UNG THƯ
THANH
- TÂM - TUYỀN
UNG
- THƯ
Mais accepter
vivant la vanité
de son
existence, comme un cancer, vivre avec
cette tiédeur de
mort dans la
main.
A.
MALRAUX
(La
Voie royale)
PHẦN
THỨ NHẤT
CHƯƠNG
I[1]
Giữa vùng nước đục
ngầu thành phố nghiêng chìm dần xuống, bấp bênh sắp sửa rời rã, những khóm cây
thấp thoáng, mái trường đổ nát bẩn thỉu, đường phố giao nhau vô nghĩa như những
nét gạch nguệch ngoạc, giãy nóc xám của nhà máy sợi, giòng sông mà những con
thuyền ly ty, mái nhà thờ màu đá cũ, khu đồn trơ vơ ở phía Nam tỉnh lỵ chòi
canh xùm xụp; khi lên cao trông xuống mọi vật xếp đặt không lý do, trong cái
thành phố ấy Thạch đã sống sáu tháng mà không hề biết đến nó. Mỗi buổi sáng kèn
thổi thức dậy trong căn phòng dài trần phẳng, hai dãy giường chồng san sát, mùa
đông ánh đèn mờ bưng bít như trong hầm tàu biển; những giờ bò chạy nhẩy tập bắn,
đeo quân trang đi bộ, lội bùn dưới bầu trời không thay đổi lúc rét âm thầm lúc
mưa buốt, những giờ lặng lẽ trong phòng học với những bộ mặt không quen; những
bữa cơm trong một thứ khua động ồn ào, buổi tối ở “pô-pốt” nghe ra-đi-ô, đọc
báo, bỏ trắng ý nghĩ; sáu tháng trong cảm giác im vắng xa lạ tuyệt đối. Mặc những
cuộc vận động biểu tình làm reo phản kháng, không hùa theo cũng không cưỡng lại,
mặc những đứa bỏ trốn, những đứa anh hùng làm loạn, những đứa hèn nhát chạy chọt
luồn lụy, những đứa chùm chăn kín thức khuya dậy sớm bật đèn pin để học mong về
Hà-nội giật lấy mảnh bằng còn sót, tất cả những đứa ấy, cũng như vật dụng hằng
ngày gửi trả lại cho cái trường quân sự, không liên quan gì tới tôi hết.
Bây giờ thành phố
đã khuất, phi cơ bay trên những tầng khói lạnh, ghế ngồi hai dãy đối diện tựa
lưng vào thành tàu. Thạch mỉm cười nghe những đứa ngồi cạnh bàn tính; đứa nói sẽ
vận động xin được ra tiếp tục học thuốc hoặc chuyển sang ngành quân-y sắp mở, đứa
tìm một chỗ ngồi bàn giấy hoặc ngành quân-nhu ở bộ tham mưu đệ Tam Quân-khu
ngay Hà-nội, đứa hy vọng làm sĩ quan tác động tinh thần khỏi phải ra mặt trận;
một đứa bỗng nói lớn: “Tao sẽ xin đi đóng đồn rồi dẫn lính ôm súng bỏ ra
ngoài”, cả bọn bỗng im phắc, Thạch cười: “Ý kiến hay”, tiếp theo Thạch văng tục:
Merde. Tiếng động cơ bỗng dưng tắt
quãng, Thạch cần thấy phải văng tục lần thứ nhất (lâu dần thành thói quen) vào
buổi chiều tối người đàn bà dáng dấp đài các mời Thạch ngồi lại ở phòng khách;
bộ “sa lông” xanh, ánh sáng trong những đèn chụp xanh dịu, màu sắc hòa hợp giả
tạo trơ trẽn; khuôn mặt đầy đặn lồ lộ khoảng bốn mươi tuổi; người đàn bà ấy tỏ
ý tín nhiệm Thạch về việc dạy dỗ mấy đứa con nhỏ, tin tưởng vào tương lai “của
cậu, vừa giỏi vừa chăm chỉ ngoan ngoãn, tôi góa bụa nhà không có đàn ông, muốn
giúp cậu học thành tài”, ngỏ ý muốn mời Thạch về ở trong nhà, muốn gả đứa con
gái lớn cho Thạch; lúc đó Thạch muốn cười tướng lên bảo: “Tôi lấy con gái bà,
cái đứa con gái mặt bì bì u uất suốt ngày đứng sau tủ hàng, mắt không biết gì
ngoài những loại giấy bạc, và bà sẽ cho tôi tương lai. Cái tương lai làm sẵn ấy
hình thù nó thế nào khỏi cần miêu tả tôi đã trông thấy rõ lắm rồi, tôi bất cần
thứ tương lai ấy, bà và con gái bà, cộng thêm cái cửa hiệu, mấy căn nhà, ngân
khoản ở nhà băng không ăn thua gì đến tương lai tôi hết”, nhưng giả đò như ngu
không hiểu rõ ý, Thạch đứng dậy kiếu từ; ra đến ngoài đường Thạch bực tức chửi merde, Thạch không trở lại gia đình ấy nữa.
Merde, những ngày sống chật vật ăn
bánh mì, uống nước máy; merde, hai lần
thi trượt, những lúc ốm đau nằm trên giường nhà trọ không người thăm hỏi; lần nặng
nhất đau bụng quằn quại đến ngất đi, may mà tình cờ Liên đến đúng lúc. Liên bạn
từ thuở nhỏ ngày hai gia đình ở cạnh nhau, cả hai đứa đều mồ côi cha như nhau,
quấn quýt nhau, yêu nhau, Liên lớn hơn Thạch hai tuổi đã có chồng con; Cặp mắt
Liên mở to sợ hãi, cơn đau tưởng dịu xuống, cặp mắt của cả cuộc đời đen, lớn,
sâu, khổ vô chừng và cũng âu yếm vô chừng; Liên vực Thạch chở vào nhà thương Phủ
Doãn ở đấy người ta mổ bụng cắt đi một khúc ruột thừa. Ra khỏi nhà thương, xanh
xao thiếu máu, phải xuống ở nhờ nhà Đồng, một thằng bạn yếu phổi phải bỏ học dưỡng
bệnh; nhận được giấy gọi động viên, đi trình diện khám sức khỏe, cân nặng 40
ký, xếp vào hạng chiến đấu, vết sẹo mổ ở bụng chưa lành; càng hay đang không có
công ăn việc làm, khỏi lo chết đói. Đưa Thạch ra bến Phà-đen xuống một chiếc
tàu đò nát chỉ có Đồng; Đồng mặc áo len cao cổ màu xám, mặt béo bệu da mai mái,
tóc rối bồng, mắt đục với hàm râu quai nón xanh mờ mờ, ít nói nhưng thường hay
pha trò ý nhị; Đồng đứng lẫn trong đám thân nhân tiễn đưa ồn ào những tình cảm,
thản nhiên không nhìn Thạch, Thạch dựa vào dóng sắt của thành tàu cũng không
nhìn Đồng, giòng nước đỏ chảy siết, sông mở rộng đến chân trời; giòng nước đã
cuốn trôi tập bản thảo chép những bài thơ tình Đồng viết trong những năm tuổi
đang lớn, bắt đầu năm mười bảy tuổi, ném xuống nước bẩn như một nhánh củi mục
mùa hè năm hai mươi tuổi, trong ấy có những tên Hà-Phương, Thạch đã được đọc
vài lần; con đường dọc theo bờ sông cách thành phố bởi con đê hai đứa thường đi
dạo những đêm tối trời nhìn sang bờ bên kia mịt mùng bóng cây thẫm hoặc những
đêm trăng sáng trên những đống cát vừa bốc lấy dưới lòng sông cạn đổ bên ven đường,
Đồng gối đầu lên đùi Thạch thầm thì kể chuyện, Thạch nhìn ánh trăng nơi cuối
sông; những câu chuyện của bọn thanh niên vừa lớn trong vùng chiếm đóng thèm
khát tự do, tự do cũng không có ở ngoài kia (và đời sống không thể có tự do? tự
do chỉ là ảo tưởng của bộ óc bệnh hoạn?); những chuyện tâm tình về Hà, người
yêu đầu tiên của Đồng đã lấy chồng, về Phương cô bạn gái cùng lớp với hai đứa
đã sang Pháp du học (chưa biết Hà bao giờ, Thạch vẫn nghĩ Hà quen thuộc gần gũi
như Liên. Theo lời Đồng, Hà cũng có đôi mắt mở to đen sâu “bí ẩn như đêm tối
trên mặt biển”); Đồng hỏi Thạch: “Cậu có nghĩ đến cái chết bao giờ chưa? Tôi
nhìn vào mắt Hà là tôi tưởng tượng đến cái chết. Thật là lạ”, Thạch đáp: “Tôi
ghét tưởng tượng, tôi không hề nghĩ đến cái chết, nghĩ đến nó tốt hơn là đứng
trước bức tường mà nhìn trân trân”.
Đứa đàn bà thứ nhất
trong đời đã dạy Thạch một lối thoát khỏi những ý nghĩ tù túng, những tưởng tượng
viển vông, là một con đĩ: Mai. Cái thân thể lõa lồ trên đệm trắng bẩn như nước
vôi, da ngăm đen màu của bùn ruộng nơi sinh trưởng. (Nó ngắm Thạch từ đầu đến
chân ngoài da thịt bảo: “Anh gầy quá”) ở bên bẹn một một vết sẹo lớn lồi thịt –
“Tây đen hiếp, đâm” – cái mặt thô nặng chưa hết vẻ quê mùa. Mai ở trong một
quán rượu bán cho lính Tây, nhìn ra một bãi hoang đổ rác và chất thùng xe rỉ
nát; khách hàng phần lớn là Marocains, Lê-dương ngồi quây quanh quầy rượu hẹp
trên ghế cao cẳng hay ở mấy cái bàn gỗ không trang điểm, nói chuyện với những đứa
con gái bản xứ mặc đầm cũn cỡn bằng thứ tiếng Pháp bất chấp văn phạm tiện dùng
cho cả đôi bên, nghe âm nhạc ở một cái máy hát quay tay chạy đĩa từ trước đại
chiến; những bài ca ân tình nỉ non của Tino
Rossi tỷ như Je chante pour vous ma
mélodie, mon coeur chante pour vous
sa mélodie trộn lẫn với những sapristi
crétin, fils de pute, sale putain, Tổ sư cha thằng tây đen Tiên
nhân bố mày, Đồ giời đánh thánh vật
ra trận Việt-Minh nó bắn chết mày cho đáng kiếp con ơi… Những ngày được ra
khỏi trại có ít tiền, Thạch đến đấy gặp Mai: Bonjour Madeleine. Mai hay Madeleine cũng là một. Thạch thường ghé
lại tiệm sách ở đầu phố hàng Sắt mua một cuốn tiểu thuyết trinh thám loại đen
hay những cuốn “truyện để đọc một đêm, thưa bà” mỗi trang là một cuộc giao hoan
thật chán chê. Được Mai dạy cho xử dụng cái cơ thể bỏ không ngoài hai mươi năm
làm một phương tiện tước đoạt trí tuệ, nửa ngày hay cả ngày rảnh rang là nằm
dài trên giường của Mai lăn lóc trong sự xô đẩy không muốn ngừng của cơ thể,
ngay khi bắp thịt đã câm lặng kiệt lực, ý nghĩ vẫn còn thèm muốn, nhiều lúc Mai
không chịu nổi cấu nát vai và cổ Thạch, mồm chửi rủa thô tục. Đứng sau tủ hàng
trước quầy sách tối mờ, một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi có vẻ học thức lần
nào cũng nhìn Thạch bằng con mắt tò mò dò xét thiếu thiện cảm; một buổi trời
mưa Thạch phải đứng lại trong hàng sách ấy, hắn lấy ghế mời Thạch ngồi, Thạch đọc
hết một cuốn truyện gián điệp, mưa cũng vừa ngớt, đứng dậy đi và cám ơn. Thạch
đến quán của Mai, ngồi trước quầy rượu nếu gặp ngày lính đồn trú trong tỉnh đi
hành quân vắng, nghe đĩa hát nhạt nhẽo, chán thì rủ Mai về nhà nó. Qua hai ba
phố, vào trong cái ngõ đất lồi lõm sát bên một trại lính, đầu ngõ chòi canh
trông xuống với một khuôn mặt đen bóng cặp mắt trắng dã, đi cạnh một bức tường
giây thép gai giăng ở trên; căn gác của Mai chỉ có cái giường gỗ đánh “véc ni”
nệm trắng xỉn loang lổ, đôi gối thêu bằng lụa hồng và cái chăn bông vải xanh là
đáng tiền. Những giây phút dễ chịu nhất là khi hai thân thể không còn sức nào
thèm muốn nhau nữa, cùng nằm im riêng biệt trần truồng, hơi lạnh bên ngoài ngấm
dần qua các lỗ chân lông, kéo chăn phủ lên nằm co gối thấy cái thân thể bấy giờ
là của mình, là mình; Mai lại không biết tán chuyện, nếu lúc ấy con đàn bà cất
tiếng nỉ non ai oán chắc Thạch phải mặc quần áo bước ngay tức khắc.
Lần cuối cùng cách
đây tuần lễ Thạch đến tìm Mai muốn cho nó mấy trăm bạc trong phần lương trước
khi chia tay. Quán rượu đông ních, một tiểu đoàn Lê-dương vừa về thành phố, Mai
bận tíu tít ở trong tay bọn tứ xứ không chú ý đến Thạch; Thạch uống đến ba bốn
chai bia, hút hết bao thuốc lá ngồi đợi, hơi men bốc lên ngứa ngáy da mặt, khói
thuốc hun nóng cổ họng rát cả lưỡi, không khí sặc sụa nhục dục, bất ngờ Mai ghé
vào gáy Thạch bảo: Không về được; Thạch giận điên cả người. Một lát Thạch vẫy
Mai vào phía sau, đóng của phòng tắm lại, mặc cho mấy thằng chó chết đập gọi
bên ngoài. Xong, lang thang trong các phố buồn tẻ cho đến chiều, cơ thể vẫn chẳng
nguôi, mỏi chân ngồi lại ở ghế đá trong vườn hoa nhìn cỏ nhìn đất nhìn xi-măng,
nhìn người ta bơ vơ dưới màn trời đục.
Hai lỗ tai Thạch
chợt buốt ù, phi cơ đang lượn tròn xuống thấp, khu Gia-lâm đang dâng lên tỏ dần.
Nhà ga, hàng tường dài thấp bé, ngổn ngang những toa than đen. Vùng quân sự
quanh phi trường, nhà mái lè tè vôi đỏ bệch hợp với màu nước sông Cái trong ánh
nắng nhạt, đường số năm ngoằn ngoèo đỏ từ dốc cầu Long-Biên xuống lổm ngổm xe cộ,
cây cầu sắt dài nhiều chỗ lấp lánh ánh trăng nhịp nhàng chuyển vào Hà-nội. Một
đứa kêu mừng rỡ, trán và mũi dán sát vào khung kính tròn đục; “Kìa nhà hát lớn,
trường đại học”, nó quay lại đập vào vai Thạch, phi cơ chìm nhanh, Thạch chỉ kịp
ngó thấy ở xa xa những chùm cây xanh rậm đưa lên che khuất mái đá xám của nhà
hát thành phố, mặt tiền của viện bảo tàng Finot, một khúc phố bờ sông khoảng gần
cột đồng hồ… Rồi những bánh thép chạm xuống mặt sân bay hơi dội lại, cảm tưởng
vững vàng trở lại đất liền, lăn trên đường cứng rung động những va chạm khô
khan, động cơ ngừng tắt. Người ta đứng lên hớn hở xôn xao. Tại sao tôi vẫn còn
yêu mến những cái chúng yêu mến, tại sao tôi chưa rời bỏ biệt tích đến một chỗ
nào hoàn toàn mới lạ với những sự vật của riêng tôi? Tôi không thể nào yêu cái
gì mà chúng nó cũng yêu, nếu chỗ nào chúng tới tôi phải bỏ đi, nếu chúng chiếm
hết cuộc đời, tôi sống với hư vô, nếu chúng yêu tôi, tôi sẽ giết tôi. Thạch
bàng hoàng chán chường, còn gì để trở lại thành phố kia?
Dưới chân máy bay
một đám đông chờ đón, đứng hàng đầu thiếu úy sĩ quan liên lạc của quân đội
Pháp, một trung úy Việt, đại diện Tổng hội Sinh-viên, phía sau là thân nhân
đang kễnh chân nghển cổ tìm con cái, anh em, tình nhân. Thiếu úy Pháp ứng khẩu
nói mấy lời chúc mừng các tân sĩ quan Việt-nam, “các chiến sĩ tiền phong của một
quốc gia độc lập trong mặt trận chống Cộng của thế giới tự do”; trung úy Việt
báo cho biết mọi người được nghỉ phép nửa tháng trước khi tới liên lạc với trại
Trần-hưng-Đạo nhận lệnh; đại diện sinh viên ngỏ ý hân hoan thấy anh em bình yên
mạnh khỏe, thay mặt toàn thể sinh viên đại học Hà-nội mời anh em tới dự buổi tiệc
trà đón tiếp của tổng hội tổ chức vào chiều chủ nhật sắp tới tại trường; Mọi bộ
mặt bỗng nhiễm vẻ nghiêm trọng. Năm chiếc xe Dodge 4 dùng để chở mọi người về
Hà-nội, một số cùng với thân nhân dùng phương tiện riêng nên xe đầu bỏ trống.
Trong xe ai nấy im lặng mắt dáo dác nhìn ra ngoài, như những con chim đang nhận
đường về chuồng. Bỗng đứa ngồi cạnh làm Thạch giật mình, nó là đứa đã tuyên bố ở
trên phi cơ sẽ ôm súng theo V.M., vẻ mặt đen đủi nhiều góc cạnh, mũi to hơi hểnh
lên, cặp mắt gườm gườm, môi lúc nào cũng mím lại tạo vẻ cương nghị, nó hỏi Thạch
“Anh thù Việt Minh?” Thạch nói trỏng: “Sais
pas”; nó lại hỏi tiếp “Anh cũng không ưa Quốc gia, vậy anh ở đây làm gì?”
Thạch lấy hết giọng ôn tồn bảo: “Tais
toi. Tu m’emmerdes”. Xe qua cầu Long-Biên chậm chậm, Thạch nhìn theo những
khuôn mặt trong những chuyến xe hàng phía bên kia cầu ngược lại trôi qua những dóng
cầu đan nhau. Xưa kia còn nhỏ mỗi lần đi tàu hỏa vào đến cầu, Thạch bám chặt lấy
thành cửa sổ, nhìn những đà sắt nặng, giòng nước đục xoáy dưới những cột đá khổng
lồ, bãi hoang rậm rạp chia sông làm hai ngánh với cảm giác ngất ngây sợ hãi, đứa
nhỏ sợ sẽ lộn cổ xuống sông va vào thành cầu vỡ óc và chìm nghỉm giữa giòng nước
cuốn hay mất xác giữa bãi cây cối mọi rợ, không được đến Hà-nội đi chơi chợ Đồng
Xuân, hàng Đào, bờ hồ ăn kem kẹo dừa, đội mũ nồi màu đỏ, thò đầu ra ngoài cửa sổ
tàu điện nhìn ra phố phường…
CHƯƠNG II
Hà-nội không thay
đổi, không bao giờ thay đổi, như một hòn đảo lênh đênh mịt mù chờ ngày lặn chìm
biệt tích, trong nhịp soi mòn lở lói đều đặn mỗi ngày mỗi rõ rệt; Ở đó Thạch đã
đi giữa chúng bạn, chuyện trò bàn cãi hết vấn đề này sang vấn đề khác trên những
hè phố vắng như những ngày dài đằng đẵng, chia nhau những điếu thuốc lá đốt dần
đợi nắng trưa hay vào sâu trong mệt mỏi khuya vắng, từ biệt nhau mỗi đứa một ngả
thui thủi gậm nhấm những mẩu mộng ước cay đắng, trong khi người ta làm chợ đen,
áp-phe, lo kiếm tiền làm giàu, chuyển ngân, tìm chốn thoát thân. Phố xá tấp nập,
xe cộ chuyển động và người qua lại tưởng như không hề ngừng nghỉ một phút từ
ngày Thạch bỏ đi, chuyển động đều đặn như trong một cuốn phim câm, nhưng đời sống
theo máu huyết đã rời xa, không còn gì.
Dừng lại bên bờ Hồ
trên hè đường gần ngọn tháp nhỏ chắn lối đi, xế nhà bưu điện, Thạch mua hai đồng
lạc rang của ông già Tàu ngồi trên ghế đá. Ông ta bốc khéo léo, những nắm tay vừa
đủ, ngửng đầu cười với khách hàng, đầu ông đội mũ dạ lưỡi trai; mới thêm một bà
già ngồi nhận tiền bên cạnh, gấp những đồng bạc làm tư cầm trong tay như tiền vẫn
dùng trong các sòng tài sửu. Rồi Thạch nhảy tàu điện lê Thụy-khê. Tàu chạy qua hàng
Ngang, hàng Đào, hàng Đường, chuông gõ liên hồi, tiếng cần dẫn điện sẹt sẹt; Những
con phố này đã có thời kỳ mới tám chín giờ tối đã vắng tanh, Thạch đưa Liên đi
mua hàng gõ những cửa tiệm quen; trời mùa đông rét mướt, Liên mặc cái áo dạ đen
đã sờn khuỷu tay khoác thêm tấm áo vét ở ngoài, đầu choàng khăn len, cặp mắt
nàng thỉnh thoảng ngó ướt lạnh, Thạch đi bên ôm dùm vài món hàng cho bạn, mặc
quần ka-ky dầy, áo blouson xẫm, trong một cái pull’over mầu tro Liên đã đan cho
Thạch trên những chuyến tàu chợ xuôi ngược; Hai đứa đi sát bên nhau núp dưới
mái hiên hàng phố tránh gió, một đêm cuối mùa thu năm ngoái lúc qua chợ Đồng
Xuân, ở những gốc cột đèn lính nằm phục chĩa súng rình mò, trên nóc chợ lợp tôn
cũng thấy nấp những bóng đen với những khẩu liên thanh hờm sẵn; Liên níu lấy
tay Thạch run sợ. Trời vẫn còn mưa ngâu rải rác, hai đứa phải đi ra giữa đường
tàu, lẻ loi và vô cớ. Bây giờ Hà-nội đã yên tịnh và đang quên dần những giờ
phút khắc khoải ấy. Hàng sấu hai bên đường Quan Thánh bắt đầu trổ hoa kết quả,
thời tiết ở vào những ngày cuối hè sửa soạn sang thu; Thạch
nhìn những chùm cây xanh nghĩ đến những quả sấu chín vàng gọt vỏ, cắt rời khỏi
hột theo vòng chôn ốc; thời trẻ thơ rồi đã mất sao vẫn còn quay nhìn lại, tôi
là kẻ đang đi tới tương lai mù mịt không hình dáng tìm ở quanh mình những dấu mốc
vu vơ. Trường Bưởi cũ nơi đồn trú của quân Pháp như ải địa đầu ngăn chia
thành phố và ngoại ô. Dãy phố Thụy-khê gồm toàn những nhà thấp bé phần lớn là
các quán rượu bán cho lính Tây, phía đường tàu nhà lớn hơn và ở lui sâu trong
những khoảng cây cối. Thạch xuống ở trạm gần đình Thụy-khê, theo ngõ lát gạch,
hai bên cỏ hoang rối vào nhà Đồng. Gian nhà cổ rộng, nhà trên thẳng góc với nhà
ngang, sân lát gạch tàu với hai con chó vàng vện mập lùn, những chậu cây bể giả
không dùng đến, một mảnh vườn trồng rau, một khoảng vườn cây ăn quả, một vũng
ao nhỏ lấy nước tưới vườn, nguồn lợi sinh sống của hai mẹ con Đồng cùng với người
bõ già. Bà cụ mở rộng hai cánh cửa gỗ, vòm cổng hình tổ tò vò, tay cầm gậy tre
xua chó, hai con chó chạy quanh sau lưng bà sủa gẫu, bà ngoài năm mươi tuổi
trông vẫn còn tráng kiện, cặp mặt sáng tinh của tuổi con gái vẫn phảng phất sau
những nếp nhăn ở xung quanh. Bà vồn vã: “Cậu Thạch, cậu đã về. Trông thấy cậu mạnh
khỏe mà tôi mừng”. Thạch tươi cười bước theo chân bà cụ, xoa đầu làm quen lại với
hai con chó, làm hiệu với mẹ Đồng đừng lên tiếng báo hiệu cho bạn, bà cụ rẽ xuống
nhà ngang. Gian nhà cao ráo trống trải, mở hết cả cửa chiều dọc trông xuống
sân, Đồng nằm ngủ trên chiếc võng mắc vào hai cây cột lớn giữa nhà. Thạch đến đứng
trên đầu ngắm bạn ngủ, buổi sáng mát mẻ ở ngoài vườn lùa vào theo các cửa mở
toang, nét mặt Đồng thoải mái nhẹ nhõm, nước da hồng hào, bộ râu quai nón mấy
ngày không cạo xanh biếc hai bên má. Đồng chợt hỏi: “Ai đó?” rồi giật mình ngồi
dậy, cái võng hơi đu đưa, đứng lên, hai bàn tay ấm áp vồ lấy vai Thạch lắc lư:
“Tôi nhớ cậu quá”. Đồng là người duy nhất mà những cử chỉ thân mật không làm
cho Thạch bực mình, hai đứa chơi thân với nhau từ những ngày học lớp năm trường
Pierre Pasquier bây giờ đã biến thành
trường huấn luyện cảnh sát ở phố Sinh-Từ, lên trung học ở trường Gia-Long, phố Julien Blanc nay đã chia thành nhiều
gian cho thuê làm nhà ở, một đứa đen như củ tam thất là Thạch, một đứa trắng trẻo
công tử là Đồng (Trong cái trò chơi chiến tranh cưỡi ngựa, học trò cõng nhau từng
đôi một chạy từ xa huých vào nhau vật lộn nhau cho tới khi ngã rơi xuống sân,
Thạch làm ngựa cho Đồng cưỡi). Đồng lăng xăng rửa mặt thay quần áo, hớn hở như
một đứa trẻ con sắp sửa được đi chơi xa. Thạch ngồi trên võng nói vọng ra sân,
Đồng đang lau mình thay áo lót bên bờ tường: “Trông cậu béo ra”, Đồng chỉ vào
ngực bảo: “Vi trùng đã chán ngực này đang rút lui theo trật tự”, nói xong gật
gù vẻ hài lòng. Sau đó hai đứa rủ nhau xuống phố, tìm bọn An và Cảnh cho đủ bộ;
cái bộ tư đã kết hợp với nhau từ mấy năm nay lập thành một xã hội biệt lập.
Cảnh và An vẫn ngồi
đó, mỗi đứa một góc trong phòng đọc sách của Thư-viện Trung- ương, “chúng nó vẫn
còn sống nhăn” Đồng cười khích khích trước tấm kính dầy sáng ngăn phòng đọc với
bên ngoài như một chiếc lồng sang trọng thâm nghiêm, chỉ cho Thạch thấy các bạn.
Không ai ngước nhìn, Thạch bước theo chân Đồng vào trong sự lặng lẽ vang tiếng
bước chân trên gạch hoa tới sau lưng Cảnh; Đồng đặt tay lên vai Cảnh và Cảnh
quay đầu lại kêu nhỏ: “À, Thạch”, gây một chút xáo trộn trong những người ngồi
chung bàn; Đồng thì thào “Đi ra ngoài đi, đi ra ngoài.” Cảnh thu gọn sách ôm
lên tay nói: “An ngồi đằng kia”, Đồng đáp: “Biết rồi”; An đã nhìn thấy và đang
đi lại, hắn cười ra dấu đợi và lại quay về chỗ mang trả sách. Đứng trên thềm đợi
Cảnh và An, Thạch nhìn xuống vườn, thảm cỏ xanh viền những luống hoa gầy, cây
đa cổ thụ và con phố Trường thi mát mẻ; Đồng nói: “Ông cụ thằng An đang vận động
cho nó đi Pháp” “Thế à?” Bây giờ Thạch thấy mình điềm đạm rửng rưng trong cái
thế giới đã cùng tạo với bạn bè; sáu tháng xa cách Thạch trở về và không nhập
vào nữa, đã ra ngoài và dù muốn dù không Thạch đang dấn mình vào con đường
hoang vu trước mặt cô đơn, không vui cũng chẳng buồn. Mỗi đứa rồi sẽ trôi dạt một
phương, cơn lụt của lịch sử sẽ cuốn lấy, bám chặt vào những mảnh vụn của một giấc
mộng chung tan vỡ, mai sau đối diện nhau chắc nhìn nhau như kẻ lạ. “Trông cậu gầy
và đen đi” An nói, “Cậu tìm thấy gì lạ?”, Cảnh hỏi, “Đi đâu? Biết chưa?”, An hỏi.
Ngồi duỗi dài trong chiếc ghế mây dưới gốc dừa dại, trong quán nước ven hồ
Gươm, Thạch ngắm nhìn từng đứa một: Đồng nghịch cái vòi nhựa hút nước thổi phì
phì vào không khí; An ngửa mặt nhìn vòm cây, mặt mũi khôi ngô sáng sủa như bằng
chứng của giai cấp (con một bác sĩ, kiêm chính trị gia, chờ chức bộ trưởng
trong bất cứ chính phủ nào); Cảnh khum lưng khoanh tay chống trên đùi, dáng điệu
lù đù quê kệch, mắt sắc mắc. Thạch hỏi An: “Nghe Đồng nói ông cụ vận động cho cậu
đi Pháp phải không?” An nhếch mép cười, che giấu bối rối đáp gọn: “Tôi từ chối”.
“Ở nhà làm cái thá gì mới được?” Thạch đặt câu hỏi, biết An không thể trả lời.
Làm gì? Làm được cái gì? Đó là bài toán của cả bọn, chưa có lời giải, trừ Cảnh
nhắc lại ý kiến của Lénine: Bọn tiểu tư sản phải nhận thức biện chứng lịch sử
và tự nguyện hy sinh. Thạch lại hỏi tiếp, bâng quơ: “Vẫn đến trường đều hả?”. Cảnh
hỏi lại Thạch: “Còn cậu. Cậu có tin là cậu đang bắt đầu làm một cái gì?” Một cuộc
khảo tra hành hạ lẫn nhau, Thạch lọt vào trong bẫy của mình lúng túng khổ sở
như trong giấc mộng những ngày đau yếu thấy mình bị lột truồng đẩy đi rong qua
phố phường: “Tôi không biết… mà cũng chẳng cần biết… Mon avenir est derrière moi. Tu
es nihiliste, anarchiste… aveugle… impuissant… Đồng tự nhiên cười rộ, vẫy vẫy cái vòi nhựa trên bàn
tay mở ngửa, nháy mắt: “Regarde, ton avenir”. Một nữ sinh từ sau lưng Đồng
và Thạch đi tới, hai tay nắm chặt tà áo trước cho khỏi bay, tránh xa bàn bọn
con trai bước trên mép bãi cỏ thoải dốc, Thạch cười phụ họa cảm ơn Đồng đã giải
thoát cho mình khỏi cuộc rượt bắt mệt nhọc với chính mình. An tiếp lời: “Dù sao
cũng là một quyết định. Cũng hơn… là không quyết định”. Cảnh thôi không nói,
bưng cốc nước chanh lên nhấm nháp. Màu nước hồ rêu đục, tháp Rùa loang lổ trong
ánh nắng đang nản. Cho đến lúc chia tay, lại trở về cái đề tài bất tận là nhận
định về lịch sử, về số phận các giai cấp, về xã hội chủ nghĩa do Cảnh nêu lên
và Thạch tự nhủ: Để làm gì? Để làm gì? Đồng nhắc lại một câu của Marx: Đừng để
bị nhốt trong sự suy tưởng; và Cảnh nổi giận gây gổ. Thạch nói: “Thôi, thôi đi.
Mon poète”.
Vào buổi trưa trời
âm u, Đồng và Thạch về đến nhà thấy có hai đứa cháu gái nhỏ của Đồng đón chú ở
cửa, chị dâu của Đồng đưa con về chơi. Sau bữa cơm, Thạch nằm đợi giấc ngủ trưa
trên tấm phản gần cửa sổ trông ra vườn, nghe tiếng thì thào của mẹ và chị Đồng ở
dưới bếp. Đứa cháu gái lớn năm tuổi đã ngủ trên võng, đứa nhỏ đang đùa với Đồng.
Thạch nhìn về những ngày trắng bấp bênh sắp tới, không biết phải làm gì cho hết
hai tuần lễ ở Hà-nội, một ngày đã quá dài quá đủ bởi ngày này vẫn chỉ là sự kéo
dài vô tận của những năm đã sống. Tiếng hát ru của Đồng, Đồng bồng đứa cháu nhỏ
trên tay đi qua đi lại trong nhà. Thạch nhắm mắt nghe như Đồng đang ru chính Thạch,
những mẩu bài hát cũ lơ lửng, Đồng hát lăng nhăng không đầu không đuôi bằng một
giọng thầm như khi đọc những bài thơ tình, như những mảnh kỷ niệm chập chờn
quanh đâu đó, chợt gợi những hình bóng mờ tối thoát ra khỏi quá khứ lẫn vào giấc
ngủ của Thạch. Ngủ dậy Đồng rủ Thạch ra hồ Tây tắm, Thạch úp mặt bơi xa bỏ rơi
Đồng; nước hồ xanh như hồ ngọc bích, gió buổi trưa già thổi mạnh làm cuộn sóng
lớn, Đồng quay vào đến bờ Thạch vẫn còn tiến ra ngoài, ánh nắng chấp chới trước
mắt; Đồng phải bắc loa tay lúc gọi trở lại.
Chiều hôm ấy Thạch
đón Liên trước ga hàng Cỏ. Hằng ngày Liên theo chuyến tàu Phòng xuống Cẩm-giàng
bán hàng chờ chuyến ngược trở về Hà-nội, bề ngoài Liên buôn những tạp vật như
sách vở giấy bút, gương lược, cặp tóc, bàn chải, thuốc đánh răng, dép cao su v.
v… bán cho các hàng sén chợ quê làng tề, nhưng thực ra Liên buôn lậu những món
như thuốc tây, đá lửa, ét-xăng, dầu tây, bút máy, đồng hồ, tiếp tế cho hậu
phương. Đồng hồ trước ga chỉ 6 giờ 17’. Nhà ga thời chiến tranh hiu quạnh, tòa
nhà kiến trúc đồ sộ trơ trơ vẻ lạnh nhạt; chuyến tàu điện cuối cùng từ Kim-liên
vào ngừng lại vài giây, chỉ có một toa đầu máy trơ trọi với mọi hình thù kỳ quặc,
cửa lên xuống được sẻ hõm nghiêng góc hở hai đầu mũi toa giống như người bị sỉ
ăn sứt hẳn một bên môi. Phía cuối ga bốn chiếc xe ba bánh chở hàng và xe xích-lô
bỏ chổng bên hè, phu xe quây quanh hàng nước bày trên hành lang trống của nhà
ga. Thạch đi vào phòng đợi hạng ba không gặp một người nào, gian phòng cao và rộng,
nền tráng xi-măng nhẵn bừa bộn rác rưởi trong các góc, ghế gỗ dài cứng đóng sát
dọc theo tường. Những tấm bảng kê giờ tàu, giá tiền, bản đồ giao thông lớn, từ
trước thời chiến tranh vẫn y nguyên, màu sơn đã phai tróc. Buồng bán vé quây bằng
những màng lưới sắt hẹp như chuồng thú, bên cạnh một bàn cân lớn nặng nề có
bánh xe di chuyển được. Ngoài sân ga không một hoạt động; những dãy toa đứng im
ngoài trời, bên những hàng mái hiên chật chội tức mắt, mõm xưởng chứa đầu máy
há đen ngòm; mỗi ngày không kể con đường ngắn Hà-nội – Văn-điển, xe hỏa chỉ còn
hai chuyến, một chuyến xuôi và ngược đường Hà-nội – Hải-phòng, con đường hơn
trăm cây số tàu chạy từ sáng tới chiều bởi luôn luôn gặp bất trắc vì mìn ở dọc
đường. Thạch đợi suốt cả tiếng đồng hồ đi đi lại lại ở trong tòa nhà chính của
ga trông thẳng xuống phố hàng Cỏ đèn đã bật lên sâu hút, khu nhà ga to lớn như
chết lịm đi trong lặng lẽ.
Khoảng hơn bảy giờ
tàu vào ga gây một chút náo động. Khi tiếng còi hú ở đầu phố Cột cờ sân ga hơi
chuyển động như trong cuộc phòng thủ thụ động, vài ba nhân viên sở Hỏa xa qua lại
hấp tấp dưới ánh đèn chụp mờ. Một bóng người lom khom bẻ ghi dưới trời xẫm tít
phía xa, chiếc đèn báo đưa đẩy giữa những con đường sắt trống lổn nhổn đá xanh.
Đoàn tàu dài chỉ kéo ba toa hành khách trống trải ở khúc giữa, những toa đã có
từ mấy mươi năm màu sơn nâu đã hóa thành màu máu đọng, trong toa không đèn lửa;
từ đó đổ xuống một toán binh sĩ Pháp áp giải một đám tù binh khoảng chừng ba
mươi người. Những bộ mặt câm nín ốm yếu cùng với quần áo bẩn thỉu tạo nên một
đám màu vàng xỉn; vài người tù đã từng phải đi vác đạn cho quân viễn chinh còn
giữ lại được cái quần dạ màu cứt ngựa, cái mũ rộng vành uốn hai bên bằng một sợi
giây buộc của lính “pạc-ti-dăng”. Đám tù xếp thành hàng đôi bước qua những khoảng
đá trải tiến lên “ke” – khi qua sát chỗ Thạch đứng một người trong bọn nói mau
rất khẽ: “Cho tôi xin điếu thuốc lá”, Thạch dúi gói thuốc dở vào một bàn tay, kịp
nhìn thấy một cặp mắt tái xanh – đi qua phòng đợi hạng ba, dồn nhau lên một xe
cam-nhông bít bùng ngoài cửa ga; xe rú chạy mau về phía Đấu-xảo. Liên đi đi giữa
đám hành khách thưa thớt, Thạch trông thấy cặp mắt và nụ cười của Liên trước nhất.
Nàng mặc tấm áo dài đen bạc mầu, búi tóc trễ một bên vai, cái tay nải nâu không
cuốn gọn ở bàn tay. Liên bảo: “Tôi đến tìm Thạch mà Thạch đã đổi chỗ ở. Nhiều lần
muốn gặp mà không biết Thạch ở đâu”. Trước cửa ga, hai đứa đứng lại trên bực thềm
vài phút, bên kia góc đường hàng Cỏ trước một quán rượu, bọn Tây say đang hò
hét đánh đuổi một anh phu xích-lô chạy quanh gốc cây. Liên lại hỏi: “Thạch đã
khỏe hẳn chưa? Bây giờ Thạch ở đâu?” Thạch đáp: “Tôi đi lính”, Liên ngạc nhiên
chờ Thạch giải thích nhưng Thạch chỉ mỉm cười không nói. Hai đứa vượt qua khúc
phố hàng Lọng vắng vẻ tới dãy buôn bán đông đúc gần chợ Cửa Nam, ánh đèn trong
các cửa hiệu chiếu ra hè soi rõ mặt Liên mệt nhọc, mấy sợi tóc mai xòa xuống
trán lấm tấm mồ hôi, Liên bước chậm chạp, hai tay buông xuôi bàn tay dấu mép
áo. Liên hỏi: “Thạch thôi không học nữa? Đã nghĩ kỹ chưa?”, giọng của Liên dịu
dàng nhưng khẩn thiết bắt Thạch phải trả lời. Làm sao nói với Liên được, làm
sao Liên hiểu được, những điều phức tạp mâu thuẫn rối nùi trong trí mà nhiều
lúc chính tôi cũng phải rức đầu chóng mặt? Thạch đáp: “Nghĩ kỹ rồi”, không phải
tôi nói dối, phải nói là tôi đang nghĩ và tôi sẽ nghĩ mãi mãi, vừa bước tới vừa
nghĩ, như một người mù vừa đi vừa nghe ngóng, tôi không muốn ngồi yên. Thạch nghe
một nỗi đau buốt ở đâu đây, giữa Liên và tôi vẫn còn một khoảng cách biệt lớn
lao là cái phần tối tăm trong chính tôi không thể phơi mở. Liên cười trong mắt,
một vẻ tin tưởng thơ ngây; ngày còn bé Thạch cũng thường trông thấy ánh mắt ấy
có bóng lửa sáng chập chờn những khi Thạch sang bếp xem Liên thổi cơm; Liên tin
Thạch không bao giờ nói dối Liên, không bao giờ dấu diếm Liên bất cứ điều gì từ
những đau buồn nhỏ nhặt đến những vui sướng tầm thường như ngày thơ dại. Hai đứa
lớn dần là hai chị em, hai người bạn, hai người tình trong một nỗi cô đơn che
chở lẫn nhau chống với những bất hạnh vô phúc ở quanh nhưng chiến tranh loạn lạc
đã cắt đứt liên lạc, gặp lại nhau Liên đã lấy chồng. Khu cửa Nam nhộn nhịp. Bên
kia cổng xe lửa phố Sinh-từ bụi bậm hay lầy lội, giữa khu phố bình dân ấy vẫn
còn nguyên hai căn nhà giáp vách xưa của hai đứa, những gian nhà của ấn tượng
thơ ấu không nhận được ngày mới hồi cư. Trên nóc một hiệu chữa đồng hồ, loa
phóng thanh oang oang loan truyền tin tức. Rạp Kinh Đô chiếu một phim chiến
tranh, trước cửa phòng vé chen chúc khán giả. Liên phát biểu ý kiến: “Mấy năm
nay chạy loạn người ta vẫn chưa chán mà còn thích xem truyện chiến tranh, Thạch
nhỉ”. Thạch đùa: “Xem cho nó quen để đỡ sợ”. Liên đã vui hơn, lắc đầu: “Tôi chịu
không thể nào quen được”. Hai đứa bỏ phố hàng Bông, rẽ vào Đường Thành vắng. Thạch
đề nghị lên hàng Buồm ăn cơm tám giò chả. Trên lề đường đất bên cầu đá xe hỏa
qua những vòm cổng đục tối, bỗng Liên nói: “Thạch còn nhớ ngày nhỏ Thạch hay
nhào lộn làm xiếc cho tôi xem không? Năm ấy Thạch mới có sáu bảy tuổi gì đó. Lớn
hơn một chút Thạch lại ao ước trở thành nhạc sĩ để đánh đàn cho tôi nghe. Chóng
quá phải không Thạch?” Thạch không sao nhớ nổi những điều ấy, chăm chú nhìn
Liên, Liên chắc hẳn còn giữ được biết bao kỷ niệm mà ngày nay mình đã bỏ quên.
“Thạch bây giờ trông có vẻ lại già dặn hơn cả tôi nữa”, Thạch cười hỏi: “Đáng mừng
hay đáng buồn?”, Liên đáp: “Còn tùy”. Trong hiệu ăn, Liên ăn rất ít, nàng lo
săn sóc Thạch; dưới ánh sáng sỗ sàng, mặt Liên già nua tẻ lạnh, nàng nhìn Thạch
ăn và mỗi khi bắt gặp mắt Thạch nàng mỉm cười. Ở hiệu ăn ra hơn chín giờ. Thạch
đưa Liên đi mua hàng loanh quanh mấy phố hàng Cân, hàng Bồ, hàng thuốc Bắc, hàng
Vải thâm; phố xá vắng dần, trời se lạnh đổi gió, lúc trở lại hàng Ngang các cửa
hiệu đều đóng cửa, hai đứa đi bên nhau dưới đường vắng. Chính trong những lúc
này Liên đã kể cho Thạch nghe mấy năm trước khi mới gặp lại sau những năm tản
cư về tình cảnh nàng: Tích, chồng Liên, thất nghiệp, chơi bời hư hỏng sinh ra
nghiện hút, thường về đánh đập khảo tiền nàng. Thạch hỏi: “Tích dạo này thế
nào?” “Hỏng lắm rồi. Tôi không còn chịu nổi. Bây giờ lại làm chỉ điểm cho phòng
Nhì, mới tuần trước hắn bắt một người hàng xóm để làm tiền, tôi xấu hổ quá Thạch
ạ. Tôi tính thuê nhà ở riêng”. Thạch không dám nhìn Liên, ngửng mặt như nghe
ngóng hướng gió: “Tôi nợ Liên cả thảy bao nhiêu?”. Không nghe Liên trả lời, Thạch
thu hết can đảm nói khẽ: Tôi đưa tiền cho Liên được không? Hả, tôi đã đi làm có
tiền không nghèo như trước nữa.”. Cười nhạt không được hưởng ứng, nhưng Thạch
cũng móc ví lấy phân nửa lương, trao vào tay Liên. Liên đứng khựng giữa phố, Thạch
ấp hai bàn tay mình vào tay Liên, định bảo Liên cầm lấy nhưng chỉ gọi được một
tiếng Liên, và nghe nỗi xúc động run rẩy ở bàn tay Liên. Liên thì thào: “Cám ơn
Thạch, cám ơn Thạch”. Qua phút xúc động Liên bình tĩnh trở lại, bàn với Thạch
những dự tính của riêng nàng: “Giữa tôi với Tích không còn gì ràng buộc, thằng
Uẩn chết rồi. Thạch chưa biết nhỉ? Thằng bé bị thương hàn tái phát, đưa tiền
cho hắn đi mua thuốc về cho thằng bé uống, cơn nghiện lên hắn đi hút rồi đi biệt
mấy hôm. Thằng bé chết, chôn cất xong, mới thấy hắn về nhà, hắn không khóc lấy
một giọt nước mắt”. Trong khi Liên vào một hiệu thuốc tây đầu Hàng Ngang, Thạch
đứng dưới gốc cột đèn đầu hè, hàng phố không một bóng người, cửa hiệu thuốc
Liên vào cũng kín mít làm bằng thứ gỗ dầy chắc. Phía xa đầu Bờ Hồ xe tuần cảnh
chạy chậm, máy rì rầm vọng tới. Đêm càng khuya càng biệt tịch. Thạch nghĩ may
ra Liên sẽ được sung sướng hơn trước. Liên trở ra Thạch nói ngay: “Tôi đã tưởng
mất Liên rồi”, Liên âu yếm: “Thạch đợi lâu quá phải không?”. Tay nải của Liên nặng
chĩu Thạch phải mang hộ nàng. Hai đứa đi ngược về phía hồ Gươm, sương bắt đầu
xuống. Liên hỏi: “Muốn gặp Thạch thì tìm ở đâu?”, Thạch nghĩ ngợi giây lâu:
“Mai tôi tới ga đón Liên”. Liên nhắc lại: “Mai, hở Thạch? Thạch còn ở Hà-nội
lâu không?” “Nửa tháng”. Góc hàng Đào và hàng Gai, chiếc xích-lô quen chờ Liên.
Thạch thong thả tiếp tục đi bộ một mình qua các phố đêm Hà-nội quen thuộc như
đi trong một gian nhà rộng, không người ở.
CHƯƠNG III
Không về được Thụy-khê,
Thạch đến nhà Cảnh, một buồng xép trên gác một ngôi nhà hai tầng nằm trong ngõ
hẻm, đầu phố Hai bà Trưng gần Cửa Nam; gồm toàn biệt thự yên tĩnh; ngôi nhà được
người chủ trương cắt cho nhiều gia đình khác thuê lại, đông người chật chội khắp
các lối đi só sỉnh như một cảnh chợ, buồng của Cảnh trước kia là phòng tắm:
vuông vắn mỗi bề ba thước, trong góc vẫn còn nguyên bồn đựng nước hoen gỉ của cầu
tiêu máy trên đầu tường, nửa đêm nước lên được đến trên gác chảy róc rách trong
bồn trong các ống dẫn nước chạy bọc dưới chân tường, cầu tiêu đã được tấm phản
kê khuất lên trên. Thạch bước dón dén lên những bực thang gỗ ọp ẹp tối om, sợ
làm kinh động cái gia đình thuê phần đất dưới gầm cầu thang, dưới sân tiếng máy
nước chảy vào bể và người ta đang thức canh chuyển sang chum phần mình, chuyện
trò bâng quơ, đâu đây tiếng bài mạt - chược xoa ròn tan trong một căn buồng mở
cửa sáng và ở phố xa tiếng kèn của một nhà khiêu vũ vọng tới hiu hắt.
Cảnh đang ngồi làm
việc trước bàn viết, cởi trần tóc rũ xuống trán, tấm bảng gỗ nhỏ đóng trên tường
chi chít những phương trình toán học; hắn đang sửa soạn chứng chỉ Cơ học thuần
lý. Thuần lý, khôi hài, le réel est
irrationnel; nằm trên phản Thạch nhìn qua cửa sổ lên cái sân thượng xa tít
của một tòa nhà cao thuộc phố bên, đêm Hà-nội dịu dàng khép kín trong một giấc
mộng triền miên không hình ảnh. Chốc chốc Cảnh buông bút, đạp chân vào tường
cho ghế ngả đụng vào phản, ngửa cổ lim dim. Sáng hôm sau Thạch dậy muộn, người
mệt mỏi đầu nặng, trong giây khắc chập chờn sắp tỉnh Thạch quên không nhớ là
đang nằm ở đâu; Cánh cửa sổ trước mắt nhìn ra ngoài trời đóng chặt, Thạch nghe
xung quanh ở bên ngoài sự êm tĩnh của buổi mai đang lên cao; một ngày ở Hà-nội
đã qua. Cảnh dạy từ lâu, hắn ngồi thu hình đọc sách trên mép cửa sổ cuối chân
giường mở ra trước một bức tường hông của tòa biệt thự bên cạnh. Thạch rủ Cảnh
đi ăn phở; Sau bữa điểm tâm, Thạch tính từ biệt Cảnh chưa biết đi đâu cho hết
buổi sáng nhưng cũng không muốn chạm mặt nhau mãi kéo dài cái không khí tẻ nhạt
giữa hai người; Không còn chuyện để nói nữa, Cảnh hỏi: “Cậu bận việc gì sáng
nay không? Nếu không chúng mình đi thăm một người quen”. Thạch hỏi lại: “Ai mới
được?”. Cảnh đáp mơ hồ: “Một nhân vật kỳ lạ của thời đại”. Thạch nhận lời.
Đó là một người
đàn ông đứng tuổi, phải bảo là một nhân vật dị kỳ mới đúng, không rõ người nước
nào. Theo lời Cảnh y là người lai, bố Đức mẹ Trung-Hoa, y có nhiều nét Á-Đông hơn Tây-phương, khổ người thấp
bé, nước da ngăm đen, trán dô và ngắn, mắt một mí hum húp. Cách ăn mặc lạ lùng,
y vận âu phục, cái cra-vát đỏ loang bẩn được treo lên cổ bằng một sợi giây lạt,
quần buộc túm bằng giải dút, giầy không bí-tất. Y nói chuyện bằng tiếng
Pháp lơ lớ giọng Tàu và giọng Anh, tự giới thiệu là y nói được bảy thứ tiếng: Đức,
Tàu, Anh, Nhật, Pháp, Tây-Ban-Nha, Nga, đã từng lê gót
gần khắp thế giới; thời nội chiến Trung-Hoa những năm sau Cách-mạng Tân-hợi y đã gặp Tưởng Giới
Thạch, Mao Trạch Đông hoạt động bên cạnh Borodine, là bạn của Malraux, Quách Mạt
nhược. Bây giờ y là người vô tổ quốc, đến Việt-nam mới được hai năm có ý
định lưu lại Hà-nội ít lâu, đang ra công viết một bộ sách dày vài nghìn trang
chứng minh sự lầm lẫn của chủ nghĩa Marx, khởi xướng một lý thuyết mới mưu cầu
hạnh phúc hòa bình cho thế giới. Y lôi ở dưới gầm tủ ra một cái hòm sữa đựng đầy
giấy má, cầm lấy một tập mở ra đọc vài trang, Thạch chẳng hiểu gì hết, y viết bằng
tiếng Anh. Y sống một mình trong gian nhà rộng dài thuê đắt, ở giữa nhà một cái
bàn học trò với ghế dài, một cái chõng tre làm chỗ ngủ, và một cái tủ mộc; trên
tường vôi bẩn thỉu treo một tấm bảng đen lớn, trong các góc nhà mạng nhện giăng
đầy; sân trong, nhà bếp sơ sác như một ngôi nhà hoang. Lúc bọn Thạch đến có hai
người, một nam một nữ, ăn mặc tề chỉnh vẻ thượng lưu đang học tiếng Anh với y;
họ ngồi ở bàn học trò, y đứng trước bảng cầm thước chỉ dẫn, bắt họ đọc thành tiếng
và gắt gỏng la mắng như đối xử với bọn con nít. Hai người này ngượng vì sự hiện
diện của Thạch và Cảnh, ấp úng xin kiếu về trước giờ viện lẽ y có khách phải tiếp.
Họ nộp ngay tiền sau giờ học, mỗi người hai trăm bạc bước ra khỏi nhà như được
giải thoát; hai người đã về, y vẫn còn lớn tiếng chê bai bọn họ là một lũ đần độn,
như thế mà cũng vác mặt làm kẻ thượng lưu trong xã hội, y bảo người đàn ông là
quản lý tờ nhật báo bán chạy nhất Hà-nội hiện thời, người đàn bà là vợ một viên
chức cao cấp trong chính phủ. Y vào trong góc nhà lấy ba chai nước giải khát, với
ba cái cốc cáu bẩn, bắt Cảnh dùng răng mở nút chai, sai Thạch cầm một cái đĩa
nhôm đi mua nước đá ở một tiệm kem đầu phố; Cảnh đưa mắt ngầm ý bảo Thạch làm
theo lời. Khúc phố ngắn vắng vẻ trong khu gần hồ Thiền Cuông phía sau nhà Đấu Xảo,
Thạch đi lững thững giữa đường ném cái đĩa nhôm lên không rồi bắt lấy, không hiểu
mình đang ở nơi này để làm gì; buổi sáng lặng lờ bằng phẳng như những nhà đóng
kín cửa buông mành sáo bên hè, tiếng máy nước đá sọc sạch đều đều trong một cửa
hàng không hoạt động. Khi y rót nước vào cốc, Cảnh bảo Thạch: “Cậu giả tiền lại
nó”; y chỉ nhận của Thạch phần tiền nước của bọn Thạch mà thôi. Suốt nửa giờ y
nói thao thao về đủ mọi vấn đề triết lý, chính trị với vẻ nghiêm trọng của đạo
sĩ đang thuyết pháp trước tín đồ, cười hô hố nhe hàm răng cải mả bắn cả nước bọt
ra ngoài, bàn luận công kích mọi tư tưởng từ cổ chí kim, từ Jésus Thích-ca đến Lénine, Trotsky
không chừa một ai. Merde, ra khỏi nhà y Thạch cáu bẳn chán ngán, chân
tay muốn phá phách, để khỏi nghĩ ngợi; Cảnh im không nói gì. Đến hồ Thiền
Cuông, Thạch hỏi: “Nó có điên không? Cậu gặp nó trong trường hợp nào?” Cảnh
đáp: “Tôi gặp nó trong một buổi hội họp của bọn trí thức ở đây, tại nhà bác sĩ
Hán. Cậu biết tên này không? Thằng An học Ăng-lê cùng với hắn ở Sứ-quán Anh nên được mời đến
dự, nhân đón tiếp một mụ giáo sư Mỹ vừa sang cổ động cho Phong-trào liên-bang hòa-bình thế-giới. Nó rủ tôi đến chơi
xem. Cậu biết chúng nó bàn luận những gì với nhau không? Chính-phủ liên-bang hòa-bình thế-giới, tu chỉnh hiến
chương Liên-hiệp-quốc…” Thạch hằn học: “Tôi
mà có súng thì tôi lia cho chúng chết khuất mắt. Một bọn khùng đáng ghét”. Cảnh
mỉa mai riễu cợt: “Biết đâu nó chẳng là thiên tài, một bộ óc lớn của nhân loại”
và cười gằn cộc lốc. Thạch bị chọc giận, nói như say: “Cậu phải nhớ đã có lần
thằng An hỏi tôi nghĩ thế nào về thiên tài. Tôi bảo tôi đéo tin thiên tài.
Thiên tài chỉ là bịp, bịp mình, bịp người, đại bịp. Một thứ kiêu hãnh tột độ
không muốn chung đụng với ai. Bởi kiêu hãnh nó phải cố tạo ra những công trình
hư tưởng để tự chứng thực, chứng thực cho cái lối sống cô độc phản xã hội của
nó. Công trình nó tạo ra là bức thành ngăn cách nó với đồng loại, nó nói là làm
mọi người gần nhau nhưng thực ra là nó chia rẽ mọi người… Vì muốn gần nhau người
ta phải vươn lên kịp nó, phải chịu nhốt chung với nó. Chẳng bao giờ nó xuống với
người ta cả. Mà giả thử người ta có muốn tới với nó thì nó lại có muôn ngàn lối
để thoát lên trên người ta khiến người ta quay cuồng tuyệt vọng chẳng hiểu đâu
vào đâu cả. Không bao giờ, không thể nào người ta có thể bằng nó, vì như thế
còn đâu thiên tài. Il faut tuer tous: génies, prophètes, poètes,
philosophes, etc…
Nếu chẳng may tôi là thiên tài chắc chắn tôi tự tử ngay”. Cảnh trầm ngâm vài
giây: “Cậu có nghĩ cậu cũng là loại kiêu ngạo nguy hiểm?” Câu hỏi như một cái bẫy
sập, Thạch lúng túng vùng vẫy chưa thoát; Cảnh tấn công: “Tôi sợ sự lựa chọn của
cậu chỉ là phản ứng của kiêu hãnh. Có nhiều khi người ta lầm tưởng mình là
thiên tài chứ? Tôi biết cậu vẫn nhìn tôi như kẻ hèn nhát, trốn tránh để học cho
mình. Tôi nói thực tôi cũng không có bụng dạ nào học, pis-aller, chỉ chừng
nào tôi thật là tuyệt vọng có lẽ tôi sẽ theo đuổi con đường khoa học. Cậu đừng
nghĩ những điều tôi tin tưởng chỉ là cái cớ giả dối che đậy. Tôi chưa dứt khoát
vì nhiều lẽ…” Thạch nổi nóng nhưng không biết phải làm sao, bên kia hồ là con
đường đất gồ ghề và bãi cỏ hoang dơ bẩn, cái hồ hẹp trơ trẽn giữa một khu phố sạch.
Cảnh bỗng dịu giọng: “Cậu không bao giờ nên nghĩ rằng vì hèn nhát giả dối hay
mù quáng mà tôi tin. Sở dĩ tôi chấp nhận là vì tôi cho rằng mình không thể tự
thay đổi được đời mình. Trong cái xã hội này mình cũng bị aliéné. Tôi sợ cứ bám
mãi lấy cá nhân, tự do, trí thức rồi mình cũng đến dở điên dở khùng. Tôi có một
người rất thân trong gia đình, hồi còn đi học hoạt động hăng hái ghê lắm, vào
cái thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh về nước, bị bắt ra tòa vào tù đến chừng
trở về lấy vợ đẻ con, bây giờ gàn không tưởng… C’étaient nos pères, les
petits bourgeois”. Thạch gượng gạo hỏi: “Cậu không tin rằng mình đã biết thế
thì mình có thể tránh được?” Cảnh đáp: “Tôi đã bảo cậu vẫn còn kiêu hãnh, riêng
mình mình không thay đổi được gì hết. Mình phải quên mình đi mới được. Cậu đang
hành động như kẻ tự sát. Cậu không tự do đâu?” Thạch buông suôi: “Thì cứ cho là
như vậy”, buồn hết sức, châm thuốc lá hút liên miên, tôi cũng là kẻ kiêu hãnh
cô độc. Những ý niệm mập mờ bám chặt như loài đỉa voi dứt không đứt, trơn tuột,
bầy nhầy gớm ghiếc; Thạch chấm dứt câu chuyện bằng cách nói lửng lơ như với
riêng mình: “Có thể tôi lầm nhưng trước khi đó tôi muốn thí nghiệm. Tôi không
muốn chấp nhận khi tôi còn nghĩ tôi có thể làm khác. Giả thử thất bại cũng chẳng phải là vô ích, vô nghĩa lý. Thí nghiệm thất bại
cũng có ích cho người khác”, và kéo Cảnh vào một
hiệu kem ở đầu phố Gia-Long.
