần cảnh chạy ầm ì ở trên cao không nhìn thấy bóng. Nghiêm trở ra bảo: “Anh dẫn xe vào lối sau, tôi xuống mở cửa cho.

Ngõ hẹp dẫn xe phải đi nép người. Nghiêm đã đứng trong cửa hỏi: “Anh Thạch đấy phải không? Đi đâu về mà khuya thế?” Thạch loay hoay nhấc xe vào trong sân ướt tìm chỗ dựng, đáp: “Tôi mới về Hà-nội không có chỗ ngủ”. Nghiêm đi trước dẫn lên thang, ngang qua gian phòng nhỏ khép cửa bên trong đèn sáng lục đục tiếng mở tủ, vào trong gian gác chính. “Lâu lắm không gặp ai trong bọn các anh”. Trên đi-văng hai đứa con Nghiêm ngủ với người làm. Ngoài bàn làm việc, tủ kệ sách và bộ bàn tiếp khách nhỏ, gian gác còn thừa những khoảng gạch trống. Nghiêm vào buồng lấy chiếu giải dưới cửa sổ ra ban công, tìm cách giúp Thạch mắc màn, xong ra ngồi bàn hút thuốc lào duỗi chân thảnh thơi. Thạch cảm thấy dễ chịu nhẹ nhõm, bớt thắc mắc, vẫn mặc nguyên quần áo đến ngồi vào ghế. Ánh đèn rực nóng. Thạch nhìn vẩn vơ lên những kệ sách chất nặng rồi nhìn Nghiêm mơ màng như trong cơn buồn ngủ.

“Anh đã ngủ lâu chưa?” Nghiêm mở mắt tỉnh táo, rót nước, ngắm nhìn dò đoán ý định. Nghiêm có hiểu được tôi muốn gì không? “Dạo này các anh ở đâu?” “Tôi đi lính. Cảnh ra ngoài, còn An ở dưới Hải Phòng. Tan tác, mỗi đứa một nơi…” Thạch ngừng ngang, không muốn thú nhận thêm tình cảnh lạc lõng của mình, Đồng hấp hối. Nghiêm hơi nhíu mày, đang lục trí nhớ về những người được nhắc đến. “Anh thế nào?” Thạch vội chữa lại câu hỏi: “Anh thấy tình hình thế nào?” “Anh ở trong nhà binh thì thấy rõ đấy. Về mặt quân sự Pháp thất bại hoàn toàn, bây giờ chắc chắn phải điều đình. Điều đình cách nào để không phải là đầu hàng. Nó sẽ phải dựa vào thế lực của Mỹ, quyền lợi của Anh muốn một phần nào ảnh hưởng của Cộng-sản đừng quá lan tràn nguy hiểm cho khối Thịnh-vượng Chung. Giải pháp chia đôi Việt-nam là của bọn Anh đưa ra. Hiện giờ chúng nó chỉ còn mặc cả với nhau về vỹ tuyến. 13, 16 hay 17 chưa biết? Vấn đề chính yếu còn lại là Việt-Minh có chấp nhận không khi đang thắng thế và có thể thắng trận hoàn toàn? Anh nghĩ xem? Chúng tôi nhận định như thế này: Việt-Minh có thể nhận vì chiến lược chung của toàn khối Cộng-sản. Chiến lược ấy là sau kinh nghiệm Cao-ly, sự bành trướng của Cộng-sản nằm trong chiến tranh lạnh, tránh những cơ hội gây chiến tranh nóng với Mỹ. Bởi thế chấp nhận điều đình là không cho Mỹ cơ hội can thiệp vào vì thấy tình thế nguy ngập, anh nhớ là ở Điện-biên-phủ Mỹ đã có ý định tham chiến cứu Pháp. Hơn nữa 10 năm kháng chiến cũng đã khá mệt, chiếm được một nửa lãnh thổ để cho cán bộ, quân đội nghỉ ngơi dưỡng sức cũng là điều tốt. Việt-Minh tin rằng sau đó nếu có tuyển cử chắc chắn sẽ thắng nhờ tổ chức dân chúng. Nếu không, lại tiếp tục chiến tranh, lần này với cơ sở, bàn đạp vững mạnh hơn sau những năm củng cố xây dựng chắc chắn mạnh hơn lúc này. Cho nên chúng tôi tin là Việt-Minh sẽ chấp nhận giải pháp chia đôi lãnh thổ. Trong con tính này mấy anh quốc gia bù nhìn bị gạt ra ngoài. Cũng đáng đời. Anh thấy đấy như tôi vẫn nói với các anh chiến tranh hay hòa bình, Việt-Minh không bao giờ đặt cứu cánh là dân tộc. Dân tộc này chỉ là phương tiện, vật hy sinh không hơn không kém… Mấy anh Quốc gia nhà ta thật khôi hài sắp chết đuối mới đòi đóng thuyền, họp đại hội để xin độc lập với Pháp, nghĩ là các anh có thể huy động dân chúng chống Cộng. Thứ nhất là không đời nào Pháp nó để cho chống Cộng nữa vì như thế phá hỏng cuộc điều đình, cái thân phận là khi nó cần chống Cộng thì các anh hãy chống, khi nó thôi các anh đòi chống vào cái khổ nào. Thứ hai là dân chúng cũng mệt mỏi, nếu có điều đình được thì cái chiêu bài Hòa-bình hấp dẫn hơn là một cuộc chiến đấu mà mục tiêu dân chỉ nhìn thấy là mấy ông chính trị gia phè phỡn. Thứ ba là Pháp đã phải nhường cho Mỹ ở đây, chống Cộng sau này là Mỹ chứ không phải là Pháp. Anh có nghe nói đến Ngôình Diệm không? Ngôình Diệm là người của Mỹ đã sửa soạn đưa về từ lâu. Hồi năm kia năm kìa gì đây một con mụ Mỹ trong phong trào Chính-phủ liên-bang hòa-bình thế-giới có sang Hà-nội dạy Ăng-Lê, hình như An có đi học với nó, trong các cuộc tiếp xúc với bọn trí thức Hà-nội có đặt câu hỏi: Ai có thể là lãnh tụ quốc gia thay thế được cho Bảo-Đại? Ngôình Diệm có được không? Lần này Pháp phải nhận cho Diệm là thủ tướng với nhiều quyền hành là bước đầu của Mỹ vào Việt-nam. Pháp rồi sẽ phải đi khỏi Việt-nam vì tình hình Bắc-Phi. Diệm sẽ được Mỹ ủng hộ để giữ phần đất còn lại… Đại khái nó như thế?” Thạch nói: “Buồn nhỉ. Thế phải làm gì?” “Dù thế nào thì trong mười năm nay và cả những năm sắp tới, dân tộc vẫn chưa bao giờ được đặt thành cứu cánh của tranh đấu. Mình vẫn phải tranh đấu cho nó.” Lần này Thạch không cười riễu như trước kia. Ngoài cửa sổ những mái ngói lô xô ngang dọc trong bóng đêm, một ngọn đèn ngoài phố Hàng Đậu nhô giữa hai mái nhà. Không khí mát mẻ hơn, gió từ ngoài sông thổi luồn nhẹ. Dân tộc này… Thạch lắng nghe âm vang mơ hồ, tôi chỉ cần những bè bạn. Thạch bỗng nói: “Khi nói dân tộc không thể nói một cách trừu tượng. Trong dân tộc phải không có mặt những phần tử nào đó thí dụ như mấy anh quốc gia ăn cắp… Muốn trở thành một lý tưởng, một sự thật, phải có những người chết cho nó, vì nó mà phải loại trừ. Tại sao các anh không tổ chức loại trừ những bọn ấy. Tôi nghĩ cần hành động, tôi sẵn sàng gia nhập với các anh nếu các anh bắt đầu bằng loại trừ. Định nghĩa bằng sự loại trừ… Anh đồng ý không? Tôi đã đào ngũ rồi, không còn gì ràng buộc…” Nghiêm mỉm cười bình tĩnh: “Không phải không dám làm. Nhưng vấn đề gì cũng cần cứu xét tường tận và phải thảo luận kỹ. Hoạt động cách mạng không phải là hoạt động cá nhân, bốc đồng… Hiện chúng tôi có dự định sẽ ném lựu đạn vào tòa lãnh sự Anh cho chúng nó biết mặt. Thí dụ như thế anh có làm được không?” “Đó là trò chơi hằng ngày trong mấy năm nay của tôi. Tôi làm cho.” Nghiêm lẳng lặng một hồi, thong thả đứng lên bảo: “Thôi mình đi ngủ. Còn nhiều chuyện để mai nói.