Trong dãy tủ kính cửa hàng Godard cũ, các hàng len mới đã trưng bày, dưới mái
hiên che rợp hè đường bọn con gái dán mũi vào tủ kính. Hiệu kem hẹp như một kẽ
ngách giữa hai tòa nhà lớn, trang trí tân thời nhiều màu sắc nhưng thiếu ánh
sáng. Cảnh rủ Thạch về quán sinh viên ăn cơm rẻ tiền. Trên phòng gác rộng, bàn
ghế còn mới, các góc bầy những chiếc quạt đứng xanh quá sang trọng trong một
khung cảnh không trần thiết. Cảnh nói: “Cái xã hội này nó đang nuôi mình như
nuôi bọn quái thai dị nhân buổi sáng ấy. Nó dạy bọn trưởng giả, khinh bọn ấy ra
mặt nhưng bọn ấy vẫn cần nó vì nó là bằng chứng của tự do mà…” Thạch không muốn
nói không muốn nghĩ nữa. Chia tay với Cảnh, Thạch lang thang ngoài phố, nhiều
lúc mỏi mệt buồn ngủ ngáp chảy nước mắt. Khoảng ba giờ ghé qua ga hỏi giờ tàu,
người ta cho biết tàu trễ vì mìn nổ ở gần cầu Phú-lương. Lại tiếp tục cuộc
du ngoạn trống trải qua thành phố; tình cờ trong một hiệu sách nhỏ lụp xụp gần
chợ Đuổi, Thạch được đọc một truyện ngắn của An đề tặng Thạch đăng trong một tờ
tuần báo ít độc giả. Truyện kể một anh chàng điên vì tình bỗng tự dưng khỏi bệnh,
anh ta khổ sở vì phải tỉnh lại, anh ta muốn điên nữa điên mãi nhưng vô hiệu, cuối
cùng nhân vật tự tử vì chán ngấy sự sáng suốt. Thạch bỏ ba đồng mua tờ báo. Bảy
giờ hơn Thạch theo phố hàng Cỏ về ga, từ xa dưới vòm cây um Thạch trông thấy
Liên đứng đợi. Dáng mảnh mai trong chiếc áo đen dựa bên cái cột lớn trước tòa
nhà ga chính nhô ra ngoài, trong một vùng hiu quạnh trống trải của buổi chiều lẩn
khuất. Thạch hỏi: “Tàu về lâu chưa Liên?” Liên đáp: “Chưa, hôm nay tôi nghỉ chợ
dọn nhà, đợi Thạch đến cả tiếng đồng hồ, tôi sợ Thạch không đến”. Thạch hỏi:
“Sao lại không đến?” Liên chỉ nhìn Thạch không trả lời. Ngày cuối mùa hè, buổi
chiều kéo dài, ánh sáng nhuộm da trời một màu vàng đu đủ. Liên bảo: “Thạch về
xem nhà mới của Liên”. Liên thuê một căn nhà nhỏ giá năm trăm một tháng trong một
ngõ hẻm Sinh-từ,
cái phố của tuổi nhỏ đã mất. Qua hai căn nhà cũ, một hiệu bán thịt bò bên một
hiệu sách, Liên nhắc: Nhà của chúng mình, Thạch nhìn vào trong tưởng tượng đến
cái ngõ sau ăn thông, Thạch vẫn qua nhà Liên bằng ngõ ấy để Liên dúi cho Thạch
mấy viên kẹo bột kẹo vừng mua ngoài chợ hoặc Thạch cho Liên những cục kẹo gôm
mang ở trường về. Nhà mới dọn đồ đạc sơ sài nhưng đã ngăn nắp sạch sẽ, Thạch cảm
thấy nó trống trải đáng sợ. Đứng bên cửa sổ Thạch nhìn những ánh đèn dầu trong
những gian nhà lá ở bên con đường đất phía bên bờ ao sau nhà. Những bóng người
đi trên đường xẫm dần, những hồi chuông rời rạc của xe đạp xe xích-lô trở về xóm, tiếng hò
reo của đám trẻ con vang vọng. Bỗng dưng Thạch hỏi Liên: “Uẩn lên mấy nhỉ?”, Liên đáp: “Nếu còn thì
lên ba”. Liên ngồi ở đầu giường, mặt cúi nghiêng tóc như sắp xổ tung, Thạch biết
Liên sắp khóc như ngày nhỏ và Thạch vẫn chưa biết cách nào an ủi bạn. Thạch lại
hỏi: “Liên dọn đi, Tích hắn có biết không?” Liên lắc đầu. “Bây giờ Liên tính thế
nào, Liên còn đi chợ Tích hắn còn có thể đón gặp Liên, lúc ấy Liên nói sao?”
Liên đáp: “Đến đâu hay đến đấy”. Thạch ra đứng ở cửa ngó mông ra đầu ngõ, nhà tận
cuối ngõ gần ao và một bãi hoang, sự ồn ào tấp nập qua lại ngoài phố không vào
đến nơi. Thạch nghe tiếng Liên: “Thạch về đấy hả?” Thạch không đáp ngay, nhìn
trước mặt thấy sao lấp lánh, rồi ngập ngừng: “Tôi ở lại đây. Được không? Liên cần
tôi không?”.
Thạch quay người lại, Liên ngồi im trên giường đầu cúi gầm không đáp. Thạch tiến
lại gần đặt bàn tay lên tóc Liên vuốt ve, Liên rùng mình. Thạch gọi: Liên, nàng
ngước lên. Liên đang đỏ hoe mắt.
Những ngày sau
Liên nghỉ chợ, ở nhà săn sóc Thạch, Thạch cũng chỉ quanh quẩn bên Liên không ra
phố. Liên mang lại cho Thạch một không khí đầm ấm của gia đình Thạch thường chỉ
được trông thấy ở xung quanh. Thạch được nghỉ ngơi hoàn toàn trong nơi ẩn trú của
hai đứa, nhận định sự vật bên ngoài dịu dàng bình tĩnh hơn. Trong khi Liên bận
bịu dưới bếp, Thạch giúp nàng những công việc vặt vãnh, thư thái không nghĩ ngợi,
chìm đắm trong một thứ hạnh phúc quên lãng êm đềm. Thấy Thạch hân hoan, Liên mỉm
cười nói bằng giọng xúc động: “Giá đừng loạn lạc thì chúng mình sung sướng bao
nhiêu.”
Thạch gạt đi: “Thế này chẳng sung sướng rồi sao? Đừng tiếc gì hết Liên ạ.” Mỗi buổi tối Thạch đưa
Liên đi cất hàng gửi nhờ Bích, một cô bạn, mang xuống Cẩm-giàng. Bích ở giữa phố hàng
Bông, qua cái cửa ngõ tối ẩm bên cạnh một hiệu trồng răng, một khoảng sân nhỏ,
tới một gian buồng dài luộm thuộm nơi cư ngụ của một gia đình đông người: ba
cái phản kê san sát đã mắc màn ố vá chằng đụp, trong một cánh màn ấy le lói ánh
đèn dầu, không khí nực khói thuốc phiện với mùi đồ đạc ẩm mốc. Một bộ bàn ghế gỗ,
bừa bộn sách vở cốc tách giỏ ấm bình điếu tàn đóm trên mặt bàn và quần áo cặp
sách ở lưng ghế, gần chân tường hòm xiểng va-ly chồng chất lên nhau.
Bích cao lớn, thoáng nhìn có vẻ thô kệch nhưng sự tương xứng của các phần tạo
cho Bích một vẻ riêng dễ coi, một thứ duyên dáng thật thà, những nét đẹp bất ngờ
khỏe mạnh, giọng nói rõ và ấm, lối nhìn người lạ ngay thẳng giàu thiện cảm.
Liên kể với Thạch: “Bích can đảm lắm, lại tinh thần cao nữa, con cháu cụ đấy”.
Bích là một con cả trong một gia đình trưởng tộc, bố nghiện, Bích và mẹ chạy
hàng xách tần tảo nuôi bảy miệng ăn, bốn đứa em Bích còn đi học, thêm tiền thuốc
cho ông bố và những ngày giỗ của gia tộc; nhà Bích nghèo nhưng nệ cổ vẫn cố làm
tròn bổn phận nặng nề của trưởng họ, tháng nào cũng giỗ, có tháng tới bốn năm
ngày giỗ. Trở về Thạch dìu Liên qua những phố yên tĩnh, khuya nghe chớm lạnh
mùa thu sớm, giữ Liên lại hôn Liên sau những rặng cây, lấy những đầu ngón tay
lau những giọt nước mắt cho Liên và nói: “Liên vẫn hay khóc như thuở bé”, Liên đáp: “Liên khóc
thương cho hai đứa mình, không biết sẽ ra sao. Mai kia Thạch đi rồi…” Thạch an ủi:
“Đừng nghĩ đến cho mệt. Hiện tại chúng mình sống với nhau là đủ rồi.” Khi yêu Liên, Thạch
nương nhẹ, ôm ấp trìu mến Liên như nâng niu những tình cảm ấu thơ, điều Mai
không hề dạy, điều Thạch không tưởng tượng có thể làm được. Đêm đầu tiên bàn
tay ấm áp của Liên ôm lấy mặt Thạch sau phút ân ái, trong mắt Liên biểu lộ sự
hàm ơn. Liên kể nỗi khổ sở của Liên ngày mới lấy Tích, hắn dày vò thể xác Liên
như súc vật khiến cho Liên sợ hãi ghê tởm đàn ông: “Liên vẫn sợ Thạch. Liên yếu
đuối quá mà Liên biết Thạch ghét sự yếu đuối”. Thạch ôm hết cả Liên vào người
đáp: “Riêng với Liên anh sống một cuộc đời khác.”
Vào buổi chiều chủ
nhật, Thạch đưa Liên đi chơi qua các phố vắng. Mùa thu đã trở về những hàng cây
xanh mướt bầu trời hiu hắt trở gió thổi tà áo của Liên quấn lấy chân Thạch. Dọc
con đường đất ven sông nhìn nước cuộn chảy, Liên bảo Thạch: “Em nghĩ giá chúng
mình chết với nhau lúc này thì giữ được hạnh phúc hoàn toàn”. Thạch mỉm cười dễ
dãi: “Em lãng mạn quá. Anh thích sống với em hơn”, Liên bâng khuâng: “Em sợ…
Em vẫn sợ tương lai”. Thạch cố gượng đùa trấn áp những khuấy động
Liên vừa gợi lên: “Em lo sợ anh chết sớm chứ gì? Sao em cứ mong điều gở cho anh
thế? Mà anh chết lúc ấy em chết theo cũng vừa”. Liên mỉm cười hỏi: “Nhỡ em chết
trước anh thì sao? Anh dám chết theo em không?” Thạch chậc chậc miệng, học theo
lối của Đồng: “Anh ham sống lắm sợ khó mà chết được theo em”. Tuy biết là câu
nói bỡn Liên vẫn không giấu được vẻ buồn. Thạch rủ Liên ghé vườn hoa Chí Linh
nghe hòa nhạc công cộng, leo lên ngồi trên khoảnh đất cao dựng đài kỷ niệm chiến
sĩ, gặp bọn Đồng, An và Cảnh. Cảnh đứng xa nhìn lại, chỉ có An và Đồng tới gặp
Thạch. Đồng hỏi: “Đi biến đâu mà mấy hôm không gặp?” Thạch ậm ừ cho qua chuyện.
Đêm hôm ấy Thạch mất ngủ, nằm nghe im lặng ở tứ bề, gió thổi ngoài bãi đất trống
gần nhà. Khi những chiếc xe xích-lô
lọc xọc trở về trên con đường đất bên kia bờ ao và ngoài phố ầm ì động cơ của
xe tuần cảnh, Thạch trở dậy thắp đèn mang đặt trên ghế con đầu giường, tìm mấy
tờ báo cũ gói hàng nằm đọc. Tin tức chiến tranh Cao-ly, cuộc tranh chấp dầu hỏa
ở Ba-tư,
các phong trào chính trị ở Trung Đông, phong trào Marilyn, truyện ngắn của Nga,
thơ kháng chiến trong phụ trang văn nghệ, mốt tự tử bằng pháo xiết của dân Hà-nội,
những bài quảng cáo của nhà trồng răng Minh Sinh. Chói mắt, Liên trốn mặt vào cổ
Thạch, hỏi qua giấc ngủ yên tĩnh: “Anh còn thức?” Thạch vặn thấp ngọn đèn nằm
im nhìn đình nhìn màn. Một lát Liên quàng tay ôm lấy đầu Thạch: “Anh không ngủ
đi anh”, Thạch gỡ tay Liên đắp hết chăn cho nàng, sửa lại mái tóc xô lệch của
Liên, xong nằm xích ra ngoài mép giường. “Anh không trả lời Liên?”. Thạch hôn lên trán Liên:
“Anh canh cho Liên ngủ”. Ánh đèn dầu phủ trên mặt Liên một lớp rạng rỡ của hạnh
phúc bình thản làm Thạch quặn đau. Gần sáng Liên dậy, Thạch vờ nhắm mắt như ngủ.
Liên đắp chăn cho Thạch, dón dén đi lại trong nhà sửa soạn hành lý ra ga. Liên
đến ngồi cạnh giường đợi cho qua giờ thiết quân luật, Thạch mở mắt. Liên lùa
tay vào trong ngực áo Thạch mơn trớn, tươi cười lắc đầu: “Anh ngủ đi. Bây giờ đến
lượt em canh cho anh ngủ. Hôm nay em phải xuống thu tiền hàng, anh ở nhà cho
ngoan nhé. Lát nữa em mua xôi để trong trạn, thức dậy anh nhớ ăn. Chiều anh đón
em, em mua quà về cho”. Thạch không thể nào chợp mắt được, ngồi nhỏm dậy, mặc
quần áo đưa Liên ra ga dù Liên ngăn cản. Năm giờ sáng, trời mờ tối, sương thấm
ướt vỉa hè. Phố Sinh-từ
và chợ Cửa Nam rào rào ấm ấp, những phố xung quanh tĩnh mịch. Thạch và Liên ăn
điểm tâm trong ngõ Yên-thái
trước ga, Thạch uống hai cốc cà-phê
sữa cho tỉnh. Trong sân ga buổi sớm đám hành khách dồn lên chưa hết một toa làm
lộ vẻ quạnh hiu của những kè si-măng
dài. Cả đoàn tàu nối một cách thừa thãi, ngoài hai toa hành khách hạng ba liền
nhau còn toàn là những toa “gòn” bỏ không và những toa
hàng hóa kín mít. Sự điều hành công việc cũng lửng lơ như không, ngoài người
bán vé ngồi trong cũi tối và người bấm vé giữ cửa. Một người phu đẩy cái xe sắt
nặng nề trên chất mấy kiện hàng nhỏ. Một chiếc đầu máy loay hoay lên xuống từ đầu
Sinh-từ
đến cuối hàng Lọng. Lúc tàu sắp khởi hành mới nghe tiếng còi của người trưởng
xa đứng gần đầu máy. Thạch đưa Liên lên chỗ ngồi, đứng tựa cửa sổ nhìn quang cảnh
dưới sân, Liên chuyện trò với nhóm bạn hàng quen thuộc. Khi tàu chuyển bánh,
Liên gọi Thạch: “Anh, tàu chạy rồi”. Thạch gật đầu nói: “Anh cũng đi chơi”.
Liên bảo, vẻ không bằng lòng: “Nhưng anh chưa lấy vé mà”, Thạch đáp: “Có sao?”, một
người bạn hàng xen vào: “Thì lát nữa cô Liên điều đình với ông soát vé vậy. Ông
ấy có cảm tình với cô mà”. Con tàu nặng nhọc chạy khoảng đường ngắn ngót năm
mươi cây số mất ba tiếng đồng hồ, ngừng lại ở những ga xép có khi hàng mươi lăm
phút nửa tiếng không biết để làm gì, chẳng có hành khách lên xuống, cũng chẳng
có hàng hóa chuyên chở. Nhà ga trống như những điếm hoang tường vôi lem luốc,
nhiều nơi lở lói những dấu đạn, thường nép cạnh những đồn bốt xây bưng bít vây
kín bằng rào gai và nứa chỉ hở những lỗ châu mai, tôi ở trong bốn bức tường gạch
bít bưng ấy và Liên ngồi trên chuyến tàu này, chuyến tàu phập phồng đang thở những
hơi nước tắc nghẽn. Ga Cẩm-giàng
đỡ tẻ hơn, có đường tránh nhau, những người bán hàng rong và lính tráng lảng vảng
đón tàu tới. Đứng trên lớp đá xanh cập kênh sát thành tàu đón tay nải cho Liên,
Thạch chóng mặt buồn ngủ. Một người đàn ông đứng tuổi ăn mặc nửa tỉnh nửa quê,
đến bên hỏi chuyện Liên. Liên dắt tay Thạch theo người đàn ông ấy, đưa Thạch
vào ngồi chờ Liên ở một hiệu thuốc Bắc trước cửa chợ. Trong khi Liên đi giao
hàng, Thạch ngồi ở đầu tràng kỷ phía trong, chỗ đợi của khách hàng, ngủ gà ngủ
gật, thỉnh thoảng choàng dậy trông thấy những ô kéo của cái tủ cao trước mặt và
người đàn ông đứng tuổi đã gặp ngoài ga ngồi sau góc quầy phía ngoài trông ra
đường phố chính. Đường mấp mô bụi bậm hai bên dãy nhà gạch tiêu điều: quán giải
khát, hiệu cắt tóc, hàng tạp hóa, đồn binh, quận hành chính, ty công an. Bên
kia đường một gốc cây lớn làm chỗ tựa một quán nước nghèo của chợ quê. Giờ đồng
hồ sau Liên trở về, đứng tính toán hồi lâu ở quầy với người đàn ông. Chủ nhà mời
hai người ăn cơm trưa nhưng Liên từ chối. Nàng dẫn Thạch vào nhà trong rửa mặt
bằng nước giếng mát, hai gò má Liên ửng hồng, trán lấm tấm mồ hôi. Sau nhà
trông ra ruộng và quốc lộ số 5 chạy về phía Hải-dương. Bữa cơm ăn trong một
quán lá đầu chợ. Chợ buổi trưa lẻ tẻ còn mấy quán hàng sén giữa những túp lều
xiêu vẹo chỉ còn cột chống và nền đất rác rưởi. Bà chủ quán đau mắt hột nặng,
răng đen lâu chưa nhuộm biến thành màu nâu nhởn, thắt ruột tượng xanh, nói với
Liên: “Ông đội Khoát hỏi thăm cô Liên sao nghỉ chợ cả tuần lễ nay”. Lần trở về,
Thạch nằm trên ghế gối đầu lên tay nải của Liên ngủ tới gần Gia-lâm mới tỉnh; Liên không
có trong toa. Thạch đứng tựa ở đầu bực lên xuống ngắm cảnh vật. Buổi chiều đang
ngả dần ánh nắng hanh chạy xô tới xô lui trên mặt lúa còn xanh, những thôn làng
quay tròn theo vòng lượn của đoàn tàu. Một lúc tàu tăng tốc lực bất thường, Thạch
ngồi bệt xuống sàn. Qua cái cầu đá vắt ngang quốc lộ, Thạch nhìn những ống khói
nhà máy của vùng Gia-lâm
giơ lên trong chiều xẫm. Tàu dừng lại và toa của Thạch ở trong một đám cây cỏ
hoang vu, tới khi tàu chuyển bánh chậm chạp, chân Thạch cọ vào những cành lá sắc
mọc cao, toa tàu đu đưa, tiếng động của chuyến xe rời rạc nặng nề. Thạch choàng
tỉnh – một vài phút quên lãng xa lắc – Liên trải khăn tay ngồi ở bên, những
thanh sắt cầu khổng lồ đan chéo trước mắt, hình như Liên thì thầm: “Em tìm anh
mãi”. Ga hàng Cỏ chập chờn dưới những bóng đèn vỏ đục. Thạch đỡ hành lý cho
Liên và đi qua gian phòng rộng tối, ra ngoài phố, ở góc só tối một người ăn mày
nằm co quắp trên ghế. Đứng bên đường tàu điện, Liên hỏi Thạch: “Đi đâu anh? Em
về nhà thổi cơm anh ăn nhé? Ăn xong anh đi ngủ sớm anh mệt lắm rồi đấy”. Thạch
không trả lời ngó sững sang bên đường. Tích đứng dưới một gốc cây. Trông thấy
Tích, Liên hoảng hốt níu tay Thạch muốn kéo Thạch bỏ đi. Thạch đẩy tay Liên bảo:
“Em sang xem hắn muốn gì”. Liên nhìn Thạch sắp khóc van lơn, Thạch hất đầu ra
hiệu Liên làm theo ý mình. Liên băng ngang đường, Thạch theo sau đến trước mặt
Tích. Tích hom hem trong bộ quần áo ka-ky rộng và dầy, đầu đội cái mũ dạ nhầu, hắn
để một chút ria mép, toan quay đi xong lại nán đợi Liên, Tích nói với Liên: “Cô
theo tôi về nhà nói chuyện”, Liên đáp: “Tôi chẳng có chuyện gì phải nói với anh
cả”. Tích gằn giọng: “Cô đừng để tôi phải trói tóc lôi cô về thì xấu mặt”, Thạch
lên tiếng, giọng lạnh lùng thách thức: “Anh có đủ can đảm làm thử tôi xem nào”.
Tích ngắm Thạch tức giận hỏi: “Anh là ai?”. Thạch dằn từng tiếng:
“Tôi khuyên anh không nên theo đuổi làm khổ Liên nữa, tôi đã lấy Liên làm vợ rồi
anh biết chưa?”,
Tích hất hàm hỏi Liên: “Có phải thế không?” Liên cúi đầu không đáp, dáng điệu tội
phạm, Tích nhếch mép cười nham hiểm bảo Thạch: “Chúng ta còn nhiều dịp khác để
thanh toán vấn đề”. Trước khi trở gót hắn ném một cái nhìn khinh bỉ cho Thạch
và Liên. Thạch nổi xung nắm cổ áo hắn giật lại, Liên kêu lên: anh. Tích đứng
im, Thạch buông tay và hắn xốc lại quần áo bỏ đi không thèm nhìn lại.
Thạch cảm thấy mệt
mỏi hết sức, Liên khóc thút thít suốt dọc đường về. Đến một lúc tiếng khóc của
Liên làm Thạch bực mình gắt: “Thôi khóc mãi”, Liên nín bặt. Vài phút sau sự nín
lặng đè nén của Liên làm Thạch khó chịu hơn. Thạch muốn nói với Liên điều gì đó
nhưng không thể thốt ra lời, cơn tức giận bóp nghẹt lấy cổ họng, Thạch bước lùi
lũi Liên lẽo đẽo theo sau. Về đến nhà vẫn không nói với nhau thêm một lời, Liên
khép nép liếc Thạch, Thạch lầm lì trong cái vỏ cứng nỗi đau đớn giận dữ không
thoát được. Lên giường Thạch tưởng sẽ ngủ được ngay nhưng trái lại sự mệt nhọc
kéo dài tình trạng thao thức mỗi lúc một khó thở hơn; Liên nằm bên cạnh thỉnh
thoảng thở dài. Thạch dậy múc nước rửa mặt cố gắng tìm sự bình thản để sẽ vào
nói chuyện với Liên. Ngồi xuống giường ngó vào mắt Liên, bỗng Thạch cảm thấy
trơ trọi, vẫn cặp mắt to đen sâu lay láy như ngày nào nhưng Thạch vừa nhận ra
trong ấy không còn chứa đựng tuổi thơ ấu của mình nữa, Thạch đã nhầm, đó là cặp
mắt xa lạ giống như của bất cứ một người nào; Thạch vội vàng nằm xuống ghì lấy
Liên, trốn cặp mắt ấy, rồi Thạch xô cuồng vào sâu trong cơ thể Liên, vào tới tận
cùng thô bạo phá tan những ảo tưởng, trong khi Liên dẫy dụa muốn thoát. Hết, hết,
không còn gì; chỉ còn những nhịp dập dồn của một hành động trơ trọi.
CHƯƠNG IV
Cơn cuồng nộ
nguôi, Thạch nhu nhược bất động. Nỗi hối hận nhạt nhẽo thấm dần trong miệng, Thạch
từ từ buông Liên. Mắt nàng khép chặt trong sự chịu đựng âm thầm. Thạch xấu hổ
không dám nhìn lâu, thân thể lõa lồ của người yêu phơi trần trong ánh đèn mờ tỏ
như nỗi tủi nhục, Thạch nằm xuống bên duỗi thẳng không cựa, Liên cử động cánh
tay kéo tấm chăn lên che người. Thạch gọi phào trong hơi thở: Liên. Liên mở mắt
nhưng vẫn ngửa mặt, cánh mũi hơi mấp máy: Dạ. Giọng của Liên yếu đuối trói Thạch
vào sự bàng hoàng tê liệt, Thạch nói một mình thành tiếng: “Anh xin lỗi Liên”.
Liên đang cố nuốt những nghẹn ngào dồn xô lên trên ức, nàng chỉ thốt được một
tiếng: Không. Thạch sợ hãi hỏi: “Em có giận anh không?” Liên lắc đầu ở trên gối,
lát sau: “Em hiểu anh”. Liên nhoài mình qua người Thạch thổi tắt ngọn đèn, nàng
đưa bàn tay mát lạnh sờ soạng lên mặt Thạch thì thào: “Anh ngủ đi”, Thạch vòng tay giữ ngang
lưng Liên gọi: Liên. Dạ. Thạch nói một câu vô nghĩa nhất: “Anh yêu em”. Trong
bóng tối Thạch không nhận được sắc diện của Liên, mái tóc dài của nàng lả tả
rơi dần xuống ngực Thạch, Liên vẫn chống một tay lên mặt giường và mặt nàng
cách xa mặt Thạch, “Anh chỉ còn mỗi một mình em thôi”. “Em biết, em cũng vậy”.
Nhưng khi Liên gỡ tay Thạch, đặt mình xuống giường, Thạch bồn chồn đau xót, cảm
tưởng như hai đứa vừa từ biệt nhau vĩnh viễn, giấc ngủ chụp xuống Thạch lúc nào
không hay dẫn Thạch vào một giấc mộng dữ. Thạch lủi thủi bước trong phố tối, từ
sau một gốc cây một kẻ xô ra đâm một dao suốt lưng Thạch, Thạch quay nhìn nghe
tiếng cười đắc thắng của Tích. Thạch bỏ chạy tứ chi tê liệt, Thạch muốn chạy gấp
đuổi theo Liên ở đầu phố nhưng chân tay không nhấc nổi, Thạch bò xuống mặt đường
thân thể xây sát rướm máu, Thạch không thở được. Một lúc hoảng hốt thức dậy, Thạch
nghe mơ hồ Liên vẫn còn thức ở bên, nhưng Thạch không sao nhướng nổi mi mắt nặng
chĩu, Thạch cứ vùng vẫy từng hồi giữa sự níu kéo của ý chí mòn mỏi và giấc ngủ
sâu chìm. Thạch mở được mắt, trời đã sáng bạch, Liên dậy từ lâu đang đun nước
dưới bếp có ý đợi Thạch. Trông thấy Thạch nhìn mình ngơ ngác, Liên mỉm cười dịu
dàng, hai quầng mắt Liên không dấu được mệt mỏi của một đêm thức trắng lo lắng,
xóa sạch những ý nghĩ đen tối vương vất trong trí Thạch. Trong bữa ăn sáng,
Liên đã mua sẵn hai bát sôi lúa, Thạch tìm lại được sự thăng bằng trong tinh thần,
bảo Liên: “Bây giờ em nghỉ chợ hẳn ở nhà thì hắn không còn gặp được em làm lôi
thôi nữa”. Liên gật đầu: “Em cũng nghĩ thế”. “Em còn đủ tiền tiêu đến tháng sau
không?” “Em còn đủ” Liên ngập ngừng rồi nói tiếp: “Nhưng anh phải đi, em ở nhà
một mình cũng lo lắm, em sợ hắn sẽ theo đuổi trả thù”. Thạch bảo: “Em có thể dọn
về ở chung với ai cũng được” Liên đáp: “Ai? Chúng mình còn ai thân nữa không?
Chỉ có anh bên cạnh là em yên tâm thôi”. Thạch hoang mang, nhìn nét mặt âu sầu
của Liên, lần thứ nhất trong đời cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm cụ thể tầm
thường với một người, không phải thứ trách nhiệm lý tưởng vẫn làm Thạch và
chúng bạn phải băn khoăn khổ sở. Thạch chặc lưỡi: “Em đừng lo”. Liên nói: “Bây
giờ chỉ có anh được ngồi bàn giấy ở tỉnh là tốt hơn cả. Em có thể đi theo anh”.
Thạch nhói buốt đau ở sau lưng đúng chỗ bị đâm trong giấc mơ đêm qua, Thạch
chua chát: “Những chỗ ấy mình làm thế nào mà lọt nổi…” Thạch không nói hết ý
nghĩ, mà giả thử được đi chăng nữa anh cũng chẳng thể chịu, anh vẫn chưa quên
được anh đâu; “Anh lại có thể tiếp tục học được nữa”, Liên vẫn vô tình tiếp lời.
Thạch bất mãn chán nản hết sức, nói ngoài đầu môi: “Ừ, được thế thì tốt”. Thạch
bỗng nhớ chúng bạn, bắt đầu ghê sợ những thời khắc trống rỗng sắp tới với Liên,
Thạch bảo Liên: “Anh ra phố, em ở nhà trông nhà”, Liên dặn với: “Em đợi
anh về ăn cơm đấy” Thạch gật đầu, bước hấp tấp ra cửa.
Không mục đích
ngoài phố phường, lại đi những vòng quanh quẩn như ngày quá khứ. Không gặp một
đứa bạn, một người quen nào. Thạch nghĩ đến khoảng đường xuống nhà Đồng nhà Cảnh.
(Nhà An thì chẳng khi nào Thạch đặt chân đến vì không bao giờ Thạch muốn gặp An
trong cái biệt thự kiểu cách quý phái, cái không khí nực mùi trưởng giả của gia
đình An), tuy ngắn mà Thạch khó vượt nổi; nghĩ đến những chốn thường gặp mặt
chúng bạn như Thư viện Trung-ương
hay trường Đại-học,
Thạch như đang bị đuổi xa. Quá trưa Thạch quay về nhà, gần tới đầu ngõ Thạch hình dung Liên đang ngóng đợi. Những
buổi trưa còn ăn cơm vỉa hè đầu chợ chán ngấy với nỗi cô độc khô cứng Thạch chỉ
ước ao có một căn nhà và mội người yêu mong mỏi mình về,
bây giờ Thạch lại sợ hãi sự săn đón chờ đợi của Liên dành cho Thạch. Buổi trưa
mưa xuống vài hạt mang theo ngọn gió may và bầu trời nhờ đục. Sau giấc ngủ, Thạch
rủ Liên ra phố. Liên choàng thêm cái khăn mỏng ôm lấy mái tóc, hỏi: “Đi đâu?”, Thạch đáp: “Đi chơi”. Sự
thực Thạch chỉ cốt mang Liên ra khỏi nhà, ở ngoài phố Thạch được tự do hơn.
Đi được một quãng, Liên lại hỏi: “Đi đâu
bây giờ anh?”,
Thạch đáp vu vơ: “Tùy em”. Liên gặng hỏi: “Anh không có mục đích gì hết?” Thạch
lắc đầu lơ đãng, Liên cười tươi: “Anh thật là vớ vẩn”, nghĩ vài giây tiếp: “Hay
mình đi thăm mộ mẹ đi?” Thạch chú ý hỏi: “Mộ ai? ở đâu?” “Mộ mẹ em chứ còn mộ
ai nữa. Ở ngoài Thanh-xuân”.
Thạch tán thành ý kiến: “Ừ, anh phải ra lễ cụ cho phải đạo”. Liên hân hoan sung
sướng, những nét buồn thường đọng thành dáng ở Liên phút chốc biến mất. Chuyến
tàu điện Hà-đông
đưa Thạch và Liên về ngoại ô. Trạm cuối hàng Đẫy vào Ngã-tư Sở có hai người xẩm mù
lên xe hát những bài ai oán kể lể những nỗi thương nhớ của nàng chinh phụ tân
thời, Liên lắng nghe có vẻ xúc động. Nàng đặt hai tay lên đùi giữ lấy thẻ hương
và xấp vàng giấy, Thạch cầm bó huệ trắng đứng tựa cửa thông sang cái phòng hẹp
hạng nhứt ghế da, mắt chăm chăm nhìn người xẩm. Nghĩa trang nằm ở bên đường, xa
cách hẳn thành phố, trên một khu đất biệt lập xung quanh là đồng ruộng. Người
gác nghĩa trang dẫn hai người vào sâu tận một góc, len giữa những đám cỏ cao sắc
để tìm mộ, có tới hai năm Liên không xuống viếng thăm. Ngôi mả chỉ còn là một nắm
đất nhỏ cỏ mọc um tùm bị chen lẫn giữa những ngôi mả khác xây cao ráo. Liên đặt
hoa, thắp hương, xì xụp khấn lễ Lời khấn thầm bỗng bật thành tiếng nức nở. Buổi
chiều tuy còn sớm nhưng không có ánh nắng đã loãng chìm trong vẻ muộn màng,
Liên mếu máo kéo tay Thạch quỳ xuống đất: “Anh khấn mẹ phù hộ cho chúng con
đi”. Thạch ngoan ngoãn vâng lời. Chỉ nghe tiếng rì rào của gió thổi từ mấy bờ
tre xa qua đám lúa, tới những vùng cỏ mọn xung quanh và tiếng xì xầm thổn thức
của Liên đang tan theo trong tĩnh mịch, thỉnh thoảng vọng tiếng kèn xe vút
nhanh ở tận ngoài đường cái. Trong khi đốt vàng, Liên vừa sụt sùi vừa nói: “Anh
có khấn mẹ không? Mẹ thiêng lắm đấy. Năm ở ngoài hậu phương em sắp lấy Tích em
thấy mẹ về ôm lấy em, hai mẹ con khóc với nhau. Lần gặp lại anh ở Hà-nội, cách
đó ít lâu em cũng thấy mẹ. Lần thằng Uẩn chết, mẹ cũng về, em khóc đòi theo mẹ,
nhưng mẹ lắc đầu, mẹ xô em ngã”. Thạch dìu Liên ra khỏi nghĩa trang, men theo bờ
đường cái ngược lên mỗi đỗi xa tới chỗ tránh tầu, lúc này Thạch thấy khó có thể
xa nàng. Liên lại nói: “Năm ngoái em đi gọi hồn mẹ, mẹ về thấy em khóc cũng
khóc. Mẹ bảo mẹ thương em lắm bởi đời em còn khổ nhiều. Em hỏi gì mẹ cũng chẳng
nói thêm, trước khi thăng mẹ dặn lại là mẹ cũng nhớ em cũng muốn gặp em nhưng
trời chưa cho phép, bao giờ tới ngày mẹ sẽ đón em về mẹ con đoàn tụ”.
Thạch hỏi: “Vừa rồi
em khấn xin mẹ điều gì?” Liên đáp giọng tin tưởng: “Em xin mẹ phù hộ che chở
cho anh, cho em được sống mãi mãi với anh”. Những tiếng sau cùng vang dội trong
tai Thạch, thắt lấy tim Thạch, Thạch bồi hồi trong một niềm tê điếng, Thạch nói
thầm như níu giữ lấy lời mình: “Anh cũng chỉ mong được như thế” và Thạch rùng
mình.
Vào Hà-nội, hai đứa
không về nhà, Thạch dẫn Liên đi ăn hiệu.
Buổi tối ra ngồi
bên hồ Gươm. Trời hơi lạnh, các hàng quán quanh hồ vắng khách, những ngọn đèn
treo trong các Kiosque không đủ ánh sáng tỏa tới những khoảng thẫm bóng cây cỏ
cùng mặt nước đục. Phía hàng Khay ánh nê-ông xanh biếc hiu quạnh, phía Cầu-gỗ ánh sáng vàng khô rộn rịp.
Thạch lắng nghe Liên kể lại cái đoạn đời những năm loạn ly chia rẽ hai đứa của
nàng, nhiều kỷ niệm Thạch đã nghe qua nhưng Thạch vẫn lặng yên nghe nhắc lại.
Thạch ngửa đầu trông mầu đen sâu thẳm tưởng hồn mình đang phơi trải bằng phẳng
không còn một khúc mắc dày vò, Thạch tự hỏi: cớ sao mình không chấp nhận mọi sự
như mọi người? Tôi sẽ sống thành một nỗi quên lãng với tôi. Liên thôi câu chuyện,
đâu đó vang lên vài nhịp cười của mấy cô bán quán, Thạch bâng khuâng nắm lấy
bàn tay Liên đặt lên thành ghế
và siết mạnh dần bàn tay nhỏ nhắn. Liên kêu khẽ: “Đau em”, Liên đưa bàn tay còn
trống ấp giữ bàn tay gân guốc của Thạch. Lặng im mặc cho trời đêm bay cao dần,
Liên lên tiếng trước: “Anh đi như thế liệu bao lâu về Hà-nội được?”, “Không biết, còn tùy”, “Em tính ở nhà em sẽ chạy
hàng sách và nhận đồ đan với Bích cho đỡ buồn”, Thạch ừ hữ, “Có con anh muốn đặt
nó tên gì?” “Anh chưa nghĩ”. “Anh thích con trai hay con gái?”, “Con gái. Đặt tên là
Lý”. “Tại sao lại tên là Lý?”,
“Tại sao tên em lại là Liên?”.
Hai đứa trở về nhà, qua phố Trường-thi
đi vào hàng cây rậm thẳng như một cái vòm cổng lớn, nói những câu viển vông như
những ngọn gió thổi qua tóc, quên được những phiền toái đã xảy ra trong đời, một
đôi tình nhân biệt lập với thế giới bên ngoài, căn nhà trở nên ấm cúng hơn và
mùa thu đã thổi về đây hơn từ lúc nào trên những mái gianh xám, con đường đất
khô hanh bên kia mặt ao, bãi đất trống bên nhà cỏ mọc xanh rì, một buổi sớm Thạch
thức dậy đứng bên kia cửa sổ nhìn sang, mình trần và trên cổ quấn cái khăn len
của Liên với lấy trên đầu giường, Thạch chợt bàng hoàng sửng sốt nhớ ra chỉ còn
ở lại được Hà-nội ba ngày nữa. Thạch bảo với Liên cần đi thăm chúng bạn, hẹn
chiều tối mới về. Liên ngỏ ý muốn lên nhà Bích bàn việc buôn bán sắp tới, Thạch
đưa Liên lên hàng Bông rồi từ đó Thạch xuống Đồng.
Nhà Đồng vắng người,
Thạch đẩy cánh cổng khép hờ đi thẳng vào sân chỉ gặp hai con chó nhảy quẫng, gặp
mẹ Đồng đang ngồi nhặt sâu trên mấy luống rau ngoài vườn, bà cụ mừng rỡ nói:
“Tôi tưởng cậu đi rồi”,
Thạch đáp: “Chưa ạ. Còn ba hôm nữa”,
“Em nó chắc sang bên đình”. Thạch băng qua đường, bước vòng theo mấy bức tường
đổ leo qua kệ gạch hoang, trông thấy Đồng ngồi dựa lưng vào cột, phía sau là một
lớp học trống trên một bực thềm đá đọc sách. Khuôn mặt bầu bầu của Đồng như xa
lánh mọi vật, bao phủ vẻ thảnh thơi nhàn hạ. Ngoài khơi hồ Tây một hai cánh buồm
trắng chao nghiêng trong gió sớm. Đồng gấp sách, ngửng lên, đón Thạch tươi cười,
Thạch ngồi xuống bên chờ Đồng sẽ hỏi mình về Liên, nhưng Đồng không đả động gì
hết, chỉ mỉm cười ranh mãnh vuốt lại mái tóc lòa xòa ra vẻ hiểu thấu mọi sự,
sau rồi Thạch bảo: “Liên đó”,
Đồng gật gù: “Biết ngay tức khắc”. Bỗng Đồng cười khích khích thú vị kể: “Mấy
hôm trước tưởng anh cu An với anh cu Cảnh đi luôn rồi. Bọn này vừa ở rạp chiếu
bóng ra thì cảnh binh với mật thám đón mời lóc nhóc một lũ thanh niên trốn động
viên lên xe về quận. Moi trình cái giấy khám sức khỏe được miễn nên về
ngay còn tụi khác là ngủ quận cảnh sát một đêm để đưa xuống trại Ngọc-hà. May mình nhanh trí
khôn, tạt vào báo cho ông bố thằng An, ông ấy tức tối lái xe lãnh hai cu cậu về.
Anh An ta thì mặt tái mét, còn anh Cảnh thì mặt lầm lì tím bầm lại. Chỉ có moi
chẳng ma nào thèm sờ tới cái phổi hỏng mà thành hay”. Thạch trêu Đồng: “Có chắc
không? Mai đây nó cần là nó gọi ra khám lại là a lê hấp…” Đồng xua tay chun mũi
lại: “Còn lâu lắm. Có lẽ phải tới lúc anh lên quan sáu rồi mới tới tôi”. Đồng
nghiêm ngay được nét mặt hỏi tiếp: “Bao giờ đấy?” Thạch đáp: “Còn ba hôm nữa,
hôm nay là tôi xuống đi chơi buổi cuối với anh đây”. Đồng lim dim mắt chợt mơ mộng:
“Chiến sĩ từ biệt đó phải không? Một đi là không trở lại”. Thạch ngồi im không
đáp. “Thạch này, kể cũng lạ nhỉ… Tớ đang muốn khóc đây.” Thạch không biết Đồng
đang đùa hay thật, hai mắt Đồng đậy kín và môi Đồng mím lại. “Nếu tớ là con
gái, tớ xin làm vợ đằng ấy đấy, Thạch ạ. Bằng lòng không?” Đồng bật cười mở
choàng mắt, mắt của Đồng hoen ướt, lòng trắng đục nổi những tia máu nhỏ, Thạch
nói: “Cậu giống Liên, lãng mạn lắm rồi khổ nhiều”. Đồng cãi bướng: “Khổ vì lãng
mạn cũng là một thứ hạnh phúc”. Đồng lầm bầm đọc mấy câu thơ: Comme la vie
est lente, et comme l’espérance est violente… Les jours s’en vont, et je
demeure. Thạch đứng lên bảo: “Thôi xuống phố”. Đồng chợt nhớ: “Bọn mình xuống
thăm thầy Tôn, thầy mới hồi cư về ở xóm Hà-hồi, hôm nọ tôi gặp thầy
ngoài bờ hồ, thầy không nhận được ra tôi nữa. Cậu còn nhớ thầy Tôn không?” Thạch
gật đầu hỏi: “Sao tưởng ông ấy ở bên Tàu?
Ông Tôn là thầy học
cũ của hai đứa năm Moyen II. Ông là một bậc thầy uy tín nhất trường, đồng nghiệp
kính nể học trò khiếp phục, người ông phương phi, mặt lúc nào cũng đỏ gay, dáng
điệu oai vệ. Từ những năm còn học lớp dưới mỗi lần nhìn thấy ông ở sân trường,
trong phòng họp các thầy, hay đi muộn phải chạy qua lớp ông dạy nghe tiếng nói
sang sảng của ông, Thạch run sợ cảm phục; lên học lớp ông. bọn Thạch càng mến ông,
ông nghiêm khắc nhưng hiền từ, có sức thu phục bọn trò nhỏ một cách kỳ lạ mặc dầu
ông ít nói và chẳng bao giờ tỏ ra thân ái với ai. Năm ấy quân Nhật vừa kéo vào
Đông-dương,
giữa niên học cả trường nhốn nháo vì mật thám Pháp tới tận trường bắt ông Tôn,
lúc bấy giờ người ta mới biết ông Tôn làm cách mạng, rất nhiều điều huyền hoặc
được loan truyền về con người ông Tôn khêu gợi những bộ óc tưởng tượng thơ
ngây. Cùng với hình ảnh ông thầy quý mến, Thạch tò mò tìm hiểu cái ý nghĩa huyền
bí của cách mạng, Đồng làm thơ bài đầu tiên non dại khóc thầy. Nhật đảo chính
nghe đồn ông được phóng thích, sau theo cụ Nguyễn-Hải-Thần chạy sang Tàu. Gia
đình ông Tôn ở nhờ trong một nhà chứa xe hơi của một ngôi biệt thự, gian nhà thấp
bóp hẹp vào phía sân như một cái ống. Hai tấm phản kê tạm bợ bừa bộn chăn chiếu.
Những bó vải nâu và một cái va-ly
da mới. Con ông Tôn cả thảy sáu đứa mặt mũi ngơ ngác vơ vẩn ở ngoài sân sỏi hay
lê la dưới chân giường. Ông Tôn chừng mới đi đâu về, mũ trắng còn đội trên đầu,
đang ngồi bàn chuyện với vợ, một người đàn bà quê mùa nhẫn nại. Ông già xọm, lưỡng
quyền nhô cao, mắt đục ốm yếu, tóc khô lởm chởm đã điểm bạc, giọng nói từ tốn,
Thạch ngồi im một góc nghe Đồng nói chuyện với ông, nhìn bọn con nít ngó mình,
nghe giọng nói trong trẻo của thiếu nữ xa gần trên những gian phòng rộng ở nhà
trên. Vài khúc dương cầm mới tập nhỏ nhẹ lọt ra cửa sổ, lúc bắt tay Thạch đưa
ra cổng, ông Tôn mới chợt hỏi: “Anh tên là gì nhỉ? Lâu quá tôi không nhớ nổi”.
Thạch đáp: “Dạ thưa con là Thạch, Lê-văn-Thạch”. Ông Tôn nói với Đồng
là đang đi tìm thuê nhà và vận động xin hồi ngạch giáo học. Thạch buồn rầu: “Tội
nghiệp ông Tôn. Không gì buồn bằng hình ảnh cuộc đời thất bại”. Đồng trầm ngâm
đáp: “Tôi nghĩ khác. Ông ấy đã làm hết bổn phận và khi biết mình thất bại thì
thôi rút về sống cuộc đời tầm thường nhường việc cho kẻ khác, như thế hay hơn
là cứ bướng bỉnh húc đầu vào tường. Chỉ tội nghiệp là nếu ông ấy vẫn chưa chịu
cho là thất bại. Nhưng nghe ông nói tôi cho là ông hiểu rõ cái vai trò của lớp
người như ông lắm. Tôi thấy hình ảnh của ông ngày nay vẫn là một hình ảnh đáng
kính phục. Thế hệ của ông đã thua rồi”. Suốt cả buổi Thạch vẫn tưởng tới ông thầy
cũ trong một niềm luyến tiếc đau đau.
Vào trưa gió thổi
ào ào ra ngoài vườn trời hanh khô ngất ngây. Mặt Đồng mét đi, hơi thở mệt nhọc,
Đồng nằm nghỉ trong phòng riêng, đắp tấm chăn đơn ngay ngực thỉnh thoảng ho
khan vài tiếng, Thạch nằm trên võng đưa đẩy với cảm giác bồn chồn bứt rứt, Thạch
cầm cuốn sách đọc dở trên mặt bàn nhưng những giòng chữ khô khan không làm sao
thu hút được tinh thần bấn loạn của Thạch. Hai bên thái dương nặng nề đờ đẫn,
Thạch tưởng chừng mình cũng sắp lên cơn sốt cùng thời tiết. Những buổi giao mùa
như hôm nay, thiên nhiên chập chững trong những trận gió quá độ, Thạch thường
nhận thấy nơi mình một trạng thái kỳ lạ: cơ thể hoang mang như muốn tắt lịm,
trí óc bay tỏa ra ngoài, từ nơi sâu thẳm trong mình nổi lên những sức xô đẩy
khó hiểu như những luồng sóng ngầm của biển khơi lôi cuốn tới sự rã rời chán nản
phiền muộn vô cớ, thường Thạch chạy trốn bạn bè tự đầy ải vào trong cô độc,
không muốn nhìn muốn nghe điều gì hết, một hành động bỏ trắng trong hiện tại, nếu
có đi giữa chúng bạn cũng thành một thứ vô tri tỉnh thức. Ba ngày còn lại là một
khoảng thời gian thừa, đã nhập thành quá khứ rồi. Thạch muốn đi tới trước cho
mau để trông thấy hình dáng của những ngày sau. Cái cõi hư không đang đón đợi
trước mặt sẽ tan tành bắt buộc phải hiện hình, như thế gọi là phiêu lưu, Thạch
lại bắt đầu nghe sức nặng của những ngày dài đã sống đè xuống mình trì siết như
giam giữ. Thạch thơ thẩn ngoài vườn đứng dưới một gốc roi ngửng nhìn những chùm
trái ửng hồng nấp trong các bụi lá. Khi quay nhìn vào cửa sổ phòng của Đồng thấy
Đồng cũng ngồi bó gối nhìn ra, tấm chăn vẫn còn phủ đến vai. Thạch mỉm cười ngượng
ngập như vừa bị người lạ mặt bắt gặp mình làm lỗi. Thạch trở vào múc nước bể rửa
mặt, nước mát, đánh thức các giác quan nhưng gió thổi mặt khô mau chóng, sửa soạn
trở về phố, Thạch hỏi Đồng: “Chiều nay có đi đâu không?”. “Cậu có xuống trường dự
buổi tiệc trà của Tổng-hội
không?”,
“Tôi tưởng xong rồi”,
“Hôm nọ xin phép không được phải hoãn lại”. Thạch mỉa: “Sao lại không dám cho
phép? Dễ nó sợ bọn sinh viên sẽ mủi lòng mà khóc vì tương lai dang dở rồi nó lại
phải dỗ dành an ủi mệt chăng? Mà tôi đâu có lên đến chức sinh viên. Có quyền dự
không?” Đồng cười phụ họa: “Anh chửi tôi là có chức sinh viên ấy hả?” Thạch vẫn
nói tiếp ý nghĩ bồng bột: “Chứ không à, chức sinh viên vây lắm. Nay mai là xã hội
này nằm trong tay các ông ấy đấy, không để cho các ông ấy yên ổn là xã hội này
sẽ lụn bại. Tôi chắc chẳng có thứ sinh viên nước nào “bệt” óc bùn như sinh viên
nước mình thời này”. Thạch nhìn rõ mình đang hằn học một cách lố bịch nhưng Thạch
không dừng được. Cơn say vô nghĩa Thạch trút nhẹ được những ấm ức: “Moi
mà có súng rồi ấy à, thế nào cũng có phen ông lia cả tràng vào lũ đú đởn ấy. Những
bậc đại trí thức ấy có ngã lăn quay ra đó cũng chẳng thiệt hại đến ai.” Đồng ôn tồn: “Thôi được
bỏ cái bọn ấy sang một bên. Nhưng chiều nay cậu cứ đến tôi sẽ chỉ cho cậu thấy
cái này hay lắm”. Thạch nín thinh và cơn nóng nảy dần dần xẹp xuống thành một nỗi
bất lực khó thở, cười tẻ nhạt: “Được bây giờ tôi phải đi đằng này đã, cậu cứ xuống
tôi sẽ tới”.
Thạch trở về nhà.
Từ đầu ngõ Thạch đã cảm thấy một không khí bất thường. Nhà khóa trái, đằng trước
mấy đứa trẻ con lảng vảng dòm ngó, thấy Thạch đứng lại tìm chìa khóa chúng tò
mò nhìn Thạch thầm thì với nhau. Thạch sắp mở cửa bước vào thì người đàn bà bên
nhà đối diện tất tả chạy sang nói khẽ bằng giọng nghiêm trọng ân cần: “Bà nhà bị
bắt rồi. Lúc nãy có hai người đàn ông đi xe díp nhà binh Pháp tới khám nhà, dẫn
bà đi. Ông đừng nên ở nhà nữa, tôi sợ họ còn trở lại”. Thạch chết sững tại chỗ
vài giây, mãi mới lắp bắp: “Cảm ơn bà. Liên có nhắn lại được gì không?” Người
đàn bà hàng xóm nói câu gì Thạch nghe không rõ. Thạch bước vào nhà, người đàn
bà lảng về. Chỉ còn mấy đứa trẻ con ngấp nghé ở bên vách, cửa sổ, mọi vật trong
nhà không hề bị xê dịch. Mất cái va-ly
quần áo của Liên đặt ở kệ trong góc nhà. Liên để lại mảnh giấy con viết nguệch
ngoạc mấy hàng: “Tích
đến. Em phải về”.
Thạch mặc nguyên cả quần áo nằm im một chỗ, mắt mở trừng trừng. Hắn mong Tích
trở lại, hắn đợi Tích trở lại, hắn muốn gặp Tích, hắn như một con thú dữ nhớ mồi.
Hằng giờ sau, cái ngõ lặng xuống, nước mắt Thạch rưng rưng cộm đầy mi. Thạch mệt
nhừ mặc cho nước mắt lăn xuống má. Thạch khóa cửa bỏ đi ra phố, đi thật chậm
theo bước chiều xuống dần. Những tiếng động quen thân của phố phường như nghe
qua một tấm kính dầy. Thạch cố gắng trấn tĩnh tinh thần để suy nghĩ, chọn thói
quen tìm tới chốn đông người để quên hẳn mình giây lát. Đồng đứng đợi trước cửa
trường Đại-học.
Chiều xẫm màu quạnh hiu trong khu vực nhiều cây cối nhà cửa đồ sộ. Buổi họp mặt
đã bắt đầu từ lâu. Đồng sửng sốt hỏi: “Có việc gì thế Thạch?” Thạch lắc đầu đáp
gọn: “Không”. Bước lên nhiều bực thềm vào trong cái vòm cao, sàn đá hoa bóng
ngăn cách giảng đường và thư viện trường luật, đi sau lưng những dãy người,
nghe tiếng micro ồm ồm trong một góc. Ngồi xuống ghế trước mặt là một hàng rào
lưng người. Trong tiếng vỗ tay, huýt sáo la ó, một vài đoạn im lặng rì rầm với
một vài giọng nói đùa bỡn nhạt nhẽo. Giọng hát đĩ thõa. Đồng, huých khuỷu tay
vào mạng sườn Thạch, đứng lên chỉ: “Em của Hà đấy”. Thiếu nữ còn cặp tóc đang
khóc như tiếng mèo một bài hát tình tứ biệt ly. Hỏi: “Hà đâu?”. Đồng bảo: “Nghe đâu Hà
đã theo chồng vào Sài-gòn.
Ngày trước Hà hát hay hơn em nhiều”. Nói: “Thế à?”. Xa dần cái không khí nhộn
nhạo tới gặp bóng tối, sự lặng lẽ trước mặt. “Mai còn gặp nhau không?” Mai, mai
sẽ gặp nhau. Đứng yên một chỗ, những hàng đèn xe dăng qua phố ngang xuôi ngược.
Mùa thu đã về thực rồi, đêm tối sẽ bắt đầu nhẹ tênh như khói.
CHƯƠNG V
Thạch đến tìm
Bích, Bích đi vắng. Ông bố Bích nằm nghiêng co quắp trên tấm phản giữa, đầu gếch
lên trên một cái gối da cao, đang nướng thuốc trên ngọn đèn bóng nứt chằng buộc
bằng giây thép, rồi miết quanh nõ tẩu, nói giọng khàn khàn. Người qua lại luôn
luôn. Buồng nhà Bích là lối đi chung cho các gia đình ở ngoài và trên gác xuống
bếp. Thỉnh thoảng lũ em Bích đuổi nhau từ ngoài đường qua ngõ vào nhà cãi lẫy
om xòm. Tiếng vo vo từng hồi cách đều đặn. Ông bố Bích sau bữa thuốc nằm duỗi
ngửa như một cái xác khô đét, mắt nhắm, miệng lầm bầm không thành tiếng một
mình. Thạch ngồi im trước cái tách nước vàng cáu, muốn ra phố một lát cho
thoáng, nhưng ngại lần quay lại lại phải làm thêm một lần nữa thủ tục xã giao.
Bích sửng sốt nhìn thấy Thạch, trên tay Bích đeo một cái làn mây không trong
lót mấy tờ báo cũ. Thạch đứng dậy trình bày ý định: “Tôi muốn nhờ cô chỉ hộ chỗ
ở của Liên”, Bích ngắm Thạch không nói. Thạch giải thích: “Tôi có việc cần gặp
Liên mà không biết nhà, tôi sắp sửa phải đi xa”. Bích chậm rãi nói: “Mời anh ngồi
chơi”. Nàng đặt cái làn xuống gậm bàn và ngồi đối diện với Thạch. “Nhà chị Liên
ở Ngũ-xã
nhưng tôi không nhớ rõ số nhà”. Thạch cúi đầu suy nghĩ, cố giữ giọng bình tĩnh:
“Việc này quan hệ cho tôi lắm. Nếu cô không ngại, phiền cô đưa tôi xuống gặp
Liên”. Bích lộ vẻ nghi ngờ, nàng nhíu mày tỏ ý khó xử. Bỗng Bích hỏi: “Ngay bây
giờ?” Thạch khẩn khoản: “Vâng, ngay bây giờ”. Bích ngần ngừ: “Để đến mai được
không anh?” Đã hơn chín giờ tối, Thạch không biết phải đáp thế nào, nhìn Bích cố
làm cho Bích hiểu là không thể chờ đợi một đêm qua, cần gặp Liên ngay tức khắc.
Bích lặng lẽ mở ô kéo bàn lấy tấm gương đặt trước mặt, gỡ lại mái tóc. “Đã lâu
lắm tôi cũng không xuống chị ấy, chỉ sợ chị đã đổi chỗ ở thì mất công. Ban sáng
chị cũng có đến tìm tôi nhưng không gặp”. Thạch nhắc lại: “Ban sáng, thế à? (đã
thuộc về quá khứ xa lắc lơ), vâng, ban sáng tôi có biết”. Bích thay áo, mặc áo
dài màu huyết dụ. Nàng lại đeo cái làn mây lên cánh tay, nói với bố: “Con đi đằng
này có chút việc, mẹ về thầy nói là việc chưa xong, mai may ra mới được”. Phố hàng
Bông vẫn còn sáng đèn nhưng đã vợi người. Thạch bỡ ngỡ đi bên cạnh Bích, bước
mau ra cửa gọi hai cái xích-lô,
mời Bích lên trước. Xe bồng bềnh qua những phố âm u, thỉnh thoảng gặp một vài
tiệm khiêu vũ và quán rượu với bọn lính say la ó trêu ghẹo, người phu xe nguyền
rủa tục tằn, vào con đường đất hẹp chùa Châu-Long quanh co mấp mô men
theo hồ Trúc-bạch,
dừng lại ở đầu cầu của khu Ngũ-xã.
Thạch và Bích đi chân, quay lưng lại với cái dốc cao ở trên ấy lầm lì mặt hông
của kho nhà in lớn chặn khuất đường đê Yên-phụ. Bên trái là con đường
vừa qua với một dãy nhà gạch lô xô nhìn ra hồ. Bên phải một vài tòa nhà xây kiểu
lâu đài cổ, xa hơn đường Cổ-ngư
với hàng cây thấp như một nét mờ tạm chia mặt hồ mênh mông. Khu Ngũ-xã nằm trũng giữa bốn mặt
hồ như một hòn cù lao, những tường phố hẹp ngắn giao nhau thẳng góc, điện đường
mờ tối như một thị trấn tí hon. Mọi nhà đều đóng chặt cửa. Bích dẫn Thạch loanh
quanh, lúc ghé mắt vào sát những khe cửa gỗ ghép, lúc đứng ra giữa đường kiễng chân
nghển cổ nhận định phương hướng. Có lúc bất ngờ tới sát ven hồ, tiếng nước vỗ
bì bọp vào bờ cỏ, hơi lạnh dưới hồ bốc lên theo gió và sương tím bạc ngoài khơi
rộng. Một vài tiếng chó tru hoảng hốt. Bích mất kiên nhẫn lẩm bẩm vu vơ: “Tối
khó tìm quá”. Cuối cùng Bích gõ cửa một căn nhà đã qua lại mấy lần. Ở trong
nghe lích kích rồi đèn bật sáng, người ta mở ra trong mặt cửa gỗ một khoảng
tròn bằng bàn tay, thò một cặp mắt và cái mũi đàn bà ra hỏi: “Ai thế?” Bích
nói: “Tôi hỏi thăm đây có phải nhà chị Liên không?” Thạch ghé bên tiếp lời:
“Nhà bà Tích”, bên trong đáp: “Không phải nhà này” và cái lỗ tròn đóng ngay lại
cùng với tiếng lằn nhằn. Bích thất vọng nói: “Chắc dọn nhà chỗ khác rồi. Để hôm
nào tôi gặp chị ý tôi nhắn hộ anh”. Thạch lắc đầu đáp: “Vô ích ngày kia ngày
kìa là tôi đi rồi”. Bỗng nhiên không đừng được Thạch bụm tay vào miệng kêu to:
“Liên ơi”. Tiếng gọi chạy dài dãy phố, hoảng hốt vang ra ngoài mặt hồ như tiếng
hú hồn người chết đuối. Một con mèo ở phía sau Thạch sợ hãi nhảy vọt tới trước
chạm vào Bích. Bích lùi vội vấp vào viên gạch loạng choạng, đưa một tay bụm miệng
để ngăn tiếng sợ hãi: “Anh làm tôi giật nẩy mình”. Tiếng gọi vọng vào sâu trong
Thạch như một phiến đá lăn xuống, xô động những phiến đá khác làm thành cơn lở
núi. Tâm hồn Thạch dồn dập những đau tủi nóng nảy phẫn nộ, lúc buổi chiều đã
nén ép được, giờ lại bồng bột dữ tợn mạnh mẽ hơn. Thạch quên hẳn người đứng gần.
Bích tiến tới trước mặt Thạch bảo: “Bây giờ tôi phải về”, Thạch bâng khuâng:
“Vâng, tôi đưa cô về.”
Bước vào cầu, Thạch quay người đợi Bích nhìn khu Ngũ-xã tối tăm hoang vắng như
một giấc mộng nào đã quên, Thạch bải hoải tâm thần. Hai chiếc xích-lô còn gác đợi bên cống
nước thành phố chảy xuống hồ, trong yên tĩnh tiếng ì ầm nặng nề của nhà máy đèn
vọng đến gần hơn. Hai xe chạy song song giữa đường, Bích ngồi ngay ngắn ôm cái
làn mây trước ngực như để che bớt những ngọn gió đêm đang thổi là mặt đường. Đường
về dài thêm vì Bích bảo xe chạy tránh phố đường Thành đi vào phố Tiên-sinh lên hàng Da, rạp chiếu
bóng Olympia vừa tan đổ ra vỉa hè vài mươi người khách trong phố khuya. Thạch
không biết phải gợi chuyện gì nói với Bích để quên sự trống rỗng sâu thẳm trong
ký ức. Mãi đến khi tiễn Bích vào nhà Thạch mới nói: “Cảm ơn cô, tôi làm phiền
cô nhiều quá”. Bích hơi nghiêng đầu như từ chối lời khách sáo và vẫn không cất
bước có ý chờ đợi Thạch nói thêm. Thạch nghĩ ngợi mông lung và bất thần nói
mau: “Nếu cô gặp Liên làm ơn nói hộ không bao giờ tôi quên được Liên cả” sau đó
cúi đầu chào Bích, bỏ đi trong khi Bích chưa rời chỗ đứng. Thạch trở về gian
nhà trống với mối hy vọng ngây thơ thấy Liên đang chong đèn chờ đợi, Liên trốn
khỏi tay Tích về với Thạch. Ảo tưởng ấy khiến Thạch bồn chồn nhấp nhỏm trong sự
tuyệt vọng não nề. Chiếc đèn dầu soi lên những đồ đạc nghèo nàn bụi bậm. Thạch
đang ở trong nhà, căn nhà của tôi, Thạch cười một mình chua chát, chỉ là kỷ niệm.
Tôi không có gì hết, tôi cứ phải đi tới trước mãi bởi người ta chỉ để lại cho
tôi sự hư vô của kỷ niệm. Thạch đứng bên cửa sổ nhìn mấy con chuột cống chạy
quanh đống rác trên bãi đất trống, mặt ao im lìm với giọng côn trùng trong bờ bụi,
xóm nhà lá không đèn đóm. Thạch nằm xuống giường, chỉ còn biết nhớ, nhớ lại đêm
đầu tiên quyết định ở lại trong nhà này, nỗi e dè ngượng ngập của hai đứa khi
sát cánh nhau, khuôn mặt chan hòa hạnh phúc của Liên bình yên như mặt biển lúc
rạng đông khi Thạch mang hai đứa trải qua cơn dục tình êm như lửa mát. Thạch
vùng dậy vì không ngăn được trí tưởng tượng tới cảnh Tích đang trả thù hành hạ
Liên ở ngay chính phần sâu kín của thân thể nàng, cái hình hài còm cõi bệnh hoạn
của Tích đang bầy ra những biến chứng dâm loạn làm nhục Liên. Tôi không làm gì
được hết sao? tôi không làm gì được hết sao?
Sáng hôm sau Thạch
tới trại trình diện, nhận lệnh về một đơn vị đồn trú ở Hưng-yên. Thạch toan lên đường
sớm hơn kỳ hạn nhưng rồi Thạch thay đổi ý kiến, nhảy tàu điện xuống Ngũ-xã, tìm quanh quẩn vu vơ gần
hết buổi mai, Thạch qua lại gian nhà Bích đã gõ cửa đêm trước chỉ thấy một người
đàn bà lạ mặt ngồi trong ngôi hàng tạp hóa nhìn Thạch bằng cặp mắt nghi ngờ. Thạch
đi giữa hàng đá xanh lồi lõm không gặp xe cộ, chỉ thỉnh thoảng mới có một chiếc
xe đạp hay xích-lô
chạy nhấp nhỏm ngoặt ngoẹo, như một người mới tới cư ngụ dạo thăm khu vực của
mình, theo sau một đám trẻ dong chơi bắt chuồn chuồn để câu cá. Bọn trẻ đến bên
bờ hồ ngồi lại, còn Thạch trở lui ngược đường cũ và dòm ngó xung quanh. Thạch gặp
Bích đang chuyện trò hỏi thăm người đàn bà trong hiệu tạp hóa. Nàng mặc áo màu
hồng nhạt nổi trên những mầu chết trong gian nhà. Trông thấy Thạch đứng đợi bên
đường đối diện, Bích bối rối. Thạch tiến sang cúi chào Bích và hỏi: “Chắc là
Liên không còn ở đây nữa phải không cô?” Bích đáp: “Vâng”. Thạch lại nói: “Tôi làm
phiền mất thì giờ của cô quá”,
Bích nói: “Không có gì. Chính hôm nay tôi cũng có việc cần gặp chị Liên”. Thạch
vội vàng chụp lấy cơ hội: “Cô cho tôi theo cô tìm Liên được không?”. Bích lịch sự lắc đầu:
“Tôi cũng còn nhiều việc riêng sợ anh đi cùng không tiện. Anh cứ yên tâm, gặp
chị Liên thế nào tôi cũng nhớ lời anh dặn. Nếu tôi gặp chị ấy trong ngày hôm
nay tôi sẽ bảo chị ấy tới tìm anh, chắc chị ấy biết chỗ ở của anh”. Thạch buồn
bã: “Liên không thể tới được”. Bích nhìn Thạch căn vặn, Thạch yêu cầu: “Cô làm
ơn giúp tôi một lần nữa, cô hỏi giùm tôi địa chỉ mới của Liên, tôi muốn tới đấy
tiện hơn”. Bích nghĩ ngợi một chút mới trả lời: “Tôi sẽ hỏi giúp anh”. Thạch mừng
rỡ cám ơn: “Mai cô có nhà vào lúc nào? Tôi chỉ còn ở Hà-nội ngày mai và ngày
kia nữa thôi”. Bích hẹn: “Trưa mai anh tới chắc tôi ở nhà”. Từ biệt Bích, Thạch
vượt con dốc rải đá lên đường vòng xuống Cổ-ngư, con đường vắng vẻ gió
lộng, nước hồ biếc lạnh. Vườn Bách-thảo,
cây cối vẫn rợp cành lá mặc dầu dưới mặt đường đã ngổn ngang những lá vàng lăn
chạy. Dưới hồ sen những tàn lá úa héo lềnh bềnh sơ sác, nước trong vắt. Leo lên
con dốc quần ngựa nhìn mặt hồ Tây, khu Thụy-khuê nhà cửa chạy dài với những
vườn cây dưới thấp, và xuống nhà Đồng bằng ngõ cửa vườn sau. Thạch ngạc nhiên
vì sự có mặt của An và Cảnh trong nhà Đồng. Cả ba đứa đón Thạch bằng một vẻ
nghiêm trang. Đồng hất cằm bảo: “Biết thế nào nó cũng lên mà”, Thạch hỏi: “Chuyện gì thế?”. Vừa lúc ấy u già bưng đặt
lên phản một mâm cơm thịnh soạn, mẹ Đồng đi theo ở bên. Đồng nheo mắt với Thạch:
“Hiểu chưa?”.
Cảnh nói tiếp: “Nó đặt tiệc tiễn cậu đấy”. An nói với mẹ Đồng: “Hôm nay chúng
cháu họp mặt tiễn anh Thạch, cụ cho phép chúng cháu uống rượu”. Thạch tán
thành: “Phải đấy”. Đồng gật gù bảo: “Trừ mỗ”. Thạch vỗ vai An: “Còn tao với mày
càng hay”. Khi rượu đã bốc đỏ nhừ mặt, Thạch hắng giọng hỏi An: “Tại sao mày lại
đề tặng tao câu chuyện mày viết?”,
An giật mình nhìn Thạch rồi đáp trỏng: “Quên mất rồi”. Thạch vẫn chưa buông
tha, hỏi bằng giọng khiêu khích độc ác: “Mày cho là tao điên chăng? Mày nhầm,
tao không điên đâu”. An xua tay bảo: “Cậu say rồi, không nói chuyện ấy nữa”. Thạch
hứng chí làm quá ra cái điệu bộ ngất ngưởng: “Ừ, say rồi, chúng mày ạ. Say thật.
Nhưng tôi bảo thật với các cậu nghe tôi đang muốn tự tử như thằng An nó viết rủa
tôi”. Đồng cười hả lên: “Nó mà tự tử? Thạch, cậu không nhớ ngày nhỏ còn đi học
chúng tớ gọi cậu là gì à: Thiết-đầu-đà. Nó đánh nhau chuyên
môn húc đầu vào bụng người ta, thỉnh thoảng nó lại biểu diễn húc đầu vào tường
cho chúng tớ xem. Đầu cứng thế làm sao mà tự tử chết nổi”. Cảnh chậm rãi phát
biểu ý kiến: “Thế không phải là cậu đã tự tử từ lâu rồi à? Tôi tưởng cậu chọn một
lối chết cho hợp thời đại”. Thạch dằn chén xuống phản quắc mắt: “Chưa đâu? Chưa
đâu? Nói đùa thế đừng vội mừng. Đầu tôi còn cứng lắm, chết thế nào nổi phải
không Đồng?” Thạch chỉ ngón tay vào trán mình. An lên tiếng: “Sự mê sảng của nó
chính là cái mặt nạ của sự tỉnh ngộ sáng suốt, nó sẽ không tự tử đâu”, Thạch bất
ngờ đập mạnh vào vai An khiến đổ cả chén rượu An đang cầm trên tay: “Mày sẽ là
một nhà văn có tài, không phải thứ thi sĩ mơ mộng si tình bệt như thằng Đồng”.
Đồng nhe răng cười hưởng ứng câu nhận xét của Thạch. Cảnh quay lại bảo An: “Tôi
cũng nghĩ cậu là một nhà văn có tài, nhưng coi chừng sau này cậu đến lại phải
viết tiểu sử thằng Thạch mất thôi”. Thạch trả đũa gay gắt: “Hay là cả thằng An
lẫn thằng Đồng đều phải viết văn làm thơ ca ngợi cậu? Này, tớ bảo các cậu, An
và Đồng ạ, thà các cậu viết về tớ các cậu còn có quyền thương tớ hay chửi tớ
hay ghét tớ chứ viết để ca ngợi thì e không ngửi được. Phải không? Mà thật tình
thì tớ muốn nghe các cậu chửi tớ. Ông ghét đứa nào thương ông lắm, Đồng ạ. Mỗi
thằng hãy tự thương lấy mình ấy”. Đồng cười hề hề: “Nghe nó nói sướng không? Ai
mà thừa hơi thương một thằng khùng như cậu”. An về hùa với Đồng tiếp ý: “Nó làm
điệu của Nietzsche đấy, Surhommes, Salauds, tous”. Thạch nốc hết cặn rượu
trong cốc thấm thía, như có những mũi kim nhỏ châm trên da mặt làm đầu lảo đảo
nặng nề. Rơi đột ngột xuống vùng buồn bã. Nước dãi ứa ra đầy miệng, Thạch
nghiêng đầu nhổ toẹt xuống đất, cầm khăn hỷ mũi nhớt: “Chúng mày nói đúng, tao
chịu. Thôi bây giờ thằng Đồng hát cho tao nghe. Mày hát cái bài gì mà Hà xưa
kia hát khi hai đứa mày ngồi trên đống rơm giữa cảnh đêm trăng trên rừng núi
Phú-thọ
ấy. Các cậu ngồi im cho nó hát, tớ ra nằm võng một cái”. Chiếc võng bị đẩy mạnh.
Thạch quay cuồng hơn, dấp dim mắt và trông thấy những vòng đỏ đen lộn nhào tới
tấp và khạc nhổ bừa bãi: “Ê, hát đi mày”. Thạch hét oang oang: “Này, còn mấy thằng
con nhà kia từ ngày chơi với chúng mày chẳng khi nào chúng mày nói chuyện tình
với tao cả, chúng mày toàn bàn những chuyện làm tao điên đầu không à? Cảnh! Mày
đã yêu ai bao giờ chưa, nói đi, thú thật đi, tao sợ cho mày refoulé nguy
hiểm, nói đi tao giải thoát, tao chữa cho. Còn thằng con nhà An kia nữa, mày
cũng coi chừng cái complexe d’inceste của mày ạ. Em gái mày khá đẹp, phải
gột rửa cho mau không thì mày sẽ trở thành một thứ văn sĩ bệnh hoạn chuyên viết
cho bọn điên trong xã hội xem, tao không xem đâu. Chỉ có tao được quyền thương
bọn mày thôi”. An tức giận vỗ tay xuống phản. Thạch nhơn nhơn: “Hôm nay ông say
ông nói cho sướng, mày không chịu nổi thì tuyệt giao với ông đi cho đỡ vướng.
Tao cóc cần, đã từ biệt thì từ biệt hẳn cho rồi”. Thạch nghe thấy sự im bặt ở
quanh mình, tiếng dọn dẹp mâm bát lích kích, Thạch nghiêng người ngửng đầu nhìn
ngoái, suýt lộn xuống sàn. Chỉ thấy Đồng đang giúp u già xếp dọn bát đũa. Cảnh
và An đã bỏ ra ngoài sân. Thạch đặt đầu xuống nói một mình: “Không đứa nào hát
ông hát cho mình nghe vậy”.
Ngâm nga một vài câu thơ nhớ lõm bõm: “Cố nhân tây từ
Hoàng hạc lâu… Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản… Yên ba giang thượng xử nhân sầu…
Souvenir, Souvenir que me veux tu? L’automme… Quel fut ton plus beau
jour?”…
Et je baisai sa main blanche, dévotement… Thạch thấy mình bị hút xuống
giấc ngủ nặng tối đen và quánh đặc như dầu nhớt, cố ngoi lên hỏi một câu vu vơ:
“Đồng, Quel fut ton plus beau jour?” và trong khi thần trí bắt đầu khởi
cơn phiêu lãng, trong đầu vang vọng tiếng đáp của bạn: “Nevermore”.
Thạch ngủ vùi đến
xẫm chiều mới thức giấc. Miệng khô đắng đầu óc rỗng tuênh toang, nửa thân ê ẩm. Thạch thấy mình nằm
trong giường của Đồng. Nhà vắng lặng như không người chỉ nghe gió rền rĩ cả một
vùng cây cối xung quanh. Mẹ Đồng và u già ngồi quây quần quanh bếp lửa dưới nhà
ngang. Thấy Thạch bước chập choạng xuống sân bà cụ hỏi: “Cậu Thạch đã tỉnh
chưa? Có nước nóng đây cậu rửa mặt cho khỏe”. Thạch ngượng đáp: “Vâng, cụ cho
con xin – Lúc trưa con say quá”. Bà cụ hiền từ âu yếm: “Khi nào cậu về Hà-nội
thì xuống đây chơi với em Đồng cho vui”. Thạch gượng cười: “Thưa cụ, chứ con biết
đi đâu nữa? Con có còn ai quen thuộc ở Hà-nội đâu”. Đồng từ bên hồ về, mang
theo màu xanh rờn trên da mặt, bảo với Thạch là bọn An và Cảnh bỏ về từ lúc ba
giờ. Bây giờ đã hơn sáu giờ. Thạch hết lời từ chối bữa cơm chiều, xin phép mẹ Đồng
lên phố kịp xe điện. Đồng đưa chân Thạch ra bến xe. Cuộc sinh hoạt của khu phố
ngoại ô đang ở trong giờ chuyển tiếp, mọi hoạt động của dân lao động lương thiện
rút ẩn dần nhường ban đêm cho các quán rượu của bọn gái giang hồ và bọn lính tứ
xứ. Trước khi Thạch bước lên chuyến tàu điện thưa thớt đã bật đèn, Đồng bắt tay
Thạch bảo: “Bonne chance. Cho tôi gửi lời thăm Liên”. Thạch cay đắng:
“Tôi sẽ nói lại với Liên”. Sau khi ăn qua loa một mẩu bánh mì với đồ nguội
trong một hàng quán quen, phải nghe ông chủ quán béo mập ngu đần vừa nhấm nháp
một cốc trứng đường thật to vừa huyên thuyên bàn luận chuyện chính trị trong nước
ngoài nước như một người thành thạo am hiểu nhiều âm mưu trong hậu trường sân
khấu ấy, Thạch lủi thủi trở về nhà tính đi ngủ sớm để quên nỗi khắc khoải chờ đợi
tin tức của Bích sẽ mang tới. Mở khóa cửa, đánh que diêm lên soi lối, Thạch sửng
sốt trước cảnh nhà trống trơn. Đồ đạc đã dọn đi hết, nền nhà vứt lung tung mấy
tờ báo cũ rách. Trong một góc còn một cái hòm sữa lật nghiêng. Thạch chạy sang
hỏi thăm người hàng xóm. Người đàn bà nhìn Thạch ái ngại cho biết buổi trưa nay
một trong những người có mặt lúc bắt Liên – Tích, chính nó – đã mang xe nhà
binh tới dọn đồ đạc trong nhà. Thạch ức đến tận cổ, cắn chặt hai hàm răng, cằm
bạnh ra, mồ hôi vã trong khi gió gây lạnh ở ngoài. Chưa lúc nào Thạch nhận thức
rõ ràng hơn lúc này cái cảm giác trần truồng tủi cực. Bây giờ Thạch lại đi dông
dài trong các phố như một con chó biết nó sắp điên bỏ tránh những người thân
yêu tìm chỗ khuất chờ cơn dại tới để chết, người bứt rứt lồng lộn bị vây giữa cảnh
náo nhiệt tưng bừng lãnh đạm. Đầu phố Cầu Gỗ, một tên ma-cô chìa cái kính dâm mời
Thạch mua rồi mời chơi gái. Thạch chợt nảy ý bảo nó đưa Thạch tới tiệm hút. Nó
đưa Thạch qua ngõ Gia-ngư,
ngõ hàng Bạc, quanh hết mấy tiệm hút trong khu ngõ Sầm-Công, hàng Giầy, Quảng-lạc. Đường bẩn thỉu hôi thối
mùi cống rãnh, ngõ vào nhà tối tăm, nhớp nháp, cầu thang gỗ ẩm mốc ọp ẹp. Những
căn gác chật đèn đóm tù mù nồng khói thuốc. Thạch đứng lại ở các ngưỡng cửa,
nhìn ngó khắp lượt bọn khách nghiện nằm co quắp ngang dọc. Một bọn ma nằm chung
trong một nhà mồ công cộng. Những mẩu chuyện không đầu đuôi được nói bằng thứ
giọng vừa đủ nghe dai dẳng. Lẫn trong tiếng trống quảng cáo dồn dập dưới một rạp
tuồng nổi giọng ngâm thơ của một mụ đàn bà nghiện, chán chường bệ rạc, có lẽ đó
là một thứ cô đầu già: Đời đáng chán hay không đáng chán? Cất chén quỳnh
riêng hỏi bạn tri âm… Ở ngay bên chân Thạch, một gã thanh niên mặt mũi còi
cộc không thể còn già thêm được nữa ngửa mặt nhìn Thạch mà như ngó vào hư không
cất tiếng phụ họa bằng thứ giọng khinh bạc lộn ruột: Em ơi lửa tắt bình khô
rượu, đời vắng em rồi say với ai. Tên ma-cô ghé vào tai Thạch thầm
thì giới thiệu với vẻ kính trọng: “Đây là chỗ của các ông nghệ sĩ đấy cậu ạ”.
Thạch lắc đầu. Tên ma-cô
bắt đầu sốt ruột. Thạch bảo cho nó biết mình không hút chỉ cốt tìm một người
quen, và Thạch hỏi nó có biết ai tên là Tích hay không. Nó kêu trời và bảo:
“Sao cậu không nói với cháu lúc nãy, cháu biết cái trụ sở ấy mà”. Nó đưa Thạch
sang phố hàng Chiếu gần Ô Quan-trưởng.
Dọc đường thỉnh thoảng nó liếc trộm Thạch, băn khoăn không hiểu Thạch thuộc loại
người nào. Bộ quần áo ka-ky
của Thạch mới may nhưng mặc mấy ngày nay đã nhầu nát, mặt Thạch đen đủi lầm lì,
đầu tóc cắt bờm xờm. Ngập ngừng mãi tên ma-cô gợi chuyện, nó làm vẻ
thân mật nháy mắt đểu cáng: “Chắc cậu đi tìm của quý chứ gì? Chỗ ấy là động
Thiên-thai
ấy cậu ạ, đủ tứ khoái. Tích nó đóng đô ở đấy cả bốn mùa”. Thạch gạt ngang: “Tao
chỉ cần gặp nó. Mày vào mời nó, bảo có người nhà muốn gặp nói câu chuyện cần,
tao đợi ngoài này”. Tên ma-cô
ngần ngừ e ngại, Thạch dúi tiền trả công cho nó, tên ma-cô bước vào một gian nhà
có mặt ngoài lương thiện như những nhà khác. Mấy phút sau Tích bước ra vỉa hè với
tên ma-cô,
tên này chỉ chỏ sang phía Thạch đứng. Thạch khôn ngoan đứng lấp nửa mình sau
thân cây chỉ để Tích trông thấy nửa lưng mình. Tới sát gốc cây Tích mới nhận ra
Thạch. Thạch mỉm cười dữ tợn, vẫy tay ra hiệu đuổi tên ma-cô. Tích bị bất ngờ nên bối
rối nhưng hắn vẫn giữ vẻ điềm nhiên tự tin, hỏi giọng trịch thượng dọa nạt:
“Anh muốn gì?” Thạch tiến nhanh lên hai bước nói: “Muốn cái này” đồng thời đập
mạnh vào mặt Tích. Tích chỉ kịp kêu: Ối, bưng tay lên mặt, lảo đảo va người vào
gốc cây. Thạch nắm lấy ngực áo Tích kéo tới. Thạch vừa đánh vào đầu Tích cái thứ
hai thì hắn gạt được tay Thạch bỏ chạy. Thạch hùng hổ đuổi theo và bắt kịp Tích
ở bên nhà tắm công cộng đầu Chợ Gạo, đoạn đường chạy đuổi khơi lên cơn giận
điên của Thạch. Nắm lấy gáy Tích, Thạch đánh đập không thương tiếc, trong cơn
hăng máu Thạch ngập ngụa vào sự vui sướng dã man. Người đi đường dừng lại nhưng
không ai vào can thiệp. Thạch nghe văng vẳng bên tai tiếng gọi lạ lùng: “Anh Thạch,
Anh Thạch. Buông ra”. Trong khi ấy Tích cắn vào cánh tay Thạch, Thạch nổi xung
thúc đầu gối vào bụng Tích, hắn hự một tiếng khom người xuống, Thạch bồi thêm một
khuỷu tay, lên lưng Tích, hắn từ từ ngồi bệt xuống đường dựa lưng vào tường của
khu nhà tắm rên rỉ. Thạch đứng lặng vài giây. Xung quanh tiếng xì xào bàn tán.
Có ai kéo tay Thạch. Thạch lầm lũi bước nhanh về phía bờ sông vắng. Rồi Thạch hồi
tỉnh dần dần. Vài giọt mưa bay quạt vào mặt Thạch. Thạch nhớ ra cái tiếng gọi
tên Thạch vừa rồi, tuy không hề liếc nhìn kẻ đã dật tay mình, Thạch cũng tự nhiên
trông suốt lạ kỳ, kẻ ấy là Bích. Bích đứng ở đấy rõ rệt. Sự hiện diện đột ngột
của Bích lúc ấy, Thạch cảm thức hiển nhiên. Thạch tự hỏi: tại sao Bích lại có mặt
ở chỗ ấy? Nhưng bây giờ trước sau Thạch không một bóng người. Con đường bờ sông
rộng tối qua những ánh đèn giăng đường đang mờ mờ một cơn mưa bụi đầu thu.
Thạch tới ngồi ở bực
thềm viện bảo tàng Finot. Màn mưa mỏng vẫn buông êm ngoài trời như một tấm lưới
giam giữ. Sau lưng Thạch là tấm cửa cao dầy của tòa nhà; trước mặt là cái công
viên hình tam giác, một vài đám cỏ xén, lối đi ngắn trải sỏi, ghế đá, con đường
bờ sông bóng lên dưới ánh đèn nghiêng chao, con đê cỏ rậm ẩm ướt, vỉa hè rộng,
hàng cây lâu năm và dãy nhà tối mịt; cuối tầm mắt là khúc quanh ở Cột đồng-hồ. Giữa viện bảo tàng và
nhà Hát-lớn
là con phố nhỏ vắng, nơi năm trước vào buổi sáng tinh sương một người đàn ông
đã cầm dao đâm chết một người đàn bà. Một vụ án mạng vì tình. Thạch rút khăn
tay lau những giọt nước đọng trên mặt tự hỏi phải làm gì nữa. Đầu óc trống vắng
lạnh lẽo như cái khu vực quạnh hiu nhiều bóng tối này. Thạch cảm tưởng như mình
đã đi khỏi Hà-nội, xa nó lắm rồi và đang nhớ về nó. Hà-nội sâu đục như một khối
cẩm thạch xám, chôn giữ trong nó một đoạn đời dài chán nản phiền muộn bất mãn.
Liên, Liên vẫn ở quanh đây. Nhưng Thạch không còn đủ can đảm chạy cuồng qua những
ngày tháng trắng bệch, qua những phố phường sắp xếp nhỏ bé, Thạch nhìn rõ hết một
lúc không trừ ngõ ngách nào, như món đồ chơi của trẻ con để kiếm Liên. Tôi bỏ
cuộc, tình yêu đã chết. Liên, bất giác Thạch thốt lên, rùng mình như đêm nào giữa
phố khuya. Không còn bàn tay Liên mềm lạnh như con chim ướt cánh, chỉ trơ lại
bàn tay tôi ê ẩm trong cơn hung bạo muốn kéo dài. Thạch đi dọc theo phố Trường-tiền, rẽ xuống hàng Kèn, về
Hai bà Trưng đến nhà Cảnh. Nấm mồ công cộng âm u bên cạnh tòa án. Nhà Hỏa-lò tường đá cao ngất. Thạch
ngăn giữ sự suy nghĩ bằng cách đắm chìm vào trong quá khứ lềnh bềnh ở trước mắt.
Lần cuối cùng sống nốt những dư vang của khúc nhạc đã tắt, ngoài thân xác,
ngoài ý thức. Thạch gặp bọn Đồng, An, Cảnh ở đầu ngõ vào nhà, những hình dáng
quen thuộc dễ chịu, kéo nhau vào hiệu cơm tháng của Cảnh uống cà-phê. An trình bày về
khuynh hướng văn chương mới của Âu-châu,
tóm tắt những tác phẩm mới đọc. Rồi ba đứa thảo luận về sự có cần thiết hay
không một chế độ vô sản chuyên chính, Thạch ngồi nghe không phát biểu ý kiến,
chiếm cái vai trò thường lệ của Đồng và Đồng cãi với Cảnh say sưa nói đúng những
ý nghĩ của Thạch. Tới nửa đêm cả bốn về ngủ trong buồng Cảnh. Tấm phản được dựng
vào tường lấy chỗ trải chiếu xuống gạch. Khoảng ba bốn giờ sáng, nước chảy mạnh
róc rách trên cái bồn của cầu tiêu, ống dẫn nước ở góc tường hở chảy ướt một nửa
buồng. Cả bọn phải thức dậy tìm cách lấp lỗ hổng, sau nhà.
Ngày hôm sau, Thạch
không tới nhà Bích theo lời hẹn để biết tin Liên, về nằm nhà Đồng. Sáng hôm ra
đi, mẹ Đồng dọn cho mỗi đứa một khúc bánh mì, một cốc sữa nóng. Thạch vừa ăn vừa
nghĩ mình cũng là con bệnh như Đồng vậy. Thạch mặc bộ quần áo nhà binh mới, Đồng
cười ầm lên đến chảy cả nước mắt. Đồng đưa Thạch ra bến Nứa, lên xe, theo đường
Cổ-ngư,
đê Yên-phụ.
Thạch nói: “Cuối cùng tôi chỉ còn mình cậu”. Đồng hỏi: “Liên đâu?” Thạch mỉm cười.
Liên đâu? Liên đâu trong Hà-nội đó, trong quá khứ đó. Cánh cửa quá khứ dần dần
khép lại, Liên ở lại phía trong. Ở dưới đáy thân của tôi như nỗi chết không rời.
Tránh sự ồn ào của bến xe trong khi chờ đợi. Thạch và Đồng đứng trên đê nhìn xuống
bãi Phúc-xá.
Mùa thu sắp về đây nay mai. Sông Cái nước siết trôi phăng. Và Hà-nội vẫn đẹp,
cái vẻ đẹp rũ rượi của người yểu mệnh. Nhưng lúc ấy Thạch không còn ở đấy nữa.
Liên, Liên. Đến
khi nào chúng ta gặp lại được nhau. Đó là ý nghĩ của Thạch khi xe lượn lên dốc
cầu Long-biên.
Merde.
PHẦN THỨ HAI
CHƯƠNG I
Hai ngày liên tiếp,
mưa ngâu bỗng nặng hạt, gió lộng, trời sũng nước, mặt hồ Tây nặng sánh như chất
dầu; nửa đêm ngày thứ ba của cơn bão rớt, trời đổ mưa giông, Đồng chợt thức giấc
khoan khoái. Giấc ngủ yên lặng tĩnh mịch trong tiếng nước đổ, không bị khuấy đục
bởi những mộng mị quen thuộc, hơi thở nhẹ nhõm, lưng và ngực không bị mồ hôi trộm.
Cuốn tròn trong chăn bông, nghe gian nhà rộng vắng như không còn ai ngoài mình,
bên ngoài cây cối vật vã từ trên vùng cao, thiếp dần trong nỗi nhớ nhung xoay
tròn không đối tượng. Mọi hình bóng trôi miên man như tiếng nước chảy đầu mái
hiên. Tỉnh dậy buổi sáng Đồng vẫn tưởng mình vẫn cười mãi bâng quơ từ nửa đêm đến
sáng.
Trận bão qua hẳn,
trời mùa thu trở nên mờ mịt lao đao trong những cơn heo may tẩm lạnh; Cây cối
trong vườn ướt sơ sác, ngoài sân gạch lá úa rụng đầy. Ngồi xổm trên hàng hiên
cao của nhà trên, rửa mặt trong chậu thau đồng nước bốc khói, Đồng ấp chiếc
khăn bông dày kín mặt nghe hơi nóng ran trong da và nghĩ mình đang hồi hộp. Hôm
nay chủ nhật đây, ngày hẹn đầu tiên với Nga. Nga, Nga, cặp mắt rạng ngời như
đêm mùa hè thượng du, như tiếng hát của Hà bay ở giữa trời… thông minh, hóm hỉnh,
riễu cợt hơn cả mình nữa, Đồng bật cười khúc khích, mẹ mặc áo bông đang quét dọn
nhà ngang, tiếng chổi xể soèn soẹt, hai con chó nằm liếm bộ lông nhớp nháp. Bộ
bàn ghế gỗ cũng ẩm, cốc sữa được đậy bằng một tập sách mỏng, Contribution à
l’esthétique, cái bánh tây trong chiếc đĩa nhỏ, giỏ nước và đĩa chén đã được
chùi rửa sạch bóng.
Đồng vừa ăn sáng vừa
ngẫm nghĩ: phải tự làm psychanalyse mình mới được, sự sợ hãi kỳ quái là
một thứ mặc cảm chưa được đặt tên, yêu Nga cũng là một lối tự psychanalyse
mình hả?
Vỏ bánh xe đạp dựng
bên tường đỏ hỏn không mảy bụi, u già kém mắt đã chùi rửa mất mấy “sô” nước mưa với mẹ đứng bên
chỉ dẫn; những mẩu bánh vụn rơi vãi trên mặt bàn, trên đùi và gấu áo len. Đồng
mò mẫm túi áo sơ-mi
mặc trong điếu thuốc lá nhầu nát cong queo, vuốt lại cho thẳng đi xuống nhà
ngang vào bếp. Mẹ cúi xuống cầm đôi đũa sắt gặp một cục than nhỏ, đưa cho châm
thuốc, bàn tay răn reo run yếu: “Cậu lại hút thuốc rồi”. Đồng bập mạnh hơi, thuốc
khó cháy nghe hơi khét, nhựa vàng lan lùi theo đốm lửa, không dám nuốt khói, thổi
ra khỏi miệng và làm cay mắt mình. Mẹ bước theo sau, trở lên nhà trên bảo: “Hôm
nay vợ chồng anh Thái đưa các cháu về chơi đấy”. “Con lên phố chốc về ngay”.
Đồng thay quần áo,
quấn khăn quàng cổ, đội chiếc mũ nồi nhìn thấy tấm ảnh chụp chung với Thạch
treo trên tường: Thạch đứng gác một chân lên chiếc bể non bộ ngoài sân, cười rộng
miệng. Không biết hắn nghĩ thế nào khi hắn biết mình yêu Nga, em gái của An? Hắn
chưa bao giờ đặt chân vào trong gian phòng khách sang trọng, trần thiết Tây-phương; Bộ xa-lông với những chiếc ghế
bành lớn ngồi lọt thỏm, những ấn bản hội họa mới (một chân dung đàn bà của Modi
giống như Liên của hắn), chiếc đàn dương cầm đen huyền, các lũng tường dấu ánh
đèn, bức tượng nhỏ khỏa thân bằng đồng, chiếc đèn đứng chụp trắng, chiếc gạt
tàn bằng pha-lê
lớn bằng chiếc bát chiết yêu… Bây giờ nó đang ở trong đồn nhìn quanh làng mạc
sơ xác và thù địch, những cánh đồng chiêm ngập nước không nhớ và không nghĩ đến
ai, ngay cả Liên nữa, phải thế không? Đồng huýt sáo miệng, ngày nay chắc không
còn người đi lại dưới cửa sổ gác người yêu để thổi sáo một bài ca tình tứ phải
thế không Thạch?
Đồng vác chiếc xe
đạp xuống sân, dắt qua vườn đi ra lối sau. Chú Tư đang quét dọn mặt đất, vun lá
quả rụng thành từng đống, ngừng tay chống cây chổi cán dài trước ngực, chú
khoác chiếc áo dạ lính Tây rách hai khuỷu tay – chú ở bên hàng xóm giúp mẹ công
việc vườn tược: “Cậu Đồng đi chơi sớm thế?” Đồng đẩy xe ngang qua đống quả ủng
đã thu gọn, cười khinh khích. Chiếc cửa gỗ ướt mủn, rêu nhờn, Đồng nhấc xe lần
nữa qua khỏi ngưỡng cửa, dựa thân xe vào sườn, chùi mùn gỗ trong tay vào áo len
và đứng thở. Bãi cỏ hoang mọc lan nhanh sau mấy ngày mưa dầm, đường dốc mãi tít
trên cao nhìn lên chỉ thấy mép như một bờ đê, phải đẩy xe theo lối mòn ngoằn
ngoèo giữa đám cỏ ướt hết gấu quần, tại sao lại đi lối này? Trên dốc Quần-ngựa, gió hút bạt cả hơi,
bánh xe lăn theo sức kéo tự nhiên nghiến đá sạn nhỏ lào rào bắn sang hai bên; hồ
Tây thấp thoáng là những miếng xanh lục giữa các chòm cây và mái nhà dưới thấp,
con tàu điện chạy dưới đường Thụy Khê không tiếng động, cây gạo già Quảng bá mờ
nhạt như nhìn qua một đám khói. Buổi sáng ngồi đọc sách trên bờ gạch sau đình
làng, dưới gốc sung; lớp học trong đình nghỉ vắng – anh chàng thầy giáo có lẽ
còn là học sinh trên phố giảng thơ kháng chiến say sưa cho bọn học trò trẻ con
chẳng hiểu mô tê mù tịt – nắng lấp loáng ngoài khơi xa, sung rụng lõm bõm dưới
chân, sóng sô vào bờ gạch, nước bẩn rong rêu, chiếc thuyền đánh cá lởn vởn
quanh những đám bèo rải rác; Đồng úp sách vào ngực, lim dim mắt… Tellement
attendu, tellement tellement, tellement, tellement, tellement, tellement,
tellement, tellement et tellement attendu. Tellement, espéré, désespéré,
espéré, désespéré, espéré, désespéré, espéré, désespéré, espéré désespérément
espéré… Thảng thốt tự nhủ: tại sao không yêu Nga? tại sao không? Phải yêu
Nga, phải yêu… như trong cơn mơ, nhảy xe điện lên phố, tàu chạy nhanh trên đoạn
đường ngoại ô, chuông giật hồi và chậm dần khi vào phố, xuống nơi trạm tránh
nhau cuối dốc vòng, đi bộ một quãng; sực nhớ tới thái độ vô lý, Đồng chỉ gặp
Nga vài lần tại nhà khi đến tìm An hoặc ngoài phố khi Nga đi với bạn, sẽ làm
gì, nói gì, không biết nhưng phải yêu Nga, yêu Nga, tại sao không? Càng đến gần
nhà Nga càng thấy mệt, yếu như sắp đứt thở, yêu cho rõ mình không thể làm gì
khác, yêu vì chỉ còn lại những giây phút mịt mùng. Tiếng chuông reo phía sau, ouvre moi cette porte… où je
frappe en pleurant, tiếng guốc chạy trên lối
sỏi, mái tóc cặp đong đưa, tiếng cười ròn rã tinh nghịch. Anh An đi vắng, cả
nhà đi vắng, mời anh vào chơi. Đồng ngồi vào ghế bành, duỗi dài chân, ngực trống
rỗng. Anh làm sao? Chắc anh trúng gió để em lấy thuốc anh uống, Nga bỏ vào
trong nhà, lâu, Đồng tỉnh dần, cố gắng thở điều hòa. Anh thấy khá rồi hả? Đồng
để hai viên thuốc trắng lên mặt bàn, cầm cốc nước trong vắt nhìn. Ngoài cửa sổ
cây lá khua động, màu xanh chấp chới. Anh nghĩ gì vậy? Anh tìm mắt Nga trong cốc
nước, bàng hoàng đợi phản ứng của Nga, lim dim mắt để khỏi nhìn, để chỉ thấy những
ảo ảnh. Anh thấy thế nào? Đẹp như buổi sáng này vậy. Không khí buổi sáng trong
vườn Bách Thảo âm u, mát dịu, khoảng sáng trên các mặt hồ nước trong im với những
lá sen tàn úa. Đẹp bằng mắt cô Phương không? Mở choàng mắt, có lẽ An nói với
Nga về Phương, im lặng trải rộng dịu dàng. Uống vội hết cốc nước, mắt Phương, mắt
Phương không nhớ được. Nga bật ngửa cổ cười ròn, riễu cợt. Un soir de
demi-brume à Londres un voyou qui ressemblait à Mon amour vint à ma rencontre
Et le regard qu’il me jeta Me fit baisser les yeux de honte…
Nga mặc áo dạ màu
gạch, ngồi yên xe đạp đỗ tựa vào vỉa hè trước đền Quan-Thánh, trông về phía trường
Bưởi.
✳
An đứng trước tủ
sách cao khỏi đầu ngắm nghía; sách đủ loại: philo, éco-po, histoire,
sociologie, littérature, science, religion, civilisation… Bộ bách khoa tự
điển Anh chiếm nguyên một kệ dài, không đóng gáy phô những bìa khác nhau hỗn độn,
hoa mắt.
– Anh cũng đọc cả droit
nữa hả?
– Để làm tài liệu.
Sau này cần dùng, rồi đến lúc phải có cái Constitution cho xứ này.
An nhón gót rút lấy
quyển Marie của Trotsky:
– Tôi kiếm mãi quyển
này ở ngoài không thấy.
An nhìn ra ngoài
ban công, đường Yên Phụ cao hơn tầm gác, bến xe khuất về bên trái, tiếng động từ
trên đổ xuống, từ dưới dội lên. Dưới phố thấp một cái máy nước công cộng nằm
ngay dưới chân những thềm gạch nối với đường Yên -phụ, những người đàn bà ì ạch
quay ngang đôi thùng đang leo từng nấc ướt nhẹp bẩn thỉu. Đầu phố phía hàng Đậu,
một xưởng chữa ô-tô
khua vang những tiếng gõ đều đặn vào thùng sắt trống và xa hơn tiếng ào ào thỉnh
thoảng tuôn đến cửa chợ hàng Khoai. Nghiêm đang chăm chú chuyên trà, gian phòng
vuông vắn thoáng khí, hai cửa sổ mở trông ra những mái ngói lô nhô của phố hàng
Đậu, sân thượng phơi quần áo. An vừa lật giở những trang sách vừa đi tới ngồi đối
diện với Nghiêm nơi bàn thấp đặt ngay giữa phòng, nhấm nháp hương trà mạn sen
trong chiếc chén hạt mít.
Nghiêm cầm hai tập
giấy bản in ronéo để trên bàn, giở nhìn các trang:
– Anh đọc hết
chưa? Nghĩ thế nào?
– Anh viết hay đấy
chứ.
Nghiêm vội cải
chính:
– Không phải tôi,
anh em họ viết… Chúng tôi phổ biến nhiều ra ngoài hậu phương hơn trong vùng quốc
gia này. Cốt để cho cán bộ của kháng chiến đọc.
An ngửng lên nhìn
thẳng vào Nghiêm, các anh lại muốn “lòe” bọn thanh niên. Nghiêm chỉ mới ngoài
ba mươi, vẻ thư sinh nho nhã, không có dáng một người hoạt động, thường ra thư
viện đọc sách, ghi chép chăm chỉ. Hắn làm quen với Cảnh, rồi với cả bọn, cho mượn
xem những tài liệu của kháng chiến; một bữa tình cờ nghe Thạch cãi nhau với Cảnh
về định nghĩa giai cấp, hắn phụ họa đứng về phe Thạch công kích chủ nghĩa mác-xít với luận điệu vững
vàng của người có nghiên cứu vấn đề, Cảnh nghĩ hắn có thể là agent của phòng
Nhì.
– Riêng ý tôi, tôi
thấy các anh mystique quá. Để chống lại chủ nghĩa mác-xít mà các anh lại đi
khai thác cái tinh thần dân tộc thần bí, xử dụng thần thoại, tôi e…
Nghiêm cầm nghiêng
ấm trà sửa soạn rót vào chén, lắng nghe, xong mỉm cười tiếp tục rót nước vào
chén và nhấc ấm nước sôi đặt dưới chân ghế chuyên vào ấm trà.
– Để chống lại lập
trường giai cấp, tôi hỏi các anh đứng ở lập trường nào?
– Đó là điều bọn
tôi thắc mắc. Có lẽ không giải quyết nổi. Nhưng tôi thấy dựa vào ý niệm dân tộc
thì mơ hồ trừu tượng quá.
– Anh không đọc
trong này bài chúng tôi bàn về sử quan của chúng tôi hay sao?
– Có, tôi có đọc.
Nhưng cái quan niệm về giòng sống, giòng sử của nòi Việt, với nòi Hán của các
anh tôi nghe nó gần phát-xít
quá…
Nghiêm sa sầm nét
mặt, nhếch mép, cái lối cười ngạo mạn, khinh thị kẻ đối diện như của Cảnh. An
dòm thẳng mắt Nghiêm khiêu khích, đối với Cảnh hay Thạch, An có thể nhân nhượng
và mang mặc cảm tội lỗi; chúng nó hơn mình, chúng nó thật như thế, những đứa
con mà chiến tranh nhổ bật mất rễ giai cấp, chúng không thuộc vào đâu cả, còn
Nghiêm… Một đứa con trai chừng bốn năm tuổi chạy vào phòng gọi: Bố, bố, bố vẽ
cho con cái đồng hồ; Nghiêm cầm bút mực vẽ trên cổ tay bụ bẫm của đứa con xong,
bảo: Con ra ngoài chơi. Thằng bé không ra khỏi phòng, nó đến ngồi trên chiếc đi-văng gần bên cửa ra, dựa
lưng vào tường và giơ tay lên ngắm nghía một mình. Cạnh tủ sách là chiếc bàn viết,
lót mặt kính dưới có những bức ảnh. Nghiêm cầm chiếc điếu cày giấu dưới gầm
bàn, vừa nhét thuốc vào nõ vừa nói:
– Anh chỉ có thể đứng
trên lập trường dân tộc, anh mới có thể vận động được một cuộc cách mạng khác với
cách mạng vô sản. Cách mạng không phải chỉ là thúc đẩy sự phân hóa xã hội tới tột
độ để loại trừ, cách mạng còn phải là cái hành động intégrer được cái
quá khứ lịch sử của một dân tộc vào trong một xã hội mới…
Nghiêm châm lửa
hút thuốc nổ ròn tan, thở khói tuôn mù ra lỗ mũi, dựa đầu vào lưng ghế lim dim
một lúc. Hơi thuốc bay tan, Nghiêm ngồi thẳng lên, mắt vẫn còn đỏ lờ:
– Chỉ có một cuộc
cách mạng dân tộc thật sự mới thu nhập và hóa giải được những mâu thuẫn của xã
hội hiện tại. Dựa vào giai cấp, người ta chặt đứt quá khứ và lọt vào trong cái
vòng đấu tranh bất tận, làm cách nào trong cái xã hội tân tiến như ngày nay mà
người ta có thể thủ tiêu được hiện tượng
giai cấp trong guồng máy kinh tế. Anh có thấy thế
không đã nào? Cách mạng vô sản ở Nga non nửa thế kỷ nay hỏi làm được đến đâu.
Chỉ còn cách là thu nhập điều hòa các giai cấp trong đơn vị lớn hơn là dân tộc
thôi. Nhất là ở Việt-nam
mình, cái tinh thần nông dân cố hữu, cái giai cấp chính yếu đó, có đòi hỏi gì
chính là đòi hỏi được thu nhập vào trong một xã hội mới…
An mỉm cười hoài
nghi:
– Tôi chưa hiểu rõ
quan niệm cách mạng của các anh như thế nào. Cách mạng để intégrer quá
khứ vào tương lai? Tôi chỉ nghĩ rằng cái quan niệm dân tộc cách mạng bị dépassé
mất rồi. Cách mạng và truyền thống dân tộc, ça sonne faux.
Nghiêm không cười
nữa, hắn trừng mắt:
– Tôi không hiểu
các anh muốn gì, tìm kiếm cái gì. Các anh có chấp nhận Cộng-sản không đã nào? Nếu
không thì các anh phải đứng vào hàng ngũ nào chứ. Cái gì các anh cũng phủ nhận
cả, rồi các anh đi đến đâu. Các anh chịu ảnh hưởng Tây nặng quá. Phải trở về
nguồn, khai quật cái tinh thần dân tộc tiềm tàng đã giữ được đất nước này mấy
ngàn năm không tiêu diệt… Các anh không nhận định được những giá trị của dân tộc
vì các anh vong bản.
An bật cười thành
tiếng, non, suis pas déraciné, suis déclassé, oui, déclassé.
– Anh muốn chúng
tôi phải hành động chứ gì? Đồng ý. Nhưng phải thành thật mà nói các đảng phái quốc
gia ngày nay có đảng nào tổ chức ra hồn, có đường lối hoạt động thu hút được
chúng tôi đâu. Các anh vẫn còn giữ cái lý tưởng lạc hậu cũ kỹ như cái hồi mấy
chục năm trước chống nhau với Tây chỉ cần vận động cái tinh thần quốc gia dân tộc
là đủ. Mục tiêu của các anh đã bị Cộng-sản đoạt mất rồi, hiện tại là chính các
anh đang phải tựa vào Pháp để chống Cộng, các anh không thấy cái lý thuyết cách
mạng dân tộc của các anh mâu thuẫn khi vào thực tế sao. Các anh sẽ không khi
nào lôi cuốn được thanh niên chúng tôi nếu các anh cứ còn khư khư ôm giữ cái
vang bóng một thời của các anh. Ngày nay cuộc tranh đấu đã khác không phải như
thời xưa, xã hội này đã phân hóa không còn đồng nhất như thời trước nữa… Chúng
tôi muốn hoạt động lắm chứ nhưng bắt chúng tôi phải chấp nhận những quan niệm cựu
hữu phản động chúng tôi làm sao nhận nổi. Các anh không nhận thức được rằng bọn
thanh niên ngày nay hầu hết đều khuynh tả, nếu các anh không thu hút dẫn dắt nổi…
Nghiêm không nhịn
nổi nữa, hắn cắt ngang:
– Các anh chỉ giỏi
lý luận nên không làm được việc gì cả. Các anh chỉ biện luận để che đậy sự hèn
nhát không dám hành động thực tế. Có phải các anh cho các anh là khuynh tả để
lúc có thể đứng với Cộng-sản
hay không? Anh chỉ nhìn thấy người quốc gia qua hình ảnh của ông bố anh…
An nghẹt cứng họng,
hai bàn tay nắm chặt vào thành ghế thấy mồ hôi vã nhớp nháp, bật cười thành tiếng
ngắn vô nghĩa. Je suis contre mon père, complexe d’Oedipe chăng, mặc cảm
có trước hay sau Freud… nhưng sự xúc phạm kia vẫn là sự xúc phạm đến chính tôi,
tôi đau, tôi chống với chính tôi thì đúng hơn… vẫn là một lối ràng buộc với
giai cấp như Cảnh nói chăng. Đột ngột từ dưới phố bốc lên tiếng hỗn độn vô cớ,
như một đám đông kéo qua, phút sau dịu đi tiếng động trở lại giọng miên man cố
hữu như một nỗi im lặng loang rộng. Hôm nay là chủ nhật, mình ngồi đây làm gì?
Nói mấy câu chuyện viển vông xa vời cho yên dạ, bỏ quên sinh thú. Nghiêm cầm mấy
tập tài liệu An vừa trả, đi vào gian buồng ngay đầu cầu thang lên trò chuyện với
vợ. Trên trang nhất tờ nhật báo trải trên bàn, hàng tít tám cột về trận đánh mở
mùa chiến dịch Thu-Đông
tại đồng bằng Bắc-Việt,
tin trận bão từ Nhật-bản
thổi tới trong mấy ngày qua. An thèm bỏ xuống phố, đi lẫn vào trong đám đông vô
tư và quên mình quên tất cả mọi ràng buộc, nơi chốn ghi dấu hình dạng mình.
Nghiêm trở ra, mang theo một tập tài liệu khác:
– Anh đọc thử cái
này xem sao?
An ngạc nhiên, đó
là một tập thơ giọng cổ có hào khí của tráng sĩ. Nghiêm lại bắt đầu thuyết say
sưa về người lãnh tụ bí mật mà may mắn một thời hắn được sống gần ông trong sáu
tháng. Ông là người có bộ óc thông minh bách khoa, thị kiến mạnh mẽ sâu xa,
nhìn trước mọi sự việc cả mấy chục năm. Khi chiến tranh bùng nổ, ông bỏ đi mất
tích, hứa sẽ xuất hiện khi thời cơ đến; khuyên anh em đồng chí ẩn náu nhẫn nhục,
len lỏi khắp mọi tổ chức chờ đợi hiệu lệnh. Hiện không ai biết ông ở đâu nhưng
tất cả các đồng chí đều tin ông còn sống và ngày ông trở về sẽ là ngày đại cách
mạng dân tộc. Trong thời gian này, các đồng chí của ông chỉ lo nghiền ngẫm khai
triển những tài liệu ông để lại: triết lý, lịch sử, cách mạng, văn hóa, dân tộc…
củng cố hàng ngũ. “Giai đoạn này mình chỉ có thể sửa soạn cách mạng bằng một cuộc
văn hóa vận động”. Hai tay chống trên đùi, Nghiêm nhìn qua đầu An như một giáo
đồ chiêm ngưỡng và cộng thông với một bậc thánh vắng mặt. An chán nản tới không
còn đủ sức phản đối cái luận điệu thần bí, ấu trĩ; có lẽ nào kẻ hành động phải
là kẻ mê muội?
– Anh có thấy cái
hồn dân tộc có thực không?
An bật cười sằng sặc,
cười đến ràn rụa nước mắt. Dân tộc, cách mạng, tổ quốc, giai cấp… một mớ danh từ
phát ngấy.
✳
Một buổi chiều, giờ
là sáng trời buồn bã, buổi chiều sương sa Luân-đôn, tên côn đồ giống như
mối tình tôi đến gặp và nhìn tôi, mắt nhìn khiến tôi cúi đầu xấu hổ; un
voyou qui ressemblait à mon amour… un voyou qui… Trời xỉn, phố rộng vắng,
đường ướt, bãi cỏ rộng xanh mướt, cây um tùm. Mùa thu đã thật già, tiếng bánh
xe lăn trên mặt nhựa ướt và ổ líp quay những vòng ngược ròn rã, mái tóc cặp trễ
sang một bên vai. Nga đang giận, mặt ngước thẳng im lìm trong không trung, Đồng
khịt khịt mũi hít hương thơm của một vùng cây cối lớn gần đó, trong tâm trí âm
vang mơ hồ một điệu hát du dương. Đồng thốt cười khinh khích, rung những hơi
nhiệt trong lồng ngực, lái xe kề sát Nga nhưng Nga đạp nhanh vượt lên né tránh.
Vườn hoa Canh-nông:
cỏ xanh, những luống hoa vàng nhạt, tượng đá trắng và ghế đá xám; Kỳ đài của
thành cũ rêu mốc và ẩm ướt.
Nga đạp xe theo mấy
phố vòng quanh công viên, trời mưa lất phất. Đồng đỗ xe vào hè đường đứng dưới
một gốc cây lớn, con đường chạy qua một nhà tu kín lạnh lẽo và sẽ dẫn vào làng
Ngọc-hà.
Nếu Nga đạp thẳng luôn, mình đuổi mệt, nhưng Nga vòng trở lại, tới đứng vào vòm
cây của một tòa biệt thự hàng rào sắt nhọn cao, phủi bụi mưa bám trên áo, lấy
khăn tay chùi đầu tóc. Đồng dắt xe đi lại chỗ Nga, tủm tỉm cười trêu cợt; Nga dơm
dớm nước mắt, ngoảnh mặt đi. “Bây giờ em đưa anh đi chứ?” Nga làm lơ, đột nhiên
Đồng nghĩ đến những trái nhót đỏ để chùi lên ngực Nga, bụi phấn trắng sẽ bám
trên lông áo. Trời tạnh ngay, Đồng cầm mũ rồi phủi lưng áo và tóc cho Nga. “Em
ghét anh” “Anh xin lỗi, xin lỗi” Nga ngoảnh mặt lại, nhìn thẳng vào mắt Đồng.
Nga nhìn thấy gì ở trong? Thấy gì hả Nga? (Kẻ vô dụng hả? Tên ăn hại). Đồng cười
cười, buồn quá hả, “Em định đi đâu bây giờ?” “Chúng mình đi ra ngoại ô chơi”.
Hai đứa đạp xe rẽ
vào Hàng Đẫy. Đồng chỉ trường huấn luyện Cảnh-sát: “Thuở bé anh học trường
này, trường Pierre Pasquier”. Lớp học ở trên gác, mỗi lần tập phòng thủ thụ động
phải chạy xuống cầu thang, sang đường bên sân đối diện chui vào các hầm chữ chi
lộ thiên nhiều hôm ngập nước nhìn những khoảng trời hẹp thật xa. “Anh cất cái
mũ nồi đi. Em trông nó làm sao ấy. Nhìn mái tóc anh trông có vẻ thi sĩ hơn”. Đồng
nhét mũ vào trong ngực, gió thổi xòa tóc xuống trán sấp mồ hôi, trông có vẻ thi
sĩ, thi sĩ à quoi bon des poètes en un temps de détresse? “Em còn muốn bắt
anh làm gì nữa không?” “Anh không được cười nữa” “Quái gở” Đồng cười rộ, lũ trẻ
đang chạy nhởn trên đường tàu điện giữa phố hàng Bột, cười hùa theo và nhại giọng
trêu ghẹo “Tại sao thế?” “Em muốn thấy anh buồn”. Muốn thấy anh buồn làm sao được,
muốn thấy phải vào trong đêm khuya trằn trọc, vào trong những cảm xúc bất thường,
trong cơ thể bệnh hoạn, trong ý thức vùng vẫy, tiềm thức vi phân… “Quái gở” Nếu
em biết anh nghĩ gì về bè bạn, người yêu, nếu em biết những lúc anh xô đụng với
hãi hùng của cô đơn vô tận… và anh đùa cợt châm biếm: “Không nên, không nên”. Tự
dưng tôi ứa nước mắt dễ dàng, Ô chợ Dừa mập mờ đông đúc. Một đoàn convoi
nhà binh Pháp rầm rầm đằng sau lưng và chuyến tàu điện chạy ào nhanh ngược chiều.
Đồng và Nga phải dừng xe, chống chân đứng kẹt bên đường. Tàu điện chạy qua, gió
ngược thốc như muốn cuốn hút theo thân thể rung chuyển vì chấn động. Đồng ngoảnh
nhìn Nga, nhe răng cười, đoàn convoi qua hết: “Em bằng lòng nhé, anh
đang khóc đây này”. Nga vuốt lại tóc bảo: “Anh điên vừa chứ. Bụi bay vào mắt
anh thì có?” “Anh ghét em vì em thông minh quá, Nga ạ”.
Ngã tư Ô chợ Dừa lầy
lội bẩn thỉu, những người nhà quê gồng gánh qua lại ngang đường. Đồng đề nghị:
“Chúng mình rẽ về Cầu Giấy đi”. Nga lắc đầu: “Anh xuống dưới này với em”. Nga rẽ
vào nhà thờ Nam-đồng,
Đồng níu lấy cánh tay Nga cho hai chiếc xe cùng chạy chậm trên con đường lát gạch:
“Vào đây làm gì em?” “Em có chút việc”. Đồng dựng xe vào đường rãnh xi-măng còn ngập lá ẩm ướt,
lơ đãng quan sát khoảng sân trước nhà thờ. “Anh chờ em ngoài này nhé” Đồng cầm
bàn tay không của Nga, ngón mềm hơi giá lạnh, lưu luyến. Nga bước vào trong
hành lang tĩnh mịch, dừng lại trước một cửa phòng, gõ cửa và quay nhìn ra ngoài
mỉm cười với Đồng. Đồng ngước trông những khung kính dầy xanh trên cao, nghe tỏa
vọng trong hành lang tiếng Harmonium dẫn một hợp ca trong một vòm sân kín. Bản
thánh ca chấm dứt, Nga đã biến mất, hồi chuông rung ngân báo hiệu lời giảng chậm
rãi dội trên mặt đá và thủy tinh, Đồng nghe hoang mang buồn nản. Đồng đi trên lối
xi-măng
vòng vào sân trong, đất rộng, nhà từng dãy kiến trúc trang nghiêm tẻ lạnh. Một
đám nhân công rãy cỏ sửa sân, những nhà thầy áo đen ra vào lẩn lút các phòng. Đồng
thọc hai tay túi quần, trời lúc này ẩm cũ như ngày đưa Thạch đi, bầu trời như một
ngân vang của thời gian, không còn mẩu thuốc nào để đốt. Những lá thư Thạch gửi
về qua trường Đại-học
do An hoặc Cảnh mang xuống, vội vàng ngắn ngủi không chủ từ, kín bưng. Đã đến
nơi yên ổn. Đi đóng đồn, chắc còn lâu mới về thăm Hà-nội được. Công việc hằng
ngày mở đường, tuần tiễu canh đồn. Gửi lời thăm cả bọn. Lên phố mua giùm ít
truyện trinh thám. Thân – Đồng rùng mình, thèm muốn Nga đột ngột, muốn ôm Nga
trong tay, muốn hôn Nga thật lâu. Anh sẽ hối hận… chỉ riêng anh… anh là người
yêu của em, anh không tin sao? Anh tin, anh tin Phương… Chiều mùa đông tối sớm,
các cửa buồng đóng kín, Đồng ngồi trước bàn học của Phương không dám bật điện
cũng không dám mở cửa ra ngoài. Phương nằm dài rũ rượi trên giường, một vết đen
trải như sự xấu hổ, khóc ấm ức. Đồng đã kịp ngồi thoát dậy, vuột khỏi tay
Phương khi thình lình Đồng nhận ra Phương đã trút bỏ quần áo trên người nàng
lúc nào. Anh hiểu em… nhưng tại sao? Ra khỏi cổng nhà Phương, Đồng đứng trong
trời chiều xám ngắt không bóng người, nhìn khu Đấu Xảo lầm lì quạnh hiu, khu vực
quân sự Pháp với những chiếc xe xếp hàng, những ngựa sắt gai, người lính gác xứ
Maroc… Thành phố năm ấy còn vắng vẻ hoang tàn, tại sao? Rồi Phương bay mất, Đồng
trở lại sân trước, sợ Nga cũng đã bỏ đi mất. Đồng gặp Nga trong hành lang âm u,
giữ vai Nga hôn vội lên môi nàng, Nga trợn mắt ngạc nhiên. “Em đẹp như Đức Mẹ vậy”.
“Suỵt, bậy, hỗn nào”. Đồng tính kéo Nga vào ngực, không rời nữa, Nga xô Đồng ra
bảo: “Chúng mình đi thôi”.
Đồng cúi mở khóa
xe hỏi: “Có việc gì đấy em?” Nga nâng xe lên khỏi rãnh đáp: “Việc riêng của
em”. Gia đình An không phải là công giáo, có lẽ Nga chịu ảnh hưởng của trường học.
Cũng chẳng có gì đáng thắc mắc, mình không có thể sống cuộc đời của người khác,
dù là người yêu chăng nữa, người ta kề cận và người ta cô đơn. Đồng vịn vào tay
Nga đạp xe ngược dốc cho đỡ mệt, con đường trở vào thành phố thấy ngắn hơn.