Nghiêm đi vào góc tường tắt đèn, Thạch vẫn ngồi im trên ghế, trời bên ngoài xám nhạt xâu kín vô cùng trong tiếng gió nhẹ lao xao. Đi ngủ đi, tiếng của Nghiêm trước khi vào buồng riêng. Gian gác mờ ảo trong ánh sáng của điện đường chiếu vào, Thạch ngơ ngẩn mệt mỏi, mặt nặng chĩu không rời chỗ.

Suốt đêm Bích thao thức trằn trọc, gian buồng ngột ngạt hơi người. Ý nghĩ lập lờ ẩn hiện như bóng tối bóng sáng bay tan trong mắt lúc mở lúc khép. Những ngày không trôi xuôi nữa, đột ngột chặn đứng lại năm tháng đã qua, những năm tháng buồn tẻ bỗng hiện lên lần cuối cùng trước khi tan biến mất nhường chỗ cho một tương lai lạ mặt; những ngày chờ đợi như miệng vực sâu bị đẩy nhảy qua lúc nào không hay. Rồi cái gia đình gần mười miệng ăn không một người có công việc nhất định sẽ sống ra sao? Còn mình nữa, đã hai mươi sáu tuổi đầu… Tôi vẫn sống hằng ngày đều đặn như mọi việc mãi mãi yên ổn, những chật vật khổ cực cũng là một tình trạng quen thuộc không đếm xỉa đến nữa, chẳng bao giờ đổi thay. Nhưng bây giờ, như buổi đầu lếch thếch bồng bế nhau tản cư, dắt díu nhau hồi cư, lại sắp phải sửa soạn đón nhận cảnh ngộ mới. Chưa lúc nào Bích cảm nhận rõ ràng hơn lúc này nỗi bấp bênh trôi dạt của đời sống, đời sống mòn mỏi trong đưa đẩy của chiến tranh trong bất trắc của tình thế.

Trời chưa sáng, những người ở chung đã thức, xuống bếp đi qua ở trên đầu. Bích không thể nằm lại, chưa ngày nào được như thế, nghe buổi sáng lên không thèm dậy, dù giấc ngủ thiếu thốn làm đầu óc nghiêng nặng. Bích lay gọi hai ba lần Mai mới mở nổi mắt bước xuống khỏi phản, nó còn ngồi ngẩn một lúc trên ghế mới tỉnh ngủ. Tiếng ngáy khò khi tắc nghẽn của ông bố như cổ mắc vướng đàm, giấc ngủ của ông nặng nhọc thảm hại; Bích nghĩ đến những bữa thiếu thuốc ông vật vã quằn quại trên giường trước mặt mọi người như con thằn lằn gầy xác đứt đuôi.

Ngoài sân trời mờ nhạt, thoáng nhẹ hơn trong nhà. Mai đã nhóm xong bếp, bắc ấm, đang rửa bình bên bể nước. Hai ba người đứng lấp trong bóng tối, đợi trước hai nhà cầu chung. Trong bếp bóng đàn bà ngồi ngây trước bếp lửa. Tiếng người nhắc hỏi nhau về ngày tháng. Bích tìm chiếc ghế con ngồi tựa lưng vào tường, ngửa mặt trong buổi sáng sớm bắt đầu oi bức, muốn quên hết mọi điều, nghe thấp thoáng một người nào đi vào trong nhà nói: Hôm nay chủ nhật. Ngoài phố, những chuyến tàu điện đầu tiên chạy ngang.

Mai đến đứng ở bên cạnh lúc nào hỏi: “Sáng nay chị đi đâu không? Em đi với”. Bích giật mình ngơ ngác tự hỏi: đi đâu; mỗi buổi sáng, mỗi buổi trưa, mỗi buổi tối hai mẹ con chia tay, sách làn, đi ra đường không mục đích rõ rệt, đến những nhà quen, ngồi truyện trò tầm phào trông ngóng một món hàng được giao chạy ăn hoa hồng, từ nhà này qua nhà khác khắp trong thành phố không biết trước sẽ phải đi những đâu lúc nào có thể trở về. “Ai ở nhà thổi cơm?” “Em sẽ về sớm mà.” Bích mỉm cười, nghĩ dịu dàng: đích thị cu cậu hẹn hò với ai, nhưng vẫn hỏi: “Mày đi đâu?” Mai bối rối, Bích ngửng nhìn chằm chằm vào Mai mặc dầu không trông rõ nét mặt. Mai đáp đến thăm một đứa bạn ốm nặng. Bích cười thầm, không tra hỏi thêm, nó nói dối vụng về không giấu được ai.

Trời sáng nhanh, gian phòng bề bộn tức mắt, dây giăng chi chít ngang lối, màu trắng ngả màu bẩn thỉu, chỉ một lúc đã tưởng như sắp nắng lớn. Bích đứng chải tóc trước gương treo trên tường nhìn cảnh tượng hỗn độn sau lưng trong giấc ngủ mệt vớt vát của một đêm hè dài. Bích đã mặc xong áo dài, ngồi vào bàn uống nước đợi Mai gỡ đầu, ông bố mới thức dậy chống tay nghiêng nửa mình bật lửa châm ngọn đèn trên khay thuốc đặt ở ghế sát cạnh giường nằm. Mọi người sắp sửa thức dậy hết và gian nhà sẽ ầm ĩ như chợ với cả những bầy trẻ con không phải đến trường. Bích đến đứng bên đầu giường mẹ bảo: “Con đi phố. Con Mai nó đi với con…” Bà cụ trở mình uể oải hỏi: “Con Mai đi làm gì?”, bà hỏi nhưng không tỉnh để nghe đáp; sau mỗi bữa giỗ, ít nhất bà cũng bị ốm một ngày. Mai nháy mắt làm hiệu với Bích đừng chần chừ đợi bà tỉnh.

Ở ngoài hè, Bích lại hỏi: “Mày đi đâu?” Mai đáp xuống chợ Hôm, hỏi xin tiền Bích. Bích dặn Mai phải nhớ về nhà trước mười giờ. Mai bước vội trên hè như sợ bị người ngăn trở gọi về. Còn một mình Bích không có ý định nào rõ rệt, vừa buồn ngủ vừa chán nản không muốn trở lại những nơi đã quá quen cũng ở trong tình trạng bế tắc hồi đầu tháng sáu đến nay. Bích thèm được một gian buồng yên tĩnh biệt lập, nằm ngủ hết buổi sáng, một mình không sợ bị ai khuấy động phiền nhiễu, buổi sáng chủ nhật nhộn nhịp trong ánh nắng hạ, khi thức giấc chỉ nghe tiếng ve kêu ran trên hàng cây ngoài đường, mơ mộng lười biếng; gian buồng như của Ngọc trên gác một ngôi nhà cuối phố Sinh-từ có thể nhìn sang Văn-miếu với mái cổ kính, khoảng sân cỏ và những lối đi không người. Có lẽ cả năm nay Bích chỉ gặp Ngọc một hai lần ngoài phố; đến ba bốn năm nay rồi trên những chuyến tàu xuôi ngược, Cẩm-giàng – Hà-nội, hằng ngày Bích cùng đi với Ngọc, với Hương, với Liên từ sáng tới sớm đến chiều tối. Hương đã lấy chồng công chức yên phận vẫn ở nhà cũ ngõ hẻm Hai bà Trưng với mẹ, chắc đã hết hoạt động cho kháng chiến. Liên sau lần gặp cuối năm kia cũng không còn dịp gặp lại. Những sự đổi thay vẫn xảy ra xung quanh, trong đời mình không chú ý, một lúc hồi tưởng nghe rơi hẫng trong lòng những cảm xúc không thành tựu.

Ngọc mừng rỡ gặp lại Bích: “Chị Bích. Lâu quá.”, trong bốn người những ngày còn đi chợ Ngọc được coi là em Út. Ngọc kéo tay Bích đứng lên thềm, tránh lối cho chiếc xe ô-tô từ trong nhà ra cổng; ông bố Ngọc tươi cười vẫy tay chào. Ngọc vừa nắm lôi Bích vào phòng khách vừa nói: “May quá. Em cũng định sẽ phải xuống chị… Hôm qua em gặp chị Liên ngoài bờ hồ. Chị ấy hẹn sáng nay đến em. Chị đến đây thật vừa dịp. Chị ở đây chơi đợi chị Liên”. Bích ngắm Ngọc tươi cười ríu rít, chạy ra chạy vào tiếp đãi: Ngọc trẻ và đẹp ra, phòng khách trông sang trọng mới lạ hơn trước nhưng Bích không nhớ được nó đã thay những món vật gì. Màu tường hình như sáng mát hơn không phải màu ngày trước? Ngọc nói: “Gia đình em sắp vào Tourane. Có lẽ chỉ độ tháng sau. Thế nào chị em mình cũng phải họp mặt một hôm để từ biệt.” Ông bố Ngọc thầu cho nhà binh Pháp và đi theo công việc làm ăn của ông. Bích mỉm cười lơ đãng, chờ. Ngọc rủ mình lên gác ra ngồi ngoài bao lơn nhìn xuống Văn-miếu. Bỗng nhiên Ngọc hỏi bằng giọng tinh nghịch: “Em lấy chồng, chị mừng gì nào? Chị còn nhớ ngày trước chị hứa những gì không?” Bích tự hỏi: mình đã hứa những gì với Ngọc, và lắc đầu. “Chị không nhớ thì thôi. Nói thế chứ chị em mình gặp nhau là mừng. Chúng em sẽ làm đám cưới trước khi vào Tourane. Anh ấy thầu chung với cậu em. Mấy hôm nữa in thiếp xong, em sẽ đưa xuống chị. Thế nào chị cũng đi phù dâu cho em. Nếu không kiêng em định mời cả chị Hương, chị Liên làm phù dâu thì thật đông đủ. Tên anh ấy là Lân”. Bích không hiểu sao mình lại hỏi tên người đàn ông sắp cưới Ngọc; Lân, thật là vô nghĩa, có biết thêm cái tên ấy cũng chẳng rõ được điều gì. Bích cũng có ý nán chờ Liên, nhưng Liên không lại. Vào lúc hơn mười giờ, Lân đến đón Ngọc đi phố. Người đàn ông gầy gò, khuôn mặt bội bạc, nước da xanh mái trác táng, cặp mắt nhỏ lanh lẹn, đôi môi mỏng, cử chỉ không thành thật, chẳng mảy may nào giống cái hình ảnh mơ mộng của Ngọc thường tâm sự, trên toa tàu bẩn thỉu trống gió và nắng triền miên như cơn buồn bã hiu quạnh trong tiếng động quen tai nối liền ngày tháng.

Bích từ chối không đi cùng Ngọc trên xe của Lân, lủi thủi trên hè phố Sinh-từ, con phố náo nhiệt, nhơ nhớp, bụi bậm, trong ánh nắng bắt đầu chói rực.