Tình yêu này chỉ có những phút giây như hiện tại, khi buổi sáng lả dần, ánh
sáng vẫn chẳng nhoi ra khỏi vùng ngây ngất của mây, lá lăn chạy bên vệ đường và
rung vang trên các ngọn cây cao: những phút giây chia lìa, không nối tiếp, soáy
vào châu thân niềm hân hoan vô lý, như một điệu hát đựng trong trí nhớ mỗi lần
vang vọng mở ra một thế giới mịt mù. “Em theo đạo hả?” Tình yêu chỉ để lại những
giây phút mình trơ trọi với mình. Nga liếc nhìn và cười lặng lẽ không đáp. Đồng
dắt tay đưa Nga vòng theo vườn hoa con Cóc vào Bách-thảo. Trong vườn vang xa
tiếng cười của mấy cô gái quê tập xe đạp. Hàng bánh tôm bầy bàn trên cỏ, mỡ sôi
trong chảo, tiếng kéo cắt ròn tan; chú lính Bảo-Chính vừa ăn vừa trêu mấy
cô gái tập xe lảo đảo chạy ngang, bốn năm anh học trò liệng xe ngả nghiêng ăn uống
nhồm nhoàm bàn chuyện thi cử. Đồng ghé xe mua mấy điếu thuốc lá rồi đưa Nga đến
ngồi trên chiếc ghế đá khuất sau lưng một tòa nhà cũ không người ở cạnh một hồ
nước. Đồng rút mũ nồi lót chỗ ngồi cho Nga, đánh diêm hút thuốc, hơi thuốc đầu
tiên thân mật, ấm áp. Một cơn gió thổi bắn tàn lửa, Đồng ho sặc sụa, Nga đặt
bàn tay chặn lên ngực vuốt ve. Đồng ngửa cổ tựa vào ghế đá lạnh, liệng nửa điếu
thuốc còn lại xuống cỏ. Khói mỏng uốn mình bốc lên trong đám cỏ rối như một vệt
khói trong rừng xa, nếu mình là một con kiến đang bò dưới đất kia. “Anh An của
em thế nào? Lâu anh cũng không gặp” “Cậu em vận động xin cho anh ấy được miễn dịch”
“Thế hả? Anh An có biết em yêu anh không?” “Không”. “Anh ấy có biết em đi đạo
không?” “Không. Nhà em không ai biết. Nhà em không ai biết đến ai hết. Mỗi người
lo một việc. Cậu mợ em chỉ lo chạy chọt vận động để làm bộ trưởng. Có lẽ kỳ này
cậu em ra đấy. Còn anh An thì suốt ngày lang thang ở ngoài đường. Mấy ngày hôm
nay, cậu mợ em vào Sài-gòn,
ông ấy không thèm đặt chân về nhà nữa. Em cũng chẳng hiểu ông ấy muốn gì. Nhất
định không chịu đi Pháp mà ở lại đây anh ấy cũng chẳng làm cái gì. Em chán cảnh
gia đình em quá, mà em không biết phải làm thế nào…” “Thì em lo cầu nguyện cho
họ, em lo phần linh hồn cho gia đình em, phải thế không?” Đồng cười hực lên,
Nga có vẻ giận: “Anh không bao giờ nói chuyện được đứng đắn hay sao?” “Có chứ,
có chứ. Anh vẫn nói chuyện đứng đắn” Đồng ngồi thẳng lên choàng lấy vai Nga, giữ
im. Nga nhìn lên núi Nùng, mặt nghiêng chếch, làn môi rung động như gặp một cơn
lạnh. “Anh Đồng nhỉ? Anh có biết tại sao em yêu anh không?” “Vì sao? Anh chỉ biết
anh phải yêu em, không thể không yêu được”. Đồng mỉm cười, vuốt lại mái tóc của
mình. Dưới đường thấp quanh hồ nhỏ, hai anh học trò đang cúi gập mình thi xe đạp
giữa tiếng reo hò cổ võ của các bạn. “Có phải hồi xưa anh yêu cô Phương không
nào? Đừng chối, em biết. Bây giờ cô ấy ở bên Pháp, em có địa chỉ, anh muốn xin
hôm nào em ghi cho. Em có một đứa bạn thân quen với cô ấy, nó biết hết chuyện của
anh. Em không ghen đâu mà anh sợ. Anh có biết em yêu anh từ bao giờ không?” Đồng
chỉ biết dương mắt nghe. “Hôm em gặp anh trong rạp Studio. Hôm ấy em đi với con
bạn quen Phương ấy, cả rạp chỉ có ba người. Anh ngồi hạng bét và em ngồi hạng
nhất. Anh có trông thấy em không? Có lẽ em vào lúc đèn tắt nên anh tưởng anh chỉ
có một mình xem một phim. Anh khoái chí cười rũ rượi một mình trong khi phim thật
cảm động. Con bạn em nó tức anh ghê, bảo anh điên. Nhưng em, em hiểu là anh cô
độc, anh giống em và em yêu anh… Đâu anh cười một mình em nghe xem nào”. Đồng
cười hinh hích vài tiếng nhưng sau đó tiếng cười chết đi một cách lặng lẽ.
“Anh đâu có biết. Em xin lỗi cô bạn em hộ anh”. Nga cười theo, rung động cả hai
vai, ngả vào cổ Đồng, Đồng đưa ngón tay trỏ vẽ quanh viền môi Nga: “Em thông
minh rồi em sẽ khổ”. Nga thì thầm: “Em chỉ muốn anh hiểu em. Em cũng vậy. Em sống
trong gia đình thấy mình lạc lõng. Em thấy em phải có cái gì để tin tưởng mới sống
được. Em thấy hình như anh không cần em bằng em cần anh. Nhiều lúc em muốn bỏ
đi tu quên hết… nhưng em thấy còn yêu anh”. Đồng nghiêng đầu, nghe hơi thở đều
đặn của Nga như hơi gió thổi trên đồng xa, rút thuốc châm hút; khói thuốc bay vờn
trên mặt Nga, khiến Nga phải nhắm mắt, như một tấm màn sương mỏng. Đồng không
tìm ra chuyện gì để nói, buổi sáng đứng im như sẽ còn mãi. “Đừng đi tu, dại lắm”.
Nga lắc đầu, cười khẽ: “Nhưng em biết chắc rằng chỉ có Thượng-đế là không dời đổi, là
có thể tin hoàn toàn được. Còn anh em nghĩ rằng anh không cần em. Em là thừa…”
Đồng beo má Nga: “Chưa chắc…” “Lúc nãy là em vào thăm cha đỡ đầu của em. Có lẽ
tuần sau em sẽ rửa tội”. “Buồn quá hả? Cũng chẳng sao, vừa yêu Chúa vừa yêu anh
cũng chẳng sao”. Đồng hôn phớt lên mắt Nga, rồi bỗng nghe mình mệt lả, Nga hé mắt.
Đồng quay mặt đi, trong tầm mắt vườn Bách-thảo chỉ còn một màu xanh lúc thẫm lúc nhạt,
không một bóng người.
“Thôi về chứ em”.
Đồng đỡ Nga đứng lên, nhặt cái mũ nồi phủi sạch, nắn lại hình và chụp lên đầu.
Nga nhăn mặt ra dấu bảo cất đi, Đồng lắc đầu: “Không sao, không sao”. Đồng dắt
xe đạp, đi bộ đưa Nga ra tới cửa vườn. “Một bữa nào mình phải đi xem ở Studio hả
Nga”. Cuộc tình chưa lâu đã muốn thành một kỷ niệm, Nga gật đầu: “Bữa nào?” Đồng
đứng ngây nhìn Nga đạp xe một mình vào con đường Cửa Bắc, cây rậm tối. Buổi
sáng cũng chưa hết.
✳
Cánh cổng sắt kêu
rít khô lạnh mở vào một sân gạch vuông trước một căn buồng thấp bé tối tăm chỉ
có một cửa sổ nhỏ với chấn song gỗ, ở đó hiện một khuôn mặt thanh niên thiếu
máu đang ngồi đọc sách ngửng lên vì tiếng động, cặp mắt dò hỏi tra xét lạnh
lùng; bên trái căn buồng tòa nhà chính hai tầng ở đó im lặng bất thường, bên phải
là cầu tiểu chung ngăn cách sân bởi một bức tường phụ thấp và cánh cửa gỗ. Cái
kẹt ngách giữa tòa nhà chính và căn buồng thiếu ánh sáng làm lối đi vòng vào
sau, cạnh tường dựng hai ba chiếc xe đạp và trong góc tối nhất, chỗ phình rộng,
đặt một cái trạn bát. Bước hai bực thềm lên hành lang sáng chạy song song với
cái sân dài hẹp méo mó dưới thấp tới cầu thang chỉ lộ mươi bực trước khi rẽ ngoặt,
tiếng kèn hát đột ngột vang lên một khúc tango cổ điển.
An vén tấm màn dạ
đỏ bước vào phòng, nhiệt độ thấp hẳn xuống, đứng im một chỗ gần lối vào cho mắt
quen với ánh đèn tỏ mờ mờ ở các góc, cửa sổ đều đóng kín. Một người đàn bà vào
sau, hé nhanh một chút ánh sáng bên ngoài, đi qua mặt thoảng phất mùi nước hoa,
tiến theo mép tường vào bóng tối nơi phát ra âm nhạc. Bốn đôi đang nhảy, tiếng
chân lệt sệt lê trên sàn đá hoa rắc bột trơn lẫn với tiếng đếm một hai ba bốn đều
đặn của một đôi quanh quẩn ở giữa phòng, ba đôi kia im lặng thẳng cứng. Trong
quãng im giữa hai đĩa nhạc, các đôi rời tay đứng ngây như những bóng ma chờ đợi,
tên chủ nhà dạy khiêu vũ tập tễnh đi về phía bàn thấp đặt máy hát lom khom thay
đĩa. Khúc nhạc cũ trở lại, tiếng phong cầm nhún nhảy, ba đôi kia lại tiến tới
giáp mặt nhau để trơ một người đàn bà đứng xuôi tay ngơ ngác quay mặt về phía
kèn hát. Tên giáo sư khiêu vũ lần này dìu người đàn ba đi xung quanh phòng, những
bước dài hơn, tới chỗ An đứng, dừng lại nói: “Toi dắt giùm moi
vài bước, moi ra ngoài.”
Người đàn bà có lẽ lần đầu tiên nhảy với một người lạ, cảm động hồi hộp, bàn
tay đặt sau lưng An bất định, bàn tay nắm cứng và run lạnh, hơi thở rõ như khoảng
cách cưỡng chống. Thứ giống cái muôn đời, quanh co và điệu hãnh. Tên giáo sư đứng
nghỉ ở chỗ An, châm thuốc hút trước khi ra khỏi phòng; hắn chậm chạp tập tễnh,
lê chiếc chân ngắn đi trong hành lang, trong kẹt ngách, ngang qua sân trước cặp
mắt của người thanh niên đọc sách, có lẽ đang bực dọc vì không khí ngưng đọng của
buổi trưa mùa thu, đẩy cánh cửa gỗ vào nhà cầu; hắn bại thận, mỗi ngày hằng chục
bận hắn phải đi qua sân trong bộ quần áo chải chuốt với dáng bệnh tật đáng
thương và anh chàng thanh niên chăm chỉ kia nhìn những người ra vào lui tới qua
lại trước mắt, trong ấy có cả mình, cũng thuộc loại thừa thãi như hắn. Người
đàn bà vụng về lúng túng, bước khó khăn, không tuân theo kịp sự dẫn dắt, nhiều
lúc xô chạm vào người khác. An nhìn thẳng trên mái tóc của người cặp đôi, không
muốn trông mặt e người đàn bà ngượng ngùng; men theo vách tường trên dãy ghế đẩu
đã thêm nhiều người, mỗi người ngồi thu kín cách biệt như những vệt bóng tối xẫm
hơn trao đổi những câu nói như những tiếng động lỡ làng. Vào những nhịp cuối của
bản nhạc, bước của người đàn bà đã thuần thục, An vẫn không nỡ nhìn mặt người cặp
đôi và biết nàng đang ngửa mặt ngó mình; lỡ cúi xuống mà nhìn thấy Nga thì sao?
Hết bài, An buông người đàn bà và lúc ấy mới trông vào vẻ mặt mờ ảo không rõ rệt
của nàng, nói: Cô nhảy đã khá. Người đàn bà không đáp, lẳng lặng đi vào trong tối
trên ghế ngồi, quơ tay mò cái túi để dưới chân ghế, rút khăn tay chấm chấm mồ hồi
trán. An cũng ngồi xuống ghế bên cạnh, châm thuốc hút, nhìn cảnh tượng diễn trước
mắt đang bắt đầu náo động hơn. Gian phòng mỗi lúc thêm kín mít, đông đảo, thêm
nhiều tiếng chuyện trò và khói thuốc. An nghe người đàn bà nói: “Tôi chưa dám
nhảy điệu này, chỉ sợ chóng mặt ngã mất”. An chưa kịp trả lời đã nghe phía sau
tiếng kêu mừng rỡ đầy vẻ kịch quen quen: “A, Phúc. Phải Phúc không? Em cũng tới
đây nữa à?” Người đàn bà bối rối như muốn lẩn tránh nhưng người đàn ông đã lách
mau tới, đụng mạnh vào chân An, như sắp sửa ôm lấy người đàn bà. An nhận ra
Lân, đứa bạn học cũ đã trở thành dân “áp-phe” trong thành phố, chạy động viên bằng cách
vào làm trong Quân nhu Pháp và chuyên môn về các vụ thầu với quân đội viễn
chinh, An quay mặt chỗ khác. Lân có vẻ biết nhiều về người đàn bà, xử dụng ngôn
ngữ khá sỗ sàng với nàng và kéo nàng vào một nhịp paso nhộn nhịp; người
đàn bà luống cuống bước hỗn loạn, mấy lần trượt chân loạng choạng, Lân cười thô
lỗ thành tiếng. An ghé mời một cô gái đã quen, vẫn thường gặp ở chỗ tập này, có
lẽ sau khi học xong một lớp cô được mượn luôn làm nhân viên phụ lực của phòng
nhảy, được luyện tập tha hồ, đợi dịp bay nhảy, vừa có dịp tiếp xúc với các tai
to mặt lớn. Ngoài Lân ra, An còn nhập được hai ba mặt quen: một tên bạn học
đang tập sự luật sư, chắc sửa soạn tấp tểnh xin gia nhập xã hội thượng lưu, một
người đàn bà cùng phố, biệt thự xế cửa, vợ một cựu tri huyện hiện là công chức
cao cấp phủ Thủ-hiến…
Người đàn bà, thường khoe thân thể trên ban công trong bộ quần áo ngủ mỏng những
đêm mùa hè, An nằm trên giường trong phòng riêng có thể nhìn thấy nửa phần, nhảy
một cách du dương nhập điệu, mặt mơ màng bay biến hết tinh thần, người đàn bà
chỉ còn lại một thể chất uyển chuyển kiêu kỳ. An nghĩ: cái xã hội ấy còn để lại
những người đàn bà… những người đàn bà như là sản phẩm tinh hoa…
Chiếc kèn hát nghỉ
vài phút. Lân bắt gặp An trong hỗn độn nồng nực hiện nguyên hình của một cái hộp
kín đã tắt mất âm điệu mê hoặc. Hắn huyên thuyên giới thiệu An và Phúc, kéo An
ra khỏi căn buồng. Trời sáng bên ngoài cũng không thoáng sáng hơn trong buồng,
màu giấy xám nhạt. Dãy nhà bên đường đều cửa đóng. Người thanh niên mặc chiếc
sơ-mi
rách, đã rời bàn làm việc, đứng tựa ở cổng nhìn cái ngõ vắng vẻ gần chiều.
– Lâu ghê mình
không gặp nhau nhỉ? Tôi cứ định tìm anh mà không biết anh đi chơi lối nào. Anh
hay đến đây hả? Chỗ này cũng được, nhưng chưa hay lắm… Bữa nào chúng mình đi
chơi với nhau một bữa. Tôi biết một chỗ… khá hơn. Les filles… formidables.
Hay chiều tối nay anh rỗi không? Hẹn nhau ở đâu đi… Có quen em Phúc lúc nãy
không? Em… Anh có thích không? Trông em như mệnh phụ vậy mà… một bò thôi.
Ngoan, biết chiều chuộng, giàu tình cảm. Nhất là nếu anh thích lãng mạn, có thể…
gratuit. Mình đi ra đầu phố uống cà-phê rồi trở lại. Đi. Cà-phê chỗ này cũng không dở…
Từ trong buồng nhảy
vẳng ra một điệu cải cách, thê lương và rét mướt, theo đuổi tới tận ngã ba phố.
An nghĩ: không hiểu hắn muốn gì? Cái nơ đỏ chấm đen thắt trên cái cổ gầy của
Lân, cúc măng-sét
vàng ánh, đôi môi vều thô kệch, đôi giầy hai màu mũi nhọn.
– Hai “phin” đặc biệt. Những buổi như
hôm nay mà được cốc cà-phê
ngon nghĩ cũng sướng. Nhớ hồi xưa đi học, cứ phải ăn cắp tiền mà đi thuê truyện
đọc mà buồn cười. Vô tư thật, chẳng phải lo cái quái gì. Bây giờ lắm lúc muốn
được sống như thế mà không được. Anh có bị gọi không?… À, mà anh thì lo gì, còn
ông cụ… Nghe đâu ông cụ kỳ này ra. Nói thật chứ, ông cụ làm chắc chắn là phải
hơn… cái bọn… Thời này được người như ông cụ hiếm lắm. Tôi nói thật đấy… Không
phải vì quen anh đâu… Bà cụ vẫn mạnh hả? Hôm nọ tôi gặp bà cụ ở Tràng-tiền, bà cụ trẻ dai ghê.
Bà cụ không nhớ ra tôi, tôi phải nhắc mãi. Cô Nga vẫn đi học Félix Faure? Anh
là sướng nhất thấy mà thèm. Chỉ như tôi, tự lực cánh sinh quá mệt. Bây giờ tôi
cố gắng kiếm ít tiền, gây lấy cơ sở rồi tìm công việc nhàn hạ cho đỡ mệt. Cứ cả
ngày lo tiền thấy cũng bần… phải không anh? Thấy các anh sống một cách lý tưởng
cũng thẹn chứ… Nhưng các anh lý tưởng chứ tôi mà lý tưởng thì chết không kịp
ngáp.
Lân từ tốn nâng
hai cái phin ra khỏi tách, trịnh trọng rót nước nóng từ phích vào và đưa cho
An. Quả tình mình bị buộc chặt vào ông bố, trước mắt mọi người tôi không là An,
tôi là con ông bác sĩ Phát, chính khách quốc gia. Không ai nhìn thấy tôi, trừ bạn
bè, nhưng… Lân cũng là một thứ bạn, hắn nhận và mình cũng nhận.
– Anh thấy không…
cái mùi bơ của nó dậy đấy chứ… Tuy không bằng Nhân nhưng không đến nỗi dở quá…
Tối nay mình đi chơi với nhau chứ. Hẹn ở đâu nào? Nghĩ ngợi gì… Hẹn ở đâu? Anh
có việc gì bận lắm đâu. Nếu thích mình đến rủ em Phúc cùng đi. Sau bữa cơm đi.
Nếu tôi không bận hẹn trước một “áp-phe” thì tôi tính mời anh đi
ăn cơ đấy. Mình hẹn nhau ở Phúc Châu nhá. Tối nay hơi lạnh, uống ấm trà Long Tỉnh
cũng hay. Rồi mình sẽ cùng xuống Phúc. Phúc được lắm, anh có thể… Anh nghe tình
hình thế nào? Liệu rồi đi đến đâu, có thể quốc tế hóa không? Quốc tế hóa cũng
hay. Chứ sống với mấy ông Vẹm, ăn khoai lang, đi dân công thì thật là chết. Làm
thế nào mà có thì giờ uống cà-phê
như thế này… Tiểu tư sản sướng chứ. Vô sản mê thì có mê nhưng không nuốt trôi…
Lân móc hộp thuốc
ba con 5 mời, châm lửa cho An. An nhả khói, lơ đãng nhìn những người qua lại
ngoài hè. Đường phố nắng lim dim. Dường như đâu xa trong mình thấp thoáng mọc
lên một ý tưởng, chưa lộ hình rõ và những nhịp thúc đẩy vỗ về khởi động.
– … Làm sao có thuốc
thơm như thế này mà hút. Hương vị 555 anh có thấy vừa hơn Lucky không? Cà-phê đã đậm mà hút Lucky
cũng đậm nên cả hai vị khắc nhau… 555 mới làm nổi vị cà-phê hả… Cotab cũng được,
đối với thuốc lá của mình là nhất đấy… Ngoài hậu phương có được điếu Cotab đã
quá sang… Tư sản rõ ràng… không chối cãi… Bây giờ mà du di cái khung cảnh này
ra hậu phương thì mình là tiên… Phản động không chối cãi… Nói gì thì nói… nghĩ
cho cùng con người ta tranh đấu để làm gì? Cũng chỉ là ăn ngon, mặc đẹp, nhàn hạ…
Cứ trường kỳ gian khổ đời này sang đời khác chịu thế nào nổi… Phải không anh?
An mỉm cười, tôi bị
vây hãm hoàn toàn. Có một lối thoát thân nào chăng? Mù mịt như là bị bưng kín mắt,
những khi đối diện với chúng bạn ít nhất còn thấy sự bế tắc như một nhịp vận động
chưa tới đích, còn nhìn rõ nhưng khi đối diện với cảnh ngộ mình thì như trước một
bức tường hủi loang lở. Lân trả tiền, mời đứng dậy. Bờ hè thoải dốc, dẫn trở lại
ngõ Hội-vũ
êm tĩnh với dãy nhà vẫn giấu kín sinh hoạt riêng tư. Người thanh niên không còn
đứng ngoài cổng, hắn tự nhốt mình trong buồng hẹp sau bàn viết, cặp mắt mở lớn
nhìn lên theo đuổi tâm tư. Lại nghe nổi một khúc tango, La Cumparsita.
✳
Cảnh trả hai đồng,
cầm lấy ba điếu thuốc lẻ, mượn diêm đốt. Đồng hay riễu: “Cậu hút thuốc phí của
giời… Chưa hút vào đã nhả khói ra khỏi miệng… Phải gọi là đốt thuốc, trông sốt
cả ruột. Không biết hút thì để cho mấy thằng nghiện này hút…” Bên hè đường,
ngang nhà Khai Trí Tiến Đức, một vài người dừng xe đạp nghe tin tức và âm nhạc
buổi chiều trỗi từ loa phóng thanh. Trọng không biết hút thuốc, anh dương cặp mắt
cận thị sau cặp kính vừa đi vừa nhìn vào miệng ngậm thuốc khiến Cảnh mất tự
nhiên. Hai điếu thuốc thừa vẫn cầm trên tay, Cảnh đưa mời:
– Anh hút không?…
cho ấm…
Trọng lắc đầu,
quay mặt đi, sửa lại cặp kính, nhấc xuống rút khăn lau rồi lại đeo lên. Cảnh
nhét hai điếu thuốc vào túi quần, nếu Đồng gặp mua thuốc hắn sẽ cười hố lên chế
nhạo. Bên kia bờ hồ, mạn nhà bưu điện, vườn hoa, tòa thị chính, đông đúc hơn.
– Bao giờ thì cậu
xuống được?
– Đầu tháng.
– Nếu chẳng có việc
gì quan trọng thì cậu xuống dưới nằm cho yên thân.
Trọng nhìn Cảnh hỏi
han. Cảnh đút hai tay vào sâu túi quần co rút vai lên cao, tôi sẽ bỏ đi chưa biết
ngày nào và tôi không thể nói cho anh hay. Phản phúc, thằng Cảnh phản phúc, Trọng
sẽ nói như đã buộc tội Hòa lúc nãy. Cảnh không nỡ bảo Trọng: “Chúng ta không
làm được gì hết… không làm được gì hết đâu”. Nhưng chính mình một buổi tối, sau
khi thư viện đóng cửa đi bộ với Thạch quanh Bờ Hồ đã nói: Muốn làm nên việc gì,
không thể đơn thân, phải có anh em; tôi sống được ở Hà-nội, đi học được khỏi lo
lắng một phần là nhờ sự giúp đỡ của một số anh em khác, họ đi dạy học, gửi tiền
hàng tháng trợ cấp cho tôi; chúng tôi luân phiên nhau, tôi học xong đến lượt
người khác… Tôi thất vọng. “Nó trả ơn tôi như thế đó. Thật là xấu hổ, xấu hổ”.
Cảnh liếc Trọng, anh có những cử động bứt rứt nóng nảy, có lẽ anh không hài
lòng về thái độ hững hờ thiếu sốt sắng của tôi về việc xảy ra giữa anh và Hòa.
Tôi thất vọng, tôi có lý.
– Cậu nghĩ tôi học
Văn khoa có nên không?
– Cũng được… nhưng
tôi thấy cũng chẳng bổ ích gì lắm.
– Học lâu tôi
không có kiên nhẫn. Khoa học thì tôi không có khả năng như cậu. Rốt cuộc chỉ có
Văn-khoa
là tiện. Thì giờ rảnh rỗi mình học thêm. Cậu nghĩ thế nào? Với tôi cũng cần ở Hà-nội
ít nhất một năm, cậu xuống dưới thay tôi…
Cảnh dừng lại trước
một tủ kính bầy tranh và tách ở góc phố, Trọng mải đọc tên sách bỏ quên câu
chuyện dở dang. Chắc chắn là phải đi không thể dùng dằng. Trước sau cũng thế,
không thể khác hơn được… Sự kết hợp giữa mình và Trọng thuần tình cảm, chẳng có
nghĩa lý gì. Ý nghĩa lịch sử không thể tìm thấy bằng tình cảm. Sự xích mích giữa
Hòa và Trọng phơi trần sự giả tạo của sự tập hợp. Sẽ nói cho Trọng hiểu trước
khi chắc chắn ngày lên đường. Cách vài hôm trước, Hòa cũng có lên gặp Cảnh và
cũng đã nói: Tôi thuê nhà riêng không thể ở chung được nữa, hèn hạ đến độ ấy,
không thể sống chung với nhau được; anh phải nhớ chúng ta không phải một Đảng
mà có là Đảng nữa thì chỉ có Đảng Cộng-sản mới xâm phạm đến tự do cá nhân như thế
mà thôi, chúng ta chỉ mới ước hẹn và chúng ta chưa hành động gì hết… Hết, hết,
đúng, không có gì hết.
– Có phải ông Đức ở
khu Tư mới trốn ra không? Cậu đã gặp chưa?
– Tôi cũng có
nghe. Chưa được gặp.
– Để tôi hỏi thăm.
Chúng mình đến nói chuyện chơi xem có gì lạ.
Cảnh sờ hai điếu
thuốc đã nhầu cong trong túi quần và nghĩ thương hại Trọng. Anh vẫn ngây thơ chất
phác như ngày nào, theo đuổi ảo mộng, như ngày nào tháng tám anh cầm đầu dân
làng đi thuyền lên tỉnh để cướp chính quyền; đến tối đoàn thuyền trở về dong đuốc
như sao trên một vùng nước lụt mênh mông không thấy đất trời và anh đứng đầu cầm
cây súng cướp được như vị anh hùng… Cái giấc mộng Trốt-kýt của anh thật tội
nghiệp, không quần chúng anh hùng hóa thành hề múa rối. Không hút thuốc, không
cờ bạc, không rượu chè, không vợ con, khắc khổ hơn cả nhà tu. Để làm gì? Mái
tóc Trọng rũ xuống bên trán, trông anh cô độc hoàn toàn, mỗi lần anh cười nhếch
môi, mắt anh bé lại như biến mất đi, mặt nhăn nhó chẳng khác gì mếu.
– Mình nghĩ cũng
buồn. Anh em có mấy người mà chia rẽ còn trông mong làm được gì. Chuyện không xứng
đáng… cậu nghĩ xem. Không xứng đáng. Tôi xấu hổ lắm. Thế chẳng hóa ra là mình
là những tên dụ dỗ bọn học trò con gái để… Tôi cũng quý Thư… đứa con gái như nó
thật hiếm có… Trong cả bọn nữ sinh lui tới, chỉ có Thư là đặc biệt… Vậy mà Hòa
nó làm… không còn mặt mũi nào mà nhìn người khác nữa… người ta đánh giá bọn
mình thế nào, cậu nghĩ xem? Khốn nạn… phản phúc… cậu xem nó mở miệng nói là tôi
ghen với nó… Tôi ghen với nó, học trò mến phục nó và tôi ghen với nó, nó nói
như thế trước mặt mọi người giữa phòng giáo sư. Nó dọn đi ở chỗ khác rồi và chắc
là nó phải lấy… Lấy vợ… rồi nó hết, không trông đợi được gì hơn… Cậu biết là
tôi chỉ trông mong vào các cậu… tôi tình nguyện dạy như con trâu là để giúp đỡ
các cậu… trông vào cái lý tưởng chung. Nó làm như thế là nó phá hoại tình anh
em, phá hoại cái mục đích chung… Bây giờ nó nghĩ nó có thể sống được một mình
và nó bất cần ai… Hèn, như thế là hèn…
Tiếng nói của Trọng
lẫn giữa tiếng máy kem chạy sình sình. Bàn ghế thấp sơn màu xanh. Trên tường, ảnh
một ngôi nhà gỗ mái phủ tuyết trắng, chênh vênh trên một sườn đồi vắng, lồng
trong khung kính. Người thiếu nữ ngồi sau quầy thu tiền gõ gõ chiếc bút chì buộc
vào một sợi giây. Khu chợ Hôm náo nhiệt. Đi hết con phố chính này chuyến tàu điện
chạy ra đến chợ Bưởi, Cảnh nhớ đến ngôi chùa thanh vắng năm mới hồi cư đã ở nhờ
trọ học. Có nên nói ý định với Trọng không? Không nên để anh tin tưởng quá nhiều.
Phản phúc, phản phúc. Anh sẽ thất vọng tới độ nào. Câu chuyện tan vỡ trước sau
phải tới, mọi sự xảy ra chỉ là những dịp thuận tiện… Người ra không thể kết hợp
với nhau bằng một giấc mộng trừ khi cùng mê sảng.
– Cứ như tình trạng
anh với Hòa, tôi xuống dưới ấy cũng…
– Còn Đăng chứ. Cậu
cứ hỏi Đăng sẽ rõ hết. Cậu ở với Đăng được mà. Thật ra nếu không có chuyện này
tôi định cố năm nữa để cậu học cho xong chứng chỉ cuối. Bây giờ… thì cậu chịu
khó thay tôi…
– Tôi có thể kiếm
được việc ở trên này, anh khỏi lo.
– Vấn đề không phải
là tiền… Còn vấn đề gây dựng cơ sở, Hà-nội không phải chỗ hoạt động, cần có quần
chúng và nên về nơi có quần chúng thật sự… Cậu nghĩ xem?
Một đám con gái diễu
qua ngoài hè khoe quần áo mới và những tiếng cười nói ríu rít, có lẽ vừa từ một
rạp chiếu bóng ra. Mấy năm về Hà-nội, Cảnh chỉ bước vào rạp ciné vài ba lần
cùng bọn Đồng.
– Một hai năm nữa
là cùng, tình hình sẽ thay đổi. Chỉ sợ lúc ấy mình theo không kịp… không thể
nào mãi như thế này được đâu… Chiến tranh rồi phải dứt như ở Cao-ly vậy… lúc ấy
cái chỗ đứng của mình lại càng khó khăn gấp bội.
Tôi đã thay đổi,
tôi đã quyết định. Không thể đứng trong hàng ngũ này, cũng không thể đứng trong
chân không. Tôi phải chọn cái tối thiểu. Tôi không nhiều sức mơ mộng như anh.
Hơn nữa tôi cần kinh nghiệm, sau có thể tính lại, phải, kinh nghiệm, tôi hãy
còn trẻ. Phải gột cái óc lãnh tụ tiểu tư sản, anh hiểu thế không? Thạch không
có cái óc ấy… nhưng… hắn anarchiste, anarchiste. Đêm nay mình sẽ phải
thanh toán vấn đề với anh.
– Tối nay anh có về
ngủ không?
– Có lẽ muộn. Tôi
phải đi thăm mấy người…
– Ai?
– Mấy chỗ quen mới
hồi cư – Chắc là họ sẽ biết ông Đức ở đâu.
Cái ngã tư sáng ra
hơn vì hàng cây đứt quãng để hở một khoảng trời. Cách đó trăm thước là ngõ hẻm
nhà Hương. Cuối con đường là bức tường ga hàng Cỏ, sát hè trước ngõ một chiếc
xe nhà binh bỏ không; “anh cứ thong thả, chỉ sợ đến ngày anh lại duỗi ra thì
tôi ê mặt… hay được vài tháng không chịu nổi kham khổ lại tếch về…” Hương có bộ
mặt gái già khô khan lạnh nhạt, ngồi giữa những đồ vật cũ kỹ đen bóng, “không
phải tôi đâu, tôi sẽ giới thiệu hộ anh một cô bạn… cô ấy sẽ bắt liên lạc cho
anh…” Ngõ đất vắng, trải lá rụng, nhà Hương khuất ở cuối dãy. Tôi sẽ đến nơi
nào? Không biết. Trọng rút khăn tay hỉ mũi:
– Mình đi kiếm cái
gì ăn rồi tôi đi… Tối cậu để cửa cho tôi.
✳
Trong bồn thủy
tinh, những con cá vàng bơi lội lượn lời giữa những cụm rêu buông xòe, đuôi và
vây giương thẳng, những con mắt trương lồi, sau cái bồn thập thò một mái tóc Nhật-bản
của một đứa bé gái ngồi chung quầy với mẹ thu tiền. Ồn ào như một khu chợ. Trên
các mặt bàn, la liệt các loại đĩa bánh, ấm tách. Cách một bức tường có khoét một
vòng nguyệt và một khung cửa nhỏ thứ hai để đặt quầy thu tiền, phòng trong cũng
chật ních, người ta ngồi thấp đấu lưng với nhau. Ngoài cửa, một vùng sáng nê-ông
của hiệu cắt một khoảng của cái ngõ khai ẩm quanh năm, hai đầu đều vang nhịp trống
của rạp hát mời gọi, tiếng ó é rọ rẹ thỉnh thoảng rít lên thật sắc của những
chiếc loa quảng cáo trộn lẫn. Phía sau lưng bàn tán chuyện động viên, các tuy-ô
chạy chọt, ông bác sĩ phụ trách khám sức khỏe có hàng hộp vàng gửi ở ngân hàng,
biện pháp mạnh: xe cảnh sát đón bắt thanh niên tại các cửa rạp chiếu bóng, tại
các ngã tư chính; kết luận: không nên đi chơi tối và cần phải tinh mắt để tìm
đường mà lẩn. Một thanh niên cười vang đắc ý khoe cái thành tích đã chạy thoát
khỏi một cuộc săn đuổi của cảnh sát trong khu vực rạp Ciro’s, leo tường
vào một nhà Tây và phải năn nỉ mãi thằng Tây mới để cho đi không gọi cảnh binh
đến, “hắn tưởng mình là ăn trộm”.
Lân vừa lách mình
qua các hàng lưng người vừa giơ tay vẫy, miệng cười nhăn nhở, hắn mặc thêm một
chiếc áo vét-tông cài cúc chéo; lấy khăn tay phủi ghế, khi ngồi xuống đùi khép
thẳng và kéo cao ống quần lên giữ nếp, đôi bí tất đen đỏ đan lẫn.
– Anh chờ tôi lâu
không?… Xin lỗi… Thằng cha nói chuyện cà kê dê ngỗng khiếp… Anh chưa gọi gì hả?
Cái bỏng này tuyệt lắm nhé… Anh có biết thằng Tình không nhỉ? Tình con cụ Phán
Chấn, anh rể thằng Long làm ở phủ Thủ-hiến ấy… Tôi vừa đi với nó xong đấy. Nó vừa
tậu cái ô-tô khá ra phết… May ghê, tôi chưa thấy ai gặp may như nó. Năm ngoái
nó mới về, vậy mà mới một năm nó đã thành Thổ-công Hà-nội. Nó làm tiền cũng giỏi,
tôi phục nó… Anh có biết thằng Lý học thuốc không nhỉ? Thằng ấy cũng là cây làm
tiền. Ít người được như anh. Thời này hiếm có người được như anh…
An nhai nghiền ngẫm
miếng bỏng mật dẻo và tự hỏi tại sao mình cứ chịu đựng được những câu chuyện vô
vị, chướng tai mà không nổi giận báng bổ như Thạch. Tại sao mình vẫn cứ ngồi
giáp mặt với những điều mình ghét bỏ, khinh khi? Không dứt được chăng?
– … Tôi nghĩ dù lý
tưởng thế nào cũng phải có tiền. Muốn làm gì cũng phải có tiền. Anh đừng nên lý
tưởng quá. Kỳ này có tin chắc chắn ông cụ ra. Anh nên nhân cơ hội làm một vài
áp-phe.
Có tiền anh mới làm được việc theo ý thích của anh. Tôi sẽ làm chân chạy mối
cho anh. Anh nghĩ sao? Anh nhớ rằng anh không làm thằng khác nó cũng làm. Tiền
vào anh còn có ích hơn người khác vì anh không ham tiền. Tôi đã nói với anh mục
đích của tôi cốt làm tiền để dựng cơ sở để làm việc cho nhàn nhã… Anh nghĩ lại
xem? Tôi không dám khuyên anh làm bậy đâu. Ngay chính tôi, tôi cũng chẳng bao
giờ dám làm tiền một cách vô nhân đạo, vô liêm sỉ đâu. Ít nhất mình cũng phải
giữ một chút nữa… Anh yên chí, tôi sẽ đề nghị với anh những “áp-phe” dễ dàng, hợp lý, hợp
pháp. Tôi không hại anh đâu, tôi muốn giúp anh…
An chỉ đáp: Để xem
đã, tôi có biết mô tê mù tịt gì. Nói xong An giận mình vô kể, đáng lý tôi phải
nói: im đi, câm cái miệng lại, tôi không ngửi được câu chuyện của anh, hoặc xô
ghế đứng lên bỏ ra ngoài. Nhưng tôi sẽ đi đâu tối nay? Trở về nhà, nhốt mình
vào phòng riêng đọc sách. Xách xe chạy lên nhà Cảnh để nhìn bộ mặt lầm lì khó
chịu của nó, không có Đồng và Thạch tôi không biết nói chuyện gì với Cảnh. Lần
mò xuống nhà Đồng, đi qua những đường hoang vắng khuya khoắt những quán rượu
ngoại ô ầm ĩ với bọn lính say lảo đảo nghiêng ngả giữa đường, để ngồi im giữa
vùng tĩnh mịch của làng xóm, trong gian nhà rộng thiếu sinh khí. An nghe mặt
mình đỏ dần vì sự hổ thẹn cháy ngầm lan chậm.
– … Bây giờ chúng
mình đi… Anh có đồng ý xuống em Phúc không nào. Hơi xa cơ đấy. Kiếm xe đi mới
được…
An nằm duỗi dài
trên chiếc xích-lô
dập dềnh, ngước nhìn những đám lá tối, dấu cách quãng những bóng điện thành phố,
trôi giữa những phố lúc rộng lúc hẹp im vắng dần dần. Một giấc cafard
dài, dưới bầu trời như đen đặc lại vì lạnh. Bước xuống xe, An đứng ở gần cuối một
con phố ngắn rộng nhưng không lót nhựa đằng sau nhà Rượu trước một vòm cổng lớn
tối. Qua khỏi vòm cổng không có ánh sáng nhưng cũng có thể biết là rác rưởi, An
lạc vào một thế giới kỳ lạ. Một cái sân rất rộng với hồ nước nằm giữa bao la mặt
bằng hai tầng dãy buồng cái sáng cái tối, nhiều người đang giặt giũ giữa sân.
Ít nhất phải cả trăm gia đình tá túc trong ngôi nhà rộng, kiến trúc đặc biệt
này. Tầng gác có hai cầu thang chung đặt ở hai góc, một bao lơn nhỏ hẹp chạy suốt
với hàng lan can sắt nhiều chỗ ngả nghiêng chênh vênh như sắp đổ. Cầu thang ẩm,
khai nồng, gian buồng của Phúc ngay đầu cầu thang bước lên. Phúc đang ngồi nói
chuyện với một người đàn bà khác, trên lòng ôm một đứa con trai chừng hai ba tuổi
và có vẻ ngượng nghịu khi nhận ra An. Lân ngó khắp buồng như tìm tòi một vật gì
và hỏi Phúc bằng giọng thân mật bông lơn, nhìn mặt Phúc An thấy rõ vẻ miễn cưỡng
khi đối đáp. Người đàn bà rút lui, Phúc cũng đứng lên bồng đứa con trai đi ra
ngoài bỏ mặc hai người đàn ông trong buồng. Lân đứng chống nạnh nhìn ngang ngửa
bảo:
– Anh ngồi xuống
đi đứng làm gì cho mỏi chân. Thế nào? Anh có thích không? Đừng làm khách, tôi
quen thuộc quá rồi. Cứ yên tâm, tôi lo liệu cho cả… Hả. Bằng lòng không?
Phúc trở vào một
mình nói: hai anh ngồi chơi, đi vào sau tấm màn, hình như nàng chải tóc. Lân
thì thào:
– Thế nào? Anh quyết
định thế nào? Yên chí, tôi sau. Có món khác rồi. Phúc ơi, ra đây ngồi chơi. Anh
giới thiệu bạn anh: anh An, luật sư tương lai đấy. Tiếp bạn anh cho cẩn thận,
anh ấy mà chê là em hỏng kiểu. Nghe không? Ai lúc nãy đấy? Xong giới thiệu anh
được không?
Phúc đã qua cơn bối
rối lúc đầu, nhíu mày:
– Đừng nhảm, ông.
Người ta đã có chồng đàng hoàng…
– Ai dám bảo các
bà không có chồng đàng hoàng đâu… Đừng đổ tiếng ác cho người ta. Người ta chỉ
xin giao thiệp chốc lát…
An nhìn chăm chú bức
ảnh 18 × 24 của Phúc treo trên tường chụp ít nhất cũng đã cách vài ba năm. Phúc
bây giờ trông thuần và chín hơn, vào lúc tuổi không thể xác định được.
– Anh qua bên bà cụ
nằm chơi…
– Cô cứ đầu độc
tôi mãi, có ngày tôi nghiện thật là chết tôi. Anh ở đây nhé, tôi qua bên cạnh…
Hay có thích thử vài điếu cho biết mùi đời không? – Lân ghé sát tai – Trông cái
mặt ông ngẩn ngơ như mất hồn, coi chừng ông bị em chài chết.
Phúc đưa Lân ra cửa,
Lân thì thào với Phúc vài câu trước khi cất tiếng cười bỏ đi, Phúc khóa cửa lại.
An vẫn ngồi im trên ghế từ lúc vào. Phúc liếc nhìn vào mặt An rồi đi thẳng vào
trong, đây đâu phải lần đầu giao tiếp với đàn bà tại sao lặng thinh buồn bã một
cách kỳ quặc. Sự nín lặng khó thở làm nghe rõ những tiếng rào rào dưới sân và
trong khắp khu nhà rộng, tiếng động sau tấm màn hoa dầy. Cái bóng đèn treo trên
đầu An tắt và An ngồi trong bóng mờ được soi bởi một ngọn đèn ngủ nhỏ ở sau
màn. Phúc đi ra, đôi dép cao su lê nhẹ, vẫn trong chiếc áo cánh trắng và chiếc
quần đen hiền thục, thong thả ngồi xuống ghế đối diện. Quay lưng với ánh sáng yếu,
mặt Phúc chìm vào trong tối trông như giấc ngủ của một pho tượng điêu khắc. Tại
sao Phúc cũng không nói gì? Có cái gì là ngượng ngập nữa đâu? Mọi cử động đều
đơn giản và tiên liệu được. Mọi người ở bên ngoài nhìn lên cửa buồng này đều rõ
hết cảnh bên trong, chuyện thường. An buông người ngả lưng, nhìn lên trần, nghe
các thớ thịt dãn ra và đưa tay vẫy. Phúc đi đến, ngồi lên tay ghế, An thấy
khuôn mặt trên cao nhìn xuống với những nét ngang mỏng và mềm. An với cánh tay
đang giơ, và đụng xổ mái tóc của Phúc, mái tóc dài rơi vào lòng An và mùi nước
hoa quen đã ngửi buổi chiều trong phòng nhảy.
– Tóc dài quá. Em
định cắt, uốn đi mà tiếc mãi. Khi nào đi làm chắc là phải uốn.
Phúc đưa tay vấn lại
đầu tóc và An giữ bàn tay lại không cho An vuốt mái tóc hơi ướt và
nhám và nghĩ mình không nên nghĩ gì cả. Nhưng tức khắc nhớ tới cái vẻ mặt gân
guốc khi Thạch bướng bỉnh cãi với Cảnh: “Gái điếm ấy à… cũng có thể coi như những
nhà cách mạng. Này nhé… ôm ấp yêu thương hết mọi người mà chẳng yêu ai thực hết.
Chỉ cái thói quen phải hành động như thế. Sống chui rúc, bí mật và bị xã hội hắt
hủi. Mong một tương lai chẳng bao giờ thấy tới”. An bật cười thầm một mình,
nghe hơi thờ phì phà bay xuống, mặt người đàn bà kín như một chiếc mặt nạ lơ lửng
giữa không trung.
– Con em hả?
– Anh vào nằm nghỉ
cho đỡ mệt.
An đứng lên và đỡ
ngang lưng người đàn bà, nàng mềm như không thể bước nổi một mình. Dưới chân
cái giường lớn là cái giường sắt nhỏ của trẻ con có đặt chiếc gối ôm xinh xinh.
An buông lưng người đàn bà, nằm vật lên nệm, nhắm nghiền mắt. Khi mở mắt người
đàn bà mỉm cười thuần hậu, cúi xuống cởi giầy, tóc nàng xõa gần chấm đất. An muốn
nằm mãi ở đây, cho hết đêm nay, nhưng biết không thể được. An biết mình sẽ vầy
vọc mái tóc, khuôn mặt kia thân thể kia như một đứa trẻ tinh nghịch. Mau lên,
mau lên. Tiếng giầy đụng mạnh vào chiếc giường sắt. Suỵt. Phúc đặt mình nằm xuống
bên cạnh, bỗng dưng tiếng động bên ngoài lắng xuống, như rớt xuống dưới thấp
xa, gian buồng ấm áp ở trên một đỉnh cao tít…
CHƯƠNG II
Ngoài phố lá đổ
rào một cơn như buổi chiều muốn qua mau, những đỉnh cây cao vẫn um xanh. Lối đi
cát sạn rào rạo giữa những gốc cây thấp, lá to dầy. Phòng thí nghiệm khoa học,
cửa kính chùi sạch bóng, dấu điện bật sớm, nhiều sinh viên chăm chú làm việc.
Tiếng bóng nỉ nảy bật vang khô, một đôi đang giao đấu trên sân quần tráng xi-măng, sân sát bên bỏ vắng.
Đồng đi đến ngồi trên mặt trụ gạch dưới lối vòng dẫn lên tòa nhà chính, quay mặt
nhìn sân quần. Hai bóng trắng chạy ngang dọc đuổi theo quả bóng, những câu đối
đáp mất hút trong không khí kín heo may. Một lớp học tan. Tiếng bước chạy xuống
các bực thang gạch, tiếng chuyện trò âm vang trong vòm cao giữa giảng đường và
thư viện trường Luật. Phố hàng Cỏ đang chạy thẳng dài trong lối cây xẫm đuổi
theo buổi chiều sao sác, một chốc nữa mệt mỏi chậm chạp trở lại theo bóng đêm
cùng ánh điện đường thắp từng loạt nối tiếp. Nhiều người đi vòng xuống sân lấy
xe ra về, những cái lưng lom khom trong các bờ góc tường. Đồng mỉm cười, đưa
tay vẫy một vài đứa quen, không rời chỗ ngồi. Ê, Đồng, năm nay cũng đi cours
hả? Oui. Đâu? Văn-khoa.
Đồng chỉ xuống dãy nhà ngang lụp xụp, lấp sau hàng cây, những phòng học nửa tường
lát đá men trắng, còn để nguyên những rãnh nước rữa, và nhăn mặt riễu cợt. Các
lớp học tan họp biệt lập lẻ tẻ, bỏ trống hằng giờ cái khung cảnh hiu quạnh của
khu vườn dài. Đồng ơi. Đồng. Đồng giơ cao tay đáp người bạn đứng xa tít trong
hàng hiên tối của dãy Văn-khoa
vẫy gọi. Không vào học đến đây làm gì? Năm học đã bắt đầu như nỗi chán chường ủ
ê, cả tuần lễ không thấy Cảnh cũng như An xuất hiện. Có gì xảy đến? Trên sân quần,
hai đấu thủ đã nghỉ, đang thu dọn vật dụng vào “sắc” tay. Tấm lưới sắt cao ở
cuối sân cây leo chằng chịt. Hai hàng chụp đèn sơn màu hắc ín lắc lư trên một nền
trời gió. Tiếng giảng bài lẩn khuất. Dưới gốc cây gạo trụi gần hết lá, chiếc xe
đạp của Đồng dựng nghiêng đã trượt đổ từ bao giờ. Đồng húng hắng ho vài tiếng
như lập lại một thói quen bỏ quên lâu, đứng lên lững thững xuống chỗ dựng xe.
Đồng dắt xe, đi
chân trên hè vắng, không mục đích. Bây giờ chỉ khoảng bảy giờ, trời tối nhanh,
điện đường đang bật lên lạc lõng trong ánh sáng màu nhôm hoen của chiều. Nỗi trống
trải hắt hiu. Mọi sự vật đều toàn vẹn, thế giới kín mít đầy đủ. Cơn sốt đến rất
nhẹ, rồi rút đi, làm nóng hơi thở ngoài đầu mũi. Có thể bị rechute. Cũng
chẳng có gì khác, thế thôi. Đồng tựa xe đạp vào mình, tìm thuốc trong túi. Que
diêm xòe lên, bụm trong lòng hai bàn tay khum, ngọn lửa sáng lung lay. Gió rào
rào trên những chòm cây chạy dài. Mùa đông có thể đến bất chợt lúc nào trong một
ngày tới. Nhà thắp đèn, mẹ ngồi ăn với u già nhỏ nhẹ như những con mèo bên cái
lồng bàn úp phần để dành. Im tiếng hết âm điệu của những câu thơ chen chúc chưa
thành hình… Trước mặt, đôi tình nhân khoác vai chụm đầu, đếm bước thủ thỉ. Người
thiếu nữ cười khẽ như một vật rơi không… Tình yêu không chia xẻ được, ích kỷ,
như một tội lỗi, như sự ngoảnh mặt vào mình… Ngoảnh mặt với bè bạn. Hơn gì, khi
tôi chỉ có thể đứng ngoài nhìn người khác như nhìn mình, nhìn với ảo giác thông
cảm: mình đang cùng sống những nhịp điệu hiện sinh của kẻ khác… Đồng dắt xe xuống
đường, nhảy lên yên đạp đến nhà Cảnh. Gian nhà mở ngỏ ngày đêm, hai cánh cổng
đã long hư khó đẩy đóng. Lối vào rộng đi qua những cửa sổ của tầng dưới, chỗ ở
của gia đình chủ trương chật chội và kiểu cách, vòng rào sân sau chật ních người
trong bếp và quanh bể nước. Cầu thang tối kín, hầm hơi. Cảnh vắng nhà. Đồng đứng
tần ngần trước cửa buồng đóng. Buồng gác chính bên cạnh, người ta đang ăn cơm
chiều, tiếng bát đĩa xô động, mùi cơm nóng bay phất. Đồng trở xuống thang gác,
thất vọng. Rồi đến một ngày, chúng nó bỏ đi hết. Và tôi, vẫn bệnh hoạn mơ mộng.
Cũng đến thế thôi. Đồng cười khì như có Thạch trước mặt. Ghé hàng cơm tháng,
cũng không gặp Cảnh. Đồng bâng khuâng đạp xe dọc theo phố hàng Bông, giữa những
cửa hiệu sáng, không thấy đói, chỉ nghe mệt một cách êm ái. Giờ này có lẽ Nga
ngồi ở phòng khách sau bữa cơm với mẹ và An, nàng dạo những hòa âm trên dương cầm,
đứng tựa cửa sổ phòng riêng nhìn những đám lá trong vườn khép ngủ và con phố uốn
vòng vắng ngắt dưới ánh điện nghe gió thổi từ mạn đê cao vào thành phố trên những
mái nhà. Cô đơn trong một gian buồng ấm. Ông Phát đã ra làm bộ trưởng. Và Nga…
Đồng chưa gặp Nga, nhưng nghĩ rồi cũng như Hà và Phương, Nga sẽ không bao giờ
thuộc về mình. Chân vẫn đạp đều, Đồng ngoảnh mặt nhìn vào các cửa hàng sáng
trưng vắng vẻ, trên các bờ hè đám đông của những chiều mùa hạ cũng đã tản. Về đến
phố Quan-thánh,
Đồng đạp xe nhiều lúc một mình giữa đường nghe gió thổi ù hai bên tai. Ngang
qua biệt thự của gia đình An, Đồng ngửng trông khung cửa sổ sáng dịu lấp sau những
đám lá, buông chân mặc xe lăn theo đà. Gió thổi lộng trên hồ Tây, trong vườn
Bách-thảo,
khu Biệt-điện.
Bên trong hàng rào trường Bưởi, những mặt tối đen kêu gọi la hét inh ỏi cho đỡ
buồn. Các quán rượu ngoại ô, đèn xanh trơ trẽn. Đồng dắt xe đi trên ngõ gạch
vào nhà, không có ánh sáng soi lối, hít mùi hương những bụi cỏ rậm, nghe những
nhịp nổ âm đều đặn của đại bác vọng từ bên kia bờ sông Cái, cách con đê, mặt hồ
Tây ở chỗ lớn rộng nhất.
✳
Trinh ngồi khuất
sau mấy bao gạo, đan áo, đứng lên tay vẫn không ngừng nghỉ:
– Lâu không thấy
anh lại chơi.
Cảnh hỏi: Cậu có
nhà không? bước qua đống than vụn. Trinh thò mặt vào buồng trong gọi: Thưa cậu,
anh Cảnh đến… Ông Trương nằm trên ghế xích-đu, đọc báo, miệng phì
phà ống píp. Cảnh đến ngồi trên chiếc ghế đẩu, cạnh bàn nước: Cậu vẫn thường.
Ông Trương gõ gõ ống nõ vào chân ghế, hơi ngồi dậy hỏi: Bây giờ con làm gì? Vẫn
đi học chứ. Trên trang nhất tờ báo ông Trương đang cầm có in một bức ảnh ông
Phát, Cảnh hỏi mượn tờ báo nhìn ngắm. Lần đầu tiên mới biết mặt bố của An. Có bị
gọi động viên không? Con thấy tình hình thế nào? Ông Trương bắt đầu câu chuyện
cố hữu của ông, chuyện chính trị thời sự theo lối của một công chức già bất
mãn, hèn nhát, giao động. Xã hội thối nát, công chức quan liêu hối lộ, chính
quyền luồn lọt nô lệ… chừng ấy đề tài nói mãi ngày này qua ngày khác, năm này
qua năm khác, trong sở khi rảnh rỗi, ở nhà trong bữa cơm, với người quen kẻ thuộc
những lúc trà dư tửu hậu nhưng ông vẫn ngày hai buổi đến sở cạo giấy, lĩnh
lương, lĩnh “ráp-pen”, buôn bán tậu nhà cửa… Cảnh
ngồi im nghe như chịu một cực hình, mong sớm chấm dứt để được ra ngoài nói chuyện
với Trinh. Trong gia đình ông cậu, người họ duy nhất ở Hà-nội, Trinh là đứa em
hợp với Cảnh nhất; Trinh là con thứ hai, sau một người chị và trên ba đứa em
gái một đứa em giai. Bà mợ vắng nhà, bà là người Cảnh ngại gặp nhất, miệng lưỡi
ngon ngọt dẻo như kẹo mật nha tính toán chi ly và ích kỷ tột bực. Ngày cảnh mới
vào thành, tìm đến thăm ông cậu, không hề có ý nhờ vả, bà đã vội than thở nhà cửa
chật chội, con gái lớn và nói ngay: “Giá nhà rộng thì cháu ở lại luôn đây trông
nom dạy dùm mợ thằng Việt là tốt nhất… Phải không cậu?” Cảnh cười gằn đốp chát:
Cảm ơn mợ, cháu đã có chỗ ở. Cảnh ở nhờ trong chùa, hằng ngày đi tàu điện, lên
phố vào thư viện tự học, buổi trưa ăn bánh mì trong nhà gửi xe, chiều làm précepteur
một hai tiếng cho một gia đình ở hàng Bạc, trong hai năm xong Tú-tài. Thỉnh thoảng Trinh vẫn
đến thăm Cảnh, nhất là từ khi lên chuyên khoa, thường tìm gặp hỏi han ý kiến về
việc học hành, trong khi hằng năm Cảnh không đặt chân đến nhà ông cậu ngay cả
những ngày giỗ tết. Ông Trương bàn luận một lúc đã hả hơi, bật người ra sau,
chiếc ghế lúc lắc, cắn chặt chiếc píp nhìn trần nhà. Trẻ con reo hò ngoài hè vọng
qua gian nhà ngoài vắng vẻ chật chội những bao hàng cồng kềnh.
– Cháu đến chào cậu.
Cháu sắp xuống Phòng dạy học.
– Thế à? Bao giờ
đi? Thỉnh thoảng viết thư về cho cậu biết tin. Con có được tin gì về thày u con
ở ngoài không?
Cảnh gấp gọn tờ
báo, để lên bàn. Từ trên gác vọng xuống tiếng nheo nhéo của mấy đứa em gái
Trinh, Cảnh không nhớ rõ hết tên của những đứa con ông cậu. Từ ngày chiến tranh
bỏ nhà theo Trọng, Cảnh chưa lần nào về thăm gia đình và cũng không được tin tức.
Những lúc cô đơn buồn bã, Cảnh nghĩ tới làng quê như nghĩ tới một cảnh tượng
quen đã mất, không xúc động nhiều lắm. Cuộc đời tẻ nhạt không kỷ niệm ràng buộc
sâu xa, những ý nghĩ lớn lao về đời sống xâm chiếm ngay khi trưởng thành xóa sạch
tuổi ấu thơ trong ký ức. “Người hoạt động không thể có những liên hệ gia đình
chật hẹp…” Trọng hay nói thế và Cảnh cũng thường nói với bọn Đồng ý nghĩ ấy, nhất
là Đồng, hắn có tâm hồn thi sĩ. Trong cuốn sổ tay của Trọng chép lại đủ bản Le
catéchisme du Révoluntionnaire của Bakounine.
– Anh Cảnh, anh
cho em hỏi riêng anh cái này…
Trinh nhấc chiếc
ghế đặt vào góc tường mời Cảnh, ông Trương bỏ đi lên gác. Mùi tấm và vải bố
hăng hắc. Ánh điện ngoài hè phố và buồng trong không soi tỏ được hết cả gian buồng
ngoài. Đầu Trinh cúi khuất, ngón tay trỏ hơi cong đưa đẩy thoăn thoắt.
– Anh định xuống Hải-phòng hả? Bao giờ?
– Vài hôm nữa.
– Anh không học nữa
à?
– Phải lo kiếm ăn
chứ.
Cảnh cười, tiếng
cười gẫy khô nửa vời. Trinh ngừng tay, giơ cao mũi kim ra chỗ có ánh sáng đếm
những mũi len chăm chú, mi mắt cúp xuôi, tóc lòa xòa trên trán. Trên tấm áo
cánh trắng, một chiếc áo len cụt tay xẫm không rõ màu. Trinh xoay đổi kim tiếp
tục công việc, cuộn len nằm gọn trong khoảng hai đùi khép. Cảnh chống khuỷu tay
vào một bao gạo kế bên, vải bố sơ nháp những hạt gạo kêu rào rạo.
– Anh đã sơi cơm
chưa?
– Chưa. Chốc nữa về
ăn. Ăn tháng ở hiệu cũng dễ…
– Anh xuống dưới dạy
trường nào?
– Chưa biết. Có
khi ít lâu lại về Hà-nội không chừng.
Trinh ngừng tay,
ngước mắt tò mò, cầm kim đâm xuyên vào trong mái tóc. Cảnh mở chiếc khóa áo blouson,
nghe không khí nồng nực, đi ra khỏi những bao gạo án ngữ trông ra phố. Ngoài bờ
hè chiếc xe bán mía hấp của người tàu đậu, ngọn lửa khí phụt xanh, tiếng rao ề
à vang khắp phố ngắn. “Dì chê tống chê, tống chê dì chê”.
– Chín giờ chưa nhỉ?
– Hãy còn sớm mà
anh.
– Tôi phải về ăn
cơm chứ.
Nguyên từ trong
nhà chạy ra như bị đuổi: Chị Trinh, mợ chưa về? đứng khựng lại ngượng nghịu khi
thấy Cảnh, cúi đầu chào. Cảnh mỉm cười gật đầu. Nguyên vừa đi ra cửa vừa ngoái
cổ lại: Em sang bên con Loan một tí nhớ chị Trinh? Cảnh bỗng ngượng cảm thấy
mình xa lạ với mọi người khác trong gia đình này.
– Anh có thích xem
kịch không?
– Tôi không thích
lắm.
– Em có thiệp mời
mai xem đây…
– Kịch gì đấy?
– Lôi Vũ.
– Thế hả. Tôi đã đọc
nhưng chưa xem. Cô biết vở kịch ấy chưa?
– Hay lắm phải
không anh. Em nghe đồn như thế…
Cảnh tựa lưng vào
đống bao gạo, nhìn vào mảng ánh sáng ngoài đường hắt chếch vào tường. Phố xá đã
vơi, sự im lặng từ những phố buôn bán đông xung quanh lùa tới theo những cơn
gió thu vào con phố hẹp và ngắn này. Cảnh muốn thuật lại vở kịch, nói rõ chủ ý
của nó cho Trinh nghe. Tôi không biết giảng giải như thế nào hay không giảng giải
nổi. Cảnh thọc tay vào túi áo blouson mân mê mấy que tăm lấy ở hiệu ăn
buổi trưa. Trọng giờ này đang ở nhà, anh đang đọc sách, đợi về đi uống cà-phê. Sẽ nói với anh ở hiệu,
phải bình tĩnh để dẫn giải, không thể chần chừ mãi. Anh sẽ phải hiểu.
– Sợ cô xem, cô
không hiểu.
Trinh ngừng công
việc, quấn lại cuộn len, vuốt tóc và nghiêng đầu. Chiếc xe bán mía đã rời chỗ,
bây giờ tiếng rao nghe mãi tận đầu phố. Người tớ gái từ trong nhà ra sửa soạn
lên cửa, những cánh cửa rời đánh số xếp chồng ngoài vỉa hè.
– Thôi tôi về. Cô
nói tôi gửi lời chào cậu mợ.
Trinh đặt cuộn len
lên ghế, đứng dậy bước theo chân, đưa tiễn đến cửa. Cảnh đứng lại ngoài hè,
trong khi người tớ đẩy cho các cánh cửa gỗ chạy vào đường rãnh: Chào cô hả, cố
học thi đỗ năm nay. Trinh vịn vào cánh cửa, mai anh có nhà không? Trước khi đi
xem kịch em ghé lại thăm anh. Có chuyện gì không? Cảnh quay lưng bước, gặp
Nguyên đi xăm xăm ở chỗ rẽ đầu phố, tiếng guốc gõ ròn. Nguyên quay nhìn Cảnh,
không chào, như nhìn một người lạ mặt. Vượt qua ngã tư rẽ vào đường vòng ngắn,
Cảnh ra tới Bờ Hồ. Hà-nội đang ngủ dần trong ánh điện mờ dấu, các bóng cây tối,
mặt hồ khuya vắng. Cảnh đi theo đường bên hồ, gặp những ghế đá trống lộ liễu dưới
ánh đèn sáng gắt. Đêm giao thừa trước còn ngồi thức với Thạch và Đồng trên ghế
đá trông sang công viên tối tăm lạnh lẽo, hút hết sạch thuốc lá, với những dự
tính tương lai. Cảnh đi dưới các vòm cây của đại lộ vắng, bình thản, sự quyết định
làm cho tôi trở nên vững vàng già dặn hơn, không gì có thể lay chuyển. Đã hết
cái giai đoạn hoạt động tài tử: họp tiểu tổ, thảo luận tình hình, phê bình kiểm
điểm công tác, cái loại công tác: phổ biến tài liệu tuyên truyền, tin tức, dò
xét tinh thần sinh viên học sinh, soạn thảo truyền đơn để ném trong các lớp học…
Chỉ còn một vấn đề duy nhất là đối mặt với Trọng. Vấn đề khó khăn nhất. Có thể
nào lặng lẽ bỏ đi và để thư lại được không? Trọng, chỉ còn Trọng là đáng kể…
người khác… mỗi người một ngả…
Trọng đang ngồi im
trước bàn như tham thiền, miệng lẩm nhẩm không thành tiếng, choàng mở mắt cười:
Đang học Ăng-lê.
Đi đi uống cà-phê.
Cảnh nói: Tôi chưa ăn gì cả. Dưới nhà tiếng khóc i ỉ của người thiếu nữ cuồng
trí, con người chủ trương. Ở ngoài đường, Cảnh nghĩ ngợi sắp đặt câu chuyện sắp
nói với Trọng.
– Tôi đã gặp ông Đức.
Ông ta sắp vào Sài-gòn.
Ông khuyên bọn mình nên vào trong ấy dễ hoạt động hơn. Hà-nội trước sau cũng mất.
Cậu nghĩ thế nào?
– Chuyện ngoài kia
ra sao?
– Hỏng hết rồi. Sắp
sửa đến lượt bọn mình phải… Dân chúng bắt đầu thất vọng. Ông Đức nghĩ phải khởi
xướng một ý thức hệ mới thay thế.
Ý thức hệ mới. Những
danh từ, lực lượng thứ ba. Những cái đó như một bầu dưỡng khí cứu người bệnh trầm
trọng. Nhưng tìm đâu ra? Thạch hay kêu: phải mở một lối thoát và rốt cuộc hắn
lao đầu vào hư vô. Trọng vào quán gọi cà-phê ngồi đợi. Cảnh ăn phở ở hiệu gần đấy.
Lúc Cảnh trở lại, Trọng ngồi một mình lạc lõng, mắt hấp him sau đôi kính và
đang ngáp. Phin cà-phê
nhỏ vẫn chưa hết. Cảnh kéo ghế, gây tiếng động, nhưng cũng không phá được sự im
lặng.
– Có lẽ, cậu xuống
Phòng tôi sẽ đi kiếm buồng khác cho tĩnh. Nhà ồn quá không đọc được. Nhất là
đêm nghe cái tiếng khóc tôi cũng muốn điên nốt.
– Thường là tôi ở
ngoài thư viện suốt ngày.
Đã nên bắt đầu
chưa. Trọng nhấc cái phin trắng lóa ra khỏi tách, mở nút bình thủy đun nước
sôi. Cảnh đi ra quầy mua thuốc lá, người đàn ông bán hàng vỗ vỗ bao thuốc nhón
rút lấy ba điếu đặt trên đĩa nhôm, giơ bao thuốc lên nheo mắt nhìn vào trong đếm,
rồi mang đặt trước mặt Cảnh.
– Anh hút không?
– Thì thử xem sao.
Trọng ngậm thuốc
giữa môi, châm lửa vụng về, nhả khói um sặc, cầm khăn tay chùi kính và mắt. Cảnh
cười:
– Có lẽ đầu tuần
tôi sẽ xuống Đăng… Nhưng… độ một tháng tôi sẽ lên. Tôi định…
– Hả.
– Tôi ra ngoài.
Trọng đeo kính vào
mắt, nhìn trừng trừng dò hỏi.
– Tôi nghĩ tôi phải
báo với anh là tôi ra ngoài. Sống mãi trong vùng này, tôi chết dần chết mòn hết
cả tin tưởng. Cái vị trí mình chọn nó lập lờ quá. Dù sao ra ngoài kia, tôi có
ích hơn. Tôi không được như anh, tôi không có một quá khứ, một công việc phải
tiếp tục đến cùng. Tôi mới bắt đầu mà bắt đầu thì tôi nghĩ ở ngoài kia hơn… Tôi
biết tôi làm anh buồn nhưng tôi còn trẻ, tôi muốn được thí nghiệm, muốn có kinh
nghiệm có thể tôi sẽ trở lại với anh và cũng có thể tôi mất hút…
Cục gù ở cổ Trọng
nhô lên, trụt xuống. Mặt anh đỏ ửng dần.
– Anh đừng nghĩ là
tôi phụ anh. Tôi hiểu anh tin cậy tôi nhất. Tôi chỉ muốn trung thành với chính
mình trước đã. Tôi không bao giờ quên chính anh là người mở óc cho tôi. Anh muốn
tôi được tự do nhận định lựa chọn lấy con đường phải đi… Chắc anh không nỡ ngăn
tôi. Anh cứ để cho tôi… biết đâu chẳng là bài học hay cho tôi.
– Cậu có thể làm một
cử chỉ hy sinh vô ích. Chỗ của cậu không phải ở đấy.
Trọng nói khẽ, Trọng
kìm giữ xúc động. Môi anh mím lại, cằm bạnh ra và bắp thịt bên má giật động.
– Tôi đã suy nghĩ
đắn đo cả năm nay trước khi quyết định. Tôi nghĩ muốn gì tôi phải trải qua giai
đoạn cần thiết này. Một là mất, hai là còn.
– Vậy nghĩa là tôi
không thể nào thay đổi được ý của cậu nữa?
Cảnh bưng tách cà-phê lên uống, dấu mắt
mình. Ánh đèn pha ô-tô
từ chỗ khúc quành soi quét vào trong quán.
– Cậu biết rõ tôi
đấy. Ông bố tôi là nhà nho nhưng lại có tư tưởng xã hội. Có thể kể ông vào loại
chiến sĩ xã hội đầu tiên tại nước này. Ông bác tôi cắt mạch máu chạy giữa đồng
cho đến chết sau vụ Sô-viết
Nghệ-an.
Gia đình tôi phải bỏ xứ ra đây… Như thế cậu rõ là tôi không thể… Các em tôi
chúng còn ở cả ngoài ấy. Chẳng lẽ cậu nghĩ rằng tôi cũng chỉ là một thứ phản động…
– Không, vấn đề
này là của tôi, không dính líu gì đến anh.
Trọng tháo kính xuống
chùi nữa, mắt anh đỏ hoe. Có lẽ anh đang nghĩ anh trơ trọi có một mình. Anh
chùi miệng, rồi rũ rũ chiếc khăn tay để gấp lại. Trông giây phút, Trọng già xọm,
xa cách hẳn như những mùa hè xưa anh về nghỉ ở nhà Cảnh kèm cho Cảnh học; người
trong xóm gọi anh là Cậu giáo nhà ông Trưởng Bạch.
– Tôi tin ở cậu. Cậu
thành thực lắm nên tôi không biết phải giữ cậu bằng cách nào. Cậu thành thực và
mai kia cậu cũng có thể thành thực khi phải thủ tiêu… tôi chẳng hạn.
Giọng của Trọng cứng
lại, chua cay. Cảnh nổi giận, ngồi lặng. Sự lựa chọn nào cũng khốc liệt thế
chăng? Trong mắt anh, tôi như thế nào. Con người tôi đã đổi mà không hay biết.
Cảnh ngửng nhìn cố sức biểu tỏ thái độ bất mãn. Trọng cười nhạt, không âm vang:
– Tôi vẫn sợ cái
ngày hôm nay. Các cậu còn trẻ không chịu đựng được thử thách. Hết Hòa, bây giờ
là cậu. Và tôi không làm được gì hơn là một mớ lý thuyết xuông.
Cảnh vẫn im. Rời
quán cà phê, Trọng cũng nín thinh luôn. Cảnh nghe ớn lạnh buồn bã khi nghĩ đến
phải nằm chung với Trọng trên cùng một tấm phản trong gian buồng chật hẹp, nghe
tiếng khóc nỉ non của người thiếu nữ rách rưới tự nhốt mình trong một só nhà tối.
✳
Buổi đầu tiên trở
lại tìm Phúc một mình, An đẩy cánh cửa buồng khép quên gài then, vội vàng quên
gõ cửa, muốn trốn khuất những cặp mắt tò mò theo rõi từ dưới sân, trên cầu
thang và trong các buồng mở cửa – những cặp mắt soi mói khó chịu mà dù đã thường
lui tới An vẫn bị nhột nhạt – nghe tiếng Phúc hỏi: Ai đấy? Làm sao lại vào được;
Phúc đang nằm với một người đàn ông. An ngồi lỳ trên ghế, ngại tháo lui, gặp một
ông công chức già bỏ sở đi chơi đến sau, ông gật đầu chào; Phúc cáu kỉnh: Đóng
cửa lại. Đóng cửa lại; vị công chức bối rối bỏ đi ngay, người đàn ông trong giường
pha trò: ồ, có gì là lạ… Phúc gắt: còn ai ở ngoài, xin mời ra cho tôi đóng cửa.
An lặng thinh đứng dậy, bước mau xuống cầu thang, gặp ông công chức đứng đón xe
ở đầu phố. An trở lại tìm Phúc ngày hôm sau tại lớp học nhảy và hỏi: Tại sao lại
đuổi anh? Phúc xin lỗi: Em không biết là anh, em xin lỗi. An đưa Phúc về nhà,
đi bộ qua các phố nhỏ vắng khuất, kéo dài con đường, những phố thường chẳng mấy
khi qua, như một cặp tình nhân lãng mạn. Tại sao không? Những buổi chiều ấm
gió, thổi lên tà áo xẫm màu, khuôn mặt không son phấn hơi nhợt của Phúc, cử chỉ
nền nã tự nhiên. An nằm lại trên giường của Phúc lâu hơn, lười lĩnh và mỏi mệt
và một vài lần Phúc phải từ chối những khách đến sau ở ngoài bao lơn. Một buổi
Phúc giữ An lại: Em mời anh ăn cơm. Ở lại xem em thổi cơm. Phúc mặc áo cánh, thổi
cơm bằng bếp cồn, đi lại bận bịu như người đàn bà nội trợ ngoan ngoãn. An có hẹn
tới dự lễ sinh nhật Khiêm và nhớ chưa mua đồ mừng, An mặc quần áo bảo: Anh sẽ về
ăn cơm, phải ra phố có chút việc. An lang thang ngoài Trường-tiền, vào phòng Thông-tin Pháp xem báo, dán mũi
vào các cửa kính. Khiêm sẽ lại mặc áo mới, tiếp bè bạn bọn con gái trưởng giả,
bọn con giai đàn ông đang ngấm nghé vợ và địa vị xã hội. Ông Huyện, bà Huyện trịnh
trọng ra phòng khách mươi phút, chào hỏi bạn bè của con, thăm hỏi về bố mẹ của
chúng xong rút lui lên gác. Khiêm thổi nến, cắt bánh, vỗ tay cười đùa, đứng giữa
phòng kéo violon, lần lượt đứa kể chuyện đứa hát, những bài hát của
kháng chiến. Và điện sẽ tắt trong năm phút, chỉ còn nến cho không khí thêm quý
phái; như năm ngoái An lén hôn Khiêm dữ dội kiểu Lê-dương. An mua một lọ nước
hoa, mang về cho Phúc nói: Anh tặng em; Phúc cảm động, Trong bữa ăn, Phúc săn
sóc như một người vợ yêu chồng. Sẽ ở lại với Phúc, anh sẽ ở lại với em, được
không? An nói khi nằm nghỉ trên giường đọc báo, Phúc bế con ngồi bên. Chỉ sợ
anh không dám. Sao lại không dám? Tối ấy An trở về nhà, Nga hỏi: Anh đi đâu
không đến chị Khiêm? Ông bà cụ vẫn chưa về. Buổi sáng khai giảng niên khóa mới,
An bỏ ý định đến lớp và xuống Phúc. Vào giấc này, khoảng sân vắng dễ vượt qua
hơn, nhưng An đứng trước cửa phòng đóng kín ở trong. Một bà cụ già hom hem, bẩn
thỉu ở cầu thang lên nói: Cậu qua buồng tôi ngồi chơi. Đứa con trai của Phúc lê
la dưới đất quanh mấy chân ghế, bà cụ mẹ Phúc lên nằm co quắp trên phản cạnh
khay đèn: Cậu quen với cậu Lân? Cậu Lân quen với nhà này lắm. Cậu biết hút
không? Làm thử một điếu… Món này tốt lắm. Phúc sang và ngượng khi thấy An ngồi
trên ghế nhìn đứa con nhỏ. Phúc nói: Em định vài tháng nữa kha khá xin đi làm
vũ nữ… Dù sao cũng còn hơn thế này. Hôm ấy An không nói gì cả, sự im lặng trong
tác động ân ái làm nở một thứ tình yêu, tình yêu chăng, tình yêu nặng nhọc và tối
tăm. Một cảm giác cô đơn trong hầm tối. Phúc, tôi có thể ở với Phúc và mọi ràng
buộc sẽ đứt tung. Tôi sẽ là người khác. Không còn chút liên hệ nào với cái thế
giới thân quen.
Buổi sáng Nga gõ cửa
buồng, nhét tờ báo xuống khe cửa, nói vọng ở ngoài: Ông “bô” làm bộ trưởng rồi,
chắc là tuần này về. Có một ông tên Lân hôm qua đến tìm anh. An không biết phải
làm gì hơn là tìm xuống Phúc. Phúc hỏi: Anh không chán em à? An đáp: Không chán
nổi, tối nay anh ở lại đây. Được không? Buổi trưa gian phòng không cửa sổ, kín
hầm, mồ hôi thấm lạnh. Khách gõ cửa, Phúc nằm im không đáp, tiếng gõ cửa mạnh
hơn, An la lớn: Va-t’en, salaud. Phúc bật quay người bịt miệng,
An vùng vằng đầu, thuận tay tát mạnh vào đầu Phúc. Phúc kinh hoàng bất động miệng
há ra như sửa soạn gào. Ngoài khe cửa có tiếng hỏi ghé vào: Anh An ở trong phải
không? Không có An nào hết, imbécile. Rồi An rớt xuống sự mệt nhọc bình
thản nghe tiếng thổn thức của Phúc, cái lối của Thạch có vẻ hiệu nghiệm, nhẹ
nhàng thoải mái, khỏi mất công. Lát sau An quay sang vỗ về Phúc: Việc gì em sợ.
Em sợ anh. Sợ anh, sợ anh thì phải nghe anh, An cười thành tiếng. Anh yêu em,
anh thương em, anh sẽ ở lại đây với em, em bằng lòng không? Phúc không nói,
Phúc chỉ có hai bàn tay để nâng niu vuốt ve các bộ phận trong cơ thể. Gương mặt
hiền hậu trở nên đần độn. Chiều đến An vẫn còn ngại gặp Lân ngoài cửa, bắt Phúc
mở ra xem trước. An đưa Phúc đến lớp nhảy, hẹn sẽ quay lại đón và trở về nhà.
Nga đi học. An đi lại từ trên gác xuống nhà nghiền ngẫm ý định. Gian nhà yên
tĩnh, mát mẻ, trời ẩm đục. Tôi sẽ bỏ đi như người mất tích. Sống với một người
gái điếm. Tôi sẽ ở được bao nhiêu lâu? Tương lai? An nghĩ nên xuống gặp Đồng. Để
làm gì? Tôi phải sống cho tôi, tôi yêu Phúc, tôi yêu Phúc hay tôi bỏ trốn. Khi
An trở lại, trong buồng nhảy chỉ còn một vài người. An gọi xích-lô ngồi chung với Phúc,
không dấu diếm. An bảo: Anh nói thực đấy, em nghĩ thế nào? Phúc hỏi: Anh nghĩ kỹ
chưa? Em không ra gì, em có con, em sẽ làm khổ anh. Không có gì đáng kể miễn là
em yêu anh. Phúc vuốt ve cánh tay An khiến mọc gai: Rồi anh sẽ hối hận. Còn
tương lai của anh… An ngửng nhìn những đám lá rào rào và những chiếc lá vàng
bay rụng cười xòa. Buổi tối ăn cơm xong, khi An lên giường nằm chìa tờ báo chỉ
cho Phúc: Ông “bô” anh đấy… Phúc nói: Thôi anh về đi, lúc nào anh đến đây em chẳng
là của anh. An liệng tờ báo sang bên. Không phải thế, không phải thế đâu. Phúc
vuốt ve mặt An, nhìn ngắm với vẻ lạ lùng. Và một lát, Phúc bắt đầu bàn tính
tương lai. Sẽ dọn ở chỗ khác, trốn biệt nhà người quen, tạm thời Phúc muốn đi
nhảy kiếm tiền nuôi cho An học. An bật cười: Anh sẽ ăn bám em, không đời nào…
Bây giờ vẫn còn
trong giờ giới nghiêm, ngày chưa lên, chỉ nghe gió nổi ngoài phố. Những hồi đại
bác, lối nửa đêm khi mệt thiếp, cũng im bặt. Vòi nước dưới sân nhỏ giọt, lâu
lâu chảy thành giòng mỏng yếu. Mắt quen dần với bóng tối, đình màn hiện ra mờ
như làn sương đục. Phúc ngủ say, hơi thở nặng, đầu tóc xổ. An nằm đè lên, nhờn
nháp một bên mạng sườn. An nằm không động đậy, như được chở trên một chiếc thuyền
khẳm sắp chìm, chỉ mới chưa đầy một ngày, gia đình thấy đã như xa cách hẳn, chập
chờn trong những ý nghĩ dồn dập như sóng. Cả cái thân thể bóc trần dưới chăn
không còn thuộc về mình nữa, yếu đuối lẻ loi. Những ngày sắp tới như một cái
hõm sâu, tối, tối hơn gian buồng này, tối hơn những lúc bị cuốn hút vào trong
thân Phúc. Một người già cả nào ở trong một gian buồng xa ho sù sụ. An đặt tay
lên ngực Phúc, hâm hấp nóng, nghe một cảm giác phi lý kỳ quặc. Bất cứ lúc nào
tôi cũng có thể bỏ về nhà, chỗ của tôi vẫn còn nguyên, nhưng tôi cứ muốn ràng
buộc với Phúc. An nghĩ lại những dự tính, tưởng tượng những hành động tương
lai. Tự chôn vùi mình để thay đổi và tôi sẽ thành cái hình thù thế nào. Tiếng
chuông đồng hồ reo vang, Phúc thức dậy mò mẫm bật đèn ngủ, ngạc nhiên thấy An
còn thức, Phúc bò trên ngực An. Anh không ngủ, và vục đầu vào cổ An. Em yêu anh
không? Hứ, hự. Em sung sướng không? Có. Chúng mình sẽ nuôi con, con của em là
con của anh. Anh sẽ làm việc cho nó. Phúc, em ngủ đi. Không, em thức với anh. Tại
sao em để đồng hồ báo thức. Em dậy sớm để đi lễ. Đi lễ hả? Em sửa soạn đi, chắc
sắp hết giới nghiêm. Em không muốn đi nữa, em muốn nằm với anh cơ, An nghe sức
nặng dồn vào thân mình, đồng thời như muốn nhấc bổng mình lên. An nhắm chặt mắt,
buông xuôi tay không muốn bám víu. Em yêu anh, em yêu anh…
Anh ngủ nữa đi kẻo
mệt. Em yêu anh. Anh lạnh không? Anh yêu em thực không? Anh không biết đời em
khổ biết là chừng nào. Nếu anh bỏ em, chắc em chết. Anh, anh đừng đánh lừa em.
Hì, không, anh chỉ lừa anh thôi. Anh nói gì? Không. Anh muốn gì anh cứ nói, em
sẵn sàng làm hết cho anh. Đời em không có nghĩa gì, chỉ anh là đáng kể. Hì, anh
cũng không đáng kể… Anh ngủ chưa? Em đi lễ anh nhé. Ừ… Cửa mở và gió thổi lùa.
Ngoài phố, tiếng bánh xe bò lăn lịch kịch, tiếng rao hàng bánh tây kéo dài lê
thê…
✳
Cảnh dậy thật sớm,
những biệt thự xung quanh còn say ngủ, qua những kẽ hở của cửa sổ đóng kín nhìn
thấy ánh mờ tối, nghe tiếng đàn bà dưới bếp đang đun nước buổi sáng. Giấc ngủ
làm Trọng co quắp thảm hại, nét mặt nhăn nhó. Bước xuống cầu thang còn chập choạng
nồng những hơi thở phì phò dưới các bục gỗ, Cảnh rửa mặt bên bể nước quay lưng
lại phía những người đàn bà ngồi xổm trước các bếp lửa cháy hồng. Người thiếu nữ
cuồng trí, đêm qua phá phách chạy nhào ra cổng trong giờ giới nghiêm, chắc đã bị
trói và mệt thiếp đi. Cảnh rùng mình khi ngửng lên nhìn màn trời nhờ màu sương,
bầu trời trải trên những cánh đồng nước buổi chiều chiến tranh dữ dội. Ngoài phố
còn vắng tanh, chiếc tàu điện sớm chạy mau trong phố xa. Cảnh đi vào phố hàng
Bông, hai bên hàng phố chưa mở. Từ trên tàu điện ngoài Ô Cầu Giấy vào, những
người đàn bà nhà quê mua phân của thành phố ném vội những đôi quang gánh và
thúng không xuống giữa đường, rồi chia tản chui lẩn vào trong các cánh cửa hé sớm
hoặc các ngõ dẫn vào cửa sau. Khoảng tám chín giờ sáng, họ kĩu kịt gánh đi trên
hè mùi xú uế nực phố xá, đón tàu về làng. Qua bờ hồ, Cảnh chỉ gặp những người
lao động đi làm sớm. Tháp rùa nổi xa hơn trong một làn sương mỏng, một vài chiếc
xe vận tải nhà binh chạy rầm rập không đếm xỉa đến tốc lực. Cảnh ghé vào trong
kẹt ngách lọt trong tòa nhà lớn của phố Trường-tiền ăn sáng; kẹt chật hẹp
có hình chiếc mui cong dần, có lẽ nằm dưới một chân thang không thể trông thấy.
Bánh tây dòn, cà-phê
nóng. Bánh nướng trên vỉ sắt, trước khi được mổ đôi, nhồi “ba-tê”, rắc muối tiêu đựng
trong hộp thuốc 999 lóc xóc. Cà-phê
đun trong ấm sắt đặt trên bếp lò quạt luôn tay, than nổ tí tách. Cảnh ngồi quay
mặt ra ngoài hè, chỉ thấy một khoảng ngắn những viên gạch ô vuông nhỏ, bờ lề đá
xanh lỗ rỗ, một cây cột của mái hiên bên kia vỉa hè, cánh cửa sắt kéo lên xuống
che một mặt tủ kính. Một người dựng xe đạp ngoài vỉa hè, sách túi bao da vào hiệu,
cất bánh tây. Cảnh ăn chậm chạp đợi thời khắc trôi qua, nghe tiếng động buổi
sáng dâng lên từ từ trong phố.
Cảnh đi bộ trở ngược
về thư viện. Hiệu thuốc tây lớn ở góc bờ hồ đổi chủ, hai ba người thợ mộc đang
bắc thang sửa lại tên bảng hiệu. Tên dược sĩ này giàu thật nhanh, chuyên bán
thuốc cho hậu phương, hắn ủng hộ kháng chiến đấy. Sống làm sao nổi với đám trí
thức trong thành này. Một lớp trí thức mới… Cảnh muốn có Thạch ở đây để hỏi: Cậu
tin tưởng vào cái gì mới được? Chắc chắn hắn sẽ văng tục. Merde. Thư viện chưa
mở cửa, Cảnh bước lên trên bãi cỏ còn ướt, đến ngồi dưới gốc đa, chiếc rễ cây ẩm.
Trong nhà chứa xe, một vài người đang ăn sáng của hàng vợ chồng người lao công
giữ xe của thư viện. Trên thềm, trước tấm cửa kính dầy nặng nổi vân viền sắt
đen, hai người ngồi quay mặt trông ra đường. Luống hoa vàng nhạt, đỏ hoen chạy
viền quanh bãi cỏ. Cảnh thoáng nghĩ đến cuộc hẹn buổi tối. Không hiểu thái độ của
Trọng như thế nào từ giờ cho đến ngày lên đường? Thật khó khăn cứ phải nhìn
nhau hằng ngày và biết không thể nào còn đồng ý với nhau được nữa. Trong trường
hợp phải quay trở lại? Đám người tụ tập trước bực thềm đông hơn, trong ấy có Trọng.
Có lẽ anh không nhìn thấy, mắt cận thị nặng, anh cắp chiếc cặp da đen cũ, ngờ
nghệch, lạc lõng. Từ ngoài cổng, ông già trông nom trật tự phòng đọc sách, có
nhiệm vụ nhắc nhở những người trò chuyện ồn ào hay đánh thức những người ngủ gục
buổi trưa ngay trên ghế, mặc áo thâm chùng đạp chiếc xe cót két chạy vào, chiếc
ô buộc trên ống xe; ông giơ tay vẫy chào đám người đợi nói lớn: Còn sớm, còn sớm.
Người ông thấp bé, dáng đi thủng thỉnh, khi ông mở khóa cửa bị đám người đứng
sau che lấp. Cảnh ngồi yên, đợi năm phút sau mới vào và trông thấy Trọng đứng
trong ngách không có bàn đọc trước tủ ô kéo cao chọn sách. Người thủ thư đang
bước lên bục đặt ghế ngồi có thể quan sát khắp phòng đọc, nhếch mép cười chào.
Cảnh đến chiếc bàn trong góc tìm chỗ ngồi khuất, tựa đầu nghỉ ngơi. Trên đầu tường
những khe hở được che kính chùi sạch để thêm ánh sáng cho phòng đọc, cành lá
phượng xanh không còn hoa. Tiếng kèn xe hơi ngoài đường bị cản lại vì những mặt
kính dầy trong suốt che quanh cửa vào phòng đọc. Cửa sổ lớn rộng trông xuống vườn
sau để trống. Tiếng dép lẹp kẹp của ông già trông nom trật tự, chốc chốc rời
chiếc bàn nhỏ bầy ngay lối vào phòng. Tiếng ô kéo rút ra, đóng vào, bước chân
đi nhẹ trên sàn, tiếng sì sào loáng thoáng, tiếng ho, sịt mũi, tiếng chân ghế bị
kéo trên gạch hoa… Trọng ngồi ở chỗ không trông thấy. Trong khi đợi mượn sách Cảnh
về chỗ nhìn mặt bàn dài lên nước đen, những ngón tay xòe đặt trên màu gỗ bóng nổi
vân. Chuyến đi này chỉ có một người Cảnh muốn được đi cùng là Thạch, chỉ có nó.
Nhưng nó đã bị đầu độc bởi những Gide, Malraux, Sartre, Koestler… bởi bọn
existentialistes. Nó không thoát khỏi được những ý niệm trừu tượng những thắc mắc
siêu hình viển vông, không thoát khỏi được giới hạn của giai cấp. Nó đi vào chiến
tranh như tìm sự tự hủy; Cảnh ân hận đã không thuyết phục nổi Thạch, không đủ
can đảm đối đầu quyết liệt với Thạch; ở nó ngầm chứa một sức mạnh mù tối khiến
chính mình bối rối hoang mang khi đối diện. Không như Trọng, Trọng vững vàng
quá nên dễ nhận thấy sự chia lìa. Những cơn giao động mãnh liệt của nó như muốn
lôi cuốn cả mình vào trong. Hồi Cảnh truyền cho Thạch hai quyển gối đầu giường
của mình là Principes fondamentaux de la philosophie và Principes
élémentaires de l’économie politique, Thạch bỏ cả gần năm học không để ý đến
thi cử để nghiền ngẫm Marx; Cảnh hỏi: Cậu có hiểu nổi không? Thạch: Phải cố
banh óc ra mà hiểu, người thủ thư lúc đầu rất dè dặt khi cho mượn sách, lưu ý
Thạch nên cẩn thận, và Thạch nói: Xem chơi thôi mà, xem cho biết. Cả buổi sáng,
Cảnh không giáp mặt Trọng. Thư viện vơi dần, buổi trưa nặng đến êm ả, màn ánh
sáng cũng không thấy chuyển đổi. Khi Cảnh gấp tập La Révolution française
của Soboul lại, ngoái cổ nhìn lên chiếc đồng hồ treo, đã một giờ trưa. Cả phòng
đọc sách không còn một người, trừ ông già ngồi ở bàn gà gật trước tờ báo hằng
ngày trải cả hai trang. Cảnh xuống sân, vào nhà chứa xe, ăn trưa. Người chồng
úp chiếc mũ vải lên mặt, nằm dài trên ghế, người vợ tựa lưng vào tường lim dim
mắt. Cảnh gõ gõ vào mặt kính đánh thức. Một cái bánh tây, cốc cà-phê sữa, xong bữa trưa.
Vào khoảng ba giờ An đến, nét mặt hốc hác, mắt lờ đờ thất thần thiếu ngủ, ngồi
trước mặt Cảnh, khoanh hai tay trên mặt bàn, nhìn thẳng mà như không thấy Cảnh.
Một lúc An hỏi: Thấy Đồng không? Cảnh lắc đầu; hay là nó ốm nặng? Chết? An vừa
nói vừa cười nụ cười ngơ ngẩn. Cảnh nhìn chăm chú, xét đoán tâm trạng của An, rồi
lại cúi xuống trang sách và An bỏ đi lúc nào Cảnh không hay. Nhiệt độ buổi chiều
rớt một cách đột ngột theo với màu ánh sáng phủ lên từ lúc nào trên da mặt cảm
giác tê lạnh. Đèn trong phòng bật sớm, các lò sưởi dưới các chân cột lớn được đốt
lên, những bóng đèn trắng đục lớn treo bằng giây xích tỏa một thứ ánh sáng dịu
nản. Cảnh rời thư viện về quán cơm trọ. Đứa con gái nhà trọ vừa dọn bàn vừa
than thở với mẹ về chợ búa đắt đỏ. Bữa cơm dọn lên trên hai ba cái đĩa nhỏ một
món kho, một món xào, đĩa dưa và một bát chiết yêu canh váng mỡ. Tráng miệng một
quả chuối quắt, vỏ thâm ướt nước. Ngoài đường người qua lại hấp tấp trong một
cơn mưa rắc bụi. Từ cái ra-đi-ô đặt trên xích-đông gần quầy phát ra tiếng
hát ân tình nỉ non. Trong một thoáng, Cảnh rung động vì giọng hờn oán kể lể của
nữ ca sĩ. Phút rung động thật ngắn đào một hố trống, trong cảm xúc, Cảnh nghe
giận cái tiếng hát đìu hiu vô tư như một luồng gió tan lẩn trên các chòm cây.
Không thể còn sự ngây thơ, không thể còn những mơ mộng vô tội, người ta chỉ có
thể mơ mộng bằng kiếp sống, bằng hành động. Chỉ còn có thể một giấc mộng… giấc
mộng của những Robespierre, Saint-Jus, Marat…
Ngoài đường mưa chỉ
vừa đủ bám lên áo dạ, Cảnh thầm mong Trọng không trở về nhà và cũng mong Trinh
không đến. Cảnh không về thẳng, đi vòng đến thăm Hương. Hương đang ngồi đọc
truyện Tàu cho bà mẹ nghe, bà ôm cơi trầu trong lòng mắt mơ màng. Hương nói:
Anh có thể đi sớm được… Vừa có người vào. Ngày kia anh đến tôi, tôi sẽ đưa anh
đi gặp. Bà cụ già nhai trầu bỏm bẻm, hấp him ngắm Cảnh. Người anh lớn của
Hương, công chức ở sở Thông-tin,
ở trong buồng đi ra, bắt tay Cảnh và cũng nói: Nếu tôi không có gia đình, không
bận gánh nặng… tôi cũng đã ở lại ngoài kia rồi. Câu chuyện xoay quanh các nhân
vật đang cầm quyền, thành tích, dĩ vãng, những âm mưu bẩn thỉu. Áp-phe sợi, gạo, muối, áp-phe thiết lập thị xã Đồng-quan. Hơn tám giờ Cảnh mới
rời khỏi nhà Hương. Trinh đứng đợi ngoài ngõ, dưới gốc cột đèn, áo nhung màu
huyết dụ. Cảnh đi tới và hỏi:
– Cô không xem kịch?
– Em đợi anh.
– Cô có gặp ai
trên buồng tôi không?
– Không.
Trọng không về, có
lẽ anh có giờ tại Văn-khoa.
Cảnh rút khăn tay lau da mặt nhờn nhớp bụi nước.
– Cô lên buồng
chơi không?
– Em hẹn con bạn đợi
ở nhà Hát lớn
Trinh chờ Cảnh
nói, ôm chiếc sắc tay vào ngực như muốn che gió, vén cổ tay xem đồng hồ.
– Cũng gần đến giờ
rồi, tôi đưa cô đi.
Trên vỉa hè, men
theo bờ tường Hỏa Lò, đèn sáng không bóng cây che. Tiếng guốc cao gót kêu nhịp.
Trinh bọc hai tay trong mép vạt áo trước giữ thẳng. Đường Hai bà Trưng rộng, ướt
bóng chạy hút theo ánh điện và cây vào trong tối.
– Em thích đi bộ
dưới trời mưa, đi mãi cũng được. Nhiều tối học bài, trời mưa em chỉ muốn được
khoác áo mưa ra phố mà không được… Anh có thích như thế không? Có khi các anh
là con trai, các anh được tự do nên các anh không hiểu được tâm hồn bọn con gái
chúng em…
– Mưa tôi chỉ muốn
ngồi nhà. Ra ngoài rét lắm…
Cảnh cất tiếng cười
nhẹ nhõm, tiếng cười như của một người khác. Muốn nhớ một vài câu hát, một câu
thơ… mà không thuộc nguyên vẹn một câu nào. Lối mòn thơm mãi… Những chiếc xích-lô vượt qua mặt nhẹ nhàng
êm ái. Trinh đi ngang qua đường sang phía vỉa hè ít ánh sáng. Lối gạch lát cỏ
len lấn hai bên.
– Tạnh mất mưa rồi.
Lần thứ nhất em được đi chơi ở phố vắng này… một mình. Anh cứ nghĩ xem tối đến
là bọn con gái đóng chặt cửa bị giam ru rú trong nhà. Đêm tối thành ra là của
riêng của con con trai. Hễ đứa nào thích đi lang thang buổi tối là các cụ cho
là hư rồi. Một mình… ngoài phố vắng là người ta nghĩ không tốt. Có công việc gì
phải đi qua thì vội vàng hốt hoảng đâu còn đầu óc mà hưởng thú vị. Phải không
anh? Tại sao con gái không có thể đi dạo chơi ban đêm như con trai những lúc buồn
bực. Đêm trong thành phố quyến rũ lắm chứ. Em chỉ muốn được đi không mục đích rồi
về nhà ngủ một giấc chắc ngon.
Trời lộ ra trong
những khoảng trống của vòm cây, sáng vàng từng nhịp ánh pha rọi ngang.
– Không thơ mộng
như cô tưởng đâu. Cô quên rằng cô đang ở trong một thành phố chiến tranh, thành
phố bị chiếm đóng… Bất cứ lúc nào…
Cảnh bỏ dở câu
nói, không nên khuấy phá phút mơ mộng của Trinh, cũng chẳng lợi ích gì. Những
thiếu nữ tiểu tư sản thành thị không nhận thức nổi những quy luật xã hội như số
mệnh khốc liệt của mình. Để cho Trinh được đi trong màn đêm huyền ảo của nàng
và Trinh sẽ tới gặp… Bước của Trinh chậm, lúc nào Cảnh cũng đi trước một vài
viên gạch và thỉnh thoảng đứng lại đợi.
– Cô có đến kịp
không? Bạn cô sẽ sốt ruột. Hay đi xe, cô đi xe đi… tôi về.
– Không. Mặc cho
nó đợi. Không thì nó vào xem một mình… Chẳng mấy khi em được đi trong phố đêm.
Anh bảo thành phố chiến tranh, bị chiếm đóng… Mình tránh đi. Rẽ đi anh. Đừng đi
qua chỗ kia… Vẫn phải còn những phố riêng của mình chứ. Đêm vẫn còn những lúc
không có tiếng súng.
Tránh cái quán rượu
sáng trơ giữa đại lộ vắng, nghêu ngao tiếng hát của anh lính Tây say ma
petite folie, ma petite folie… Trinh đẩy khuỷu tay Cảnh rẽ vào con phố nhỏ
ngang, hai bên biệt thự rào cây kín.
– Năm nay cô Trinh
bao nhiêu tuổi nhỉ?
– Mười chín tuổi
tây, hai mươi tuổi ta.
– Học xong cô định
làm gì?
– Em không biết.
Vỉa hè hẹp chỉ vừa
đủ mình Trinh đi, Cảnh bước dưới đường. Trinh bứt những lá cây bên các rào ném
xuống.
– Mai kia yên, em
chỉ ước được sống ở nhà quê. Em không quên được kỷ niệm mấy năm tản cư. Ở nhà
quê, làm vườn, đọc sách, nuôi con…
Trinh thốt cười
nhí nhảnh, tưởng như giấc mộng ấy trong một ngày gần đã tới. Không biết rằng xã
hội này còn nhiều vấn đề phải giải quyết còn phải chịu xáo trộn nhiều năm… Chiến
tranh còn dài lắm và cái trang trại trong mộng tưởng của Trinh cũng là một mục
tiêu bị tấn công.
– Tôi sống mãi ở
nhà quê, chán lắm. Như thế cô cần phải lấy chồng thi sĩ mới được…
– Chồng làm ruộng
không được hay sao anh?
– Lãng mạn… Cô
không biết rồi xã hội mình phải cách mạng. Hiện thời người ta đang làm…
– Cách mạng… em có
bảo không cách mạng đâu. Thế cứ làm cách mạng là phải diệt trừ mơ mộng, là
không…
– Cô còn ngây thơ
lắm.
Trinh nín lặng như
bị đè nén, ấm ức, dừng lại. Con phố nhỏ mở ra một đại lộ, bên kia đường là chiếc
cổng sắt của một hãng xưởng lớn. Không có chỗ cho Trinh, không thể bận tâm, những
người như Trinh phải bị hy sinh cùng với những giấc mộng tiểu tư sản. Trinh
nhìn theo chiếc ô-tô
chạy ngang, lặng lẽ xuống đường rẽ về bên trái và lại thủ hai tay giữa vạt áo
trước. Cảnh không biết lúc này là mấy giờ, lối đi dẫn về khu Đại-học.
– Trong lớp em, dạo
này chúng nó hoạt động chính trị hăng lắm… Truyền đơn rải lung tung trong giờ học.
Không còn biết đâu mà đọc nữa. Mấy con bạn thân của em cũng chê em là ngây thơ,
mơ mộng, lãng mạn, lạc hậu, không chịu tham gia phong trào… Em thì em nghĩ có
mình hay không cũng chẳng thiệt hại gì cho ai. Nếu mình lấy đấy làm lý tưởng, lẽ
sống của đời mình thì khác… Còn em, em không có đầu óc cách mạng, em chỉ nghĩ
được những điều thường thường…
Đế guốc của Trinh
giẫm lên trên một đoạn lá khô trải lót vỉa hè nghe lạo xạo tiếng gẫy dập của
cánh lá. Trinh sẽ lấy một người chồng và sẽ trở thành bất cứ một người đàn bà
nào theo ý muốn khuôn nặn của chồng. Trinh sẽ sung sướng hay khổ sở? Hạnh phúc
cũng như tự do chỉ là huyễn hoặc trong một thế giới đang băng hoại. Cảnh nhìn
chiếc bóng in trên hè chuyển động theo bước đi và theo ánh sáng của những ngọn
điện cách quãng đều đặn.
– Bao giờ thì anh
đi? Ngày nhất định ấy…
– Tôi chưa chắc chắn.
– Anh ra hậu
phương có phải không?
– Làm sao cô biết?
Trinh không đáp,
đưa một tay lên gỡ tóc xòa trên trán. Cảnh ngoảnh mặt chỗ khác, tránh cái nhìn
của Trinh. Gió thổi là, cuốn một góc vạt áo nặng. Bên góc phố tối, một gánh
bánh tây và cà-phê
đỗ không có khách nhưng vẫn đang quạt bếp. Cảnh đứng lại mua thuốc là và hỏi:
– Cô uống cà-phê không? Có dám không?
Trinh đứng vịn vào
đầu chiếc tủ kính, ngần ngừ:
– Đằng nào đêm nay
em cũng không ngủ được…
Cà-phê đắng làm Trinh nhăn cả
mũi. Người đàn ông bán hàng đội mũ dạ sụp tò mò quan sát Trinh, áo của Trinh mới
và sang quá so với bộ quần áo của mình. Cảnh nghĩ mình bắt đầu nghiện cà-phê thuốc lá, những thú
tiểu tư sản khó dứt, bỏ đi là vừa. Cái xã hội này sẽ chiều chuộng mình, tạo nên
những thói quen để giam hãm. Nhà thương Đồn Thủy ở trong phố đầy cây tối hơn,
chiếc sân cỏ phẳng chạy dài mở rộng dần hết phố hàng Chuối. Khuya lắm rồi, khói
thuốc bị gió thổi hết hương vị.
– Làm sao cô biết
tôi ra hậu phương?
– Em phỏng đoán thế.
Các anh nếu không đi lính thì chỉ có thể ra hậu phương…
– Cô nhầm. Có thể
trốn ở trong này cũng được…
Những tòa nhà của
trường Đại học sừng sững trong bóng đen. Một đôi cặp tình nhân bình dân lẩn lút
đứng dựa các gốc cây. Cảnh ngượng hộ Trinh nhưng hình như Trinh không chú ý đến.
– Anh đi anh có buồn
không?
– Có gì mà buồn.
Tôi không phải là dân Hà-nội mà…
– Anh không nhớ đến
một cô nào… Người ta đợi anh và có thể đêm đêm người ta khóc nhớ…
– Cô nào? Không ai
yêu tôi và tôi cũng chẳng yêu ai hết.
Cảnh cười, tiếng
cười nhẹ mỏng rớt mau, dừng chân châm nối điếu thuốc mới. Bắt đầu thấy chóng mặt
nôn nao như những đêm đi nhiều, nói nhiều, hút nhiều, thuốc lá với Thạch và Đồng,
giữa những cơn gió lạnh.
– Anh hút nhiều
thuốc lá quá.
– Mới chỉ có ba điếu.
– Nhưng anh hút liền
không nghỉ.
– Không hề gì. Ra
ngoài kia là hết hút thuốc.
– Anh đi chắc còn
lâu mới về Hà-nội.
– Tùy tình hình.
Có thể nhanh, có thể chậm, nhưng chắc chắn là thế nào cũng phải về Hà-nội.
Lúc ấy Thạch ở
đâu? Đồng ở đâu? An ở đâu? Trinh ở đâu? Chắc chắn là về. Có phải bỏ đi vì biết
chắc chắn được trở về? Còn Thạch?
– Vở kịch dài. Sợ
đến giới nghiêm mới tan.
– Em không muốn
xem nữa…
– Cô nên xem cho
biết… Vở kịch hay… Còn buổi nào nữa không? Còn tôi cũng phải đi xem.
Trên thềm nhà hát
Lớn vắng lặng, đèn sáng, không bóng người. Cảnh đưa Trinh đi giữa khoảng công
trường rộng, tiến lên từng bực chậm chạp.
– Hay thôi em về…
Chắc nó vào xem rồi.
– Cô cứ vào thử
xem. Nhỡ cô ấy đợi thì sao.
– Chắc nó chẳng đợi
đâu.
Cảnh bước vào
trong vùng sáng rỡ của hành lang ngoài nhà hát. Khuôn mặt Trinh lộ lên như một
con trăng mọc, con trăng đột ngột mọc lúc nửa đêm giữa cảnh u tịch, ngửa nhìn;
cặp mắt mở lớn được ủ trong những ý nghĩ ngủ chết. Trinh, Trinh, đây này… bắt
tao đợi lâu quá. Mới xong màn tự mộ thôi. Cảnh quay lưng đi mau xuống các bực
thềm, rẽ ra bờ sông và ngồi nghỉ trên băng đá công viên trước viện bảo tàng.
Khi Cảnh trở về đến nhà, nghe vắng lặng tứ bề, người thiếu nữ cuồng trí không
lên cơn nữa sao. Trọng chưa về, hay không về. Không đóng cửa buồng, không bật
điện, không cởi quần áo, Cảnh nằm dài trên phản nhìn bóng tối.
✳
An ghé nhà; Người
tớ gái mở cổng báo tin: Thưa cậu, bà đã về sáng nay; Bảo cô Nga, tối nay tôi ăn
cơm nhà, và nhảy xe điện xuống thẳng Đồng. Đứng bên cạnh người “vát-man” lầm lì, mắt hướng thẳng
về phía trước, chân đạp chuông liên hồi mỗi khúc quanh, bánh sắt nghiến rít, lá
khô cuốn chạy sào sạc theo sức hút của tàu. An nhỡ một trạm đỗ và đến trạm cuối
đường Thụy-khê
phải đi bộ ngược lại, giữa một phố buôn bán thưa thớt như một thị trấn vắng. Cổng
ngoài nhà Đồng mở. Đồng có vẻ yếu mệt trở lại, đang ngồi xệp trên hè nhìn hai
con chó nô rỡn dưới sân. Tóc không chải rối loạn, mắt trương lồi, ướt, nhiều
vân máu, da xanh mét, môi tái thiếu máu; nhưng nụ cười vẫn vỗ về ấm áp. Đồng hỏi:
Đi đâu đấy? Sao không gặp ở trường? An cũng ngồi xệp xuống bên cạnh: Tưởng cậu ốm,
tôi vừa gặp thằng Cảnh ngoài thư viện. Một con chó bỏ chạy lại ngửi chân An và
giật lùi, trong khi con khác vẫn lăn lộn theo cắn cẳng nó. Đồng quát: Chỗ khác,
chúng mày… Sao không rủ cả Cảnh xuống chơi. Mới đi được mấy hôm đã thấy mệt,
không thấy hứng thú học. Đồng dẫn An ra vườn, đứng dưới một gốc nhãn, hỏi: Thế
nào? Có gì thay đổi? Có, có. An ngước nhìn khói bốc khét bên kia bờ tường, bay
tản mạn trong các đám lá, người ta đốt những lá khô rụng trong vườn. Đồng nói:
Hả, ông cụ lên rồi hả? An mỉm cười chua cay, ông có quyền làm như vậy, nhưng
tôi phải gánh lấy trách nhiệm về hành động của ông… Chắc chắn là tôi phải từ chối
làm đồng lõa ông. Đồng: Tôi nghĩ mình chẳng làm nên cái gì thì tự dằn vặt mình
làm gì cho mệt. Đến đâu hay đấy. Cậu cứ nhân cơ hội này bảo ông cụ cho sang Tây
học… lúc nào tình hình sáng sủa thì về cũng không muộn. Ở đây mãi cũng thế
thôi. Hắn nói thực hay mỉa? Chúng nó ở lại chết dần mòn, vô nghĩa, còn mình…
Mình cũng sẽ phải như chúng nó, nghĩa là chết dần mòn, không thể thoát thân lấy
mình. An hỏi: “Thành thực cậu nghĩ như thế… cũng như thằng Cảnh. Tôi không thể
tự giải thoát khỏi những mối liên hệ gia đình, giai cấp?” Đồng tụt một bàn chân
ra khỏi guốc gác lên thân cây: “Không… tôi không đặt vấn đề theo lối ấy. Tôi
cho không nên… không nên đặt vấn đề… Tại sao? Tại sao hả? Tôi nghĩ là các vấn đề
đều được đặt và giải quyết bằng các ý niệm… ý niệm trừu tượng”… Đồng thun mũi tự chế riễu,
ngắt ngang lời, sỏ chân vào guốc, phủi những con kiến đen bò nhanh trên tay áo.
An ngắm kỹ Đồng hơn, đôi lông mày rậm sếch, hàm râu xanh lởm chởm ôm khuôn mặt
vuông, có thể sẽ chết trước khi trở thành một thi sĩ. Những ý nghĩ, những con
vi trùng, cuộc chiến tranh tàn phá, cái xã hội cạn nguồn sinh lực… bóp nghẹt dần
nó, tất cả, cả một thế hệ…
– Chính chúng ta
có thể gọi là một génération perdue. Phải không Đồng? Không tin tưởng, lạc
lõng… Các bậc đàn anh, cha chú ở ngoài kia cũng như trong này đều chống lại
chúng ta… Hay chúng ta chống lại họ cũng vậy. Thế hệ trước chúng ta họ có lịch
sử và chúng ta thì không. Chỉ còn một thái độ hư vô. Nous sommes perdus…
Đồng lẩm bẩm nhắc
lại câu của An… perdus và cười khí khí: Có thuốc không? Đồng hít hơi thuốc, vẻ
say sưa ngon lành, đi khỏi gốc cây nhãn tiến tới phía bụi chuối và đu đủ sát
chân tường, đứng tiểu tiện. Đồng hỏi: “Xuống bằng tàu điện hả?” An đuổi theo.
– … Như thằng Thạch
đấy? Nó phiêu lưu… Tôi nhớ một lần nó có nói: nó đi lính là đánh giặc mướn,
đánh giặc mướn ngay tại xứ sở của mình. Cũng như bọn Lê-dương vậy… Nó nói lâu rồi…
Mình rồi có làm gì cũng đến như thế. Tiêu tan dưng không chẳng ra cái gì cả.
Đồng đi trở lại,
ném mẩu thuốc xuống đất, lấy guốc đi: “Thôi cậu nói mãi cái chuyện ấy chán ghê.
Cứ luẩn quẩn, loanh quanh…” An quên hẳn ý định thúc giục mình xuống gặp Đồng,
ngửng nhìn trời đang đùn những đám mây khói. Phải, thôi đi, im lặng đi, nhắm mắt
vào lao mình tới… Mẹ Đồng từ bên mảnh vườn trồng rau, tay xách những nắm cỏ mới
nhổ đi sang; bà hỏi: Cậu nào đấy? và An đáp: Thưa con. Bà cười bảo: Cậu ở lại
chơi ăn cơm với em nó. An từ chối, Đồng nháy mắt và dẫn An đi trở vào sân gạch,
thủng thỉnh ra ngõ. Đồng nói: “Cậu viết đi?” Hỏi viết cái gì mới được. Viết
không phải là một lối quên, viết là phải chạm trán rõ rệt hơn với cái thân phận
của mình, viết để làm gì? Đồng bảo: “Viết chuyện tình chẳng hạn; tôi giúp cậu một
đề tài: một thanh niên như bọn mình chẳng hạn, ban ngày hắn bận tâm thảo luận,
lo lắng tìm kiếm lịch sử và đêm đến hắn giam mình trong phòng kín, trần truồng
viết thư tình, toàn là thư tình không có đối tượng…” Đồng cười dài tiếp: “morbide
hả, cậu thấy thế nào?” An đáp: “Nó vẫn chỉ thấy nó, thấy nó một cách mù tối hơn
và chắc chắn là nó thủ dâm”. Đồng vỗ mạnh vào vai An: Bon écrivain.
Ngoài đường cái hai anh lính tây đen chân dài lòng cong lưng cưỡi hai chiếc xe
đạp lảo đảo đuổi nhau, la hét ầm ĩ. Đồng đứng lại bên đường sắt: “Cậu thử viết
xem”. Chuyến tàu điện lên phố, chạy ngang và đỗ lại cách chỗ đứng vài chục thước.
Không định trước An bắt tay Đồng bảo: Về đây và chạy đuổi theo tàu sửa soạn
chuyển bánh. Nhà vẫn như chưa có ai về. Đi ngang buồng Nga, cửa mở nhưng không
thấy người. An vào buồng riêng đóng chặt cửa, thay quần áo, lên giường nằm. Đầu
óc trống rỗng, giấc ngủ vùi kín mít, thân xác bở rã như đất khô nắng. Lúc An tỉnh
lại, mất phương hướng, không hiểu đang nằm chỗ nào. Buồng tối đen, cửa sổ không
mở, An mò mẫm trong bóng tối, mở cửa kính và cửa chớp. Mưa bụi mơ hồ trên các
lá cây trong vườn, ban công nhà đối diện sáng đèn, buồng bên cạnh nghe tiếng
dép của Nga. Nga đến cửa sổ buồng, ngó đầu nhìn sang hỏi: “Anh về bao giờ đấy?
Em tưởng anh chưa về?” Rửa mặt mũi xong vào bàn ăn, An chỉ gặp Nga. Bà cụ đi với
bạn, giải quyết mấy công việc cần, không ăn cơm nhà; sẽ dọn cả gia đình vào Sài-gòn trong vòng tháng này,
Nga nói vậy. An nói: Thế hả? rồi cắm cúi và cơm. Trong ra-đi-ô, một nữ ca sĩ đang nức
nở rên rỉ, Nga buông bát định đứng dậy tắt máy. An nói: “Để nghe mày.” Nga cau mày: “Em không
hiểu tại sao anh lại nghe được loại nhạc lải nhải này”. An bảo: “Bình dân mà…
Tao mơ mộng một cách bình dân thế thôi”. Khi ăn tráng miệng, Nga hỏi: “Vào Sà-gòn, anh nghĩ thế nào?” An
ngồi thoải mái trong ghế dựa, nhấm nháp tách cà-phê đậm hỏi lại: “Cô nói
trước nghe thử xem.”
Nga lộ vẻ đăm chiêu, ngừng tay xỉa răng: “Xa Hà-nội buồn; nghe nói Sài-gòn ồn và hỗn tạp lắm.” Có lẽ nó bỏ lại Hà-nội
một anh chàng thất tình nào? Nó yêu ai? Có thể là một đứa mình vẫn gặp ở trường
Đại-học
mà không biết, một anh bác sĩ tương lai, nối nghiệp bố vợ, một anh bộ trưởng
tương lai… Và nó trở thành một bà mẹ thứ hai khuôn đúc. “Chắc anh thích vào Sài-gòn đổi không khí?” An lắc
đầu hỏi lại: Nhất định rồi. Nga đáp: “Mợ nói thu xếp xong việc có thể đi sớm
hơn; em nghe nói có thể anh vào trong ấy trước… cậu gọi”. Lúc này là lúc quyết
định, không thì sẽ không bao giờ, tôi phải quyết định. Phải tách rời khỏi cái
quá khứ đã tạo thành mình. Tôi sống một cuộc đời khác do tôi lựa chọn và tạo lập.
Tôi sẽ trở nên? An trở lên buồng, dặn Nga: “Tao mệt đi ngủ sớm đây…” Nga nhìn bằng
con mắt khác lạ như muốn soi thấu tâm trạng.
An mở tung các
cánh cửa tủ quần áo và đựng sách để nguyên, đến ngồi trước bàn viết, suy nghĩ
không biết nên mang theo thức gì. Mọi thứ đều như cần thiết, quen thuộc không
thể thiếu, quá khứ thật là nặng. An rút trong ngăn bàn tập sổ ghi chép những ý
nghĩ bừa bãi, những thắc mắc loanh quanh, những nhận xét đột ngột không ngày
tháng rõ rệt đã bỏ quên hẳn lâu ngày không thể hình dung lại được tâm trạng của
thời khắc
đã chôn vùi. Tiếng kèn xe hơi gọi ngoài cổng. An vội tắt đèn, ngồi trong bóng tối
lắng nghe tiếng chân chạy vội trên lối sỏi, cánh cửa sắt được kéo mạnh, giọng
nói thanh tao đài các của mẹ hỏi chuyện người nhà. Giọng nói ấy vang âm dưới
phòng khách lẫn với giọng của Nga ấm và trầm hơn một cấp, tên An được nhắc đến.
Rồi một ngày sẽ tới, cái tên ấy sẽ thưa được nhắc đến ở đây… Trong ánh sáng mập
mờ của ngọn điện ngoài hè phố xuyên qua các lùm cây trong vườn, An xếp một vài
món đồ cần thiết nhất, ba bộ quần áo vào một sắc tay du lịch. Không đem theo một
quyển sách nào, không phải là ngày nghỉ về quê hay ra biển tắm… Những quyển
sách như môi giới của thế giới khác, trở nên vô dụng, chính tôi tôi đi đến những
thế giới ấy và có thể tôi sẽ tạo nên những quyển sách của tôi. An thức rất
khuya nghe im lặng của phố phường lùa lên theo những cơn gió, mệt bã người, nỗi
nhọc mệt cắn rứt lại như moi nhớ nhung kêu gọi một thân thể khác ôm ấp vỗ về
mơi yêu. An tưởng đến Phúc, những cử động nghèo nàn trần trụi không thoát khỏi
thói quen khêu gợi dục tình và sự kinh tởm. Qua cửa sổ An nhìn thành phố câm
nín trong giờ giới nghiêm, hiện lên trong ánh đèn vàng những bóng cây lớn sù
sì, mái nhà lô xô, mặt đường lá lăn chạy nghe tiếng ầm ì của nhà máy đèn vọng tới.
An chợt vểnh tai chú ý tới tiếng sầm sì trong buồng Nga, đèn tắt tối om, tưởng
như tiếng người trò chuyện. Một lát nghe rõ hơn chỉ là giọng của một người nho
nhỏ đều đặn như đang cầu kinh. An ngạc nhiên, đứng lặng trong tối, tĩnh trí,
đúng là Nga đang đọc kinh; mi mắt nặng chĩu, tay chân không muốn cất nhắc nhưng
thân trí tưởng như tỉnh táo lắm, Nga đang đọc kinh, nó yêu một đứa theo đạo, nó
buồn, sợ… An ngủ đứng một chỗ, không biết là bao lâu, và khi giật mình thì
phòng bên cũng đã im tiếng. An chập choạng nửa thức nửa ngủ vào giường vùi mình
vào trong chăn, tự nhủ: Mai, mai đi. Cần một món tiền. An dậy muộn và khi qua
phòng khách, chỉ gặp Nga đang ngồi tiếp Hán, thư ký riêng của ông bố. Hán đã bỏ
đôi dép cao su ngày mới hồi cư, bộ quần áo tây vàng xin được của lính ngày ra
khỏi camp Máy Chai Hải-phòng,
được thay bằng bộ complet màu sáng, đầu tóc ngắn bờm xờm đã cắt tỉa thành một
mái chải gọn như cái chứng tích cuối cùng cố ý lưu lại cho mọi người thấy hắn
là một cựu cán bộ kháng chiến về thành. Không hiểu ai giới thiệu Hán với ông bố,
ít lâu sau khi nghe hắn nói chuyện tại nhà Hát lớn với tư cách một cán bộ kháng
chiến phản tỉnh trở về, An gặp hắn đến bàn luận với ông bố và được coi như người
thân trong gia đình. Hán gọi ông bố và bà mẹ An bằng anh chị và được gọi lại bằng
chú. Hán bắt tay An siết mạnh mời: “Anh ngồi chơi, giọng Nghệ-tĩnh nặng nề chối tai, Đồng
đã phê bình: Nghe cái giọng xứ Nghệ cứ lạnh cả xương sống, chỉ thấy những sắt với
máu. An ngồi xuống nhìn Nga, nghĩ tới tiếng đọc Kinh nửa đêm và nghi hoặc không
rõ mình có thể là nằm mê không. Hán nói ông cụ dặn hắn ra mời An vào Sài-gòn như một người cộng
tác. Nga xen lời: “Cậu cũng gửi tiền bảo anh đi kiếm mua hộ một ít sách cần
dùng mang theo vào”,
trao cho An một cái phong bì lớn dán kín, Hán nói tiếp: “Trong ấy có cả tiền vé
máy bay của riêng anh. Ông cụ nhờ tôi nói cẩn thận với anh là không phải vì bố
con mà nhờ anh. Ông cụ hiểu giá trị của anh. Dù có bất đồng ý kiến chăng nữa,
ông cụ vẫn tin là anh sẽ làm được việc. Đây là dịp để anh làm việc, ít nhất
cũng có hiểu biết thực tế. Ông cụ định mời anh làm Tham chánh văn phòng…” An
mân mê chiếc phong bì trong tay, hỏi Nga: Mợ đâu? Hán thuyết về sự tiêu cực
trùm chăn của các trí thức trong thành không dám dứt khoát lập trường tư tưởng.