Liêm đặt chiếc va-ly lớn xuống đất, quay vào trong một lần nữa nói với mẹ Hải: Cháu đi; bà cụ vẫn đứng nơi góc phản nhìn theo, Hải tránh mặt bỏ đi từ sáng sớm; buổi sáng khi Liêm báo cho Hải biết sẽ đến ở nhà ông Phạm, Hải cau mày tỏ vẻ giận dỗi vì không hề được biết trước ý định của Liêm; Buổi sáng ồn ào ngoài ngõ đã lắng dịu, bọn trẻ con trốn nắng đã ra tụ tập ngoài sân chùa quanh mấy gốc đa. Mẹ Hải đưa chân Liêm ra khỏi sân nhà, đứng lại bên bờ vũng rau muống dặn nếu còn ở Hà-nội ngày nghỉ xuống chơi. Liêm cũng nhắc bà về chiếc va-ly nhỏ để lại cho Hải dùng, yêu cầu bà ngăn Hải không cho mang trả mình. “Bác bảo Hải, là kỷ niệm của cháu gửi cho Hải. Cháu đựng một va-ly quá thừa.” Quần áo, đồ vật ngày ở Sài-gòn ra không hiểu có những gì mà chứa đầy hai v-ly, Liêm không nhớ nổi.

Liêm chậm chạp trong ngõ, nhìn vào trong các gian nhà lụp xụp vắng vẻ. Bãi đất trước chùa ngút nắng, trong sân chùa đoàn sói họp bọn dưới gốc đa đang ca hát, lũ trẻ nghèo đứng ngoài xem. Liêm phải đi bộ thêm một đoạn phố nhiều cây rợp trước nghĩa trang ra phố Huế đón tàu điện. Trong túi Liêm còn hơn hai trăm bạc, không hiểu ông Phạm sẽ trả giá công việc như thế nào; nhớ lại lần gặp trước, có lẽ ông muốn coi Liêm như người nhà, cho ăn ở, trông nom việc thu dọn và sẽ đi tàu biển theo đồ gửi, Liêm nghĩ: thế nào cũng được, miễn vào đến Sài-gòn là xong, ở đó sẽ tính lại, làm lại cuộc đời. Trên chuyến tàu điện từ Bạch-mai vào, Liêm đứng lẫn ở toa sau giữa những người nhà quê buôn bán quanh quẩn mấy chợ ngoại ô nghe họ bàn tán về tình hình biến chuyển, mọi người đều hy vọng chiến tranh chấm dứt tưởng tượng cảnh thái bình trong những ngày tới, đó là những ngày của một thời đã qua rất xa trong trí tưởng tượng mọi người. Một người đàn ông ăn mặc xuềnh xoàng kiểu một tư chức, áo sơ-mi ngắn tay, quần nhầu nát, chân đi dép cao-su, tự nhiên xen lời nói bâng quơ với người bên cạnh: “Không có đánh nhau chưa chắc đã là yên đâu bà ơi.” Câu nói của người đàn ông chêm vào khiến mọi người yên lặng vài giây, rồi ồn lên cãi vã, Liêm tưởng như không bao giờ dứt, về những chuyện đấu tố, dân công, đói kém, nghèo khổ… người nói có, kẻ bảo không, không ai chịu ai. Đột nhiên ở giữa toa, truyền đơn được ném ra làm nhốn nháo cả toa, một người thanh niên len qua mặt Liêm nhảy xuống đường, tàu đang chạy giữa phố Đồng Khánh, suýt bị người đi xe đạp, anh ta nhảy ba bước vào hè dưới mái hiên Godard lẫn trong đám đông dạo phố và đi thong dong nhàn tản. Liêm còn ngoái cổ nhìn theo mãi người thanh niên ném truyền đơn cho đến khi khuất dạng trong đường phố náo nhiệt ngày chủ nhật, nhớ tưởng lại những ngày đầu hoạt động ở Sài-gòn với cái thú mạo hiểm lâu không được hưởng. Truyền đơn tố cáo những âm mưu quốc tế chia đôi lãnh thổ, kêu gọi dân chúng sẵn sàng chiến đấu cho nền độc lập và toàn vẹn của đất nước, không thấy ký tên.

Bờ Hồ nườm nượp người, một vài gia đình từ vùng quê lên ngồi xệp trên đất với gồng gánh lơ láo, trẻ con thả rong chạy theo xin tiền người qua lại. Thành phố bắt đầu mở ngỏ, những trạm tiếp đón ở các ngôi trường nghỉ hè không đủ sức chứa dân chạy loạn. Liêm xuống tàu điện, đi bộ vào hàng Bông, theo sau một người đàn bà gánh hai đứa con nhỏ trong cái thúng nhìn ngơ ngác vào trong các nhà như tìm kiếm người quen. Thỉnh thoảng một vài người qua đường, ngồi sau cái tủ hàng liếc nhìn làm như không chú ý, Liêm nhận rõ mình cũng được nhìn bằng tia mắt tương tự. Trước cửa nhà ông Phạm, một đám người tụ tập huyên náo ngoài vỉa hè, người ta tranh giành mua những đống sách báo cũ; ông Phạm đứng chấn cửa trông cho mấy đứa con bán. Thấy Liêm, ông bảo: “Chú đến đấy à? Cất va-ly, giúp tôi một tay.” Liêm len qua hai người đàn bà đang mà cả, bước qua những chồng sách mang va ly vào trong. Gian nhà hầm nơi làm việc của ông Phạm trống trải, mấy gia đình dưới quê lên tạm trú không còn đấy; bàn giấy bỏ không, những hộp chữ đã đóng thùng, chỉ có chiếc máy in mới tháo rời một vài bộ phận xếp dọc theo chân tường. Liêm trở ra, theo lời ông Phạm, lên nhà trên khuân những quyển sách đóng bìa da hẳn hoi được lấy từ trong tủ sách của ông xuống, tủ sách của ông phải đến hai ba trăm quyển ông chỉ giữ lại mươi lăm bộ không bán. Liêm nghĩ bụng vài mươi năm của đời ông chưa đọc hết số sách, chắc chắn có những quyển chưa giở đến lần nào. Lom khom một lúc để truyền sách cho người mua, Liêm hơi chóng mặt, phải đứng thẳng lên và bắt gặp trong đám người vây quanh bên ngoài nét mặt quen thuộc đã lâu ngày, nét mặt gặp một lần nhưng không thể nào quên được: đó là anh chàng thanh niên đã gặp dưới Hải-phòng tối ba mươi Tết ngày mới ở Sài-gòn ra. Không thể lầm được, anh chàng già còm thiểu não hơn, nhưng Liêm không thể lầm được; anh kiễng chân qua vai người đứng trước nhìn xuống đám sách bừa bãi trên đất cố gắng đọc những hàng tựa ở gáy chữ mạ đã xỉn cũ. Liêm đợi cho anh chàng ngửng lên, mỉm cười muốn nhắc nhở, nhưng anh mải nhìn ông Phạm không thấy, rồi lại cúi xuống. Lần thứ hai anh chàng nhận được Liêm cười với anh, anh nhe răng cười đáp một cách ngượng nghịu xong ngoảnh mặt dòm xung quanh, Liêm muốn gọi nhưng không nhớ được tên anh ta. Liêm lại cúi xuống cố lục lọi trí nhớ, mỗi lần truyền sách ra ngoài Liêm lại đưa mắt trông chừng xem anh chàng có nhớ được ra mình không; anh ta vẫn đứng im một chỗ hỏi mượn những người đã mua một vài quyển lật giở xem, thỉnh thoảng cũng nhìn vào chỗ Liêm. Đêm giao thừa ấy, anh chàng đã uống rượu say, nôn mửa ngồi ôm mặt khóc một mình, anh ta không nhớ được gì, lúc Liêm bỏ ra ga hãy còn nằm xanh xám như xác chết; Liêm có muốn gợi lại kỷ niệm anh ta cũng sẽ đến ngơ ngác thôi. Cái người mà anh đã gặp đối với anh chỉ là cái bóng tình cờ không mặt mũi trong đêm cuối năm buốt giá. Anh ta đã nói những gì? Hình như tôi đã từ chối không nghe tâm sự của người lạ mặt.

Liêm nhìn theo mắt của người thanh niên, nhặt quyển sách dưới chân cầm lên tay, cười hỏi ý và chìa đưa cho anh bảo: “Anh xem đi”. Anh chàng ngửng nhìn Liêm đỡ lấy quyển sách, ông Phạm và hai đứa con ông bận đếm sách tính tiền không chú ý. Liêm chăm chú theo rõi, anh chàng quay ngang mình như tránh sự thúc ép của hai người đứng cạnh đưa quyển sách đã giở lên cao, liếc nhanh về phía Liêm. Liêm cười một lần nữa hy vọng anh sắp sửa nhận ra người quen nhưng anh lại cúi mắt vào trang sách. Không biết vô tình hay hữu ý, anh thụt lui mấy bước đứng tách ra ngoài giữa vỉa hè, tay vẫn lật sách đọc. Một chốc Liêm thấy anh chàng kiễng gót nhưng không rời chỗ đứng nhìn vào, rồi quay người đi kẹp quyển sách bên nách rảo bước. Liêm nghiêng đầu trông theo phía sau lưng, chiếc áo nhăn nhúm vàng khè tuột một khúc lòng thòng ra ngoài quần, đỏ bừng mặt ngượng nghịu như chính mình đã lấy quyển sách. Một người đàn bà đứng ngoài nhanh nhẩu mách: “Kìa, cái anh kia lấy sách của ông” Liêm tảng lờ như không nghe, nhưng hai đứa con ông Phạm đã hỏi lớn: “Đâu? Đâu? Ai lấy?” Mọi người đều quay nhìn ra ngoài, Liêm nhanh chân chạy ra ngoài hè nhìn lên phía hàng Bông nhưng đã không còn thấy bóng dáng anh chàng thanh niên. Liêm nói át sự lúng túng của mình: “Có lẽ là quyển sách tôi đưa cho anh ta xem.” Một đứa con trai ông Phạm chưa chịu buông tha: “Có lẽ nó rẽ vào ngõ Hội-vũ” và chạy đuổi theo. Ông Phạm bảo: “Thôi tạm nghỉ sửa soạn ăn cơm. Chiều bán nốt.” Đứa con trai trở về hậm hực vì không bắt được tên kẻ cắp, ông Phạm nói với nó: “Thôi mất một quyển ăn thua gì”. Mấy người mua sách quẩy gánh đi tản mác trong khi một mình Liêm khuân đống sách chưa bán vào trong nhà, Liêm nghĩ: anh chàng trông ngù ngờ mà chạy thật nhanh. Không hiểu anh ta lấy được quyển gì, Liêm không kịp đọc nhan đề lúc đưa cho anh, quyển gì giỏi lắm cũng chỉ bán được vài chục bạc là cùng. Không hiểu khi anh chàng đã no thuốc sáng suốt có nhớ ra được mình không? Liêm nhìn qua đống rác bên bờ tường nhà thương. Không, chưa bao giờ tôi là kỷ niệm của một ai, anh ta sẽ chẳng thể nhớ ra nổi khuôn mặt xa lạ giống như mọi người.

CHƯƠNG III

An bước nhanh lách mình qua cánh cổng sắt mở hé, đi qua giữa ba người thanh niên đứng cách xa nhau ngoài sân, đẩy cánh cửa gỗ vào trong đường ngách tiểu tiện trước nhà cầu ở sâu cùng; ngách nằm giữa hai bức tường khai nồng nặc, bức tường ngoài cao hơn bức trong sân trồng mảnh chai lởm chởm. An chống một tay vào tường, ngăn hơi thở dồn; ngoài sân ba người thanh niên ngưng bỏ câu chuyện đang sôi nổi, ngoài đường tiếng chân chạy vượt qua ngôi biệt thự đến ga-ra ở đoạn ngõ quành, kèn hát vụt nổi cùng tiếng chân lệt sệt lê trên sàn gỗ trong gian buồng kín mít mù ám khói thuốc. Vẫn những đĩa hát cũ mấy năm trước quay tròn không biết bao nhiêu lần trong ngày, những hình bóng luần quần gặp gỡ, An nghe cay bên khóe mắt, lớp khiêu vũ tối tăm như chiếc hộp đóng nắp ru những cảm xúc đột khởi dẫy dụa chốc lát choáng ngộp hết hiện tại; Phúc đã ngồi trong mờ chật đặc tiếng động không mặt mũi tôi đã ôm lấy kéo ra nhận làm Định-mệnh. Bọn thanh niên ở ngoài cãi nhau to tiếng như muốn át tiếng kèn hát, như nhắc ta trên đường về… ngàn tre xa xa… Mùa đông lạnh buốt nỉ non nhàm nhạt như những xúc động mòn, tôi thì tôi không chịu nổi… lịch sử không phải một bộ máy nghiến nát cá nhân… như thế là cá nhân chủ nghĩa, thì sao? Những gì trong tiến hóa đã đạt được không thể tiêu hủy trong phút chốc, chắc gì cái sẽ tới tốt hơn… ngụy biện, ngụy biện, anh xử dụng tư tưởng như chiếc mộc che đỡ, tư tưởng không là gì cả trước thực tế… Một người đàn ông đẩy cửa vào kêu “ô” khẽ, đi qua sau lưng vào nhà cầu, thơm lừng mùi nước hoa ủ trên quần áo, An cúi mặt nhìn vũng nước váng bọt trong rãnh liếc thấy ống quần thẳng nếp trên đôi giầy hai màu.