“Tôi cũng thấy như anh và nhiều lần tôi cũng đã bàn với ông cụ. Đồng ý là thối
nát, là không có quyền chủ động nhưng nếu cứ thụ động thì biết đến đời nào mình
thay đổi được tình thế. Chỉ còn có nước đợi Cộng sản về và đi công trường hết cả.
Anh thấy không? Mình phải lăn vào, làm cái gì để thức tỉnh người khác chứ. Tôi
đã sống với Cộng sản, tôi không thể khoanh tay mà nhìn chúng nuốt nốt cái vùng
chúng ta có thể cướp làm của chúng ta”. An mỉm cười làm bộ chăm chú lắng nghe,
thái độ nhiệt thành hăng say của Hán chỉ làm mình thêm chán nản. Hán tả Sài-gòn một cách mâu thuẫn,
lúc hắn thích thú vẻ nhộn nhịp tưng bừng sinh khí cởi mở không gò bó như Hà-nội
lúc hắn bất mãn hằn học về cái xã hội trụy lạc ngoảnh mặt với chiến tranh và lý
tưởng. Nga xem chừng cũng sốt ruột nhấp nhổm, chắc nó có hẹn. An ậm ừ cho qua
câu chuyện: “Tôi đâu đã già để chùm chăn, ông cụ không muốn cho tôi đi Pháp nữa
à?” Hán đáp: “Ông cụ nghĩ rằng anh không thích đi, anh muốn làm việc… Để anh
làm ít lâu rồi trở về học cũng không muộn”. An tự hỏi: cái gì đã cố kết Hán và
ông cụ? Lý tưởng chăng? Hán là cái mẫu người của một chế độ, orgueilleux et
prétentieux, hắn muốn biến mọi người trở nên giống như hắn để chống lại cái
chế độ đã tác thành hắn. An đứng lên: “Ngồi chờ bà cụ tôi hả? Tôi xin lỗi đi
chút việc riêng”. Hán đi theo ra tới ngoài hành lang phòng khách: “Đây là cơ hội
tốt cho chúng ta…” Chúng ta, tôi ở trong cái chúng ta ấy ư? Không đời nào, An bỏ
đi thẳng. Bước xuống xích-lô,
An tần ngần trước cổng tò vò dẫn vào khoảng sân rộng yên tĩnh một cách đáng ngại.
Từ giờ phút này, tôi phải làm chủ, chủ hết thảy: đời tôi, đời Phúc và đứa con của
Phúc. Phúc đang ngồi chơi với con ngoài bàn, da mặt hồng hào mạnh khỏe, nụ cười
tự nhiên như đã quên hết quá khứ. “Lân lại vừa đến đây, em không tiếp. Em nhất
định đuổi, cãi nhau với bà cụ…” An đóng cửa buồng, ngồi xuống ghế: “Thế hả? Tốt
lắm.”
Rồi An ngồi im, nhìn bức ảnh đức Mẹ đặt trên đầu tủ nhỏ. Đứa con quờ quạng
nhoài sang tay ghế An ngồi, Phúc đẩy nó sang. An bồng lấy, vừa khó chịu vừa buồn
cười, cúi xuống nhìn thằng nhỏ. Không có một mối liên lạc nào, trừ mối tự mình
ràng buộc lấy nó, lớn lên nó phải nhận. Tội nghiệp. Nét mặt Phúc hân hoan sung
sướng rõ ràng, An mỉm cười. An trao trả con cho Phúc: “Em phải đi tìm nhà khác…
Bà cụ có thể ở lại đấy. Bà ấy có thể sống một mình không cần đến em.” Phúc cúi đầu suy nghĩ.
Em, em cũng phải lựa chọn và hy sinh như anh vậy. Biết không? Chỉ có như thế, mới
có thể… “Anh muốn như thế. Em phải dứt khoát…” Phúc thở dài, nàng ôm sát đứa
con vào trong ngực. “Còn con?” “Anh là cha của nó.”
CHƯƠNG III
Mùa đông tới đúng
kỳ, những ngày đầu mùa khô se, không khí giá lạnh, trong gió như lẫn cát nhỏ và
sắc. Triệu chứng suy nhược, bệnh chưa khỏi tuyệt. Buổi sáng ra khỏi giấc ngủ buồn
bã mệt mỏi, da trơn nhờn như da lươn; trưa xế khi cơn sốt tới chậm chạp âm ỉ,
hơi thở hụt, bần thần rã rượi, ngực trống hấp, cơ thể đìu hiu như bãi đất
hoang. Đêm phải mặc hai áo len, chân đi bí tất, đắp cái chăn bông dầy nặng hơn
của mẹ. Những lúc thức giấc mồ hôi thấm đầy ngực và lưng, ngoài trời tối đen
gió bấc thổi, nằm co quắp khiếp hãi viển vông, cảm tưởng như thân thể không có
gì che chở kín đáo trước những nguy hiểm bất ngờ. Nhiều đêm thao thức trở mình
tìm một thế nằm an toàn nhưng vẫn thấy hớ hênh dại dột, tay chân mình không thể
che chở cho mình. Cái chết hung tợn rình mò, đột nhập vào những khoảng trống;
khi mệt thiếp mơ thấy bị đâm thấu lưng vào phổi, cảm giác đau buốt tê rát còn đọng
rõ rệt ở đúng chỗ lúc vùng tỉnh thoát cơn mê. Đồng mất ngủ, thường phải ngủ bù
giấc sáng sau khi điểm tâm, trên võng trong gian nhà vắng vẻ hay tựa gốc cây
sau đình chập chờn ru trí óc vào trong mặt nước hồ Tây buốt giá. Trằn trọc, Đồng
nghĩ về những giấc mơ của những đêm trước, có thể là của những năm trước, những
ảnh tượng còn đọng lại trong trí óc bền vững khiến Đồng bâng khuâng nghĩ là cảnh
đã sống thực nhưng quên khuấy tưởng mộng, thực đến độ có thể gặp lại liên tiếp
trong những giấc mơ sau; trong giấc chiêm bao Đồng nhớ một cách rõ rệt một vài
cảnh tượng đang diễn là của một giấc mơ nào đã thật xa trong dĩ vãng. Nga không
còn nữa, cũng như Hà, cũng như Phương. Lần cuối cùng gặp nhau là buổi tiễn chân
gia đình Nga vào Sài-gòn,
không có An. Nga đứng ngoài vỉa hè trước cửa hãng hàng không, chiếc sắc tay đặt
sát vào bờ tường đá mài nhẵn bóng mát lạnh. Trời nắng hanh, gió thổi dài từ bờ
hồ vào con phố Gia-Long
rộng thoáng không cây. Không còn gì để nói với nhau, cũng không có gì để nói,
cũng như mấy năm trước đưa Phương ở cùng chỗ này. Nga trầm lặng không cười nói
như Phương, tòa nhà gác cao Ritz mặt tường sáng trắng ngó chéo xuống những lùm cây
nghiêng dốc một bên hồ, dưới những gốc cây người qua lại. “Anh có gặp anh An
không?” “Không”. Bà mẹ của Nga đứng trong gian cân hành lý với một người đàn bà
khác và một người đàn ông, tướng ngũ đoản ăn mặc trịnh trọng vụng về. Nga giới
thiệu: “Thưa mợ, bạn của anh An”, bà nhìn Đồng bằng cặp mắt ác cảm coi như kẻ đồng
lõa với An. Bà hãy còn trẻ, đẹp, đài các, mẫu người được khuôn sẵn để làm mệnh
phụ phu nhân; đứng cạnh bà, đứa con gái chỉ còn giữ được vẻ tươi mát là của
riêng mình để nổi lên. Bà ngắm Đồng từ đầu đến chân: “Tôi ít gặp cậu đến chơi đằng
nhà”. Đồng chỉ trả lời bà bằng những tiếng vâng ngắn, không thêm lời nào trong
suốt buổi. Khi khó nói, Đồng liếc mắt cho Nga và Nga đáp hộ.
– Tôi không hiểu
thằng An nhà tôi nó định làm cái gì… Cậu là bạn của nó thế nó có bàn định gì với
cậu không? Các cậu ngày nay… tôi không hiểu được. Có phải nó mê gái không? Tôi
sợ nó bị người ta quyến rũ… yên ổn không muốn, các cậu chỉ muốn rước những việc
nặng nhọc vào thân… nếu cậu gặp nó, cậu làm ơn nói hộ tôi: bao giờ nó muốn về với
gia đình, muốn vào Sài-gòn
nó đánh giây thép báo cho chúng tôi. Cậu cũng khuyên nó hộ đừng vì tự ái mà làm
hỏng cả đời mình. Tôi cũng muốn để cho nó làm theo ý nó để cho nó hiểu đời hơn
một chút… Ai lại đang học hành bỏ dở… Để làm gì mới được? Tôi chắc là chỉ vì
gái thôi… Cậu khuyên nó hộ tôi.
Chiếc xe ca chuyên
chở hành khách sang phi trường đến đậu bên hè đường. Nga hỏi: “Anh có đưa em
sang Gia-lâm
không?” Đồng cười: “Không, anh không đi được.” Nga mở bàn tay vẫn nắm,
có một gói giấy xinh xắn kỹ lưỡng: “Em tặng anh… kỷ niệm.” “Cái gì đây?” “Về nhà
anh hãy mở… Anh không có gì tặng em à?” Không, tôi chẳng có gì, cả chính tôi nữa
rồi cũng không thành kỷ niệm. Cả món kỷ niệm của em, tôi cũng không giữ được.
Ngay những kỷ niệm do chính tôi tạo ra với Hà, với Phương cũng đã trôi theo
giòng nước… L’amour s’en va… Et je… Bà mẹ Nga trước khi lên xe
còn ân cần nhắn gửi lời cho An. Đằng sau tấm cửa kính không hạ, Nga nhìn xuống
hè, Đồng vẫy tay cười và quay lưng bỏ đi ngay khi xe mở máy. Món kỷ niệm của
Nga là một sâu chuỗi mang tượng Đức Mẹ. Đồng mỉm cười một mình, anh làm gì có đức
tin, vật này không có giá trị với anh và tình yêu em trao gửi trở nên vô nghĩa.
Cũng như Phương, Nga còn gửi cho Đồng một vài lá thư trước khi mất hút hẳn. Đồng
không trả lời, tình yêu rốt cuộc chỉ còn lại ở những phút mình với mình, nhưng
Đồng không còn thể làm thơ như ngày trước khi Phương và Hà bỏ đi. Héo cỗi rồi
chăng? Thay đổi rồi chăng? Trong một bức thư Nga báo tin nàng lên Đà-lạt học và có ý định phát
nguyện vào một giòng tu kín. Buổi chiều nhận được thư Đồng lên phố một mình,
thành phố đang rộn rịp đón Trung-thu.
Phố xá nườm nượp, các hiệu bánh giăng đèn kết hoa tấp nập, đồ chơi trẻ con bày
bán la liệt các góc phố – vẫn những món cũ kỹ nghèo nàn không thay đổi: đèn giấy,
tàu thủy, con bướm, trái đào bằng thiếc. Tối đến những phố chính từ bờ Hồ đến
chợ Đồng-xuân
nghẹt cứng những người xô đẩy nhau mà đi không thoát, quanh hồ Gươm người vây
kín không chỗ chen chân. Ánh sáng nhấp nháy rực rỡ, những tiếng pháo bông nổ ầm,
tiếng reo hò hoan hỉ, trong giấc mơ, Đồng mệt nhoài không thở được, thấy mình
đang chạy ngược làn sóng người cuồn cuộn đổ theo tiếng reo tở mở; Đồng vấp ngã
cùng với đám đông, bỗng nhận ra mình nằm bên cạnh An, An cười đau đớn, Đồng bảo:
Thấy Nga ở đâu không? An bị thương không nói được; Đồng bước chậm, mặc cho những
người phía sau đẩy tới, có đứa thụi vào lưng Đồng từng chặp, vịn vào vai người
bên cạnh nhích từng bước theo đà của đám đông; vẫn nghe những tiếng nổ vang âm
lại và mỗi lần đám đông lại rùng rùng xô đẩy mạnh hơn như muốn chạy nhanh tới
trước nhưng không còn tiếng hò reo nữa; hình như tiếng nổ ở lại phía sau và đám
đông chen chúc ngọ nguậy rửng rưng như bị tắc nghẽn; Đồng quay hỏi người mình vẫn
níu vai từ nãy: Chuyện gì thế? Đồng trông thấy Thạch, vội hỏi: Liên đâu? Thạch
đáp: Không biết, lạc mất rồi; Thạch kéo tay Đồng lách khỏi đám đông thoát vào một
ngõ vắng, Đồng hỏi: Nga đâu? Thạch lại đáp: Không biết lạc đâu; Đồng buồn rầu
ngồi xuống bực thềm một căn nhà, Thạch đứng sững trước mặt chỉ trông thấy từ đầu
gối trở xuống… Đồng tự nhủ: Nga mất rồi. Đồng không còn nhận được thư Nga nữa.
Đồng chỉ còn một mình giữa mùa đông càng lúc càng rét mướt.
Trong những buổi tối,
gió hút gào từ vùng cây cao Quần-ngựa
đổ xuống từ mặt hồ tê cóng tưởng như đóng băng tràn vào, Đồng ngồi đấm lưng,
bóp chân cho mẹ. Sau một trận đau, mắt bà yếu dần và thường hay chảy nước. Đồng
thủ thỉ trò chuyện với bà, thuật cho bà nghe những tin tức lạc quan của kháng
chiến; bà cần được an tâm về anh Đạo còn theo bộ đội ở hậu phương không tin tức.
Nhiều lúc bà bật khóc tức tưởi, Đồng phải dỗ dành an ủi cho bà khuây khỏa, Đồng
cười hích hích riễu cợt và nghe mình nhỏ bé yếu đuối lạ lùng. Một bữa bà hỏi Đồng:
“Cậu không đi học nữa à? Hay cậu lấy vợ đi…” Đồng hỏi lại: “Con lấy ai? Ai lấy
con?” “Tự ý cậu chọn” Đồng nói: “Con lấy vợ vào con chết” Đồng đùa nhưng bà có
vẻ hối hận, thương xót đã nhắc nhở đến chứng bệnh của Đồng. Tôi sẽ chết như một
đứa trai tân, như một đứa bé con trong trắng. Đồng rùng mình nghĩ mình đã hôn
Nga, đã ôm Nga nhiều lần trong tay và Nga có thể bị truyền nhiễm. Đó là một kỷ
niệm độc ác gửi cho Nga. Một ngày cuối tháng một, Thạch xuất hiện đột ngột. Đồng
đang lên cơn sốt nằm trên giường. Đồng nghe tiếng Thạch cười ngoài thềm với mẹ,
nhưng không thể trỗi dậy khỏi cơn ngây ngất chóng mặt. Thạch đi lộp cộp tiến
vào buồng đến cạnh giường, Đồng cố nhướng mắt chỉ nhìn thấy một gương mặt đen tối
mập mờ sau làn nước mắt ấm nóng. Đồng không nhớ nổi những mẩu đối thoại với bạn
trong lần gặp mặt ngắn ngủi ấy. Thạch chỉ về Hà-nội một ngày nhân dịp công tác
và sáng hôm sau, khi cơn sốt rút đi một cách đột ngột khỏi thân Đồng, Thạch đã
về đơn vị. Đồng bước chếnh choáng, da nghe khô héo mát lạnh như hết nước, đầu
óc thoáng sáng như một vùng nắng sớm. Đồng hỏi mẹ: “Hôm qua Thạch nó đến phải
không mẹ?” Mấy ngày sau, Cảnh xuống, Đồng hỏi: “Hôm nọ Thạch nó về cậu gặp
không?” “Không, tôi mới ở dưới Phòng lên” Đồng à một tiếng như sực tỉnh: “Thảo
nào lâu không gặp cậu”.
Cậu xuống dưới làm gì đấy?” Cảnh nhếch mép cười, trông lại buồn hơn lúc thường:
“Đổi không khí…” Cảnh rủ Đồng lên phố, mẹ Đồng muốn ngăn cản nhưng Đồng vươn
vai nói mình đã thật khỏe, mỗi buổi chiều nhờ người y tá trong xóm tiêm một mũi
thuốc bổ thật công hiệu. Tàu điện chạy ngược cơn gió mù che khuất tiếng động
trong toa. Qua nhà Nga, Đồng nhìn lên cửa sổ đóng kín, gian nhà hoang lạnh như
không người. Đồng thuật cho Cảnh nghe việc An bỏ gia đình ở lại Hà-nội và không
biết ẩn trốn ở đâu. Cảnh nhìn vào trong đám người đi lại trên hè phố đông phố hàng
Ngang hàng Đào. Xuống bờ Hồ, hai đứa đi ngược về quán Đô Thành. Đồng bước lên
cái cân bàn đặt gần quầy thu tiền, ngắm khuôn mặt hốc hác của mình và nhủ thầm:
sút mất ba kí-lô.
Nhìn ra ngoài, dốc hàng Quạt với mảng tường lem luốc, ngõ hàng Hành bẩn thỉu
khai thối cách một nền nhà đổ. Trên mặt bàn bầy mấy đĩa bánh mốc ế, hai cốc nước
cam màu đỏ nhợt nổi lềnh bềnh những lát cam mỏng dính.
– Ngày kia tôi đi
rồi. Cậu có gặp lại bọn chúng nó thì bảo tôi gửi lời từ biệt chúng nó. Có lẽ
tôi sẽ được lên Phú-thọ,
nghe nói như thế nhưng cũng chưa biết chắc thế nào. Tôi nghĩ trước sau gì mình
cũng phải lựa chọn dứt khoát. Nhùng nhằng mãi cũng chẳng đi đến đâu… Phải
không? Tuy không hợp ý mình hẳn nhưng trong hai phải chọn một, biết làm thế nào
được… Không thể đòi cái tuyệt đối lý tưởng.
Đồng gật gù tủm tỉm,
rớt lại mình tôi thôi. Tôi làm cái chân người đưa tiễn chúng bạn, ghi nhớ hộ
chúng những tâm sự. Buổi chiều đứng trong vườn, có lẽ An cũng muốn nói về quyết
định của nó nhưng mình đã không để cho nó nói.
– Cậu cũng không
đi học nữa hả? Ở nhà làm gì? Cậu không thấy là đọc mãi cũng chán… Tôi cho nghiện
sách cũng là một lối trụy lạc mới. Trí thức trụy lạc. Sách cũng như thuốc phiện,
cũng như gái vậy.
Đồng nói: Hay, ý
kiến hay, và vuốt lại mái tóc dầy úp nặng trên đầu. Cảnh bàn về những tin tức,
biến chuyển mới: phái đoàn tướng lãnh Mỹ đến Sài-gòn hội họp với Pháp, tướng
De Lattre sang Việt-nam,
phong trào vận động chấm dứt chiến tranh Đông-dương của tả phái Pháp…
Cái thế tất yếu của một phong trào cách mạng Đông-Nam-Á dựa vào lực lượng Trung-hoa.
– Thằng Thạch lầm…
không có căm thù dân tộc, chỉ có căm thù giai cấp thôi. Cục bộ không đáng kể,
cái đáng kể là toàn thể phong trào…
Đồng hỏi Cảnh nghĩ
thế nào về những vụ đấu tố vừa phát động mà những người mới hồi cư thuật lại,
không phải là những tin tức xuyên tạc của báo chí. Cảnh nhắc lại một câu của
Lénine: Không thể có cách mạng mà không đổ máu, không có bạo lực… Đồng nhăn
nhíu mặt mày làm bộ sợ hãi: “Cậu với thằng Thạch mỗi đứa đứng một bên rồi. Chỉ
còn “moi” là lừng khừng ở giữa.”
– Thằng Thạch nó
có định kiến vì cái chết của ông bố nó… Nó hành động theo tình cảm hơn lý trí…
Đồng ngắt: Nó có
cái lý của nó… Cả hai cậu đều có lý như nhau. Hai đứa đang đi bộ xung quanh bờ
Hồ. Bộ mặt phố xá quá quen thuộc, dãy hàng hoa xế Godard đông người. Hàng hiên
nhà Taverne royale sang trọng, hai ba người Pháp ngồi riêng bàn ngậm pipe; gần
đấy trước lối vào hãng thông tấn Việt-nam Press vài người thất nghiệp đứng trước
bảng đọc báo. Đồng và Cảnh tiến sang bên mái hiên phố Trường-tiền phía Thông-tin Pháp, ánh sáng mờ tối
đi như trong một cơn mưa buổi chiều xế. Đồng bảo: Mai kia cậu đi là tôi hết người
đi chơi.
– Đáng lẽ tôi đi từ
tháng trước… mà cứ trắc trở mãi. Hết vấn đề liên lạc lại đến vấn đề… tình cảm.
Nghĩ kể… dứt bỏ quá khứ tình cảm không phải là dễ. Những điều mình coi là tầm
thường cũng có cái sức trì kéo mạnh ghê… Cho nên suy ra phải làm mạnh, phải
dùng bạo lực mới mong chặt đứt được những liên hệ cũ…
Hai tay bỏ túi quần,
đầu cúi mái tóc trước rủ xuống, bàn chân tái thâm trong đôi săng-đan cũ kỹ, Cảnh xoay
nghiêng người né tránh những người ngược chiều trên hè. Sự quyết định làm xuất
hiện một phần bản ngã của Cảnh vẫn che dấu, lần này chính nó tự phô để nhìn ngắm
trước khi ngoảnh mặt vĩnh viễn không thèm chú ý tới. Đồng nói: Cậu sẽ ăn Tết ở
ngoài… năm nay… Băng ngang đại lộ, vỉa hè vắng hẳn đi không còn người, trước mặt
là nhà Hát Lớn cao đứng sững trông khoảng đường sạch rộng thênh thang dưới chân
nó. Đồng nói: lên trên kia ngồi nghỉ, “moi” mệt rồi. Leo hết mấy bực thềm trước nhà
hát, cơn mệt ngấm ngầm đột ngột đập dội trong ngực như muốn đứt thở, Đồng ngồi
bệt xuống một mặt đá thở phì phò, mồ hôi rịn khắp các lỗ chân lông và gió thổi
thấm lạnh, tai ù choáng. Từ trên cao Đồng nhìn suốt con phố thẳng hai bên nhà
cao rồi tới vòm cây xanh thẫm hút, xe cộ và người qua lại chỗ ngã tư bờ Hồ rối
rít mập mờ. Dường như Cảnh nói một câu gì, rồi ngoảnh nhìn về phía nhà Băng. Một
màn đen chập chờn trước mắt, Đồng nghĩ mình sắp ngất vội chống hai tay xuống gạch,
người bấp bênh nghiêng ngả như cành cây bị gió lay động. Vài phút qua Đồng
thoát khỏi cơn mệt nhọc và nhận ra Cảnh ngồi bên, nét mặt bình thản không một
chút hay biết. Đồng linh cảm những khủng khiếp trong tương lai, không phải là
tương lai của tôi, tôi sẽ sụp vào trong hố thẳm hư vô nhưng chúng nó còn sống,
mỗi đứa một phía, những đứa bạn thân thiết, và tương lai ấy của chúng nó…
– Thằng Thạch đáng
tiếc nhất… Cậu thì không kể. Cậu đau yếu với lại thi sĩ quá. Nhưng còn nó, đáng
lẽ trong chuyến đi này phải có nó, nếu nó bình tĩnh… Tôi đã nói với nó nhiều lần:
không có những vấn đề của cá nhân, và không có bạn bè thì mình chẳng làm được
gì… Nếu cậu còn gặp nó…
Tôi nói gì, cả hai
đứa đều đặt tôi ra ngoài, tôi đau yếu bệnh hoạn và tôi mơ mộng. Tôi như một trí
nhớ tách rời của chúng và giữ hộ chúng những gì chúng không muốn mang ở bên
lòng. Đồng vịn vào vai Cảnh đứng dậy, nghĩ không biết có thể một mình về được đến
nhà không. Bước được vào buồng riêng, nằm lên giường, Đồng bàng hoàng như thấy
một phép lạ, tôi vẫn yên ổn, vẫn thở vẫn sống trong khi rõ ràng cuộc sống đang
rút dần khỏi cơ thể, óc não. Rõ ràng, không thể chối cãi được.
✳
Trên hè ngoài cửa
hiệu, chiếc mô-tô
nổ thử máy kêu vang một đoạn phố. Hai bàn tay và chiếc áo dạ lính cũ đầy dầu mỡ,
Thái đang lúi húi xem máy với đứa nhỏ phụ việc chạy quanh. Cảnh đến đằng sau
lưng Thái, đứa nhỏ phụ ngước nhìn làm một cử chỉ ra hiệu cho Thái nhưng anh
không thấy vẫn chăm chú vào công việc. Trong hiệu xe đạp xếp hàng, mới lẫn cũ.
Những chiếc sườn vừa sơn treo lủng lẳng nhiều màu, tủ đứng bầy đồ phụ tùng, đồ
nghề bừa bãi dưới đất. Thái tắt máy, nhặt điếu thuốc cháy dở đặt gác trên cái
kìm, hít một hơi dài:
– Cậu lên gác ấy.
Cảnh đi qua cửa hiệu
vào trong. Sau cái tủ kính thấp, một đứa nhỏ bò lê dưới đất không người trông.
Bên trong cửa hàng, trên tấm phản kê vừa sát vào tường và lưng tủ chất đông
chăn gối ở một góc. Cầu thang gạch trần ngay cửa ra sân. Trời buổi trưa nặng.
Trên đầu cầu thang nhìn qua bờ tường thấp thấy sân nhà hàng xóm. Người đàn bà
ngồi bó gối ở một đầu phản, mặc chiếc áo len cụt tay màu mực tím, đầu chít khăn
len che mái tóc cắt cụt đến vai, dấu hiệu của người mới ở ngoài vào thành.
Khuôn mặt dài, đen da khô hơi sần, cặp mắt đục ốm yếu, khó đoán tuổi. Có lẽ chị
chưa đến ba mươi. Một mẫu người mới, không nhan sắc nhưng hữu ích. Người đàn bà
cũng là hai cánh tay và bộ óc như người đàn ông. Vẻ đẹp sản phẩm tư sản, một tội
lỗi như tình yêu. Lần đầu gặp chị ở nhà Hương, được đón tiếp bằng một nụ cười,
không phải là nụ cười trang điểm tự biến mình thành đồ vật cho người nhìn ngắm.
Ngôn ngữ xử dụng vừa đủ để thông hiểu nhau, không phung phí thừa thãi làm trụy
hoại tâm hồn trở nên một mớ tình cảm bầy nhầy: ngôn ngữ chỉ đích danh sự vật
không mầu mè quanh co, giả đạo đức. Một mẫu người mới. Người đàn bà không thuộc
riêng ai, không cần phải quyến rũ ai… Vẻ đẹp vô sản, không được, vẻ đẹp là phải
tư sản, Đồng đã nói. Nó mơ mộng trong một thế giới làm sẵn không muốn đổi thay,
một thế giới tàn tạ tự đục ruỗng mỗi giây phút.
– Anh sửa soạn
xong chưa?
– Tôi xong cả
tháng nay.
– Chiều nay hay
cùng lắm là chiều mai đi. Anh cho tôi số nhà của anh, tôi đến gọi. Anh cứ ở nhà
đợi, như thế tiện hơn…
Người đàn bà đứng
lên, ra bàn xé một tờ giấy trong quyển vở học trò đưa cho Cảnh. Chị nhận lại tờ
giấy, nhìn đọc khá lâu, gấp làm tư, bỏ vào trong túi áo cánh.
– Chị biết không?
Chị gật đầu: tôi
tìm sẽ thấy. Chị xoa hai tay vào nhau, móng tay cắt sát tròn ngắn, nhiều dấu gạo
trắng.
– Mình sẽ đi về mạn
nào?
– Tôi cũng không
biết. Tôi chỉ đưa các anh đến chỗ tiếp đón ở đấy… người ta lo liệu cho các anh
rồi tôi lại trở về Hà-nội.
– Lần này đông
không chị?
– Bốn năm anh gì đấy.
Cũng toàn là học sinh trốn lính như anh.
Không phải tôi trốn
lính, tôi không chạy trốn. Tôi lựa con đường tôi phải đi. Cảnh bẻ ngón tay kêu
cắc cắc hỏi:
– Mấy giờ chiều
nay chị đến? Tôi muốn đi đằng này có chút việc.
– Anh cứ đi. Trước
năm giờ.
Bây giờ chưa đến
ba giờ, còn khoảng hai tiếng đồng hồ nữa. Cảnh từ biệt người đàn bà, không biết
nên chào bằng cách nào. Dưới cửa hiệu, Thái đang đứng trông cho đứa nhỏ cầm
khăn chùi sạch chiếc mô-tô.
Anh đưa tay cho bắt, hỏi: Xong rồi chứ? Cảnh gật đầu, bước ra ngoài phố Huế, đi
ngược lên bờ Hồ. Phụ nữ Hà-nội năm nay đều mặc áo nhung khoác ngoài áo dài. Những
mái tóc uốn đã thấy đông hơn. Ngoài hành lang rạp Majestic và Studio đều vắng.
Phim Les plus belles années de notre vie. Có lẽ Trinh đã đi xem phim này.
Theo quảng cáo phim có đủ cái thi vị tiểu tư sản: Chiến tranh và những thảm kịch
cá nhân nó gây ra. Ciro’s tan xuất trưa. Hamlet, nous sommes des Hamlet,
Đồng, hoài nghi, khắc khoải, điên tỉnh và bất lực… không; chúng ta không thể
làm gì được cả. Vô ích. Tốt hơn hết là sống như một người thường. Humble…
Mortel… Tôi nghĩ thế. Làm những công việc thường, thiết thực, ích lợi cho
người khác. Thí dụ cho vợ tôi, cho con tôi. Đời người ta sinh ra đâu phải để
làm cách mạng. Hòa nói trong khi người học trò vừa trở thành đàn bà, chưa bỏ cặp
tóc, mặt còn ngơ ngác mới mẻ, ngồi đan những tấm áo xinh xinh. Bất cứ lúc nào sự
yếu đuối nhu nhược cũng có thể kéo mình rớt xuống. Trọng dặn dò: “Thôi cậu đi một
mình là đủ rồi! Đừng rủ thêm Đăng nhé”. Ngoài giờ làm việc ở trường, Đăng nhốt
mình trên gian gác tối ở phố Trại Cau như tù. “Cậu cứ sống mãi như thế này đến
bao giờ?” Đăng cười, chỉ thấy hàm răng trắng đều như con gái: “Rồi tình hình
thay đổi chứ…” Nhà bưu điện, người ra vào tấp nập. Phải tránh gặp người quen,
chỉ còn vài giờ ở Hà-nội. Có thể đi quên giờ về nhà, chiều nay, chiều mai, chiều
ngày kia và… sẽ ở lại. Vẫn không có gì thay đổi.
– Cảnh. Đi đâu đấy?
– Đi lang thang.
– Vẫn yên ổn hả?
Chuyện động viên đến đâu rồi?
Người đi lại ở
xung quanh. Cảnh cau mặt nhìn sang bên bờ hồ. Đâu cũng gặp những tên quấy rầy.
Dường như chúng lúc nào cũng rảnh hơi nói huyên thuyên.
– Không đi đến đâu
cả. Còn cậu?
– Moi xin
được vào ngồi trong trại tuyển binh ở Ngọc-hà.
– Tốt nhỉ.
Cảnh vén tay áo
xem giờ, ba giờ hai mươi lăm phút, chìa tay: moi đi có tí việc bận… Nghe
tiếng gọi sau lưng: cần gì moi, tìm moi. Cảnh không nhớ nổi tên đứa
vừa gặp. Có thể hay gặp nó ngoài thư viện hay ở trường. Cảnh cắm cúi bước mau,
vòng vào phía Ấu trĩ viên, đường dâm vắng hơn. Trọng: Nếu cậu ra khu Tư, cậu
tìm liên lạc với thằng em tôi… Ông chú tôi cũng ở đấy. May ra họ giúp gì được cậu
chăng… Có một điều là. Mà thôi. Cậu cứ làm những gì mà cậu nghĩ là đúng. Những
gì tôi nghĩ là đúng. Không phải. Những gì mà lịch sử cho là đúng. Những gì có
thể phủ nhận chính cá nhân tôi. Thạch nó không chịu vậy, nó cưỡng chống lại, và
nó… Nó không thể phủ nhận cái chết của người thân nó. Lịch sử là như thế. Bạo động,
mù quáng vô lý, bất kể cá nhân. Và cá nhân phải sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của
nó. Cảnh tới đầu ngã tư rẽ vào nhà Trinh, đứng lại. Mái hiên hai bên phố thấp
che tối các mặt nhà, yên lặng. Một chiếc xe đang rỡ hàng ở giữa phố, một người
phu khuân vác các bao hàng qua lại trên vỉa hè không có người qua lại. Từ trong
nhà Trinh, một người đi ra, một người đàn bà, rẽ về phía cuối phố. Cảnh quay
lưng bỏ đi, giờ này Trinh còn đi học. Để làm gì mới được? Ích gì? Những vướng mắc
nhỏ nhặt và khó chịu. Khó chịu. Phố, nhà, cửa hiệu… Thành phố không còn một
chút sinh khí, linh hồn. Chỉ còn vẻ đẹp mông lung. Một nỗi nhớ tiếc không thành
hình. Xe cộ chảy xuôi một chiều rộn rịp. Tiếng động miên man. Cầu cho về đến
nhà, đi ngay tức khắc. Kéo dài mãi thời gian chờ đợi lê thê. Trọng vẫn chưa tìm
được gian buồng khác. Dưới chân cầu thang gỗ, người đàn bà ở buồng bên cạnh
chào và nói: Chiều nay nhà tôi mời hai cậu bên ấy sang sơi cơm, uống rượu… Bà
ta bưng bên nách một rổ rau tươi. Cám ơn ông bà, chiều nay chúng tôi bận, để
xin khi khác… Người đàn bà vẫn đon đả: Cậu đừng làm khách. Không có ai cả… Chốc
nữa thế nào cũng mời hai cậu sang chơi.
Cảnh loay hoay mở
khóa cửa buồng, nghe tiếng người đàn ông đứng ở cửa buồng bên: Cậu Cảnh ơi, chốc
nữa mời cậu sang uống rượu với tôi. Hôm nay nhà tôi làm món dấm cá… Lại phải nhắc
lại câu từ chối. Người đàn ông theo chân vào buồng. Ông ta co ro trong cái áo lạnh
mỏng đứng giữa buồng, bộ quần áo trắng mầu cháo lòng. Mái tóc khô sổ rũ trên
trán, hàm răng lộ cáu đen khói thuốc. Ông ta là nhà cách mạng từng lưu vong
sang Trung-hoa,
bây giờ không làm gì cả, nằm nhà vợ nuôi, cả ngày hút thuốc lào, uống trà tàu bàn
chuyện thế sự với một vài đồng chí còn sót. Lâu lâu trong nhà lại có một bữa giỗ
kỷ niệm một đồng chí cũ, tập hợp một số anh em, uống rượu nhắc thời oanh liệt
xưa… Chỉ tội bà vợ phải nai lưng nuôi chồng với một bầy bốn năm đứa con.
– Thế nào chốc nữa
cậu cũng sang chơi. Uống rượu rồi nói láo cho đỡ buồn. Tôi thú thực tôi quý các
cậu lắm. Sống như các cậu mới xứng đáng là thanh niên… Hả, nói láo mà chơi nghe
láo chơi. Thời thế này chỉ có thế là vui thôi.
Những người –
không biết may mắn hay bất hạnh – bị lịch sử cuốn hút vào trong một giai đoạn,
bị bỏ rơi lạc lõng, không thể trở về đời sống bình thường. Lúc nào cũng sống
trong ảo mộng mình vẫn còn nắm tay lịch sử, lúc nào cũng bị huyễn hoặc về mình…
Chỉ là xác ướp, chết rồi. Những cái xác vật vờ ở bên lề lịch sử mà không hay.
Mình phải đuổi theo lịch sử…
– Tôi đang đọc
Liêu Trai. Thú vị ra phết. Các cậu còn trẻ có lẽ không thích. Phải vài mươi năm
nữa, thấm thía kinh nghiệm mới hay. Văn chương mà đến như vậy thì thật là tuyệt.
Độc thoại. Nói
mãi, nói cả ngày để che giấu sự trống rỗng hoàn toàn. Cách mạng đối với ông ta
cũng như thuốc phiện. Phiêu diêu và hư tưởng. Không có một quan niệm nào rõ rệt
về xã hội, về các vấn đề phải giải quyết. Chỉ biết nói mà nghe chơi. Làm thế
nào cải tạo xã hội với những phần tử… Cảnh nhấc chiếc sắc tay đặt lên phản, kéo
fermeture ra kiểm lại đồ đạc mang theo.
– Cậu lại sắp sửa
đi đâu?
– Vâng, tôi xuống
Phòng dạy học.
– Nghĩ tức nhỉ. Những
người như cậu không được học hành đến nơi đến chốn. Hết phải lo kiếm ăn đến lo
đi lính. Bảo sao nước mình không thiếu nhân tài.
– Mỗi thời mỗi
khác. Thưa ông lúc này đâu phải là lúc yên ổn, hòa bình. Sống cảnh nào mình phải
chịu cảnh ấy.
– Đã đành… đã
đành. Chiến tranh, chiến tranh là ai cũng phải khổ. Người ta cứ bảo là khôn chứ
tôi thấy chẳng bao giờ khôn cả. Suốt đời cứ tranh chấp toàn chuyện không đâu. Hết
chiến tranh này đến chiến tranh khác. Cậu nghĩ coi đến bao giờ thì thế giới này
đại đồng?
Người đàn ông đứng
bên cửa sổ trông ra bức tường hông biệt thự bên cạnh, nhìn xuống lối cổng ra
vào. Tiếng ồn ào cãi cọ trong bếp vì chuyện nước đổ không ai chịu quét. Cảnh
mong cho người đàn ông ra khỏi buồng để được đóng cửa nằm thảnh thơi vài phút với
mình. Năm giờ kém mười lăm. Đi được trước khi Trọng về là tốt hơn cả. Viết lại
vài chữ từ biệt. Anh Trọng, tôi phải đi ngay chiều nay. Xin lỗi đã làm buồn
lòng anh. Hy vọng ngày có thể gặp nhau chung trên một đường. Chung trên một đường.
Có thể được không? Có thể là vĩnh viễn chia cách. Với Trọng, với Thạch, Đồng… Họ
đứng ở phía nào? Phân hóa giai cấp. Đáng lý tôi không thể đứng ở đây, vậy mà…
Thạch nói, giọng buồn. Câu ấy tôi cũng có thể nói.
– Chốc nữa thế nào
cậu cũng sang nhớ.
– Vâng. Nếu tôi
không bận. Ông miễn thứ cho. Chiều nay tôi cũng đang đợi một cái hẹn…
– Ờ, cố sang. Canh
dấm nhà tôi nấu tuyệt hảo.
Cảnh khép cửa buồng,
ngồi nhìn chiếc sắc tay trên phản. Chỉ có thế. Mình chỉ có mình. Buồng bên cạnh
tiếng hút thuốc lào ròn tan. Người đàn ông thở khói um, mắt lờ đờ, miệng ứa
dãi. Ông ta nghĩ đến những ngày xa xôi, chỉ huy Phục-quốc-quân chiếm đóng Lạng-sơn. Nhớ những ngày thất bại…
Không một mối liên hệ. Tôi tìm lịch sử, lịch sử sẽ tới, không phải quá khứ. Tất
cả bạn bè đều bị quá khứ ràng buộc. Cảnh mặc thêm chiếc áo khoác ngoài nhầu
treo trên lưng ghế, ra cửa sổ ngóng xuống cổng. Người thiếu nữ cuồng trí lấp ló
mái tóc rối bù nơi cửa sổ. Đi đến đâu? Gặp những ai? Chắc chắn sẽ phải qua lớp
cải tạo tư tưởng. Chấp nhận hết, không đòi hỏi gì hết. Bằng lòng xóa trắng
mình. Tôi sẽ không là gì nếu không gia nhập được vào lịch sử. Chiều bỗng nhiên
rét ngọt. Không gian như co đặc lại vây kín mọi tiếng động hỗn tạp. Muốn trở
thành… Trong cái biện chứng: nông dân – sinh viên… Thiếu số hạng thứ ba, thiếu
sự trở thành. Nhưng nhất định không thể trở thành một intellectuel petit
bourgeois. Tôi phải đi thoát, phải đi thoát… Đã hơn năm giờ. Cảnh nằm đại
lên phản cho đỡ mỏi, chợp ngủ. Buổi chiều lạnh lẽo lùa vào hai cửa sổ mở như đè
nặng dần lên mặt mũi chân tay. Chỉ là giấc ngủ thiếp, quên. Không thể còn những
giấc mộng, những giấc chiêm bao. Không thể còn gì… còn gì…
✳
Mùa đông già xám
cô đơn, Đồng không bước chân ra khỏi nhà. Sức khỏe suy nhược không thiết đến
trường; không còn bè bạn tụ tập, phố xá khuất hẳn; con đường từ nhà sang chỗ ngồi
đọc sách vào mùa hè bên bờ hồ sau đình trơn ướt gió thốc mưa buốt. Quanh quẩn hết
nằm trùm chăn trên giường bật đèn xem sách, trí óc viển vông ngoài vùng lạnh
giá xẩm tối, lại xuống nhà ngang ngồi hơ tay trước bếp chuyện trò với mẹ và u
già. Cơm lại được dọn riêng với bát đũa được đánh dấu. Mỗi buổi sáng và chiều,
thuốc tiêm vào người nhóm một chút hơi nóng say làm cho mắt mờ đi, tim hồi hộp,
thở dồn; thỉnh thoảng hết thuốc, nghe khỏe khoắn nhẹ nhõm hơn. Những lúc ấy, Đồng
vào ngồi trước bàn viết, soạn những tờ giấy trắng định làm thơ, nhưng một lúc
chỉ chép lại những câu thơ hỗn độn mình đã thuộc. A quoi bon?… La vie est
variable comme l’Euripe… Trên cây đinh trước mặt móc xâu chuỗi kỷ niệm của Nga
tặng; mẹ nhìn thấy đã hỏi: Ở đâu cậu có? Đồng đáp: Của một cô cho con, bà cụ
nhìn bằng cặp mắt âu yếm. Hỡi Thượng đế chưa bao giờ quen biết, mắt người to
hay mắt người buồn… Đồng cười thích thú lấy mình vì câu thơ tự chế biến.
Một buổi sáng, anh
Thái về nhà dẫn theo một người đàn bà, ẵm một đứa con nhỏ. Anh nói: Vợ của Đạo
mới vào. Mẹ Đồng ngồi trên phản ngắm nghía con dâu rồi òa khóc hỏi: Còn nó đâu?
Chị Đạo đáp: Nhà con còn ở ngoài, chỉ có con với cháu vào thôi. Chị mang vẻ mặt
ngơ ngác của người lạc đến xứ lạ, nước da xanh mái ngã nước, người gầy gò, còn
ghi rõ dấu vết nơi vừa rời bỏ: quần áo rách rưới, tay nải chứa những vật dụng
lính Tây cho, chân đi dép cao-su
tím bầm. Đứa con trai chừng hai tuổi, mới chập chững biết đi khóc ré, bà nội vội
đưa tay đón đưa lên ngang tầm mắt như muốn nhìn thấy bố nó. Anh Đạo gửi thư về
xin mẹ và anh Thái nuôi hộ vợ con cho đến ngày độc lập, thư viết trên một mảnh
giấy ca-rô
nhỏ xé trong sổ tay chữ lí nhí, nhắn gọi Đồng nêu không còn đi học, chưa lấy vợ,
hãy ra ngoài với anh. Đồng bảo: Con đi một chuyến xem sao; Mẹ tưởng thật cau mặt:
Cậu đi thì chết sớm. Từ ngày chị Đạo về, thế giới của Đồng thu hẹp thêm chỉ còn
vào trong buồng riêng. Mẹ mải tíu tít với cháu nội, bớt phần săn sóc Đồng càng
khiến Đồng được yên một mình, một mình để nghĩ ngợi đến cái chết. Chưa đầy một
tháng chị Đạo lột xác, trở thành một thiếu phụ khả ái. Trong câu chuyện giữa
hai chị em, chị không giấu vốn chị là đào hát, chị gặp anh Đạo trong khu Tư. Chị
chưa muốn về thành, nhưng vì con mà chị phải vào, ít lâu nếu có dịp chị lại trở
ra với chồng. “Ở trong này bơ sữa dễ hủ hóa” chị nói. Chị thích được thuật lại
những chuyện kháng chiến, một thời gian chị đã làm công tác địch vận ở Nam-định. Chị khuyên Đồng nên
nghe lời anh Đạo, rất có thể Đồng có dịp được gửi sang Trung-hoa hay Liên-sô. Đồng chỉ nghe và cười ừ
hữ. Anh Đạo hiện là chính trị viên tiểu đoàn, hai vợ chồng một năm gặp nhau một
hai lần là nhiều. Có lẽ chị không hiểu nhiều về chồng, Đồng nghĩ thế. Đồng thuật
cho chị nghe về anh Đạo, những kỷ niệm giữa hai anh em trước ngày kháng chiến.
Anh đỗ Diplôme trước năm cách mạng và chưa chịu đi làm ngay về nhà nghỉ chơi một
năm. Suốt ngày hai anh em không sang hồ tắm, lại rủ nhau về nhà đánh cờ hoặc
anh lấy xe đèo Đồng vào Bách Thảo hay ra Cổ Ngư nằm trên cỏ nhìn trời nước. Anh
cũng hay hát và đọc thơ ông ổng vang nhà. Lúc anh đi học trường lục quân Trần
Quốc Tuấn, viết thư về cho Đạo, nhà tản cư trên Phú-thọ, anh còn ký biệt hiệu
là Hoài Kinh. “Anh nhớ Hà-nội mà. Dạo ấy anh Đạo yêu chị của Hà. Gia đình cùng
tản cư…” Chị Đạo cười: “Tạch tạch sè quá. Hết rồi, bây giờ hết rồi”. Đồng không
cãi. Có thể như thế, mọi người đều đổi thay, trừ mình. Mình vẫn bị vây ngập
trong những giấc mộng niên thiếu, giòng nước đỏ phù sa chảy siết cuốn trôi tập
giấy viết những bài thơ tình đầu tiên nhưng không cuốn nổi những âm vang còn lại
trong hồn… Mùi cỏ dại thơm trên đồi ướt sương. Đồi chè, cửa rừng, những buổi
sáng ẩm, Hà và tiếng hát trong veo trong một bầu trời nắng thượng du; những con
đường đất như không người đặt chân tới và những nương sắt xanh. Chị Đạo mang về
những hình ảnh khác, cũng như Cảnh tìm đến chốn khác với tưởng tượng của tôi. Eternel
adolescent, tôi vẫn là thế. Ăn Tết xong chị Đạo xin phép mẹ trở ra với chồng,
nhà phải thêm người giữ đứa cháu nhỏ. Đồng nhắn chị Đạo: “Chị hỏi anh xem còn
nhớ kinh đô không?”; chị Đạo dặn: “Nếu chú khỏi chú nên ra”. Không, tôi ở đây đợi
mọi người về tụ họp.
Mùa xuân còn mới
nguyên, thành phố có vẻ thay đổi nhiều. Không hiểu vì đã mấy tháng Đồng mới lên
đến phố hay vì dư âm của mấy ngày Tết còn để lại. Mưa bụi bám trên áo, Đồng bỏ
tay trong túi quần đi lẫn với đám đông trên vỉa hè. Lẫn trong những màu áo phụ
nữ và y phục tề chỉnh của thanh niên, Đồng khám phá gặp những gương mặt ngớ ngẩn
với quần áo cũ kỹ, những màu nâu quê mùa lạc lõng của những người mới hồi cư.
Những nhà đổ nát hai ba năm trước đã biến mất từ lúc nào, thành phố đông hơn,
đang cố gắng xóa mờ những dấu vết chiến tranh. Đồng hút lại thuốc lá sau mấy
tháng kiêng cữ, hơi thuốc nồng đậm. Đồng nghĩ đến một người để chuyện trò, một
người để có thể mình ngồi im nghe tiếng nói. Có ai không? Trên bảng dán báo của
phòng Thông tin, Đồng nhìn thấy ảnh ông bố Nga trong một buổi lễ. Souvenir Souvenir,
que me veux-tu? Giọng âm thầm trong cơn say của Thạch. Người ta đứng cạnh thúc
vào mạng sườn Đồng rồi nhe răng cười. “Không nhớ tôi à? Nhai đây?” Đồng nhìn
khuôn mặt dài, cặp mắt nhỏ hơi lác chỉ nhớ mang máng. “Quên hả. Học cùng với
nhau ở Sinh-từ.
Nhớ thằng Thạch không?” Đồng gật đầu. Nhai nói huyên thuyên, mừng rỡ rủ Đồng về
nhà chơi. Nhai hỏi có gặp Thạch không. Đồng nói gọn: nó bị động viên. Còn cậu? Inapte
définitif. Nhai cười hềnh hệch xấu xí: Cũng như tôi. Nhai dẫn Đồng về phố hàng
Bè, đi vào một cửa hiệu bán sơn ta, – những thúng chum nâu đen, màu sơn nâu đỏ
đặc quánh – lên gác. Gia đình Nhai đông người, gian gác bề bộn chật chội, mới hồi
cư đầu năm ngoái; Nhai đang học rút để bắt kịp những năm chậm trễ. “Cậu học đến
đâu rồi?” “Văn khoa”. Nhai đưa Đồng ra đứng ngoài ban công, trông xuống phố, chỉ
khoe với Đồng những nhà hàng xóm có con gái đẹp. “Đến chơi với tớ luôn, tớ giới
thiệu cho…” Xế cửa là một lớp học tư tấp nập suốt ngày, nhiều nữ sinh. “Phố này
tập trung các hoa khôi Hà-nội”. Đồng tựa tay vào lan can, nhìn được suốt phố
vào giờ vắng vẻ. “Nếu gặp Thạch rủ nó đến chơi với tớ…” Đời sống với Thạch hiện
tại đã quá cách xa cái đời sống của Nhai. Chúng ta chỉ có chung một vài kỷ niệm
của thời ấu thơ mà thôi – Ngay với tôi cũng vậy, có lẽ tôi cũng đã mất hẳn đứa
bạn thân nhất. “Tớ định ra thư viện học cho tĩnh, lại gặp cậu…” Đồng cười, nghĩ
đến thật đã xa xôi thời bốn đứa gặp gỡ hằng ngoài phòng đọc sách. Où sont
les neiges d’antan? Quá khứ rất gần bị đẩy lui thành dĩ vãng, tôi phóng đi
trong thời gian và tưởng như sắp đến ngày cuối.
Những ngày đầu
tháng hai, Đồng đi chụp lại phổi, phổi lại đã làm sẹo. Không thuốc là, cà-phê, không thức khuya,
không đọc sách, không làm việc nặng quá sức và nhất là “không gần đàn bà, tránh
nghĩ đến đàn bà”. Ông bác sĩ già, mắt lấp lánh hóm hỉnh sau cặp kính dầy, miệng
tủm tỉm. Ra khỏi phòng khám bệnh, Đồng buồn bã ngơ ngẩn. Tôi sẽ làm gì với một
thân thể lành mạnh? Tôi chờ đợi cái chết và nó không tới. Đi vài bước, Đồng đứng
lại mua thuốc lá, giá thuốc lá đã tăng, không thể chia đủ cho bốn đứa. Trời buổi
sáng này nhẹ cao, lởn vởn những cụm mây trắng. Chuyến xe điện chạy băng băng
trên lối quành. Sáng mát trong như sáng năm xưa… Cỏ mòn thơm mãi dấu
chân em… Đồng quyết định đi làm. Mỗi buổi sáng, Đồng đạp xe lên hiệu chụp ảnh
do Nhai giới thiệu, trông nom giấy tờ sổ sách thu xuất, trưa nghỉ lại chỗ làm
việc, chiều mới về nhà. Cửa hiệu lớn nằm một góc đại lộ, tầng dưới của một tòa
nhà ba tầng, hai tủ kính chiếm dài hai mặt phố, vừa chụp ảnh vừa buôn bán máy
móc và phim. Đồng ngồi trước một bàn giấy với sổ sách, thỉnh thoảng thay chủ
giao thiệp với các bạn hàng. Nhai thường ghé thăm, ngắm ảnh phóng lớn của các
thiếu nữ trưng bầy, khách chụp ảnh phần đông là phụ nữ, những anh lính Tây,
lính Ma-rốc,
pạc-ti-dăng… Từ chỗ ngồi, Đồng nhìn những tàn cây xanh che khắp mặt đường mỗi
khi rảnh rỗi, quan sát những người ở các tầng gác trên phải đi ngang qua cửa hiệu
để lên cầu thang sau lưng Đồng. Mỗi buổi chiều Đồng đạp xe lẫn vào đám học
sinh, cả nam lẫn nữ, thong dong quên lãng và thường ghé vào ngồi trên đường Cổ
Ngư một lúc trước khi về nhà. Trên đường về Đồng nhận ra những người bạn đồng
hành ở mỗi khúc một: khi đám học sinh đã tản dần ở các ngã tư, còn lại trước Đồng
hai nữ sinh, một ở Kỳ Đồng một ở hàng Đẫy; nếu về theo ngả Quan Thánh sẽ gặp một
cô thợ may ở vườn hoa hàng Đậu, cô ta đi ngược đường vào phố Tiên Tsin. Đoạn đường
còn lại, Đồng thổi sáo trong các phố vắng, hát nhỏ một mình, nghe như đầy đủ
hoàn toàn. Như kẻ si tình đã được gặp mặt người yêu. Một buổi chiều đi làm về,
Đồng gặp Thạch nằm trên võng. Thạch cười ha hả: “Cậu ký đã về. Cậu ký Đồng”.
“Quan một, ça va?” Thạch không đổi khác mấy, trông vui vẻ hơn. Thạch đến
từ chiều, bà cụ đã hỏi thăm hết chuyện, vừa bồng cháu vừa thuật lại cho Đồng
nghe thay Thạch. Thạch ở Hưng Yên về, được nghỉ phép một tuần lễ và sẽ ở lại
chơi nhà. Đồng hỏi: “Thật không?” Sau bữa cơm. Đồng rủ Thạch ra ngõ chơi. Giờ
này tàu điện đã hết. Ngoài đường vắng tối, quãng chạy ngang đình làng không có
nhà ở sát, như vùng ranh giới giữa hai khu vực: ngược lên phố là khu quán rượu
bán cho lính Tây, suôi đến cuối đường tàu là phố của người buôn bán quanh cái
chợ họp bên vệ đường. Trong tối Đồng nghe được tiếng sóng hồ Tây vỗ vào bờ đá
sau đình. “Vẫn chưa chết”, Đồng nói bâng quơ không rõ về bạn hay về mình. Trời
đen mát như thạch. Ánh đèn mờ yếu từ một vài ngôi nhà kiểu cổ nền qua hắt ra đường.
Đồng không đừng được lên tiếng hỏi: “Liên đâu?” Hà đâu? Phương đâu? Nga đâu?
Cũng như thế, có gì phải hỏi, thật là thừa. Thạch hơi ngửa mặt lên, điếu thuốc
lập lòe chênh chếch: “Không biết…” Đồng ân hận đã gợi câu chuyện, nó không
thích tâm sự. Đột nhiên Đồng nghe tiếng Thạch: “Tôi chỉ ở được với Liên nửa
tháng. Đạo mới ở Nam-định
về… Chưa đến nửa tháng. Bây giờ không biết Liên ở đâu?” “Buồn nhỉ” Vì sao thế?
Thạch thôi không nói nữa. Đồng nhìn những phiến đá lún trên mặt đất, chỗ họp chợ.
Tiếng gió thổi rất xa ở trên cao. Ngược trở về, Đồng lảng chuyện nhắc đến Cảnh
và An. Thạch nói: “Thằng An anh hùng gớm. Không hiểu bây giờ nó làm gì. Cậu
không gặp lại nó?” Đồng đùa: “Có khi cu cậu bốc đồng được mấy tháng sau lại lóp
ngóp bò về. Có khi bây giờ nó đã vào Sài-gòn cũng nên.” Thạch cãi: “Cậu coi thường
nó quá. Dù sao bọn mình đâu đến nỗi thế.” Có lẽ sự xa cách khiến Thạch dễ dãi với
An hay đứa bạn đã đi biệt khiến Thạch công bình và thương yêu hơn. Đồng nói:
“Giá như nó, thằng Cảnh hay cậu chết, tôi cũng chẳng biết…” “Yên chí. Trong tờ
khai khi khẩn cấp báo tin cho ai, tôi khai tên cậu đấy”. Đứng lại trên đường sắt,
Thạch nhìn ngược lên xem đám đánh nhau trước một quán rượu, tiếng kêu la chửi rủa
tục tằn không có tiếng vang một lát rồi tắt; người ta lại đi vào trong các quán
thấp để lại những ánh đèn sáng trơ soi ra ngoài. Đồng bảo mai sẽ lên xin nghỉ một
ngày để đi chơi. Thạch hỏi: Chơi đâu? Cậu thích đi chơi đâu? Buổi tối khi đã
vào giường, Thạch vẫn còn hút thuốc. Đồng hỏi: “Cậu thấy tương lai thế nào?”
“Chẳng thấy gì cả, mù tịt… Đứa nào cũng mù tịt. Chắc chẳng bao giờ còn họp mặt
được đông đủ. Một bữa nào sáng ra nhặt xác ngoài đồn, tôi trông thấy thằng Cảnh
hay là nó vào đồn nhìn thấy xác tôi. Có thể như thế lắm chứ…” Đồng nhắm mắt lại,
trên màu đen của thị giác thấy những chấm xanh đỏ bay tung với những đường vòng
rối rít. Không còn cách gì kết hợp được chúng nữa ư? Đồng nói khẽ: “Có khi cậu
gặp ông anh của tôi…” Thạch hỏi: “Ông Đạo hả? Cũng không biết chừng. Cậu thấy đứa
nào phải?” “Đứa nào cũng có lý”. “Chính thế. Thế mới đau. Thằng Cảnh không hiểu
nó có thấy thế không? Tôi giận cái thói dogmatique của nó”. Đồng dàn
hòa: “Không, nó cũng hiểu. Hôm nó gặp tôi trước ngày đi, nó còn tiếc không có cậu”.
Buổi sáng khi Đồng thức dậy đã thấy Thạch nằm trên võng hút thuốc, Thạch đùa
nói nằm ở đồn quen, thiếu tiếng đại bác nên không ngủ được. Đồng bỏ xe đạp ở
nhà, đi tàu điện lên phố với Thạch. Trong khi Đồng vào hiệu, Thạch đứng bên vỉa
hè nhìn bọn nữ sinh trên đường đến trường. Thạch nói: “Trông con gái Hà-nội vẫn
cứ đú đởn”. Đồng cười: “Anh khó tính quá. Con gái đẹp là đủ. Cái gì nữa cũng là
thừa”. Thạch quay lưng bước đi hỏi: Đi đâu bây giờ đây. Đồng hỏi Thạch còn nhớ
Nhai không; Thạch gạt đi bảo: “Bạn cũ, chán lắm. Tôi với cậu đi đằng này”. Thạch
đưa Đồng xuống chợ Hôm, đến nhà gái đi. Gian nhà cửa trước đóng kín lẫn vào
trong dãy phố một tầng, đi vào cửa sau bằng ngõ chỉ một người đi lọt. Thạch hỏi:
“Cậu đã đi lần nào chưa?” “Thưa”. “Tôi hỏi thật cậu đã biết đàn bà bao giờ
chưa?” “Cũng chưa”. Thạch nheo mắt chế riễu và Đồng nghe má mình nóng bừng. Người
mở cửa là một u già. Sân và bếp trông sạch sẽ như mọi nhà. Đi qua một của phòng
đóng kín, Đồng theo Thạch lên đến phòng khách ngoài cùng. Hai người con gái, một
ngồi một nằm, ở sa-lông
đọc truyện dưới ánh điện của một cây đèn đứng có chụp vì cửa ngoài đóng kín
mít. Cả hai người chỉ ngước lên nhìn khách mới vào, rồi lại cắm cúi đọc, người
đang nằm trở mình quay mặt vào lưng ghế. Thạch bảo Đồng ngồi xuống ghế và hỏi:
“Bà chủ đâu?” Người con gái ngồi đối diện với Đồng, hạ quyển truyện xuống: “Chị
em đi vắng”, nàng có gương mặt dài, đôi mắt lặng lẽ, người thon cao giống như
cô thợ may Đồng gặp ở vườn hoa hàng Đậu. Thạch tự nhiên bảo: “Thôi. Có hai em
còn tốt hơn. Giới thiệu cho quen với”. Người ngồi là Mai, người nằm là Tuyết.