An mở cửa, bước ra sân. Ba người thanh niên đứng giăng hàng trước cổng quay lưng lại; trên ban công gian gác trước mặt một thiếu nữ đứng gập người chống tay trên bờ gạch ngoảnh mặt nhìn về đầu ngõ. An nhớ rõ những ngày lui tới lớp khiêu vũ, nhà trước mặt của một viên cựu tri phủ, chuyên bắt người làm cởi giầy rửa chân ngay trước buồng khách để cửa mở những buổi chiều mùa đông tối sớm; đã nghĩ: hắn có thể là ông bố, ông bố vợ chẳng hạn. Người thiếu nữ chải chuốt sạch sẽ thơm tho như một bó hoa trong buồng khách thanh lịch, Phúc thèm muốn trở thành không bao giờ đạt, người ta không thể vượt khỏi cảnh ngộ giam cầm, nó tưởng nó sẽ thế này hay thế khác rốt cuộc nó vẫn hoàn nguyên về vị trí cũ… Còn tôi? Tôi đã trở thành một người khác trong Định-mệnh lựa chọn, những dây ràng buộc tự trói không phải chịu nhận. An kéo quyển sách cặp chặt lên nách, đầu cúi gằm xuống, len qua khe hở giữa hai người đứng khiến cả hai đều xoay ngang nhìn, rẽ về phía trái; một người đang nói: anh có biết thế nào là đại táo, trung táo, tiểu táo, đặc táo không? Bộc lộ thành khẩn, phê và tự phê, kiểm thảo và tự kiểm thảo, mea culpa… những hình thức khuynh đảo tinh thần kiểu Trung-Cổ của Thiên-Chúa-giáo để triệt hạ những đầu óc độc lập. Mea culpa, An lầm lũi bước nhanh, hình dáng tôi đang ở trong tầm mắt của người thiếu nữ đứng trên ban-công, một người nghiện ngập mạt hạng trong xã hội, cô ta nhìn ngó và nghe câu chuyện của mấy anh chàng thanh niên hăng hái. Như mình ngày nào, một đoạn đời trước, tôi muốn được nhìn bằng mắt của ai? Của những đứa bạn thân nhất. Đồng, Thạch, Cảnh… bây giờ tôi ở ngoài tầm mắt của chúng nó, không đứa nào nhìn được đứa nào, chỉ còn tôi lại nhìn tôi. Và tôi đã quên thói quen, mất lúc nào lòng kiêu hãnh để tự nhìn soi mình. Phúc đã làm quên hay thuốc phiện? Sự từ chối hay sự chấp nhận hóa thành buông thả trong lôi cuốn hằng ngày của những nhu cầu ở ngoài mình. Quỵ lụy đê hèn, vô nhân phẩm hay không cũng đến thế thôi.

An dừng lại trước cửa hiệu sách đầu phố Trường-thi, bóng mặt hiện lên kính tủ trên nền đám lá cây bên đường gầy gò hốc hác như một người đói năm Ất Dậu, trong tủ kính lơ thơ vài quyển sách bầy hàng bụi phủ. Các cửa hiệu buôn bán đã nghỉ trưa, phố xá đang lắng chìm xuống trong cơn nắng ngùn ngụt bốc lên. Tôi đang nhìn tôi sau những ngày đã sống. Những ngày đã sống. Như thế gọi được là sống chăng? Ngày tháng tiêu mòn trong một trò chơi hấp dẫn cả trí tuệ lẫn cảm xúc; trò chơi nào cũng như nhau: lý tưởng, hành động, đàn bà hay một thú đam mê vô nghĩa. Một trò chơi bắt đầu với đầy đủ ý thức, tận cùng bằng sự mê sảng hoàn toàn, bị lôi cuốn dìm ngập không ngoi thoát. Phải không? Khi tỉnh táo đời sống bị hút mất tuyệt tích. Nhưng tôi có đầy đủ ý thức lúc bắt đầu không? Cảnh và Thạch đều bảo: Vô ích, cậu là đứa con của giai cấp tư sản, dù là đứa con hoang chăng nữa. Còn chúng nó? Ánh nắng gay gắt chiếu qua lá cây lấp lóe trên mặt kính làm nhức mắt, tiếng ve kêu trong cuối hàng cây phía xa. Những ngày đã sống, vẫn còn, vẫn đón đằng trước, vẫn ở trong chính giây phút này không chia rời; Phúc đã ra khơi, một mình nó quyết định, ném trả tôi, nó không có một chút trách nhiệm. Không hờn giận, không đau đớn. Hay không đủ sức?

An băng ngang vườn hoa Cửa Nam, ngáp chảy nước mắt, chân tay mỏi rã như sắp long các khớp xương nghe văng vẳng tiếng gọi ở phía sau: Anh An, anh An. An quay lại, lúng túng đánh rơi cuốn sách, mồ hôi và hơi thở che mờ cả mắt, lúc ngửng lên thấy Nga đang đi gần tới. Anh An phải không? An cố giữ vẻ điềm tĩnh xa lạ muốn không nhận, nhưng đầu óc chậm chạp không thể phản ứng, tay phủi phủi những hạt cát bám trên bìa sách. Nga dừng bước vừa thở vừa nén ép nỗi kinh ngạc trong im lặng, hai mắt mở chiếu thẳng vào mặt An.

– Anh An phải không?

An gật đầu, rút chiếc khăn tay nhầu nát lau mồ hôi trán, ngó lảng phía sau lưng Nga. Nga đột nhiên cũng bối rối không biết phải làm gì nữa. An dợm quay bước, Nga hoảng sợ:

– Anh đi đâu đấy?

Đi đâu? An cố ngăn giữ không cho há miệng ngáp, hai bên quai hàm căng bạnh mỏi nhừ. Trên khuôn cỏ loang lổ ánh nắng, núp sau lưng chiếc ghế đá dài, một gia đình quê mùa gồm hai vợ chồng, ba đứa con nhỏ, lớn nhất chừng năm sáu tuổi, một đôi quang gánh, đang ngồi ăn cơm trong những chiếc đĩa nhôm.

– Vào trong kia cho mát, anh.

Nga đi trước, sang đường trong tiệm kem không có khách, chọn một cái bàn ở giữa khoảng từ cửa và quầy thu tiền, kéo ghế ngồi quay mặt nhìn ra ngoài. Từ ngoài nắng bước vào, mắt tối xầm, đầu mệt nặng thêm, An vội chống khuỷu tay lên bàn, úp hai bàn tay che mặt, ngáp mạnh nghe xương cốt kêu rắc. Rời hai bàn tay khỏi mắt, An bắt gặp Nga ngồi ngây mắt mọng đỏ, không hiểu vì say nắng hay sắp khóc, trông nó khỏe mạnh tươi tắn không còn vẻ bệnh hoạn, màu áo vàng chói quý phái. Đứa bé bồi bàn khoảng mười một mười hai tuổi quần áo tề chỉnh chắp hai tay đứng cạnh Nga như người lớn trông buồn cười, chân đi giầy buộc giây hẳn hoi.