Lúc ấy Thạch mới ngồi xuống mép chiếc ghế dài, vòng tay lật quay Tuyết: “Làm gì
mà giấu mặt gớm thế. Cho anh xem một tý”. Tuyết vùng vằng, ngấm nguýt nhưng
cũng quay mặt ra ngoài nhìn Đồng cười, Đồng quay sang nhìn Mai cười. Thạch hất
hàm hỏi Đồng: Thế nào? Anh chọn đi. Đồng lắc đầu. Thạch hỏi: Sao thế? Đồng chỉ
tay vào ngực nói bác sĩ bắt kiêng. Thạch trâng tráo: “Cần gì. Định sống thêm mấy
chục năm. Nghe nói bị thương vì đạn, chữa khỏi rồi cũng phải kiêng ít nhất mấy
tháng không được gần đàn bà. Tôi mà bị cấm thế chắc là chết. Thà chết vì em còn
hơn phải không Tuyết?” Đồng duỗi chân, ngả đầu vào lưng ghế nhìn trần nhà, nghe
tiếng chân người đi qua ngoài vỉa hè; nghe tiếng Thạch: “Thôi để mặc cho nó mơ
mộng. Nó là thi sĩ đấy, đừng tưởng đùa. Anh với em vào trong này”, nghe tiếng
Mai hỏi: “Anh không đi…”, giọng khàn thật xấu không xứng với người, “còn một buồng
nữa”. Đồng không đáp, tôi êm tĩnh lạ lùng như một người bất lực. Mai bỏ xuống
nhà dưới, Đồng tò mò quan sát khắp gian phòng. Chốc nữa ra ngoài chắc chắn Thạch
sẽ chế riễu sự nhút nhát của mình. Biết làm thế nào, Thạch sẽ không tin nếu tôi
bảo chưa bao giờ tôi có ý nghĩ chiếm đoạt một người đàn bà. Đồng nhớ đến
Phương, tự hỏi cái buổi chiều mùa đông tối sớm ấy nếu Đồng đã ở lại trong tay
Phương… Điều quan hệ là sau hành động ấy… Thạch trở ra phòng khách một mình,
tuy vẫn cười nhưng không còn vui vẻ như lúc nào, ngồi xuống ghế hỏi: “Thế nào?
Nhất định không. Thì đi vậy”. Thạch đứng lên ngay không đợi câu trả lời, thủng
thỉnh đi trước đợi Đồng. Tuyết mở cửa bảo: “Lần sau anh đến chơi nhé. Anh còn nợ…”
Qua cánh cửa buồng hé mở, Đồng liếc nhìn vào chỉ thấy một chiếc giường với nệm
gối trần trụi. Ra khỏi ngõ Thạch tần ngần đứng trên vỉa hè không có quyết định.
Đồng bỗng nhiên sợ hãi, ngượng ngùng vì nghĩ Thạch còn ở lại một tuần lễ. Một
tuần lễ và bây giờ chưa hết buổi sáng đầu tiên đã nhận ra sự xa lạ nhau. Tôi
không còn điều nào chung với bạn, trừ những cái đã mất. Nó sống trong một thế
giới khác chỉ thỉnh thoảng ngó lại phía sau tôi, còn tôi tôi vẫn nằm nguyên
trong quá khứ kéo dài. Đồng muốn trở vào ngõ, gõ cửa, và đi vào trong gian buồng
với Mai hay với Tuyết cũng được. Tôi phải làm những gì nó làm, nếu tôi muốn giữ
lại được đứa bạn thân. Nhưng tôi không thể… tôi nhìn… tôi nghĩ… tôi mơ tưởng,
Thạch quay mặt lại cười, không chế riễu, nụ cười kẻ cả: “Kia kìa type của
cậu đấy. Tôi biết quá”. Trên vỉa hè từ một góc phố mới quành lại một thiếu nữ
áo dài trắng tiến đến, dáng mỏng mảnh uyển chuyển, mắt ngước nhìn thẳng như
không thấy người đứng cản lối. Thạch huýt sao tán thưởng, bước xuống đường
tránh lối, thiếu nữ đi qua như không hay biết. “Ê. Áo trắng đơn sơ mộng trắng
trong hả… Merde”. Đồng cười trừ. “Không ngửi được. Không thể nào ngửi được
thứ ấy… Chết, cậu sẽ chết, Đồng ạ”. Đồng nghĩ Thạch không biết chuyện tình giữa
mình với Nga, không hiểu nó sẽ cười đến như thế nào nếu rõ. Đến phố Huế, Thạch
nói: “Không biết đi đâu nữa nhỉ? Nếu không có cậu tôi có thể nằm suốt ngày ở đấy.
Cảm giác ủ ê chìm khuất lạ lắm. Mình không còn gì phải nghĩ ngợi. Đàn bà là mối
quên lãng hiệu nghiệm nhất. Đừng yêu. Yêu là hỏng bét. Nói theo kiểu thằng Cảnh
là mình bị aliéné hoàn toàn”. Đồng cố gắng tưởng tượng tâm trạng của Thạch,
cô đơn hoàn toàn, đứa bạn gái duy nhất đã bỏ đi, mối tình còn lại dư vị cay đắng
của sự phản bội… “Thôi, đừng làm bộ đi. Anh mới là kẻ chung tình lãng mạn hơn
tôi. Anh không thể yêu ai ngoài Liên. Phải không?” Thạch không cãi, chỉ đưa mắt
nhìn Đồng trách móc và cười lên thành tiếng tự nhiên. Đồng sung sướng, bắt gặp
lại người thân cũ. Thạch bỗng hỏi lạc chuyện: “Này, cậu rửa tội đấy à?” Đồng ngạc
nhiên không hiểu. “Tôi thấy ở nhà có tượng Đức Mẹ”. Đồng à một tiếng; của một
cô gái tặng. Có nên nói với Thạch đó là của Nga không? Thạch đã gặp Nga lần nào
chưa? “Mà tôi nghĩ có khi câu rửa tội lại hay. Trông có thể thành cố đạo được đấy.
Thánh thiện lắm, không đùa đâu.”
Đồng hắt hơi liên tiếp, phố xá rung rinh trước mắt, rút khăn tay bịt miệng và
lau hai bên khóe mắt ướt: “Không được. Đâu có thể như thế được.” Thạch hỏi gặng: “Sao
không? Với cậu có gì thay đổi nào? Tu es orgueilleux” “Có như thế cậu mới
là cha linh hồn của tôi chứ”. Đồng kéo tay Thạch sang bên kia ngồi nghỉ, xuống
đường sang quán giải khát bầy bàn dưới gốc đa già bên đền bà Kiệu. Bàn ghế mộc
thấp sơn xanh, cập kênh trên nền đất sạn. Trước đền Ngọc Sơn mới mọc lên một
kiosque bán sách báo; ngoài cổng đền người ngồi bán vàng hương, mấy ông thầy
bói, thầy đồ viết chữ nho với vài người nhà quê nghỉ chân đứng nhìn tò mò. Nhà
Thủy tạ ở xa đóng cửa kín bỏ không. “Người tặng tôi cái ảnh ấy cũng lạ. Gia
đình không có đạo, chỉ có một mình nàng…” “Có khi là cái mốt mới của mấy cô Hà-nội.
Một lối trang điểm độc đáo biết đâu chừng”. “Nàng cô đơn…” “Thì cô đơn cũng là
một mốt. Cô đơn làm cho sầu muộn. Cậu không thấy nhìn người đàn bà để tang mình
thấy đẹp mới chết. Dám có cô chít khăn tang để trang điểm”. Đồng im, nhìn vào
trong kiosque, cô chủ quán với vành khăn trắng cuốn chặt trên mái tóc uốn đang
cắm cúi lau cốc lơ đãng quay mặt về mạn phố vắng. Đồng không ngăn giữ được:
“Nga đấy. Em gái của An. Cậu đã gặp Nga lần nào chưa?” Thạch có vẻ chăm chú hơn
đến câu chuyện: “Tôi không biết mặt. Cũng may đấy. An nó có biết chuyện không?”
“Chắc là không. Có thể bây giờ Nga đã xin vào tu kín”. Thạch cười dễ dãi: “Chưa
chắc đâu. Đàn bà có cái khiếu bi kịch hóa là nhất…” “Nga không bằng lòng gia
đình nhưng vì là con gái không thể làm được như An.” “Nói cậu đừng buồn. J’en
doute. Cậu vẫn không chừa được cái tính lãng mạn”. Đồng cầm thìa khuấy cốc
nước chanh uống dở, nghĩ Thạch không còn muốn chia xẻ với mình những chuyện
tình như thời niên thiếu: “Còn anh ấy à, tu es trop cynique”. Buổi trưa
Thạch rủ Đồng đi ăn cơm tây, uống rượu vang. Trong hiệu người chủ tiếp đón
khách một cách sun xoe. Hơi rượu làm mặt Thạch ửng đỏ, cặp mắt dại đi như một
con chó say nắng.
“Này Đồng này. Nhiều
lúc ngẫm nghĩ tôi tự hỏi không hiểu bọn mình có phải là anormal không?
Thằng An này, thằng Cảnh này, cả cậu nữa. Tôi nhiều lúc nằm một mình trông đồn
chẳng nghĩ đến ai, chẳng nhớ ai. Mỗi ngày tôi trông đợi băn khoăn thấp thỏm cái
gì cậu biết không? Đợi buổi trưa có xe đi ngang đưa báo cho đọc. Tôi sống chung
với những người không thể tưởng tượng nổi. Cái thằng Trung-úy chỉ huy tôi là lính khố
đỏ lên. Suốt ngày thích nói chuyện chính trị mới chết. Lính thì thật là ba đá.
Có chứ… có tôi có nhớ Liên. Nhưng nhớ thế thôi. Cậu thấy không? Chúng mình chỉ
có một mớ tình cảm vụn vặt. Tình cảm là cái gì giả nhất. Tôi nghĩ có thể tôi là
faux mà không biết. Nếu quả thật tôi yêu Liên tại sao tôi không lồng lộn
tìm mọi cách chiếm lại cho bằng được? Chiếm lại bằng mọi phương cách… nếu có thể
chết được, như thế mới gọi là yêu, không tôi chỉ nghĩ, tôi chỉ nhớ tiếc rồi
thôi. Mọi sự rồi qua đi. Phải không? Tôi không có một hành động cụ thể nào tỏ lộ.
Mình buông xuôi hết để giữ lại một mớ tình cảm như bọt sóng vậy. Cái gì đối với
mình cũng thấp thoáng mờ nhạt vô nghĩa. Tại sao vậy? Cậu có thấy như thế không?
Nous sommes lâches. Objectivement lâches… Cậu nói đúng. Cynique.
một thứ mặt nạ ngụy trang sự hèn nhát. Chỉ có thế thôi. Mình chạy trốn sự thật
đó”. Đồng nghĩ mình không nên thêm lời. Thật buồn, đúng. Thạch nói đúng nhưng vẫn
còn, còn một cái gì đáng quý ở trong chúng tôi. Sự thành khẩn của chúng nó? Sự
thành khẩn cũng trở nên giả dối nếu trở thành cứu cánh của thái độ và hành động.
Thật buồn, đáng buồn, hết, như thế là bị vây hãm trong những giới hạn tự mình dựng
lên. Hè phố dốc thấp hơn cửa hiệu, trưa bắt đầu nắng, người đi ngoài chỉ trông
thấy nửa thân. Thành phố vơi tiếng, Đồng nhìn Thạch uống cà-phê, trong hiệu ăn mọi
người đều nói nhỏ, khách không còn vào thêm. Không khí vẫn loãng một cách dễ chịu.
Thạch bảo: “Về nhà ngại quá. Vào thư viện, chốc nữa đi xi-nê”. Như ngày nào, phố
Trường Thi mát và xanh rợi, trong vườn rộng êm tĩnh, cửa kính sáng trong. Phòng
đọc sách đông hơn trước, nhiều gương mặt lạ. Thạch và Đồng bắt tay người thủ
thư, cùng cười thay lời chào. Quạt trần quay chậm, không khí ngái ngủ. Thạch
ngoẹo đầu vào lưng ghế ngủ rất nhanh trong khi Đồng còn vẩn vơ nhìn giá sách
trước mặt. Ông già trông nom trật tự đi rón rén tới bên Thạch, ghé mặt xuống
nhìn, tay nâng giữ cặp kính trắng; Thạch vẫn ngáy phì phò. Đồng bảo khẽ: “Nó mới
đi xa về mệt, cụ ơi”. Ông già nhăn mặt lắc đầu: “Tay này biến mặt từ lâu, phần
tử nguy hiểm hả”. Ông cười nhặt tờ báo trên bàn, đi chỗ khác. Đồng không ngủ được,
tìm trên giá sách để tự do một quyển sách về y khoa xem ảnh. Một chốc ông già
quay trở lại, bảo Đồng gọi Thạch dậy, Thạch ngồi thẳng lại, mắt đỏ hoe nhìn
trân trân lên cửa kính trên đầu tường không chớp mắt. Có tiếng chim hót trên
cây ngoài vườn và tiếng im nổi của bóng nắng già. Thạch đứng dậy tìm mượn báo,
xem chương trình chiếu bóng. Đồng nghe mình mệt khô người, muốn về nhà, Thạch bắt
đầu nói: Chán quá, Hà-nội chán quá, thế này thì không ở được một tuần. Buổi chiều
vẫn qua hết trong rạp chiếu bóng với một phim tẻ nhạt. Chiều thành phố nhộn nhịp
dịu dàng nhưng đầu óc mệt nhọc ủ ê.
Những ngày sau Đồng
phải đi làm, Thạch ở nhà đi chơi một mình. Đồng không hiểu Thạch làm cách nào
tiêu hết những giờ trống trải trong thành phố không còn mối ràng buộc nào. Thạch
cũng còn vài người họ xa nhưng cũng như Đồng, Thạch không thích lui tới. Có lẽ
Thạch xuống nằm ở gian nhà trong khu chợ Hôm, cười đùa, ôm ấp để khỏi phải mệt
trí, đợi buổi chiều đến đón Đồng rủ ra bờ Hồ ngồi uống nước ngâm nga nhìn phố tối
dần, đạp xe đèo Đồng về nhà. Cả hai đều hết chuyện nói, thừ người hàng giờ. Một
bữa Thạch bảo: “Như cậu lấy vợ là vừa. Tôi về chơi còn được hưởng cái thú là
trông thấy hạnh phúc của cậu. Chứ cứ hai thằng trơ thân cụ nhìn nhau mãi chẳng
ra cái thể thống gì”. Đồng bảo: “Cũng có lý”. “Lấy vợ, đẻ con là yên mọi chuyện.
Đâu vào đấy cả” “Cậu bảo đảm được cho tôi là yên không?” Vào cuối tuần, Thạch
nói: “Tôi đi Đồ-sơn
chơi, chiều ngày kia về”. Đồng hiểu là Thạch đi với một người đàn bà. Chiều thứ
bảy, ngày chủ nhật ấy Đồng quanh quẩn ở trong nhà đọc hai quyển truyện trinh
thám của Thạch phát nhức đầu. Chiều chủ nhật Thạch trở về vui vẻ. Ăn cơm xong,
Thạch rủ Đồng đi bộ, leo dốc sau nhà đi xuống Bách Thảo. Trời chạng vạng tối, cả
một vùng cây cối âm u. Mặt hồ dưới xa như một vùng ánh sáng lạ lùng. “Tôi gặp
thằng An dưới Hải-phòng”,
Thạch đột ngột nói, Đồng sửng sốt: “An? Nó sao?” Con đường dốc thoải đá dăm kéo
dài dưới hàng cây tối mất hút. “Trông nó thảm hại không nhận ra được. Gầy, tái
xanh, rách rưới. Như là nó nghiện”. “Làm thế nào nó nghiện nhanh như thế được?”
“Tôi đoán thế?” “Cậu gặp ở đâu?” “Ở bến xe. Tôi vừa bước xuống thì trông thấy
nó. Nó định lẩn mặt tôi nhưng không kịp. Tôi hỏi nó làm gì ở đâu? Nó trả lời
quanh co. Tại tôi đi với một người đàn bà nên không kịp nói với nó nhiều. Tôi hỏi
chỗ ở của nó, hẹn sáng nay tôi về sớm tìm nó đi chơi. Nó cho tôi địa chỉ láo
tìm suốt cả buổi sáng không thấy…” “Sao thế nhỉ?” Đồng tự thấy mình ngớ ngẩn.
Thạch dừng bước móc bao thuốc lá đưa cho Đồng, đánh diêm châm thuốc. Đồng thấy
mình đang đứng dưới chân dốc, trước mặt mở ra một vùng quang đãng hơn. Những
đám mây ở phía bên kia hồ và sau lưng tôi kín, những chuồng thú bỏ không sừng sững.
“Nó có hỏi cậu thế nào. Nó biết thằng Cảnh đi rồi. Nó cũng biết cả chuyện cậu với
em gái nó nữa”. “Nó nói thế?” “Nó bảo với tôi thế, nó bảo nó tiếc các cậu không
lấy nhau”. Đồng không tưởng tượng đến, không hình dung được hình dạng An lúc bấy
giờ. Làm thế nào gặp được An? Để làm gì? Gặp để nhìn, để thương hại trống không
ư? Một cái gì đã chết hẳn. Nga, Nga. Đồng như trông thấy vách tường đá xám trồng
mảnh chai xanh và màu khăn trắng chùm trên đầu tóc Nga. Đồng vứt mẩu tàn thuốc
xuống hồ, rớt trên một chiếc lá sen. Trong vườn chỉ còn bóng tối hoang mang
dâng lên và sự im lặng sâu thẳm của đêm dài. “Trông nó thiểu não quá cơ. Mắt cứ
lấm la lấm lét như thằng ăn cắp. Hết cả vẻ công tử. Nghĩ lại buồn ghê.” “Biết đâu chừng nó đang
trở thành nhà văn” Thạch cười giọng cay độc: “Hở, nhà văn. Nhà văn bẩn thỉu hôi
hám. Không nhìn thấy gì hơn ngoài những tiếc nhớ mơ ước của riêng mình. Nó đáng
bị ông bô nó sai lính bắt về đánh cho một trận rồi gửi sang Tây”. “Tội nghiệp
nó cậu. Cậu nghiêm khắc quá không cho nó một cái chance nào hết cả”. “Y
a pas de chance, pas de miracle, nghiện là coi như đi đứt”. Tội nghiệp An.
Đứa con trưởng giả ấy cứ loay hoay mãi với mình không xong. Những mái nhà lổn
nhổn ly ty dưới thấp như những miếng bóng đêm im lìm đông đặc. Đêm ấy Đồng thao
thức, nghe Thạch ngủ say, tiếng mẹ vỗ về đứa cháu nội chốc chốc. Tội nghiệp, An
đáng tội nghiệp. Có thể An yêu Nga, yêu em gái của mình và ghen với Đồng. Đồng
bày ra một trường hợp bệnh lý và muốn phân tâm An. Nga cũng mơ hồ cảm nhận và
nàng nghe thấy tội lỗi vây quanh mình. Và Đồng ngủ thiếp trong giả tưởng một cuộc
chữa bệnh tâm lý cho An.
Sáng hôm sau Đồng
lại đưa Thạch ra bến Nứa lên xe về Hưng-yên, Thạch chui lên một chuyến xe đông ngồi
giữa những người nhà quê, rồi đến hiệu ảnh. Những ngày tháng ăn mòn dần tôi, cướp
mất chúng bạn. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ các tên hiệu máy ảnh, tên hiệu phim, các
món phụ tùng, các con số xuất nhập, tôi ghi nhớ những viên gạch vỡ trước hè, những
thùng rác dựng dưới các gốc cây, nhận mặt thêm những khách hàng lui tới, những
người qua lại ở tầng gác trên, những người quen mặt nhiều hơn ở ngoài phố trên
đường đi về ngày ngày… Tôi nhớ thêm vài thói lệ của những người trong gia đình
nhà chủ, những cuộc giao tiếp thường tình bổn phận, những công việc phải làm
trong một ngày. Những giờ rảnh rỗi, những ngày nghỉ, tôi nhớ chúng bạn, người
yêu và tôi nhớ tôi. Rồi tôi sẽ trở thành một chiếc máy ảnh ghi nhận những cảnh
tượng bên ngoài, những bức ảnh khi rửa quá thừa hoặc thiếu ánh sáng. Người duy
nhất còn hay gặp gỡ là Nhai với những lo lắng vui buồn nhỏ nhặt về gia đình,
thi cử, về người yêu nhỏ bé thứ nhất. Thành phố này, đời sống này chông chênh ở
đâu không biết, những nơi tôi đi qua vẫn vững chắc bình thản. Sau mấy ngày rét
ngọt của tháng ba, mùa hè đến dần. Những buổi sáng trong mát hơn, những buổi
chiều rộn rịp hơn, những đêm tối dịu dàng hơn. Chiến trường bị đẩy lui xa,
thành phố hớn hở hơn. Tôi quên dần căn bệnh, quên dần bằng những niềm nhớ chốc
lát chúng bạn người yêu cũ, tôi quên dần tôi. Tôi di chuyển nhẹ nhàng thoải mái
trong cái thế giới thu nhỏ, thu nhỏ mãi để sẽ biến mất thảnh thơi. Biến mất
cùng những giấc mộng tuổi niên thiếu. Một ngày nào, bạn bè trở về không gặp,
chúng nói với nhau: Đồng chết rồi, nó chết như thế nào? Thạch cười sặc, tiếng
cười vẫn cay độc không thay đổi: Nó chết vẫn còn là trai tân. Hai mươi ba tuổi
chết vẫn còn tân. Ça c’est ridicule. Mẹc. Sà lù. Bú dù. Con khẹc.
PHẦN THỨ BA
CHƯƠNG I
Khu vực nhà Rồng
dài xa, mờ xám. Trên bến rộng, một vài người thấp nhỏ đi trong khoảng cách các
kho hàng há mõm đen ngòm hoặc đóng bít cửa sắt nặng. Người hoa tiêu đang leo những
bực thang lên tàu, bên kia vùng bến chợ Khánh-hội rào rào; giữa thân tàu
và bờ ke hở một khe sâu nhỏ. Phía Sài-gòn những tòa nhà lầu cao đứng bên đường rộng
chưa hoạt động trong màn sương thoáng đột ngột của những ngày cuối năm chưa tan
hết.
Hồi năm giờ sáng
thức dậy ra sau rửa mặt, nghe tiếng chân ngựa gõ lộp cộp trong chuồng, mùi rơm
cỏ nồng khai, ngửa hít khí trời nghe bụi nước đậu xuống mặt bất ngờ như đã về đến
xứ Bắc. “Con về ngoải bình yên mạnh giỏi. Chắc là con không còn vô nữa” “Thế
nào có dịp con cũng vô lại Sài-gòn.
Con không khi nào quên má và các em”. Má Hai, Hạnh và Nguyên xách đồ đưa lên xe
thổ mộ của chú Năm hàng xóm; Hạnh buồn đứng lại bên bờ tre nhìn chiếc xe lăn chậm
trên đường cát ướt còn tối trong xóm Đồng Ông Cộ; con đường xe lửa điện lên Lái-thiêu đã bị bóc, ga Bà Chiểu
đã bị phá để xây chợ mới, trên cầu hàng Sanh quay nhìn xóm Lò-heo cũ. “Về ngoải vui chớ
thày Hai. Nghe nói Hà-nội đẹp hơn Sà-gòn”,
chú Năm ghìm cương cho ngựa đổ dốc, bên trái vùng sình lầy chạy vô tới Cầu Sơn,
Cầu Kinh lơ thơ ít nhà lá, nơi đây những ngày đầu kháng chiến, khi tiếng súng
sáu nổ bì bọp vài phát ngoài cầu Bông, quận Tân-bình bị chiếm chưa đầy nửa
tiếng, toán du kích Hàng Sanh đã cầm cự trọn ngày cho tới khi hết đạn, quân
Pháp phải dùng tàu đổ bộ bọc mặt sông, dùng báng súng lưỡi lê giết chết từng
người một nằm ngâm mình dưới sình; miễu thờ đám tử sĩ ấy còn nằm giữa vùng
hoang vu ít người dám lui tới. Kho đạn Thị-nghè dời đi nơi khác, kho
đã nổ rung chuyển cả thành phố và vùng phụ cận ba ngày liền; “hồi nổ kho đạn
thày Hai ở đâu?” “Tôi ở trên Tân-mai”,
chú Năm phất chiếc roi nhỏ lên mái thiếc, miệng khẹt khẹt theo thói quen. Đường
Chasseloup dài hút dưới bóng cây, đường Paul Blanchy rộng và trống hơn, đường rầy
lún sâu bị nhựa che lấp dần; Đại lộ Norodom vẫn còn sang trọng. “Hồi biểu tình
độc lập, chú có đi không?” “Có chớ. Không nhìn thấy gì hết. Bữa tôi với con Hạnh
nhà bà Hai chạy một mẻ chối chết. Phải bọc ngã Hàng Sanh tới mười hai giờ trưa
mới về tới nhà”. Một hai, một hai… Tiến lên đi kìa trời thắm hồng… Mùa thu rồi
ngày hăm ba ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến… Nóp với giáo mang ngang vai
nhưng thân trai nào kém oai hùng. Những bài hát của một thời lịch sử của tầm
vông giáo mác nhọn hoắt những nồng nhiệt ái quốc.
“Thày Hai vô uống
với tôi ly cà-phê.
Tôi không vô trỏng được. Tôi đưa đồ qua cửa rồi thày mướn người ta mang lên tàu
cho”. “Thày Hai về ngoải mạnh giỏi. Tàu thày đi tên chi vậy?” “Saint Michel”. Tôi gửi lời thăm
hết lối xóm nghe chú Năm. Chào chú Năm. Chú Năm quay xe về chợ Sài-gòn, đỗ bên hông nhà ga xe
lửa, đón khách: Bà Chiểu đây… bà con cô bác ai về Bà Chiểu, Đất Hộ… Từ biệt Hạnh
ở lại trong xóm Đồng Ông Cộ với các ngõ ngách rắc rối của nàng, nàng thường dẫn
chạy trong các cuộc bố ráp, mà lính không thể kiếm thấy. Từ biệt những ngày sôi
nổi và thơ mộng; từ thành ra bưng, từ bưng vô thành; từ biệt Giồng Ông Tố, An
Phú Đông, Bà Quẹo, Hốc-môn,
Củ-chi,
Tân-uyên,
Long-thành,
Trảng-bom…
những Bảy Bắng, Tư Hột, Mười Né, Ba Đen, Út Nhì… Từ biệt thành phố đã nuôi nấng
mười năm lưu lạc.
Tàu tách bến, với
hồi còi âm như không phải của nó. Tiếng còi gợi nhớ đến điệu kèn ô-tô-ray tốc hành Hà-nội Hải-phòng, toa ngồi sang trọng
cửa kính bóng loáng. Những chiếc thuyền nhỏ chèo tay nép sát vào thân chiếc tàu
còn neo bến, người trên thuyền đưa mắt nhìn lên boong cao, thân người dưới thuyền
lùn ngắn. Ánh nắng đang làm sáng mặt sông. Khỏi Nhà Bè, tàu chạy đến những khúc
sông rộng vắng, hai bờ cây chàm, dừa nước, ô rô xanh um không thấy nhà cửa, ở
các ngã ba sông những chiếc phao nổi sơn đen mang đèn báo dập dềnh. Trời mỗi
lúc một rộng thêm, tịch mịch và mát mẻ; máy tàu ầm ì cùng tiếng nước réo, một
vài hồi còi bất thần như tiếng kêu quyến luyến. Sau lưng một vài người làm tàu
đi lại vội vã; những hành khách đứng trên boong đã dần tản biến mất. Gió thổi từ
mũi tàu đến phảng phất mùi biển mặn, nhưng dòng nước dập dềnh dưới mắt vẫn còn
đục lờ. Từ biệt Hạnh… Từ biệt Sài-gòn.
Điếu thuốc đốt hai ba lần mới cháy, đầu thuốc nám đen nhưng bập không nghe hơi
khói trong miệng. Chỉ có hương nồng của một màu thiên nhiên hoang vu. Cảnh vật
không thay đổi cùng với gió sông làm mờ mắt trải loãng trí nhớ vào những kỷ niệm.
Bây giờ, lúc này, bất chợt thức giấc mình đã là một người khác từ bao giờ. Cuộc
sống lầm lũi trong nhiều năm, tích lũy dần ở đâu, tự kết hợp và bỗng hắt ra một
hình ảnh khác những gì mình vẫn tưởng về mình. Không hiểu còn thích ứng được với
đời sống nơi chôn rau cắt rốn nữa không? Quê hương. Tôi trở về quê hương? Những
gì đã thay đổi ở tôi, ở nơi tôi trở lại. Mối lo lắng vu vơ tan hòa trong niềm
hân hoan xao xuyến. Mười năm, mười năm rồi và tôi trở về. Ngày bỏ nhà trốn đi
mười bảy tuổi. Đang ở nhờ gia đình bà cô ở Bắc-ninh, học trường Bách-Nghệ. Trường nằm trên một
ngọn đồi, đối diện với một khu đồi trọc, dưới chân đồi trọc là sân đá bóng. Ngã
ba trước cổng trường là chỗ gặp nhau của hai con đường từ Đáp-cầu xuống Bắc-ninh; một đường chạy ngang
Thị-cầu,
một đường nối dốc lừa uống nước qua trại lính Lê-Dương me và sấu um tùm gặp
Quốc-lộ
chạy từ sông Cầu xuống ngang nhà ga. Vượt con đường sau này, xuống sân đá bóng,
leo lên một ngọn đồi thấp đã được bạt phẳng với những bực cấp chạy dài làm chỗ
ngồi của khán giả, đi sát tới mép đồi dựng đứng sâu là đường xe hỏa Hà-nội Lạng-sơn chạy ở dưới. Tiếng còi
tàu thét vang ở khoảng đó vì sắp vào ga. Những buổi sáng mùa đông, đi bộ đến
trường, quãng đường từ đầu phố chính Bắc-ninh nằm trần trụi giữa đồng với hai hàng
lúc lắc xác sơ, những hơi gió thốc tê tái mặt mũi chân tay buổi sáng tinh mơ,
nghe tiếng còi tàu xa xôi và ấm áp. Trí tưởng phiêu lưu buồn bã. Ngày nào đó,
trong rạp hát mới lập ở Đáp-cầu,
rạp Vũ Đình Bồn, chật ních người, nghe đào Ái-Liên hát Tây, hát những
bài cải cách đầu tiên (Tango mystérieux, J’ai deux amours… Meo, Meo,
Trời sinh ra tôi kiếp con mèo) giữa những tiếng Bravo, bis của lính
Tây Lê-Dương,
bọn thiếu niên mê say bỗng thèm khát đời sống, chưa vào tới. Chuyến xe tay đã
chở hai đứa con trai mười bảy, mười tám tuổi tới đầu cầu Gia-lâm trong buổi sáng rét mướt,
bùn lầy. Cái cánh gà che lấp trước mặt chỉ để hở một kẽ đục của bầu trời mưa
phùn gió bấc. Giữa đồng trống, trên mô cao hai chuyến tàu hỏa đâm nhau gần ga
Yên-viên
mấy ngày trước vẫn còn nằm nghiêng nguyên vẹn. Tai nạn kinh khủng chỉ còn là cảnh
mờ ảo sau làn mưa buốt hoang vắng. Hai đứa đi trên cầu Long-Biên vào thành phố như
hai đứa nhỏ lạc đến Đảo Vàng. Nhưng một đứa đã bỏ cuộc trở về, còn một mình… Mười
bảy tuổi với hai năm Bách Nghệ và năm đồng ăn cắp của bà cô. Những ngày sống
chui rúc dưới gầm sân khấu, làm chân phụ vẽ phông, phụ trông nom hệ thống đèn
trên sân khấu; đêm đêm nhìn kép Huỳnh Thái đóng cặp với đào Ái Liên, thuộc dần
những bài hát và lời đối thoại, lang thang trước các cửa rạp, nhìn những thành
phố xa lạ mà buổi chiều đã ngồi trên xe chạy rong phố với tiếng trống tiếng
phèng la, phát chương trình quảng cáo cho trẻ con. Vào đến Sài-gòn không còn muốn trở về
nữa. Xứ Nam-kỳ,
đất Sài-gòn,
ngày và đêm, mưa và nắng, mở ra như một ngày hội bất tận. Những đêm ngủ ngoài
trời sao bên hè phố, những buổi trưa trên ghế đá dưới vòm cây trong vườn Bờ-Rô, những ngày chen chúc
trong các buồng xếp chữ các nhà in đợi hết giờ ngồi quán uống la-de. Bài học ái tình thứ
nhất với người con gái đóng sách sau những chồng giấy cao trong một ca làm đêm.
Bông. Mùi dầu dừa trên tóc, tóc sơ như tàu lá dừa dọc bên kinh lạch, thân hình
mềm mại nồng ấm mát mẻ như trong đêm mưa nằm ngủ trên ván nhà sàn dựa mé sông,
hai cánh tay choàng riết chi chít như cành lá trong rừng dầy, những nhịp chuyển
động dồn dập mênh mông như vàm sông, như ánh nắng bọc trong gió đầy. Bông, Mỹ,
Tươi… và những người đàn bà không nhớ tên, không nhớ mặt đi qua như đời sống
ngày ngày giản dị tự nhiên. Và Hạnh. Những ngày đau ốm từ bưng về thành dưỡng sức,
những ngày thất nghiệp để hoạt động nội thành, được săn sóc nuôi nấng. Đi về tự
do như nhà riêng, nằm trong buồng có lối mở ra bụi tre bên chuồng ngựa, bóng Hạnh
ra vào dịu dàng; đêm đến Hạnh rón rén vào mùng nằm rúc trong tay run rẩy, nhẹ hẫng
như cơn gió trong bụi tre già chạy tới đám gò mả hoang phế. Tiếng kêu phải dấu
nghẹn trong ngực trồi sụt như tiếng nấc, thân thể như cơn trốt cuốn giữa buổi
trưa nắng, như con nước soáy quanh chân cầu đá, miệng lưỡi ngọt ngào như hương
thơm trong ruộng mía, những giọt nước mắt bất ngờ như sương của buổi mai cuối
năm… Hạnh. Từ biệt Hạnh. Vậy mà bỏ đi? Trở về? Cái gì đã khiến mình trở về?…
Liêm bỏ tay vào
túi quần, lấy ra gói khăn tay cuộn tròn Hạnh đã dúi vào tay lúc sáng sớm khi vắng
người và dặn: “Chỉ khi nào tàu chạy rồi anh mới được mở coi”. Liêm nắn cái gói
được cột chắc, mở thận trọng và nhìn thấy những tờ giấy bạc mới. Một ngàn đồng.
Hạnh đã dành dụm bao nhiêu lâu để có chừng này tiền? Dưới giòng nước đã thấy những
vùng xanh thẫm màu lá pha trộn với màu đen nhạt. Bờ cây lùi tít, mở rộng chân
trời đằng trước mặt. Tiếng ì ào ngoài khơi còn xa. Nhưng trong không khí bay những
bụi nước đáp phớt qua mặt. Trời nắng sáng gắt nhưng bị gió lộng thổi nhạt. Liêm
vẫn đứng tựa lan can đón nhìn biển. Trên boong cao hơn, dành cho hành khách hạng
nhất, ba người đàn bà, một Tây-phương
hai Việt-nam,
nằm trên ghế ngả, mắt đeo kính râm ngửa nhìn trời. Đứng trước mặt họ, chống thẳng
hai tay vào thành sắt, một sĩ quan hàng hải đang chỉ chỏ giải thích. Màu nước mỗi
lúc một xanh kín, tiếng sóng động nghe rõ dần, bờ cây biến mất trong tầm mắt,
nhưng mặt nước lại như phẳng lặng hơn; Máy tàu kêu lớn hẳn như gia tăng tốc độ.
Một phút bàng hoàng mất phương hướng, Liêm cố gắng đưa mắt tìm kiếm trong khoảng
lục bao la cửa sông tàu vừa ra khỏi. Gió dần êm hơn trong vận tốc đều hòa của
con tàu chạy trên một mặt phẳng, nhẵn hết sức của thị giác. Liêm chờ nghe cảm
giác nôn nao của cơn say sóng, sẽ tới nhưng tịnh không thấy; chỉ thấy hai chân
và hai tay mỏi nhừ; nhìn đồng hồ tay Liêm biết mình đã đứng chôn chân một chỗ gần
hết buổi sáng. Ở chỗ khuất nào sau lưng Liêm nghe tiếng cười nói lớn với nhau:
Đến Ô Cấp, tàu đậu lại một giờ, ăn bữa cơm trưa xong mới khởi chạy.
Liêm quay trở lại,
tưởng như tàu không còn chạy nữa, tiếng nước vẫn sủi bọt réo hai bên thân tàu,
nhìn thấy đằng xa những bóng núi Cap St. Jacques. Liêm leo qua những đống giây
chão lớn cuộn tròn ném trên sàn tàu, hơi cúi thấp đầu giơ tay vịn những sợi
giây cáp giăng chếch ngang lối đi, bước vào khung cửa sắt nhỏ gần đuôi tàu, tụt
lui xuống hầm.
✳
Dưới hầm thiếu ánh
sáng, bức bối ngột ngạt và huyên náo như cái chợ vỡ. Chừng một đại đội lính Việt-nam di chuyển cùng gia
đình. Kẻ nằm người ngồi la liệt trên các giường kép chồng chất không đủ, phải
trải bạt nằm dưới. Quân trang, vật dụng chắn lối. La lối gây gổ tranh dành giường
nằm, chỗ tốt; kêu gọi tìm kiếm nhau ơi ới; trẻ con khóc la dẫy dụa; đàn bà kể lể
ồn ào; ga-mên
chén đũa khua loảng xoảng… Ngồi trên một giường cao gần một cái lỗ tròn che mi-ca đục để lọt ánh sáng trời
vào, Liêm nhìn xuống vẫn thấy nhiều bóng tối hơn ánh sáng. Liêm nghĩ đến ba
ngày ba đêm trong gian hầm tối lúc nhúc những người này và nhớ tới không khí
thoáng lộng trên đầu. “Cơm” tiếng gọi vọng từ trên cửa hầm vang xuống và gian hầm
di chuyển rầm rập như một đám biểu tình xô đuổi nhau chạy tán loạn. Liêm nằm xuống
gối đầu lên chiếc va-ly
của mình, bỏ bữa cơm đầu tiên trên tàu vì không thấy đói, thiếp ngủ trong những
tiếng động hỗn tạp kéo dài của bữa cơm quây quần chật chội dưới hầm tàu. Lúc tỉnh
dậy, Liêm nghe tiếng sóng vỗ ào ào bên ngoài thân tàu, ghé mắt dòm qua lỗ hổng,
thấy trời vẫn còn sáng và mặt biển xanh đục chông chênh nghiêng ngả. Xung quanh
bắt đầu nghe tiếng nôn ọe say sóng và tiếng la lối nguyền rủa vì dơ dáy, trẻ
con ré khóc từng cơn. Bữa cơm buổi chiều đã bớt sức khua động náo nhiệt, Liêm
cũng cảm thấy cơn say nôn nao trong ngực, không muốn trở dậy, nằm im trên giường
lơ mơ thiêm thiếp.
Giấc ngủ kéo dài
theo cơn say. Sóng vỗ mạnh, lắc lư giường nằm, bắn tung tóe trên lỗ tròn hổng
vào đêm không nhìn được. Những ngọn điện mờ soi gian hầm im lặng tức thở. Đêm
biển hung dữ ghê gớm. Tất cả những người nằm giường xung quanh đều mê mệt. Chốc
chốc tiếng ói mửa khiếp đảm. Thấp thoáng trên giường cao ở một góc vài ba người
còn khỏe chụm đầu đánh bài thâu đêm. Tiếng nói âm vang trong gian phòng bị sóng
lớn bên ngoài òa tạt. Và giấc ngủ cũng bị vùi lên dập xuống tơi tả chông chênh.
Không còn thể phân biệt phương hướng thời gian. Chỉ còn tiếng sóng ì ào bất tận,
đêm tối triền miên kín mít trong ánh đèn mờ đục không đổi thay, buổi sáng ẩm ướt
nhớp nháp lạnh lẽo như mặt mi-ca.
Người nghe nhẹ thênh như thoát xác, không ghi giữ thời gian, thần trí vài lúc tỉnh
táo sáng suốt tách rời. Những người đánh bài vẫn mê mải im tiếng. Bước chân vụng
về giẫm trên sàn sắt lùng bùng. Một vài lời nói ngắn trao đổi vu vơ. Nghe trên
boong người đi lại tự nhiên. Tàu chừng như hãm bớt tốc độ.
Cớ sao anh lại có
ý định về Bắc? Cớ sao? Có phải vì mệt mỏi chán nản? Có phải chăng? Heureux
qui comme Ullysse a fait un beau voyage… Chợt nhớ câu thơ từ ngày còn đi học.
Không phải. Nhất định không phải thế. Buổi sáng nhớp nhúa này cũng giống như buổi
sáng khi được thả khỏi bót Catinat. Cơn mưa chực sẵn trên nóc nhà thờ Đức Bà.
Ba tháng, nằm ngay ở đầu phố sang trọng trung tâm Sài-gòn, gần những tòa nhà lầu
cao ngất đẹp đẽ, trong một sân si-măng
vuông bị vây bởi ba bức tường cao và một rào sắt như một chuồng thú cùng với hằng
trăm nhân mạng khác. May mắn thì có được một chỗ nằm co cẳng, còn không thì ngồi
khép cứng, không co ruỗi nổi tay chân; ăn ở đó, bốc bằng tay trong các ống lon,
các tấm áo rách buộc túm, trên mảnh giấy báo mảnh lá bẩn, tiểu tiện ngay ở đó
trong mấy cái ngách hẹp cũng ních người. Mối hy vọng duy nhất, mối hy vọng khiếp
đảm tự vùi tắt: được thẩm vấn xong để được chuyển đi nơi khác; thiên đường mơ ước
là khám lớn, sang khám lớn là được biết rõ số phận của mình. Còn ở trong khoảng
sân ấy, dưới một khoảnh trời luôn luôn ẩm nặng những ngày mưa, phơi mình trong
khắc khoải và hốt hoảng, thân thể như một đám sình hôi hám bốc cháy đau đớn; bị
dựng dậy bất cứ lúc nào trong đêm giẫm lên những tay chân đùi bụng đầu la liệt
trước mắt đi qua cánh cửa sắt vào trong hành lang để tới phòng lấy cung. Không
nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, chỉ còn những xúc động tả tơi rách mướp như
da thịt, thần trí hôn mê ngất xỉu trong cơn tra tấn. Rồi được vực trở về ném trả
vào sau cửa sắt, nghe những bàn tay chà xát muối ớt lên những vết thương rướm
máu, nghe tiếng la hét ở đâu trong miệng mình, nghe những lời an ủi vỗ về. Người
khác là những cơn đau đớn dự tưởng, khi mình ở ngoài dương mắt ngó. Những thiếu
nữ, thiếu phụ bị dí điện vào vành tai, vào đầu nhũ hoa, cửa mình, bị chấn nước
dốc ngược, bị treo bằng giây thép ở cườm tay, cổ chân, ngón tay… Tiếng kêu thất
thanh không thoát khỏi những bức tường lót dạ ngăn tiếng động. Trong đêm bó gối
nhìn những ngọn điện treo trên bốn góc đầu tường, nhìn đám người co quắp liệt rũ
khốn nạn hèn mọn khắp sân, những cơn mê sảng dẫy dụa, âm vang của những cơn
hành hạ thể xác. Đàn ông đàn bà lẫn lộn ngổn ngang nhưng không ai muốn mó tới
thân thể người khác. Những người được kêu đi, không trở lại; những người mới tới
ngơ ngác khiếp hãi trước cảnh tượng trong sân… Những tiếng hát cố gắng để xô đuổi
sợ hãi bị dập tắt ngay vì những làn roi cá đuối. Những rì rầm to nhỏ bị quét sạch
bởi những vòi nước sịt mạnh. Co rúm lại, co rúm lại mãi như hy vọng chịu đựng.
Cơn sốt, cơn say, cơn mê hoảng phủ chung mọi người. Thoát khỏi nơi đó như được
sống lại một cách mầu nhiệm, không biết lý do. Nằm ở nhà Hạnh được săn sóc, chữa
chạy, nghe nỗi sợ hãi vây bọc cùng bệnh hoạn. Bỗng nhiên trở lại tình cảnh của
đứa bé mồ côi lưu lạc với những bất trắc thiếu thốn của đời mình. Có phải vì thế
tôi muốn trở về? Nhưng tôi còn gì ở nơi đó để tìm về? Một bà mẹ đã tái giá. Một
đứa em trai. Tôi không còn gia đình, không còn quê hương. Đứa trẻ sống nhờ từ
nhỏ, đã lớn lên, đã lưu lạc bỗng khiếp hãi, phải chăng? Và tôi chạy trốn sự sợ
hãi? Có lẽ, có lẽ vậy. Những người cùng hoạt động, cũng bỏ rơi; anh Xuân đến
thăm và bảo: “Chú tạm nghỉ công tác. Tĩnh dưỡng cho bình phục. Lấy lại tinh thần
đã. Sau đó sẽ hay” “Tôi muốn được làm việc lại”. “Lúc này tạm rút. Nhiều thay đổi
lắm. Chú cứ yên tâm, lúc nào cần tôi sẽ cho người liên lạc với chú. Tạm chú đừng
liên lạc với tôi” “Tôi làm gì bây giờ?” “Tùy chú, chú được tự do trong thời
gian này”. Muốn sống chung với Hạnh nhưng cũng sợ hãi nốt cái dự tính của mình.
Không một chỗ nào là của tôi cả.
Trong hầm chợt náo
động hỗn loạn như lúc mới xuống, mọi người nhốn nháo sửa soạn đổ bộ. Tàu lướt
êm hơn, mặt biển thật phẳng ngoài cửa tròn nhỏ. Từ trên cửa hầm, những người đã
thoát lên kêu gọi ơi ới vọng xuống. Tourane, Tourane. Lại những tiếng cãi cọ
giành giựt vật dụng, trẻ con la ré, như mắc chứng động kinh, chân giẫm thình
thình trên sàn sắt tàu… Liêm tụt khỏi giường, leo vội lên boong. Buổi sáng ở
trên thật trong, mặt biển xanh mát tới cùng chân trời. Lần đầu ngoài biển cả
Liêm thấy những cánh buồm thuyền đánh cá lênh đênh nhỏ bé.
Cảm giác tỉnh táo
sảng khoái gợi thức dần dần cơn đói mệt. Sờ lên mặt nhớp nháp ẩm ướt râu mọc tủa.
Tàu vẫn chạy tới gần phía núi mờ, nước reo sủi bọt trắng bên mạn. Đằng đuôi tầu,
một người Pháp ngậm ống điếu thản nhiên ngồi trên một gù sắt thả giây câu. Lạnh
tê trên hai bàn tay dài gầy nắm trên vòng sắt, lan dần khắp người hốc hác nghe
thấy rõ ngày thứ hai trên tàu, đã hai mươi tám Tết. Bước chênh vênh trên boong
có cảm tưởng dễ tuột ngã lăn xuống biển. Liêm trở xuống hầm ngồi trên giường ngắm
nhìn những gia đình binh sĩ sửa soạn lên bờ, ngủ thiếp một giấc nữa. Khi tỉnh lại
gian hầm vắng tanh im lặng.
✳
Tàu đậu lại ngoài
khơi Tourane nửa ngày. Dường như một trận bão đang thổi ngoài biển Nam-hải. Liêm nghĩ tàu có thể
quay trở lại Sài-gòn
và mình chắc chắn sẽ bỏ qua chuyến về Bắc. Sẽ ở lại xóm Đồng Ong Cộ với Hạnh
hãy sẽ ra bưng? Nhớ ngày quân Pháp mới đổ bộ, làm hướng đạo cho một đơn vị
ngoài Bắc vào từ Biên-hòa
về Gia-định,
đã thấy mình hoàn toàn cách biệt với những người đồng hương. Khoảng mười giờ tối,
đơn vị qua cầu Bình-lợi
yên lành, đến cầu Băng-ky
chỉnh tề đội ngũ cất tiếng hát tiến vào thành phố Gia Định. Đường không bóng
người lai vãng, chỉ có tiếng hát và bước chân anh hùng rầm rập. Ngoài lộ bàn ghế
tủ giường trong các nhà chất đầy giăng ngang làm hàng rào chướng ngại vật cản lối
địch. Đơn vị được lệnh tản mác bố trí khắp các ngõ hẻm, núp dưới hầm hố dân
chúng đào tránh bom Đồng-minh,
nhưng đến hai giờ sáng lại được lệnh tức tốc rút lui về Biên-hòa; lệnh không thông báo
kịp nhiều người bị bỏ rớt đến mờ sáng phải cải trang lẩn lút trốn ra khỏi thành
phố. Chính đêm đó, đã nằm bên bụi tre nhà Hạnh, Hạnh đã mang chuối và bánh ra
cho ăn; lúc vào cám ơn Hạnh để rút, Hạnh cũng đã tưởng mình là anh chiến sĩ lặn
lội từ Hà-nội vào Nam. Ba giờ sáng còn sục sạo trên đường Ba-tay kiếm một anh tiểu-đội-ttrưởng thất lạc, gõ cửa
những căn nhà rộng thênh không bàn ghế để hỏi thăm. Nghe các anh kể chuyện Hà-nội
mà háo hức nhưng vẫn nhìn thấy họ không giống như mình; lịch sự kiểu cách văn
chương ngay cả trong khi bần cùng nguy khốn có cảm tưởng họ không phải là những
người đã vượt cả ngàn cây số đến. Có lẽ mình đã bị Nam hóa, miền Bắc đã bị xóa
nhòa nơi mình? Vậy mà mình hiện đang ở trên đường trở về. Hạnh nói: “Anh về quê
hương xứ sở của anh. Biết bao giờ anh lại trở vô. Con gái Bắc…” “Không. Anh về
cho biết tình hình. Thể nào anh cũng vô lại. Nếu anh giàu anh đã đưa em cùng về
chơi” “Không ai về xứ mà còn muốn đi nữa. Em cũng vậy.” Hạnh muốn được kể cho
nghe về miền Bắc, muốn biết thành phố mình sẽ đến để nàng có những căn cứ tưởng
tượng khi nhớ nhung. Lúng túng và bối rối, không thể giảng cho Hạnh hiểu, tôi
không có nhiều kỷ niệm với miền Bắc ngoài những năm thơ ấu đau buồn; tôi nhớ rõ
những thành phố khác trên đường lưu lạc hơn cả Hà-nội; tôi không có quê hương xứ
sở, chỉ có một cuộc đời phải sống mang theo mình.
Liêm mở va-ly, tìm chiếc áo dạ đã bị
dán nhấm nhiều chỗ; chiếc áo của Tường tặng cho khi Liêm đến báo tin từ biệt.
“Tháng này ngoài ấy lạnh phải biết. Chú cầm lấy xài đỡ. Chắc tôi không bao giờ
dùng đến nữa. Kỷ niệm của tôi đấy. Tôi mang từ ngoài Bắc vào”. Trừ người thân,
không mấy ai biết gốc tích của Tường, Anh vào Nam đã hai chục năm, lấy vợ Cần-thơ, sinh năm đứa con sống
nguyên trong một xóm, xóm Lách gần cầu Mạc-ma-hồng, từ khi nghèo khổ độc
thân cho đến khi phong lưu lập được gia đình. “Quê hương tôi là đây. Dù mai kia
có yên ổn, tôi cũng không bao giờ dại dột mà về làm gì. Tôi không hiểu chú nghĩ
thế nào”. Cười trừ. Anh đã bỏ nghề họa sĩ, làm maître d’hôtel cho một khách sạn
lớn, và là ủy viên kinh tài của tổ chức; chính anh giúp Liêm xin giấy tờ thông
hành, cấp vé tàu và một món tiền hai ngàn đồng với hai lá thư giới thiệu hai
người quen: một ở Hà-nội, một ở Sài-gòn.
“Quý lắm đấy. Vợ tôi đòi bán ve chai, tôi không chịu.” Liêm mặc áo, leo lên
boong, trong bụng đói cồn cào. Nhiều hành khách vừa ăn cơm trưa xong đang đi dạo,
ngắm nhìn hải cảng ở trong. Thành phố ở xa trông như một đường viền cao hơn bờ
bể, núi tím thẫm. Liêm tìm vào phòng ăn của hạng nhì, điều đình với người đầu bếp
chính đang thu dọn bàn, mua lại một phần ăn của khách bỏ không dùng. Anh đầu bếp
vận âu phục tím, trịnh trọng như một nhà trí thức, bằng lòng cho Liêm ăn không
lấy tiền, còn gọi thêm cho Liêm một cốc cà-phê sữa. Có lẽ mấy bữa hắn
không có người chuyện trò nên gặp Liêm hắn nói thao thao suốt buổi. Chuyện bên
Tây, bên Tàu, những nơi hắn đã đặt chân đến, những kiến thức thâu thái được, những
nhân vật trí thức danh tiếng mà hắn đã gặp trên tàu này và hắn đã có dịp nói
chuyện bàn luận về các vấn đề hệ trọng. Liêm chỉ lặng thinh ngồi nghe, đợi tiêu
bữa ăn và nghĩ: đúng là dân Bắc-kỳ
sạo ke. Để làm hắn khỏi thất vọng, Liêm cũng đã nói khoác mình là dân buôn lậu
giang hồ, bị mắc kẹt ở Nam-kỳ
vì thời cuộc, bây giờ tay trắng trở về quê hương. “Tôi tính về bán mấy cái nhà ở
Hà-nội, để dựng lại cơ nghiệp”, Liêm cười thầm: chính mình cũng bắt đầu trở
thành dân Bắc-kỳ,
chỉ mới trong một nửa con đường trở về.
Trở xuống hầm một
lúc, Liêm nghe tiếng ca-nô
mang hành khác từ Tourane lên tàu. Trong gian hầm thêm được ba người nữa, chiếm
ba giường dưới thấp kế bên; Đó là một gia đình về quê ăn Tết gồm hai vợ chồng
trẻ và người em gái. Khi tàu tiếp tục cuộc hành trình vào lúc bốn giờ chiều, trời
vẫn còn trong sáng. Ngủ một giấc, thức dậy không còn thấy lỗ hổng bên mạn tàu nữa.
Đèn trong hầm đã thắp soi những hàng bù-loong tròn nhẵn và những chiếc giường sắt
tênh hênh không người. Gió gào ở bên ngoài át hẳn tiếng máy. Liêm tụt khỏi giường,
dẫm phải những bãi nước nhờn trơn, nhìn ba người thiêm thiếp như xác chết, định
lên phòng ăn. Vừa leo đến cửa hầm, nước tạt hắt vào mặt, gió thổi rú đẩy lui lại
sau, phải bám chặt vào tay thang sắt lùi xuống định thần. Tàu bắt đầu đi vào
vùng bão thổi. Những ngọn sóng nhào khỏi thành tàu, rớt trên boong bắn tung tóe
như cơn mưa lớn từng chập. Biển đen kịt và đặc kín tiếng sóng cuồng nộ. Liêm
đành trở xuống hầm về giường lao đao. Vừa nằm xuống nôn thốc. Đầu buông rũ
ngoài thành giường, hai tay nắm chặt hai bên, nghe người bị nhồi lắc lư. Con
tàu bị nhấc bổng, ném xuống sâu từng hổi không dứt, lắc lư nghiêng ngả. Không
nhìn thấy gì nữa, nước mắt nước mũi ròng ròng, chỉ nghe tiếng đồ đạc để dưới
sàn lăn từ phía này sang phía khác bừa bãi khắp cả gian hầm rộng. Nôn mửa đến
quặn ruột gan, miệng đắng ngắt và thiếp ngủ co quắp trong chiếc áo dạ. Một đêm
mệt lả. Nhiều lúc thoáng nghe như con tàu liệt hết máy và chỉ được sóng đưa đi
một cách chậm chạp. Ngày hôm sau, sức gió đã giảm nhưng mưa như trút. Nhìn qua
lỗ hổng, trời như một buổi chiều dài quá. Con tàu vẫn nghiêng ngả nhồi lắc.
Liêm vẫn nằm liệt thu mình trong áo, đèn trong hầm thắp cả ngày. Những người ở
giường dưới đã phều phào trao đổi được vài câu ngắn. Người vợ thề không bao giờ
chịu đi tàu thủy nữa và hỏi chồng về những món hành lý lặt vặt. Đồ vật được mấy
người làm tàu thu gọn lại, những người ấy đều mặc áo dạ dầy, mũ và khăn chùm
kín đầu cổ. Một người nói: Nốt hôm nay nữa thôi, mai là các ông các bà khỏe rồi.
Khoảng cuối đêm ấy, mưa vẫn lớn, gió còn thổi nhưng sóng không còn nhồi. Giật
mình thức giấc, giá buốt cả tay chân. Mùa đông, tôi đang ở trong mùa đông. Từ xứ
mùa hè tôi đã vào tới xứ mùa đông. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Sáng ngày cuối
cùng trên tàu, trời tạnh ráo. Cùng ba người khách đồng hạng lên boong ăn bát
cháo nóng với đậu om, bữa điểm tâm của hạng ba. Con tàu vẫn còn đong đưa nhẹ
nhưng người thật tỉnh táo. Xoa hai bàn tay vào nhau, há miệng thở nhìn khói bốc
ra trắng nhờ như màu trời. Những đầu ngón tay nhăn lại nhưng khi vuốt lên mặt
thấy da căng lên. Tiếng người thiếu nữ chuyện trò với chị, giọng nói trong và ấm,
giọng nói thuần chất du dương đã lâu lắm mới được nghe lại. Gió thổi tê rát cả
mặt mũi nhưng trong cơ thể tưởng đã đuối liệt hơi nhiệt vẫn bốc ra. Liêm lân la
làm quen với người chồng, gia đình anh ta về Kiến-an ăn Tết. Anh làm interprète
cho quân đội viễn chinh. Trông anh cũng là người có học, Liêm không hiểu lý do
khiến anh chịu làm công việc hèn hạ. Liêm nghĩ đến những cuộc bố ráp, phải ngồi
cả buổi trưa nắng, đợi chiếc bao bố với hai lỗ nhìn, chùm kín mặt tên điềm chỉ,
đi qua nhận diện từng người, theo sau chiếc bao bố là bọn sĩ quan, hạ sĩ quan
Pháp và duy nhất một tên thông ngôn Việt-nam. Liêm nói: “Tôi ở trong Nam lâu quá nên
chẳng hiểu tình hình ngoài Bắc thế nào”. Anh ta thú thực miễn cưỡng mới phải
làm cho Tây, thực tâm không muốn. Anh nói: “Bọn quốc gia thối nát quá. Mình đến
thua Cộng-sản
mất thôi”. “Cộng sản nào?” Anh ta chăm chú nhìn Liêm, bật cười và nói lảng sang
chuyện khác. Liêm cố gắng lái trở lại câu chuyện: “Tôi chỉ thấy có kháng chiến
thôi”. “Không đơn giản thế đâu. Quê anh ở đâu? Anh cứ thử về quê anh khắc rõ” Về
đâu? Quê anh ở đâu? Bắc-ninh?
Đó là một thị xã nơi tôi sống nhờ. Cái làng nhỏ trong tỉnh Hà-đông, trên bờ sông Hương-tích. Làng của mẹ tôi, tôi
đã về một lần từ ngày nhỏ đến nay không nhớ nổi tên. Quê nội? Tôi không biết.
Con tàu lướt êm trên vùng biển lặng. Gió lạnh nhạt nhưng giá buốt. Người thiếu
nữ ngồi trên giường chải tóc, hát nho nhỏ bài hát thật hay được nghe lần đầu. Về
đây khi gió mùa thơm ngát, ôi lũ chim giang hồ… Đáng lẽ không nên trở về.
Quê hương tôi không phải ở đây. Mọi sự đều mới mẻ, xa lạ. Tôi đã đi quá xa và
biết bao nhiêu thay đổi trong chừng ấy năm. Tôi không có chung những kỷ niệm với
những người tôi sẽ gặp. Trở lên boong một mình, làm quen với hơi gió bấc. Mặt
nước xanh trong khác hẳn. Vẫn còn nghe tiếng hát của người thiếu nữ vọng lên
qua cửa hầm đằng sau lưng. Bỗng nhiên tiếng còi tàu kéo lên như lúc khởi hành.
Tiếng còi tắt trên một vùng mênh mông vẫn chưa thấy bến bờ. Trên boong cao nghe
tiếng cười nói vui của những người đàn bà và chợt nghe ra giọng nói của mình lơ
lớ không thể giấu giếm được.
✳
An bước ra khỏi
ngõ, thu hai tay trong túi áo, mắt cúi thấp, mũ dạ đội trên đầu. Hai bên hè phố
vắng người, một vài đám trẻ chơi pháo xiết quanh các cột đèn. Các mặt nhà đóng
cửa hoặc chỉ hé mở cửa chính, trên các cánh cửa dán giấy điều, tranh Tết sặc sỡ.