– Anh uống gì?

Cổ họng kho đắng, miệng nhạt nhẽo, An cúi đọc bản liệt kê thức uống đánh máy lót dưới mặt kính.

– Cái gì cũng được.

An lúng túng không chọn được tiếng gọi Nga, không thể gọi nó bằng mày thân mật hách dịch được nữa. Nga cầm quyển sách lật giở vài trang lơ đãng, nét mặt đăm chiêu khó xử. Nó không biết mở đầu thế nào, giữa nó và tôi còn mối liên hệ nào không? Có lẽ nó muốn tôi lên tiếng trước, hỏi chuyện gia đình. Gia đình, bố mẹ, anh em, chẳng quan hệ gì đến tôi đã từ lâu. Những mối quan hệ vô nghĩa. Nhìn xem, nhìn kỹ xem, tôi là người nào.

– Từ dạo ấy anh ở đâu?

An nhìn bàn tay cáu bẩn bụi đất, những kẽ ghét bám từng vệt rõ ràng, những lằn chỉ trong lòng bàn tay bôi đen. Ở đâu cũng không quan hệ, điều hiển nhiên là không ở trong gia đình.

– Dưới Hải-phòng.

– Anh làm gì?

An mỉm cười, câu hỏi thừa, nó dư biết, nó biết ngay từ lúc nhận diện. Làm gì? Lúc nào và bất cứ ai cũng chỉ một câu hỏi ấy. Làm gì? Đã làm gì trong tuổi thanh niên, đã sống như thế nào? An dùn vai lắc đầu, sống là không ân hận không nhớ tiếc. Nga cầm chiếc ống hút khuấy trong cốc sữa trắng bông, An ực hai hơi cạn đến đáy cốc. An ngửng đầu nhìn rõ hai dòng nước mắt lăn trên má Nga, nhếch mép cười. Em thương hại anh ư? Anh không cần sự thương hại. Tôi không đi tìm sự thương hại tôi có dư.

– Sao?

An không nhìn nữa, ngửa cổ xem chiếc quạt trần quay tít trên cao. Cửa hiệu dài hẹp, hai dãy bàn vuông ghế từng đôi sát hai bên tường. Nga rút khăn tay thấm nước mắt, sụt sịt mũi không giấu diếm.

– Cậu mợ cũng về Hà-nội…

Sao nữa? Tôi cũng về Hà-nội, tôi cũng về thành phố nhiều kỷ niệm nhưng không có một kỷ niệm chung nào với những người ấy. Thành phố sắp đổi dạng, tôi cũng đổi dạng và những người khác. Những người khác thôi.

– Cả nhà sẽ sang Pháp. Cậu đã mua được nhà bên ấy xong xuôi rồi. Lần này cậu mợ ra thu xếp bán hết mấy gian nhà ở ngoài này, định sang ở luôn không về nữa. Đáng lẽ em phải sang trước, em xin mãi cậu mới cho ở lại. Không hiểu sao em vẫn hy vọng về Hà-nội may ra em gặp lại được anh. Một tuần lễ nay em đi chơi khắp các phố cốt ý tìm anh, em đã tưởng tuyệt vọng…

– Tìm anh? Tìm anh để làm gì? Tôi mới ở Hải-phòng lên hôm qua…

– Em không có ý gì rõ rệt… Em nghĩ dù sao anh cũng có thể muốn biết tin tức gia đình… Hay anh có thể, anh có thể muốn làm lại…

– Muốn tôi làm lại cái gì?

An cười buồn bã, người ta vẫn xem đời tôi như là một phần công trình đã tạo tác bị tôi phá hư, muốn được nhìn thấy nó được hoàn thành như dự ước. Tôi phải trở thành như bố tôi đã trở thành. An bật cười gằn:

– Ý riêng của cô hay…

– Bất chợt em nghĩ thế.

– Cô xấu hổ vì tôi chứ gì? Tôi nghiện ngập rách rưới làm mang tiếng gia đình chứ gì. Cô nhớ là chính cô đã nhận tôi đầu tiên. Cô yên tâm, mai kia còn ai ở lại đây đâu mà sợ…

– Không phải. Anh An. Em chỉ nghĩ là anh có thể làm hơn thế này… Em không hiểu…

– Cô không hiểu gì cả… Thế nào là hơn, thế nào là kém?

– Anh có thể sống khác…

– Thì tôi đang chẳng sống khác đây là gì nữa? Tôi vẫn còn sống khác tôi sẽ sống khác bây giờ… Nhưng thôi cô đừng nói chuyện ấy nữa.

– Anh không bao giờ nghĩ lại.

– Tôi có cái gì để nghĩ lại. Sống không bao giờ nên nghĩ lại.

Nga bặm môi, cúi mặt, giấu khóe mắt ướt, tay nắn bóp thành bàn. An cồn cào trong bụng, chân tay bải hoải, những bắp thịt trên gò má máy giật, nước dãi tiết trong miệng. Cơn bệnh sắp hành, An gắng sức trấn tĩnh, mắt nhìn đồ vật chập chờn tranh tối tranh sáng. An bỗng cất tiếng nói nghe xa như không phải của mình:

– Dù sao, cũng cảm ơn.

– Em không hiểu… Cậu mợ em không biết có nghĩ không? Riêng em nghĩ đến anh là em bị mặc cảm… Em được sung sướng một mình trong khi anh… có thể tất cả là của anh. Em đã… Có phải anh muốn làm mọi người bị ám ảnh về anh?…

An xua tay, chân đá mạnh phải chân bàn gây tiếng động trên sàn gạch hoa.

– Không… Không phải…

An thấy miệng lắp bắp, bắp thịt bên môi co rút như sắp làm méo miệng. Tôi chỉ là ám ảnh của riêng tôi… Không quan hệ đến ai khác. An phải tựa vào lưng ghế, duỗi thẳng chân, chống thẳng hai tay nắm cứng bàn tọa, cả thân mình đang như mềm nhão không xương sắp sụp đổ.

– Gọi cho tôi một cốc cà-phê đen thật đặc không bỏ đường.

Dãi bắt đầu chảy ròng một bên mép, hơi thở phì phò như sắp bị tắc nghẽn, An cố mở trừng mắt thu nhận những cử động chậm chạp quanh mình Nga hoảng sợ thất sắc, đứng lên khỏi ghế quay đi quay lại. Anh làm sao? Làm sao thế này? Một cốc cà-phê đặc… càng đắng càng tốt… An hoa mắt phải nhắm nghiền nước mắt nước mũi tự động tràn ra ngoài, một bàn tay quờ quạng đón lấy chiếc khăn tay của Nga lau.

Cơn vật vã lui dần sau khi uống cạn cốc cà-phê đắng chát, An tỉnh lại như trong một ngày mới, mấy phút trước đã biệt sâu vào quá khứ. Nga vẫn còn ngồi trước mặt, chiếc khăn tay mỏng trắng bám đầy bụi than vò vứt trên mặt bàn, đôi mắt ngơ ngác như vừa trải qua cơn mộng. An dịu dàng bảo:

– Tôi đã nói những gì đừng để ý. Bao giờ thì cô đi?

– Bán xong nhà là cậu mợ vào Sài-gòn. Có lẽ là đi ngay. Cậu bảo không còn một hy vọng nào cứu vãn nổi tình thế…

– Nhà bán xong chưa?

– Chỉ còn làm giấy má nữa là xong.

An gật gù uống cốc nước đá nhỏ lẫn mùi bạc hà tráng miệng. Chuông tàu điện reo đầu hàng Đẫy lẫn trong tiếng ve inh ỏi cả khu phố. Ngoài đường không còn bóng người, buổi trưa đầy ắp ánh nắng.

– Cô về đây có gặp Đồng không?

Câu hỏi quá bất ngờ, Nga không tin đã nghe đúng hỏi lại: Ai? An nhắc: Đồng. Nó bối rối ra mặt, nó đã quên hẳn Đồng, không ngờ mình biết. Nhắc chuyện ấy ích gì? Còn Đồng? Nga tránh đôi mắt soi mói, nhìn cốc nước vơi nửa. Nó cũng trở về thành phố này tìm gặp kỷ niệm lần cuối trước khi vĩnh viễn xa lìa và Đồng là một kỷ niệm bị bỏ sót.

– Không. Em không biết nhà anh Đồng.

An không đủ tàn nhẫn hỏi Nga: Cô có muốn tôi đưa xuống gặp Đồng không? Mình cũng giống Đồng, nếu Đồng có mặt hắn cũng đến cười rúc rích, nụ cười như chiếc mặt nạ bất biến. Hắn vẫn ở trong gian nhà cổ kính giữa vườn tược, gần hồ, đi lại thảnh thơi trong bệnh hoạn, không có gì đổi thay, như người ẩn sĩ chưa đầy ba mươi tuổi. Tôi chưa gặp Đồng, nhưng có lẽ rồi sẽ gặp, nói với hắn một kinh nghiệm, kinh nghiệm đau đớn nhất: văn chương chính là một hư tưởng bao phủ đời sống, là nỗi bất lực thú nhận và chấp nhận của một kiếp người… Hắn đang làm thơ, những bài thơ tình cho Nga tôi sẽ được đọc.

– Anh An. Bây giờ anh định làm gì? Anh có làm gì không?

An lắc đầu, tôi mới về, mới trở lại Hà-nội không ý định chủ đích. Đi ra khỏi một cảnh ngộ tự tạo nên tin là có thể thoát, thoát đến đâu? Còn mù mờ. Tôi vẫn sống như thế, những lúc buông xuôi và những hồi phản động.

– Anh ở đâu?

– Tôi ở nhờ nhà người bạn dưới Sinh-từ.

An cười vu vơ thoải mái, từ lúc gặp Nga chỉ những phút này là dễ chịu. Nó đã đứng bên làn ranh phân cách, tôi nhìn nó chia lìa và được giải thoát không thấy một ràng buộc.

– Chắc anh chưa ăn cơm?

– Chưa.

– Anh đi ăn cơm với em đi. Em mời anh. Nhất định là anh không trở về nhà rồi mà em cũng khó gặp anh được lần nữa… Em vẫn còn nhiều điều muốn nói với anh. Anh bằng lòng không?

Nga trả tiền, nhìn năn nỉ, nhét cái khăn bẩn vào trong ví cầm tay, lấy cái khăn mới gấp nhỏ ra.

– Không. Em sẽ không can thiệp đến chuyện của anh. Chúng mình đi chơi. Đã bao giờ anh em mình đi chơi với nhau lần nào đâu. Mai kia có khi đến anh em không còn gặp được nhau nữa. Em chắc chắn lần này cậu mợ đi luôn không về Việt-nam nữa.

Nga đứng lên trước chờ đợi. Đi chơi với Nga, anh em từ biệt nhau từ biệt vĩnh viễn. Nó còn muốn gì nữa? Bầy tỏ thật đầy đủ tấm lòng thương xót thằng anh khốn nạn để an tâm lên đường. Phải thế không? Nó có thể, nếu gặp Đồng, cũng nói những lời tạ từ này. An thong thả đứng dậy:

– Không phải về?

– Không. Cậu mợ trưa nay ăn cơm khách. Anh còn nhớ chị Hằng không?

An không đáp, quay mặt nhìn ánh nắng lóa ngoài hè, bước đến cửa, đứng trên thềm đưa tay che mắt. Khu công viên nằm giữa ba mặt đường, những bãi cỏ trải vàng cách mấy bước cùng bờ hè là hiệu cơm tháng Cảnh vẫn ăn trong những ngày còn ở Hà-nội. An ngoảnh vào nhìn Nga, Nga vừa quay lại cầm quyển sách bỏ quên trên bàn.

– Cô đưa cho tôi đừng cầm, nguy hiểm. Quyển sách này tôi mới ăn cắp được.

An cười, cầm lấy sách. Nga cũng cười theo, nó tưởng là chuyện nói đùa, điều đó vượt ra ngoài ức đoán của nó. An mường tượng đến nụ cười của người đàn ông đã đưa sách như đồng lõa, hắn cũng thương hại mình. Trong cái xã hội trưởng giả này, lòng thương hại như một lối có thể cứu chuộc hết tội lỗi đã gây ra. An hỏi nhưng không dừng bước khi đi qua hiệu ăn của Cảnh:

– Cô có dám vào ăn trong hiệu bình dân này không? Chắc là không được rồi. Những người bạn của tôi vẫn ăn ở đây.

– Nếu anh thích… Em không ngại gì cả.

An cười, đi sát vào dưới mái hiên hàng phố tránh nắng. Nga theo sau, tiếng giầy gõ lóc cóc trên hè. An nghe rõ tất cả sự vô lý của cuộc dạo chơi dưới nắng, nó đang tự hành hạ vì một mớ tình cảm trái mùa. An muốn bảo với Nga: Thôi về đi, tôi buồn ngủ quá.

 



[1] Chương 1 của thiên truyện nầy, trước đây đã đăng một phần trên tập san Bách-khoa. Tuy nhiên, xin lưu ý những bạn đã đọc cũng nên đọc lại vì ấn bản nầy có nhiều đoạn mà trước đây tác giả đã không thể cho in.

Comments

Popular posts from this blog

Nguyễn Ngọc Tư

Tribute to Robert Walser

AMOK