Ba mươi Tết, hôm nay đã ba mươi Tết. An đi lên cầu, vào thành phố. Dưới sông
trong những khoang thuyền tối thấp thoáng ánh hương nến trên các ban thờ bầy
ngay trên chiếu hoa phủ sạp thuyền. Những ống khói xưởng máy nhô cao khỏi những
nóc nhà nhấp nhô một bên bờ sông, không còn hoạt động, lên một bầu trời thoáng
nắng nhưng vẫn còn rét. Bên kia, con đường chạy qua khúc sông cụt bẩn thỉu rác
rưởi chật ních thuyền bè, đến trước công trường nhà hát thành phố, thẳng mãi đến
những phố tây sạch sẽ sang trọng. Ngoài phố xe cộ thưa thớt, những người đi xe
đạp thong dong. Mùi khói hương trong các nhà bay tỏa ra ngoài hè; trước các bàn
thờ cỗ đã bầy chờ giờ cúng.
Không thể về nhà
nhưng không biết đi đâu? Cần một bữa cơm và tiền… Nhà, không nên nghĩ đến,
không phải là nhà của mình… Tôi không có cái gì là của tôi. Tôi bây giờ chỉ là
một tên ăn bám, ăn bám vào một con đàn bà cũng chẳng ra gì. Đêm nay, mai, ngày
kia, ngày kìa… An móc chiếc tăm nằm lẩn giữa bụi mốc trong kẹt túi, đưa lên miệng
xỉa. Một thiếu phụ sực nức mùi nước hoa, vượt qua, quay nhìn vào mặt sỗ sàng
trước khi bước vào một nhà gần đấy. Chẳng còn gì để xấu hổ cũng như chẳng còn
gì để kiêu hãnh. Vẫn có thể về nhà, nói những câu bông lơn lấy lòng từ thằng bé
con không được hưởng ứng, chờ bữa cơm ngồi vào bàn ăn dù không ai mời không đếm
xỉa đến vẻ lãnh đạm khiêu khích của Phúc; nếu về muộn sau bữa cơm, tự động xuống
bếp lục trạn tìm thức ăn nhai một mình ở bàn như con mèo đói giữa những cặp mắt
soi mói của mọi người, rồi nằm thui thủi ngoài đi-văng để ngoài tai những lời
cạnh khóe châm chọc của Phúc, của đứa ở, tự nhủ: bọn đàn bà nhỏ nhen. Đàn bà bần
tiện, không nhìn được gì hơn ngoài những nhu cầu hằng ngày. Nhưng tôi? Tôi còn
gì? Một thảm kịch hiện hình trong cái đời sống lê lết, khốn nạn này. Một thảm kịch,
tôi là một thảm kịch? Một cái bóng mập mờ vang ngân của những gì đã qua rồi, đã
tắt rồi. Chỉ là sự hèn nhát kéo dài mãi cùng ngày tháng, sự hèn nhát thoi thóp
như hơi thở, như ánh trời buổi trưa cuối năm này. Hèn nhát. Nhưng nếu không,
tôi làm được gì hơn? Làm được gì hơn nào?
An đứng lại trước
nhà hát, nhìn vào phố Cát Dài, có thể trông xa. Trong những buổi trưa hè nắng bụi,
đã đi lang thang bên hè, đôi săng-đan
đất đóng thành cục trơn dưới gan bàn chân, mồ hôi chảy ròng nhờn bẩn, mắt mờ hẳn,
miệng há hốc cứng lại và ngửa tay xin tiền người qua lại. Không quen thuộc với
ai, quả tình tôi là tên ăn mày lạc lõng không nhà cửa, không thân thích. Tôi sống
qua ngày để chờ dịp trở lại quê hương. Tôi vừa ở tù ra, cần tiền xe về…
An liệng chiếc tăm xuống cỏ, nghe chân răng ngứa ngáy, thèm những ngụm nước trà
bỏng rát lưỡi làm trơ hết cả vị giác. Con phố bên trái chạy men theo vườn hoa,
vào giữa hai hàng cây xanh và biệt thự im lặng hoàn toàn. Sự im lặng thanh nhã
của cái thế giới tôi đã bỏ đi không muốn ngoái cổ nhìn. Đã bỏ đi và không khi
nào còn trở lại. Chỉ còn chừng ấy thôi. Ít nhất còn chừng ấy, với mình, để
không ai có quyền phán đoán mình ngoại trừ mình. Tôi có thể làm mọi điều để giữ
được điều ấy. Không ai hiểu như thế cả. Tự dưng nghe một nỗi nhớ mông lung làm
chảy nước mắt. Nước mắt dưng không như vậy. Những giọt nước mắt sẽ khô lạnh
thành ngấn trên gò má xương sẩu. Và sẽ không còn nữa. “Anh khóc… Thôi anh đừng
khóc nữa. Đàn ông như anh tồi lắm. Anh không nuôi nổi mẹ con tôi thì tôi phải
đi làm chứ. Chẳng nhẽ anh muốn mẹ con tôi chết đói hay sao? Tôi đi nhảy chứ phải
tôi đi làm đĩ đâu mà anh ghen.”
Không, không, đó là những giòng nước mắt bất lực. Tôi không làm gì được cả, râté
hoàn toàn. Phúc đi nhảy như thế Phúc đã hơn xưa. Nhưng còn tôi? Những đêm nằm
trong nhà, nghe tiếng chân Phúc trở về cùng tiếng cười ròn vui trong ngõ vắng
nín bặt khi đến trước cửa, phải nín thở như ngủ say không biết. Một đêm lần mò
đến nơi làm việc, ngồi trong một góc nhìn Phúc nhảy với những tên Lê-dương say mèm và cười một
mình như một triết nhân. “Anh đến đây làm gì? Về đi? Đừng sinh chuyện. Anh cần
tiền phải không? Anh cầm lấy đến chỗ của anh đi”. Ở ngoài đường, đêm rét cóng đặc
gió. La Cumparsita… Khúc nhạc ấy vẫn còn lại như một dấu vết không bôi
xóa được. Cuộc đời không phải là một thí nghiệm, tôi đã lầm, không bao giờ là một
cuộc thí nghiệm. Rồi những tên đàn ông đến tận nhà đưa đón Phúc, lẩn mặt vào buồng
trong nhìn đứa bé con gọi mình bằng cậu và con ở nhưng chẳng tự coi ngang hàng.
Không còn cả sức ham muốn để khiến nó phải kiêng dè nể mặt. Một cái bóng khốn nạn.
Khốn nạn, nhưng biết làm gì hơn?
An đi dọc theo đường
Cát Dài, kiểm lại những nhà quen có thể gõ cửa. Người ta sẽ không cần dấu diếm
vẻ ghê tởm khinh bỉ khi trông thấy mặt. Nhưng không thể không tiếp, người ta
cũng không đủ can đảm để xô đuổi ngay tức khắc. Vừa ngượng ngùng, vừa khoái trá
ở giữa sự lúng túng khốn khổ của nạn nhân. Chúng ta biết nhau quá rõ và chúng
ta vẫn diễn mãi một tấn kịch giả trá. Moi cần một món tiền, con đau nặng,
vợ đau nặng không đi làm được… Bao nhiêu? Một trăm, hai trăm, năm ba chục cũng
được. Moi sẽ trả. Không cần, lần này là lần cuối đến phiền toi
cũng ngượng chứ. Cám ơn, không bao giờ moi dám quên ơn toi.
Không, lần này sẽ khác hơn những lần trước. Ông cụ moi ra Hà-nội, toi
xem báo thấy chứ. Moi cần tiền tầu lên gặp ông cụ, về moi sẽ
thanh toán ngay. Moi cần năm trăm, cố giúp moi như toi cứu
người sắp chết vậy. Moi không không khi nào quên ơn toi đâu. Hà-nội,
ờ, tại sao không về Hà-nội? Tôi sẽ đi lại trong thành phố mấy ngày Tết rồi lại
biến mất như bóng ma. Không phải trở về với gia đình. Về Hà-nội thôi, để nhìn lại…
Nhìn lại gì? Thành phố này chật chội, bụi bậm quá ngay trong mùa đông. Sẽ đi lại
những con đường phố cũ, sẽ ngồi lại trên những bờ hồ, mùa này lộng gió và xanh
mướt. Bước vào trong ngôi nhà yên tĩnh bên vườn tược nhìn Đồng thanh thản đọc
sách. Hai năm, chưa đến, tôi như đã sống hết một cuộc đời mình, còn nó vẫn là
thằng si tình, si tình muôn thưở. Không hàng quán nào còn mở cửa, An thèm một
tách cà-phê
đặc đắng đến ứa nước bọt, dừng chân bên đường xe hỏa chạy xuyên ngang phố châm
một điếu thuốc lá thay thế. Điếu thuốc rách hở hút không thấy khói nhưng vẫn ngậm
trên môi. Rất có thể sẽ gặp ông bố ngoài đường; ông hỏi: “Bây giờ mày làm gì?
Mày đã sáng mắt chưa con? Mày vẫn còn kịp thì giờ để làm lại cuộc đời mày”.
“Làm lại. Có gì đâu con phải làm lại. Con rất bằng lòng về con như thế này…
Chính con muốn. Cậu mợ yên tâm”. Sẽ chia tay như thế nào? Ông bảo: “Dù sao mày
cũng là con tao… Cầm lấy món tiền này và nhớ là mày chẳng làm nên trò trống gì
đâu con ạ”. Một món tiền. Bao nhiêu? Sẽ từ chối, nói: Không, tôi không cần. Sẽ
nhận, cũng vẫn chẳng còn kiêu hãnh nữa. Thế thôi. Không phải, ông ta ngồi trong
ô-tô,
có người hộ vệ và không nhìn thấy hai bên vỉa hè. Chỉ có tôi trông thấy ông.
Không đi qua nhà cũ, không qua những nhà quen gia đình và khỏi gặp ông. Ở ngoài
phố, ông cũng như người khác không liên hệ.
An rẽ vào phố Trại
Cau, giờ đã quá trưa, có lẽ họ đang ăn cơm. Cánh cửa nhà Hòa mở hé, Hòa ngồi
quay lưng ra ngoài. Vợ Hòa trông thấy trước, giật mình ra dấu cho Hòa. Phải
chính tôi đấy, cái bóng ma ám ảnh khuấy rối sự yên vui của các người. Hòa giấu
nhanh được sự bực dọc, buông đũa đứng lên vồn vã:
– Đi đâu đây? Ăn
cơm chưa? Ăn luôn thể với moi đi.
– Cứ ăn đi. Mời chị.
Không sao, tôi ngồi chơi được.
– Thì ăn. Đi giờ
này chắc chưa ăn uống gì phải không?
An đặt cái mũ dạ
lên chiếc bàn nhỏ gần đấy, chóng mặt vì mùi trầm trên bàn thờ, mỉm cười ngượng
nghịu. Vợ Hòa gọi xuống bếp lấy thêm bát đũa, kéo ghế mời ngồi vào bàn. Sự sốt
sắng ân cần cũng là một cách khóa miệng. Đã bao nhiêu lâu chưa trở lại đây? Phải
vài ba tháng rồi. Lần trước Hòa đã dúi vào tay một trăm khi đưa tiễn. An cầm
đũa, ăn chậm chạp không thấy đói trong khi vợ Hòa vừa tiếp vừa đưa mắt dò ý chồng.
Hòa cau mặt tỏ ý khó chịu về thái độ của vợ. Họ đang tính toán âm thầm. Biết
làm thế nào? Vợ Hòa đứng dậy sớm vào buồng trong. Hòa tự tay pha cà phê mời,
nói chuyện công việc ở trường, nhắc đến Cảnh – Ngày An mới xuống, cũng xin được
mươi giờ dạy ở một trường tư cùng với Hòa và biết được Hòa và Cảnh khá thân
nhau. Giờ này Phúc cũng đang ngủ trưa rồi dậy trang điểm sẵn đợi tối, hắn sẽ
đón giao thừa ở dancing, sẽ say khướt như đêm Noël và hai tên đàn ông sốc vực hắn
vào nhà. “Tăng-xông.
Thằng chồng moa nó nằm trong kia. Bon-a-nê há”. Hòa đã che tay, hả miệng ngáp.
Mình sắp phải đứng lên, ra ngoài. Đột nhiên Hòa hỏi:
– Thế nào? Được
không? Đằng trường nó bảo cậu có thể về dạy trở lại miễn là…
– Làm sao?
Hòa khoát tay làm
một cử chỉ rộng, hiểu ngầm. Cái mặt béo tròn trông rõ. Thỏa thê, nó thỏa thê với
hạnh phúc của nó. Một đứa tốt lành đến gần như giả dối. Nó là đứa duy nhất còn
có những ý tốt với mình. Làm thế nào có thể cứu vớt nổi mình. Không được đâu, đừng
mất công. Không ai phải chịu trách nhiệm về cuộc đời tôi cả. Chỉ mình tôi, tôi
thôi. An lắc đầu nhìn ra cửa.
– Cậu đã thử cái
thuốc tôi giới thiệu chưa? Không công hiệu à…
An ngao ngán muốn
bỏ đi ngay. Đến lượt mình buồn ngủ. Chân tay bắt đầu máy động không tự chủ được.
– Không lẽ… cậu
không thấy chướng. Sống mãi thế cậu không thấy chướng.
Còn phải chịu để
cho nó hành hạ cho xứng với lòng tốt của nó. Lòng tốt. Kiếp sống của tôi trở
thành một bằng chứng cho lòng tốt cũng như lòng độc ác của mọi người. Mệt quá.
– Cậu phải có can
đảm dứt bỏ. Sống riêng một mình, tôi tin cậu sẽ thoát khỏi.
– Tôi cũng nghĩ thế.
Nhưng…
Phải phủ phục xuống
cho vừa lòng nó. Chẳng còn gì kiêu hãnh và cũng chẳng còn gì xấu hổ nữa. Vợ Hòa
quát nạt đứa con nhỏ khóc inh ỏi trong nhà, đứa nhỏ đánh đổ nước lên chiếc áo mới.
Giọng đàn bà sắc nhọn. Hòa làm như không nghe thấy, nó còn phải đóng nốt vai
trò cho màn kịch. Nó mong mình sẽ rút lui êm vì lòng tốt của nó.
– Cậu lười quá. Cậu
chết.
An ngước mắt, nhìn
lên cười, nhặt cái mũ đặt lên đầu gối nắn lại vành. Nó tự cho nó mọi thứ quyền
đối với mình và nó sẽ mất quyền từ chối.
– Có lẽ tại cậu
chưa có trách nhiệm.
Trách nhiệm? Nghe
vang quá nhiều lần nên thấy trống rỗng. Trách nhiệm? Bắt đầu ngáp mỏi quai hàm.
– Chắc cậu cần tiền
ăn Tết. Đợi tôi một tí.
Hòa đứng dậy sỏ
dép đi vào trong không đợi xem phản ứng. An tựa lưng vào ghế, xương ống, bắp
đùi, ống chân mỏi nhừ. Mình sẽ không thể nói thêm một lời nào. Ông bố, chuyến
đi Hà-nội đều là thừa, vô dụng. Hòa trở ra, nhét vào túi An năm trăm bạc và đưa
tay cho bắt.
– Tôi không thể
quên ơn anh. Mai Tết rồi…
– Đừng, đừng. Tôi
hy vọng đây là lần cuối tôi phải đưa tiền cho cậu. Cậu biết chứ thực sự chúng
mình chẳng có bổn phận gì với nhau. Ba tháng nay tôi vẫn đợi cậu trở lại. Món
tiền này vợ chồng tôi để dành cho cậu, là của cậu.
Hòa đứng trên bực
thềm, mặt nghiêm nghị, không đùa, An cầm cái mũ dạ loay hoay trong tay ấp úng:
– Tôi hiểu… tôi hiểu…
Tôi làm phiền anh chị nhiều…
Nụ cười khoan dung
rộng lượng. Mình như là cái đen cuối năm của vợ chồng nó. Nó muốn tống đi nhanh
cho khuất để thảnh thơi đón năm mới. An đội mũ lên đầu, nói lời cuối cùng:
– Tôi không quên
ơn anh chị…
Hòa đưa mắt lơ
đãng trông sang hè bên kia, gật đầu với hai ba đứa học trò con gái đang xô đẩy
nhau cười khúc khích. An quay lưng đi, hai tay lại thọc vào túi áo, sờ thấy mấy
tờ giấy bạc của Hòa. Ở đầu một ngã tư, một đoàn convoi chạy rầm rầm
ngang mặt. An móc tiền ra nhìn đếm. Nỗi nhớ mông lung đã tan biến. Chỉ còn lại
cảm giác thoải mái dễ chịu. Thèm được nằm duỗi thẳng tay chân, thiếp đi trong
quên lãng hoàn toàn. Quên cả những ước vọng gần gũi nhất…
✳
Tiếng còi rớt vào
trong bầu trời âm u mỏi mệt. Nước sông đục lầm phù sa. Hải cảng xám ngắt, hoang
vắng như nằm giữa sa mạc. Trên ke một đám người túm tụm trơ vơ đón tàu cặp bến.
Hành khách các hạng đều đã ra trên boong đứng lóng ngóng. Gia đình ở chung dưới
hầm với Liêm đang kiểm lại hành lý dưới chân. Người vợ hỏi: “Chắc là còn xe về
chứ?” Người chồng đáp: “Còn kịp. Mình sẽ ăn cơm chiều ở nhà”. Liêm đứng giữa
đám người nôn nao nhấp nhỏm, nghĩ trời không đến nỗi rét lắm như tưởng tượng.
Chiếc áo dạ khoác trên mình còn thấy hơi hấp nóng. Tàu trôi sát vào một bờ gỗ
làm bằng những tấm ván ghép. Dưới đất một hai người chạy đi chạy lại, bắc loa
tay hét lên cao. Trên mũi tàu có những tiếng vọng đáp, người ta đang neo tàu.
Gió ngoài sông thổi vào sau lưng. Quê hương tôi đây sao? Dưới bầu trời chìm lặn
của mùa đông già, trong những điệu nói tíu tít bao vây. Một người đàn bà nói với
chồng: Không thấy ai thế này thì làm thế nào về kịp Hà-nội. Không khéo lại phải
đợi mồng một về thì rông cả năm. Người chồng bình tĩnh hơn: Chắc họ đón mình ở
ngoài, trưa nay họ còn phải bận cúng chứ. Tôi không biết phải nói với ai về nỗi
lo lắng của mình. Gia đình anh chàng thông ngôn cũng đã quên hẳn người bạn đồng
hành trong ngày qua.
Trên chiếc thang
treo đong đưa nhẹ nhàng, Liêm hai tay sách hai chiếc va-ly chậm chạp nối bước người
đi trước, hai người đàn bà thì thầm về một món hành lý còn gửi lại trên tàu,
ngoái cổ nhìn mấy người làm tàu nhàn nhã hút thuốc tựa vào thành sắt ngó xuống
đám hành khách đang rời khỏi tàu. Có lẽ hai người đàn bà là dân buôn lậu, cũng
có thể là những tay kinh tài đắc lực của kháng chiến, họ đều có vẻ đẹp đáng lẽ
phải được dấu ở trong nhà. Liêm đặt chân xuống mặt gỗ, đi một quãng vào trong nền
xi-măng
rộng thoáng không còn bị vướng người, để hai cái va-ly xuống đất, nghỉ tay
hít thở khoan khoái. Không khí có một mùi vị mới lạ, trong và nhẹ hơn bầu không
khí dưới hầm tàu. Từ sau lưng một người phu khuân vác tiến lên đột ngột nói:
Ông để cháu xách ra ngoài cho… và cúi xuống nắm lấy hai cái va ly nhấc mang đi.
Lối xưng hô lạ tai, ông, ông Liêm; mình đã thành một người khác, nên nhớ sự
thân mật dễ dãi không có ở đây. Phải nhớ lại những kiểu cách, những phong tục,
những lễ nghi. Liêm châm thuốc hút, bước theo chân người phu đi thoăn thoắt về
phía một nhà kho lớn cửa chỉ mở một khoảng. Hành khách đi tản ngang trên một
khoảng dài. Những nhân viên thuế quan và công an khám xét giấy tờ và hành lý
ngay giữa trời. Họ làm việc mau chóng, mọi người đều nóng nảy trở về nhà. Chiều
ba mươi đã chớm rồi với bầu không khí ấm cúng của gia đình chờ đợi. Tại sao
không ở lại ăn Tết với gia đình Hạnh? Đâu có việc gì cần phải hoảng lên đi gấp
như vậy? Ra đến ngoài Liêm hoàn toàn trơ trọi, mọi người đều vội vã lên xe nhà
đón hoặc thuê xe chạy mất. Cả một khúc phố khuất tịch. Liêm tìm trong túi lót của
chiếc áo dạ, hai bức thư giới thiệu của Tường đọc lại địa chỉ và phải xách va-ly đi bộ một quãng mới kiếm
được chiếc xích-lô.
Thành phố chật chội
hãy còn những dấu vết chiến tranh. Trong những phố tây vẫn còn một vài khu nhà
đổ bỏ hoang. Phố ngắn hẹp không thể bằng Sài-gòn. Khu trung tâm buôn
bán đông đúc bé nhỏ, tàu như Chợ-lớn-cũ. Liêm xách va-ly, đứng xuống dưới vỉa
hè của một phố chính tương đối sầm uất, tuy mọi cửa hiệu đều khép cửa nghỉ Tết
nhưng nhìn những tấm bảng hiệu la liệt trên mái, trên các đầu tường Liêm cũng
có thể đoán biết Liêm gõ cửa một hiệu bán đồng hồ. Có lẽ nhà ở sâu, cả đến năm
phút sau mới nghe tiếng chân người ra mở cửa. Người thiếu nữ ở trong nhà ra,
tóc uốn trễ, ngắm nhìn từ đầu đến chân không giấu nổi vẻ ngạc nhiên:
– Ông hỏi ai?
– Thưa cô tôi hỏi
nhà ông Phát.
– Vâng, ông là ai?
– Tôi vừa ở Sài
Gòn ra đây. Tôi có bức thư của ông… trong Sài Gòn gửi cho ông Phát.
Người thiếu nữ trố
mắt kinh ngạc như không tin. Một người đàn bà vấn tóc trần bước ra hỏi con gái:
Chuyện gì đấy? Một lần nữa Liêm lại phải tự giới thiệu. Cuối cùng Liêm cũng được
mời vào gặp chủ nhà. Người đàn ông bệ vệ an nhàn trong bộ pyjama, mắt hấp háy
sau đôi kính trắng, tiếng the thé như đàn bà. Đó là người bạn thân một thời của
Tưởng. Không thể tưởng tượng nổi người đàn ông ngồi trước mặt một thời lưu lạc
giang hồ và chỉ mới trở về Bắc năm 45. Phát trông đặc vẻ con buôn nhà nòi tính
toán lợi hại kỹ lưỡng, không ai có thể trông mong nhờ cậy. Liêm được mời uống
nước trà sen, nghe hỏi han về Sài-gòn
trong những năm qua, Phát thở ra hơi phản động chống báng kháng chiến và không
hề đả động đến lời gửi gấm của Tường; Sài-gòn được nhắc lại như những kỷ niệm, kỷ niệm
về khí hậu thời tiết, trái cây cảnh vật… Liêm cáo từ, Phát không cầm giữ đưa ra
đến cửa dặn với:
– Sang năm, nếu có
dịp, mời ông ghé nhà chơi.
Liêm lại đứng trên
vỉa hè với hai va ly dựng hai bên. Trời gần chiều, lạnh êm xuống. Mùi hương trầm
trong nhà kín còn phảng phất. Liêm quay nhìn hai cánh cửa đã đóng chặt, một bên
dán tranh ông Thiện một bên ông Ác, những khuôn mặt còn đó thản nhiên của một
thời thơ ấu. Thành phố hoàn toàn lạ, không còn một chốn quen thuộc. Phải về Hà-nội,
ít nhất cũng là nơi mình đã biết. Tường nói đúng đây không phải là quê hương của
những người như mình, như Tường. Không thể ngủ trên một ghế bố ngoài đầu hè được
và chắc cũng không ai mở cửa đón vào nhà một người lạ mặt trong mấy ngày Tết.
Không hiểu những ngày tới về Hà-nội thế nào? Trong một lúc thất vọng Liêm ân hận
đã quyết định trở về. Mai mốt có thể như Phát, Sài-gòn và đoạn đời hoạt động
cũng lẩn mờ thành kỷ niệm để nhắc nhở cho vui trong một vài dịp. Liêm xách va-ly, đi bộ từng quãng dài
trên vỉa hè lại đặt xuống nghỉ hút thuốc với ý định đến ga xe lửa. Trên đường
không còn tìm thấy bóng một chiếc xe. Mỗi lần hỏi thăm đường bọn con nít, Liêm
lại nhận được những tràng cười vui thú của chúng vì giọng nói và bộ tịch của
mình. Xe lửa, cái gì là xe lửa chúng mày, bến xe lửa, bến xe lửa ở đâu? Chúng
cười khúc khích, dương mắt ngắm nhìn như vật lạ. Một đứa đã lớn hiểu biết hơn hỏi:
Ông là người Sè-goòng.
Liêm gật đầu và lũ trẻ vỗ tay reo mừng trước một khám phá kỳ thú, nhiều đứa bỏ
chạy vào nhà kêu gọi người lớn ở trong: Có một người Sài-gòn, một ông Sài-gòn hỏi thăm đường và thêm
nhiều đứa trẻ khác đổ ra đường. Liêm đứng bên cột đèn, nhìn lũ trẻ vây quanh,
trong một vài khung cửa có cả mấy cô thiếu nữ ngấp nghé tò mò. Giống như ngày
nào trong xóm Đồng ông Cộ, bọn con nít cũng đã chạy ngang ngoài ngõ nhà Hạnh
hát vang thành nhịp: Bắc-kỳ
sạo ke, ăn me chấm… Liêm phải loay hoay mất mấy phút mới tìm đúng chữ diễn ý. Bọn
trẻ lại được dịp ồ lên cười như nắc nẻ: À, à ông ấy hỏi nhà ga, ga tàu hỏa; lúc
nãy ông ấy gọi là gì nhỉ, xe gì. Xe lửa, a, xe lửa là tàu hỏa. Ông định đi đâu?
Liêm nhắc lại: Phải, ga tàu hỏa. Phải đi ngược lại một đoạn phố đã qua. Một vài
người đàn ông đi dạo trên hè, quần áo giầy dép tề chỉnh ít thấy trên các đường
Sài-gòn.
Trời xẫm rất nhanh rồi đứng lại như không thay đổi nữa. Gió bắt đầu gấy rét, vẫn
quyện mùi hương cúng. Phố xá đìu hiu không còn hoạt động. Khỏi những dãy nhà
thu kín, đến những bãi trống đổ rác và xóm lao động bẩn thỉu. Trên một vài khoảng
đất chỉ còn nền nhà và gạch vụn chất đống. Chiến tranh ở đây nhìn rõ hơn không
như Sài-gòn.
Có lẽ rồi sẽ trở vào. Cứ bầu trời mùa đông u uất này với cảnh vật như đang tàn
tạ vây kín cả chân trời cùng với cái đời sống rút khép vào trong hất đẩy mình
ra ngoài. Mình không còn ai ở đây ngoài mình, nhưng tôi đã biến đổi quá nhiều.
Nhà ga vắng vẻ,
trơ trọi trước con đường loang lổ ổ gà. Tiếng còi tàu kêu không ở trong ngắn ngủi
không âm vang. Liêm bước vào khách sạn trước cửa ga. Trong phòng khách chỉ có một
ông già gác đang tiếp ba người khách: hai người đàn bà đã đi trước Liêm lúc rời
tàu buổi sáng và một người đàn ông, đội mũ dạ, mặc chiếc áo vét nhầu cũ xốc xếch,
chân đi xăng-đan.
Hai người đàn bà đợi ghi xong thẻ căn cước vào sổ khách sạn nói: “Thôi, thế
cũng xong. Mai đành đi tàu hỏa về vậy”, rồi bỏ ra ghế dài ngồi đợi. Đến lượt
người đàn ông hỏi thăm về giá cả các loại phòng, rồi quay sang Liêm đề nghị:
“Hay mình thuê chung một buồng cho đỡ tốn, chắc ông cũng chỉ cần một chỗ ngủ
đêm nay thôi. Nhất là giao thừa có bạn cũng đỡ buồn, ông nghĩ sao?” Một người
đàn bà ngồi ở ghế nhanh nhẩu: “Ông nghĩ cũng phải. Chắc các ông mai cũng đáp
tàu về Hà-nội. Về nhà vào đúng ngày đầu năm kể cũng vui”. Người đàn ông gầy gò
bẩn thỉu, bàn tay đen đủi cáu ghét, hơi quay lại sau hỏi: “Các bà ở đâu đến thế?
Tôi, tôi là người ở đây”. Hắn cười khì trước vẻ ngạc nhiên của hai người đàn bà
và Liêm. “Tôi không thích ăn Tết ở nhà. Rắc rối phiền phức. Ăn Tết ở khách sạn
có lẽ thú vị hơn. Ông nghĩ sao? Nếu ông đồng ý ông đưa thẻ căn cước tôi ghi
luôn hộ. Tôi cam đoan với ông rằng lên phòng có nước nóng tôi sẽ tắm, tắm tất
niên mà để ông khỏi ghê tởm. Và nếu có thể sáng mai tôi sẽ đưa chân ông về đến Hà-nội.
Tôi không hứa trước. Vâng. Cảm ơn ông. Lê-văn Liêm số… thợ in. Ông là vô sản chính cống
bà lang Trọc đấy. A, ông lại ở Sài-gòn.
Thật là may mắn cho tôi”. Người đàn ông chìa tay bắt, cặp mắt lờ đờ dại dột,
hơi say; hắn còn trẻ thì phải, giống như mấy chàng văn sĩ thất nghiệp chán đời
lang thang nơi các tòa báo ngày nào. Hắn cúi xuống, nằng nặc đòi mang chiếc va-ly nhỏ hộ: “Tôi xách được
mà. Tôi còn đủ sức ông bạn” Người lệch hẳn vai, chân lết trên những bực cầu
thang. Hai người đàn bà vẫn đi trước, thỉnh thoảng liếc dòm tỏ vẻ thương hại.
Vào đến buồng,
Liêm chỉ muốn được nằm nghỉ ngơi. Người bạn bất đắc dĩ một đêm, đặt chiếc va-ly lên bàn gần cửa sổ đứng
tựa cạnh bàn nói:
– Tôi là An. Rất
hân hạnh được quen ông. Nếu ông thích đêm nay mình sẽ uống rượu đón giao thừa.
Tôi còn chai rượu đây.
Hắn rút chai
Cointreau vẫn đút lủng lẳng một bên túi áo, giơ ra trước mặt. Cũng hay, nếu
không có lẽ mình cũng chẳng biết làm gì đêm cuối năm trong buồng khách sạn này.
Liêm ngồi xuống giường bảo:
– Ông hơi đã rồi
đó.
Hắn nghiêng tai
nghe, chừng không hiểu – Liêm nói lại: Ông hơi say – bật lên cười rũ, vừa cười
vừa nhìn bóng mình trong gương.
– Ông nói nghe du
dương ghê.
Liêm hơi bực mình,
nhíu mày. Chẳng hiểu còn làm những trò gì nữa, khi không lại chịu đựng một tên
say giữa đường. Liêm nghĩ nên xuống phố kiếm cơm ăn, rồi đi xem giao thừa ngoài
phố, khuya về có lẽ hắn đã say vùi, đỡ mất công. Chiều nhọ nhem ngoài cửa kính.
Và Liêm đứng dậy hỏi:
– Tôi chưa ăn cơm.
Ông biết còn quán nào mở cửa không?
– Bây giờ thì hơi
khó đấy. Ông thử đi xuống dưới đầu phố xem. May ra thì còn.
– Ông để cửa đừng
khóa. Tôi có lẽ về muộn.
– Được. Được mà. Đồ
đạc của ông không mất đâu. Ông cứ đi dùng cơm. Tôi sẽ đi tắm rửa sạch sẽ, đợi
ông về mời ông uống rượu. Nếu ông lại mua được món nhắm thì tuyệt…
Hắn đến đứng trước
gương soi sát mặt và không quay lại. Ra đến cửa Liêm ngập ngừng dặn:
– Ông coi chừng, đừng
tắm. Gặp lạnh nguy hiểm lắm.
– Không sao, ông
khỏi lo. Tôi phải sạch sẽ để mừng năm mới.
Liêm bước ra hành
lang khép cửa lại, có lẽ trong cả khách sạn này chỉ có bốn khách trọ, nghe tiếng
chân mình bước vang âm. Hạnh không thể nào tưởng tượng được cái cảnh ngày đầu
tiên tôi đặt chân về xứ. Nàng nghĩ tôi đang vui vẻ giữa những người thân và cảnh
vật được gặp lại chắc đã quên hẳn xóm Đồng ông Cộ. Tôi đang cười, đang nói,
đang kể lể trước sự hỏi han dồn dập của bà con quyến thuộc, không bao giờ Hạnh
chịu tin tôi là không có gia đình. Tôi trở về xứ như phiêu lưu vào đất lạ. Gian
phòng tiếp khách dưới nhà bỏ vắng không dưới ánh điện. Ngoài đường gió thổi ào,
lần đầu tiên thấy rét thật sự. Liêm thọc sâu hai bàn tay vào túi áo, khép chặt
hai cánh tay, nghe trong thân ửng nóng nhưng mặt và tai giá buốt. Quãng đường vắng,
điện đường không đủ sáng hết. Liêm tìm được một hàng gánh bánh mì cà-phê ngay đầu phố. “Thật
hên, bữa nay mà ông còn bán” “Tôi sắp về. Kiếm được đồng nào hay đồng nấy.
Nhưng ế quá…” Người bán hàng lặng lẽ quan sát, chắc muốn hỏi đôi câu nhưng lại
thôi. Liêm ngồi trên chiếc ghế con được nhường lại, còn người đàn ông ngồi co
ôm gối và hơ tay lên bếp đang nấu cà-phê.
“Bây giờ mới hơn bẩy giờ chứ gì phải không ông? Còn lâu mới đến giao thừa. Tôi
vừa ở bên Hạ-lý
về nghỉ ở đây. Nghèo là chẳng thấy Tết đâu cả. Chứ bán bên phố này ai mua”. Gió
thổi động các chòm cây dài mút phố. Ngoài hiên, trước cửa nhà đã thấy lác đác bầy
bàn thờ đợi cúng giao thừa. Nhà nào nhà nấy đóng ỉm cửa nhưng đèn sáng rực.
Liêm mua thêm hai chiếc bánh mì, bỏ vào túi, một cái cho va, lỡ đêm đói còn có
thức ăn; rồi đứng lên tiếp tục đi sâu vào trong phố. Chỉ nghe gió thổi, đêm đen
kịt, mùi trầm hương thoang thoảng lẫn tiếng cười đùa quanh chiếu bạc trong các
nhà. Người ta đang đánh tam cúc. Thỉnh thoảng mới gặp một chiếc xe hơi nhà binh
hay một vài người đi xe đạp co rút cổ. Tại sao tôi lại đang ở đây? Liêm quay trở
lại, con phố mập mờ không hình thù rõ rệt như chạy suốt vào đêm tối, trong một
thoáng tưởng như tòa nhà khách sạn đã biến mất. Có thể tên chán đời ở nhà tự tử
thì rầy, Liêm đi vội như bị ma đuổi.
Nhảy hai bực thang
một, Liêm chạy trong hành lang rồi đứng khựng lại để nhận số phòng. Phòng hai
người đàn bà tắt đèn, có lẽ họ chưa về. Hắn làm gì trong phòng mà cửa khép kín
không nghe tiếng động? Liêm gõ cửa, cầm xoay quả đấm. Người đàn ông ngồi gục mặt
trên bàn, run lật bật. Hắn đã tắm rửa thật. Không nghe nói gì, Liêm phải bảo: để
tôi cho ông mượn cái áo len mặc tạm, và mở va-ly kiếm chiếc áo Hạnh đã
mua ngoài chợ Bến-thành.
Hắn ngửa mặt nói: Cám ơn ông, tôi làm phiền ông. Nước da đen xám, môi tái mét,
hàm răng vàng ởn, đúng là dân ghiền. Liêm an tâm, dân ghiền không có can đảm để
làm gì cả. Và Liêm bỏ mặc, thay quần áo, rửa mặt mũi tay chân. Liêm ở lâu trong
phòng tắm, một lúc sau nghe tiếng gọi: Ông bạn xong chưa? Mời ông ra uống rượu
với tôi cho vui, giọng tỉnh khô. Trở ra ngoài, Liêm bảo:
– Tôi buồn ngủ
quá. Mấy hôm đi tàu biển thật nhọc. Xin lỗi ông. Ông cứ tự tiện. Tôi ngủ trước.
Người đàn ông nài
nỉ:
– Ông uống một tí
cho ấm, ngủ càng say.
Liêm bắt buộc phải
tu một ngụm trong chai và sực nhớ:
– Tôi có mua hai ổ
bánh mì để trong túi áo. Ông có đói cứ ăn. Tôi mua đề phòng đấy.
– Cám ơn ông. Ông
cũng cho tôi tự nhiên.
Liêm leo lên giường
chui vào trong chăn bông nồng mùi băng phiến. Vải nệm và chăn còn lạnh giá. Chỉ
có lúc này là dễ chịu nhất từ khi đặt chân xuống đất, nếu không có hắn đỡ bận
tâm biết mấy. Liêm nằm duỗi thẳng ngó lên bóng đèn để khỏi chú ý đến người lạ.
– Ông có cần tắt
đèn không? Tôi ngồi trong tối cũng không sao.
– Không cần. Ông lấy
cái áo dạ của tôi khoác thêm cho ấm. Trong túi có bánh mì đấy.
– Vâng. Ông có muốn
xem giao thừa không? Tôi sẽ đánh thức ông.
– Không. Tôi cần
ngủ.
Một lúc không nghe
gì nữa, Liêm lắng theo tiếng gió ngoài cửa kính và thiếp ngủ mau. Loáng thoáng
nghe người lạ hỏi: Ông về Hà-nội có việc gì? Hay thăm gia đình? Ông ở Sài-gòn lâu không? Dường như ú
ớ không đáp được vì bị giấc ngủ dìm kéo. Không chắc mau hay lâu, Liêm thức giấc
vẫn thấy mình nằm trên giường một mình và xung quanh tối om, gió thổi lạnh cả mặt,
vội quơ tay tìm nút bật điện. Cửa sổ buồng mở toang, người đàn ông ngồi gục đầu
trên bàn như ngủ quên. Liêm ra khỏi giường, đóng cửa sổ, định đánh thức, bắt gặp
khuôn mặt hốc hác ngước lên, hai mắt đỏ hoe, nước mắt nước mũi tèm nhem.
– Giao thừa chưa
nhỉ?
Hắn không trả lời,
cúi mặt bật khóc nức nở. Tội nghiệp hắn muốn tâm sự mà mình buồn ngủ quá. Liêm
kéo cái ghế ngồi xuống. Chai rượu đổ nghiêng lênh láng cả mặt bàn, hắn tuyệt vọng.
Hắn vẫn khóc như không hay biết có người ở trước mặt. Liêm không thể đừng được
phải che tay lên miệng ngáp. Kỳ cục, hắn thất tình, chán đời, bị ruồng rẫy, bị
lường gạt, hay điên. Cuối cùng Liêm phải xốc nách dìu vào giường, hắn vùng vằng
yếu ớt, chân khuỵu lết bước không nổi, tay lạnh như đá. Nằm trên giường hắn vẫn
còn khóc, nhưng Liêm bỏ mặc, Liêm cần ngủ.
CHƯƠNG II
Trời trên ô cửa
kính xám ngắt như màu mái tôn. Mùng một Tết. Năm mới rồi. Người nằm bên cạnh vẫn
ngủ mê, rớt rã lòng thòng, thở phì phò mặt tái mét. Hắn còn phải ngủ đến trưa mới
tỉnh nổi. Liêm bước xuống giường đi về phía buồng tắm, dừng lại giữa phòng. Dưới
sàn gạch hoa, vũng mửa hồi đêm chưa khô hết lầy nhầy, thoảng bốc mùi hôi chua.
Không nghe một tiếng động ngoài đường cũng như ngoài cửa buồng. Khuôn mặt nhăn
nhúm đáng thương. Trong phòng rửa mặt, nước nóng vốc lên mặt làm tỉnh táo, cảm
giác mới mẻ bén nhậy sau mấy ngày ê mòn. Tiếng còi xe hỏa rúc trong ga vẳng bên
ngoài cửa kính.
Liêm thay quần áo,
xếp dọn va-ly
xong, đến đứng cạnh giường nhìn người đang ngủ. Mắt khép không kín hở lòng trắng.
Phải đi cho kịp chuyến, không thể đợi, Liêm gọi: “Anh…” nhưng quên mất tên. Dưới
lần da cổ mốc và cáu ghét, tiếng rên khe khẽ. Liêm kéo tấm áo da bị đè dưới
chăn, hắn lăn quay người phía khác những vẫn không dậy. Liêm đặt tay lên trán
nhờn ráp và yên tâm, mong là anh chàng không tự tử. Ngoài hành lang, cầu thang,
buồng tiếp khách lạnh tanh. Khách sạn vắng lặng, lầm lì, không một hương vị,
màu sắc của ngày Tết. Ngày Tết. Có cả mười năm không biết cái Tết là gì. Và có
lẽ cũng sẽ chẳng còn được biết nữa. Nơi caisse, một thiếu phụ tươi cười chào
đón. Nụ cười đầu tiên từ khi đặt chân lên đất. Liêm trả tiền phòng một ngày, cười
khì che đậy vẻ lúng túng không quen khi nhận lời chúc mừng đầu năm của thiếu phụ.
Bà ta sẽ nghĩ là mình bất lịch sự khi mình chỉ biết cám ơn nhưng có biết đâu
cái thói quen mừng tuổi theo công thức có sẵn mình đã mất. Liêm nói: “Trên
phòng vẫn còn một người ở lại”. Thiếu phụ lộ vẻ ngạc nhiên, lật sổ cái dò xem.
“Ông ấy có lẽ ăn Tết ở đây và sẽ thanh toán tiền phòng sau”.
Nhà ga ở xế cửa
khách sạn, ngoài thềm không một bóng người. Liêm đi ngang qua đường, nhìn vào
trong phố thấy thấp thoáng một vài người xuất hành sớm lẩn sau các gốc cây.
Trong phòng vé cũng không người, người bán vé đứng bên lối cửa ra ke. Ông ta
thu tiền, bỏ vào trong một túi vải xám buộc giây đeo ở cổ tay, rồi tự tay bấm
vé, trỏ về phía đoàn toa không đầu máy trên con đường sắt thứ nhì. Chiếc đầu
máy đang lấy nước ở phía xa. Trong sân ga chỉ thấy những toa than. Liêm giẫm
lên những hòn đá xanh lổn nhổn, đi chéo về phía toa hành khách có bóng đàn bà đứng
ở cửa sổ chống soải tay trông ra ngoài. Trên cả toa tàu chỉ có bốn hành khách,
kể cả Liêm. Hai người đàn bà cùng từ Sài-gòn ra không thấy, có lẽ họ về Hà-nội bằng
xe hơi. Toa xe thật rộng, ngoài hai băng ghế chạy dài bên thành toa, ở giữa còn
thêm hai băng dài khác ghép dựa lưng vào nhau. Những người khác cũng đều đi một
mình. Hai người đàn bà nhà quê với quang gánh và hai bồ hàng hóa. Một thiếu nữ,
Liêm đã trông thấy lúc ở dưới sân ga nhìn lên, mặc áo dạ đen, buộc khăn trùm
tóc, hành lý chỉ có một chiếc làn mây đặt ngay cạnh chỗ ngồi. Liêm đặt hai chiếc
va-ly
lên ghế, rồi bỏ ra đứng ở đầu toa chỗ bực lên xuống. Toa nối là một toa hàng
xám kín mít. Tàu rời ga, chạy qua một vài đường trong thành phố. Nhà đóng cửa,
người ta mặc quần áo mới đi bộ nhàn tản hai bên hè và cả trên mặt lộ. Đường
không có xe cộ. Liêm nghĩ đến anh chàng còn ở trong buồng khách sạn, hắn không
thể tự tử được, chỉ mai hay mốt, có khi ngay bữa nay, hắn sẽ trở về nhà lủi thủi
như con chó cúp tai… Quả là buồn cười, đêm đầu tiên, đêm giao thừa ở chung một
buồng với một anh chàng chán đời. Điềm gì? Không hiểu sẽ còn gặp thêm những
chuyện lạ gì nữa, nơi không còn phải là quê hương… Liêm bất chợt thấy mình đang
sợ hãi. Không gia đình, không thân thích, một bức thư giới thiệu của Tường và Hà-nội.
Tại sao lại trở về? Trở về cũng như lúc bỏ đi ngày niên thiếu là phiêu lưu,
phiêu lưu ở trong quê hương đã xa lạ. Dường như ở đây đầy rẫy những chuyện
ngoài trí tưởng của mình, dường như vậy…
Con tàu nặng nề,
chậm chạp trong một nhịp điệu buồn tẻ. Không còn cái cảm giác say sưa được ôm
trong gió vút của tốc độ ngày bé bỏng. Cánh đồng và chân trời xa tít như không
thay đổi. Liêm nhìn bờ cỏ dốc của mô đắp đường rầy, những viên đá và then
ngang, các móc nối và bàn sắt ủi giữa hai toa, giòng giây điện chạy song song
nhịp nhàng để thấy sự chuyển động. Trong toa hai người đàn bà nhà quê ngủ gà gật
trong góc, thiếu nữ ngồi quay nghiêng trên ghế nhìn qua cửa sổ. Dưới chân rác
rưới bừa bộn, lá chuối khô, giấy báo rách, bã mía, quết trầu… Gió lùa trống.
Màu trời giống như màu thiếc gò trong nhà anh Xuân. Căn phố cao nền đất, cửa tiệm
đồ sắt chiếm phân nửa để ở và nhà bếp; trong nhà bếp khói đen, một bộ ván để ngủ
gần trạn bát ngay lối cửa sau thông ra ngõ hẻm; Ngõ hẻm mở nhiều lối về các ngả,
một ngả dẫn xuống phố Phước Mỹ. Trước hè la liệt những bàn bầu cua, tài xỉu
quây quần người lớn cùng con nít; tiếng cãi lẩy, giành dật đòi chung tiền, tiếng
kêu chóe từng chập của những chiếc bóng hơi có lắp kèn ở đầu thổi, tiếng hối la
của xẩm tài xỉu lẫn tiếng rao bộp chộp của bàn bầu cua, bên kia đường rầy xe lửa
điện, chợ bà Chiểu chạy dài trước các mặt phố lầu trên nền gạch trống với dãy
quán cóc, nắng lên sáng rỡ trùm nắng nhà ga nơi góc đường; một gánh hát Sơn-đông bán thuốc nổi trống
chiêng tập họp người xem. Hạnh đang làm gì? Trong xóm Đồng Ong Cộ cũng chỉ gặp
những bàn bầu cua, những xòng bài cào trên các lối đất, tiếng chuông leng keng
của xe cà-rem
tàu đẩy rong qua các đám bạc, người lớn và con nít ngang hàng với nhau. Thiếu nữ
quay mặt lại, bắt gặp Liêm đứng nơi cửa toa. Cô ta nhìn thẳng, quan sát không dấu
diếm. Liêm lúng túng đi tới ngồi xuống gần chỗ đặt va-ly. Trên nét mặt thiếu nữ
có ánh cười thân thiện. Liêm mỉm cười bâng quơ đáp lại, tựa lưng để cho sự lúc
lắc ru ngủ. Không ngờ vẫn còn buồn ngủ đến thế. Tôi sẽ về đến Hà-nội và tôi sẽ
đi tới đâu nữa. Có lẽ chỉ còn thành phố ấy là quen nhất. Thằng em chắc vẫn còn
ngoài kháng chiến. Gặp lại hai anh em sợ khó nhận ra nhau. Mẹ? Bà còn sống…
Tàu đỗ im từ lúc
nào, rất lâu. Tiếng hơi phì phì, đều nhỏ. Ga nhỏ không có bóng người, biển tên
nhà ga tìm không thấy. Gian nhà gạch vắng tanh, tường bị cạo trắng loang lở, có
lẽ là những khẩu hiệu nào bị bôi xóa. Sau lưng nhà ga là cánh đồng mùa đông, một
con đường đất dẫn vào làng với một bụi tre còn mang rõ vết cháy vàng. Chiến
tranh ngoài này khốc liệt hơn. Không hiểu con tàu đỗ lại chờ đợi gì. Một người xoát
vé bước lên toa, ông ta dở mũ và ngồi xuống ghế giữa toa hỏi chuyện hành khách.
Trong toa thêm một chị bán bánh dầy bánh giò, cả bốn người đều là khách quen.
Ông ta đưa mắt nhìn Liêm như một kẻ lạ mặt đáng ngờ, nhưng không chú ý tới lắm.
Ông ta không hỏi vé mà nói chuyện: chuyện ngày Tết, chuyện chiến tranh, chuyện
làng Tề, chuyện kháng chiến. Liêm được biết tên thiếu nữ là Bích; trong câu
chuyện người soát vé hỏi thăm Bích về Liên, một bạn thân thường buôn chung với
Bích đã lâu không thấy đi tàu, “Chị ấy ốm. Chồng chị không cho đi chợ nữa.” “Cô xuống Phòng có việc
gì mà hôm nay mới về? Dạo này cô lại buôn gì xuống Phòng. Bỏ đường Cẩm-giàng rồi à?” Người soát
vé hỏi. “Tôi xuống thăm chị Liên. Chị Liên bây giờ dọn xuống Phòng rồi. Với lại
đòi tiền mãi mới được nên bị mắc kẹt không về kịp trước Tết? Toa tàu bỗng trở nên vui
vẻ ồn ào thân mật hơn khi Bích muốn ăn bánh giò và mời mọi người: “Tôi mới
trúng áp-phe
mà… Đừng từ chối. Mùng một tôi rông cả năm”. Và Bích quay lại nói lớn với Liên
để át tiếng động của tàu đang chạy: “Mời ông xơi bánh.” Liên bối rối đáp: “Cám ơn
cô”. Chị bán bánh bưng thúng bánh đến ngồi bên Bích, theo lời Bích, bóc bánh
đưa đi mời cả toa. Trước hết là người xoát vé, rồi đến hai người đàn bà nhà
quê, hai người này nhận bánh và mang đến chỗ Bích ngồi ăn nói chuyện. Khi đến
lượt mình, Liêm chưa biết nên nhận hay từ chối Bích đã nói: “Mời ông đến ăn với
chúng tôi cho vui. Chẳng mấy khi mà lại phải ăn Tết lưu động như thế này”. Liêm
đành cầm cái bánh đã bóc trên tay, đến ngồi cùng ghế với người xoát vé, vừa ăn
chậm chạp vừa nghe người khác trò chuyện không biết cách góp. Trong câu chuyện,
người soát vé hỏi Bích: “Cô nghĩ thế nào về chuyện bà Cát Hanh Long trên Thái-nguyên?”
“Tôi có người nhà mới vào nói chuyện đấu tố là
có thật. Kinh khủng lắm, không thể ngờ được”. Liên hỏi: “Ông nói cái gì, đấu tố
là cái gì?” Người soát vé nhìn Liêm bằng cặp mắt hoài nghi và Liêm vội giải
thích mình vừa ở Sài-gòn
ra. Ông ta thuật lại câu chuyện về bà Cát Hanh Long, đại điền chủ, đã từng cúng
hết sản nghiệp cho kháng chiến từ lúc đầu, có ba đứa con trai đi bộ đội, bị đưa
ra trước tòa án nhân dân phải tự vẫn. “Trong tuần lễ vàng, bà đã cúng đến cả chục
kí vàng cho chính phủ. Bao nhiêu đồn điền của bà ở Thái-nguyên đều dâng cho chính
phủ kháng chiến hết… Vậy mà bị kết tội là địa chủ phản động bóc lột”.
Và câu chuyện chuyển
sang ngả khác. Bích hỏi về chuyện Sài-gòn. Liêm kể về cuộc kháng chiến trong Nam,
tinh thần của dân chúng, các tổ chức nằm ngay trong nội thành. Trẻ con, thanh
niên hát những bài kháng chiến ngay ngoài đường phố, một lời kêu gọi bất hợp
tác với quân Pháp tung ra học sinh công chức cả công an nữa bỏ thành ra bưng tới
độ phải mời bớt họ về thành, những kẻ cộng tác hương chức trong làng hay nhân
viên chính phủ bị ám sát giữa ban ngày… Và thành phố Sài-gòn vẫn nguyên vẹn rực rỡ,
tấp nập. Bích hỏi: “Tài nhỉ? Tại sao thế?” “Vì Sài-gòn Chợ-lớn cũng là một chiến
khu…” “Rồi ông sẽ thấy Hà-nội khác hẳn. Không giống như Sài-gòn đâu”. “Tôi cũng nghĩ
thế”. Liêm thấy Bích dễ thân mật, con gái Bắc đã thay đổi chăng, không còn kiêu
kỳ như mình vẫn tưởng chăng?
– Bỏ đi lâu quá,
tôi chẳng còn nhớ được mấy tí. Sắp đến đâu rồi cô.
Tàu đang chạy chậm,
leo vòng lên một dốc cầu. “Cầu Phú-lương”,
Bích nói, “Đến Hải-dương
đấy”. Người xoát vé chào Bích, đội mũ đứng lên đi ra ngoài đầu toa. Chị bán
bánh, dẹp cuốn lá, ném ra ngoài cửa sổ, đập nắp thúng sửa soạn rời toa. Liêm bạo
dạn ngắm Bích, đứng chống tay khum người nhìn ra ngoài.
✳
Tàu chạy thật chậm
trên cầu. Thành phố Hải-dương
trông xa lô nhô những mái nhà thấp bé và một vài phố ngắn, thành phố buồn tẻ
Bích đã xuống vài lần với Liên không lâu quá hai tiếng đồng hồ. Con phố chính từ
dốc cầu này chạy đổ xuống, gồm hai dãy nhà một tầng hai tầng cũ mới lẫn lộn, chạy
qua nhà thờ, phòng Thông-tin,
rạp chiếu bóng và đến nhà ga; những công thự ở lui trong các phố ngang. Trong một
hiệu cao lâu ở phố chính, Bích ngồi nhấm nháp một cốc chanh quả, nhìn qua cửa
kính ra phố nắng bụi mỗi khi xe chạy qua, trong khi Liên đi tìm gặp Labay, tên
Tây lai chánh sở mật thám liên bang. Có lẽ họ gặp nhau trong bàn giấy, rồi về
nhà hay đến một Hôtel bẩn thỉu nào trong tỉnh. Bích vừa thương hại, vừa giận
Liên. Không thể tưởng tượng Liên có thể nằm trong tay những người đàn ông như
thế. Nghĩ đến cái thân thể ốm o, bẩn thỉu của Tích, cánh tay lông lá, cặp môi dầy,
mắt đục như mèo của Labay sẽ đụng đến da thịt muốn lợm giọng buồn nôn. Một người
đàn bà làm sao có thể yêu hai ba người đàn ông khác nhau, làm sao có thể nhận
được những thân thể khác nhau. Cái thân thể đàn ông, Bích nghĩ, may ra vì yêu
chịu đựng nổi một trong đời đã quá lắm. Không hiểu Liên có yêu những người ấy
không, những người mà mỗi hơi thở là một tội lỗi với đồng loại. Không sao hiểu
nổi Liên, cũng không sao hiểu nổi mình. Tại sao tôi cứ mãi là kẻ làm chứng
trong những cuộc tình của Liên? Sau cái vẻ mặt hiền lành đến độ nhẫn nhục, nụ
cười buồn bã như ánh nắng muộn, che dấu những gì? Mỗi lần trở lại đón Bích để
lên tàu về, Liên ngượng nghịu bối rối trông thấy. Bích đã hỏi thẳng về những cuộc
gặp mặt mờ ám ấy và Liên dối quanh. Chỉ là người quen cũ của gia đình, xuống nhờ
việc, chạy một áp-phe.
Không hiểu bây giờ Liên còn gặp Labay nữa không?
Còn anh chàng Thạch
nữa, không hiểu thuộc hạng người nào? Hắn mất tích sau lần tìm đánh Tích sau
nhà tắm công cộng Chợ Gạo, không thấy trở lại hỏi tin Liên nữa. Lầm lì, hung
hãn giống như tên côn đồ. Không hiểu sao tôi lại bằng lòng đưa hắn đi tìm Liên
tối hôm ấy? Có lẽ vì sợ. Bề ngoài tôi vẫn tỏ ra cứng cỏi đương đầu với bọn đàn
ông luôn luôn vây quanh tìm mọi cách lợi dụng, khác với Liên mềm mỏng khôn khéo
trong khi còn buôn chung, nhưng thật ra tôi cũng sợ. Hắn có thể gây những chuyện
rắc rối phiền phức, trong cái xã hội tranh tối tranh sáng này không biết đâu mà
lường trước được. Nhưng chắc chắn không thể như Liên, không thể như thế được.
Chiến tranh sẽ chấm dứt, xã hội này sẽ thay đổi và Bích… Bích nghĩ tới Hội còn ở
ngoài hậu phương. Hội. Anh như một mối hy vọng duy nhất, anh sẽ trở về. Sự thật
chưa có gì cả, ngày ấy tôi còn nhỏ, nhưng tôi vẫn tự coi anh như người tình để
được chờ đợi. Anh có thể không yêu em nhưng anh có thể chết, và anh thuộc về
em. Nhưng anh trở về. Còn gia đình? Ông bố nghiện, lũ em nheo nhóc. Gia đình
này thay đổi được không? Không còn dám nghĩ tới nữa. Cả nhà đợi mang tiền về ăn
Tết, mà hôm nay đã mùng một Tết. Đáng lẽ có thể về từ hăm chín, tàu đang vào
ga, sân ga cũng chẳng vắng hơn ngày thường mấy, chỉ tại Liên. Người đàn ông đã
cởi chiếc áo dạ mặc ngoài, có những nét hao hao quen thuộc không nhớ gặp ở đâu.
Tàu đỗ hẳn và người đàn ông nói:
– Nhờ cô nhìn dùm
mấy cái va-ly,
tôi xuống đất một chốc cho thoải mái. Tàu đỗ lâu không cô?
– Còn lâu. Ông cứ
tự nhiên.
Hắn nhảy xuống dưới
đất, đi ngược lên phía đầu máy. Bích nhìn chiếc áo dạ nằm vắt phủ trên hai chiếc
va-ly,
đã cũ trụi gần hết lông màu ngả bạc. Trời hé chút nắng ấm nhưng không thấy
bóng. Nhìn đồng hồ tay, Bích nghĩ phải quá trưa mới về đến ga hàng Cỏ. Bích mở
chiếc làn mây, kiểm lại các món vật hình như còn quên một thứ nghĩ không ra. Cảm
tưởng mất mát lúc buổi sáng khi vội vã ra ga lại xuất hiện. Cả đêm ngồi tâm sự
với Liên đến ba bốn giờ sáng mới chợp mắt một lúc. Tích ngáy khò khò trên giường,
hắn có vẻ hãnh diện về việc làm hoàn tất của mình. Mãi chín giờ tối hắn mới
mang tiền về, trao đủ cho Liên để trả Bích. Bích thở phào như thoát nạn. Bích
mang xuống hai cân hàng mo, lẽ ra đưa hết cho chỗ tiêu thụ nhưng nghe Liên than
phiền thiếu tiền ăn Tết đã trao cho Liên một cân để chạy ăn hoa hồng. Liên đưa
cho Tích và giao hẹn trước mặt Bích: “Cô ấy giúp tôi tiền ăn Tết. Anh không thể
làm lăng nhăng được đâu”. Tích thề bán sống bán chết và mỗi buổi chiều hắn đều
nhăn nhó khổ sở vì bị khất. Đáng lẽ Bích có thể về từ hôm hai mươi chín nếu
không đưa hàng cho Liên. Cũng may, giao thuốc phiện cho anh nghiện chưa ai dại
bằng Liên với mình, chẳng hiểu cớ gì hắn có thể sòng phẳng được như thế. Liên gầy
và xanh hơn trước nhiều. Không hiểu còn gặp những người đàn ông khác nữa không?
Trên cánh tay và bắp chân Liên có những dấu bầm tím. Tại sao Liên có thể chịu
mãi được? Liên chỉ biết chảy nước mắt than thở: “Cái số của tôi nó khốn nạn như
thế.”
Lúc ấy giao thừa vừa xong và hai người còn ngồi trên ghế con ngoài hàng hiên ngắm
những ngọn nến lay động chực tắt. Bích không muốn nhắc nhở Thạch với Liên trong
suốt mấy ngày, cũng chẳng ích gì, nói rằng Thạch tìm Liên, nhắn không bao giờ
quên Liên để làm gì. Chuyện đã quá xa cũ, Liên không thể làm hơn được. Phải
không? Một ngày nào họ gặp nhau lại, họ sẽ tự nói lấy, nếu họ còn được gặp nhau
lại. Cũng mong là Liên yêu Thạch vì dù sao có lẽ chỉ có Thạch là người đàn ông
yêu Liên.
Người đàn ông trở
về, tay cầm mấy phong bánh khảo, bánh đậu xanh, mời Bích. Bích nói:
– Bánh khảo đây
ngon có tiếng. Ông để dành về Hà-nội làm quà.
– Thú thật với cô,
tôi chưa có ai quen ở Hà-nội để làm quà. Chính tôi về cũng chưa biết ở đâu.
Bích ngạc nhiên,
hoài nghi:
– Ông không có gia
đình mà lại về vào ngày Tết này. Sao ông không ở lại Hải-phòng đợi đến mùng bốn đã.
– Tôi đến Hải
Phòng chiều hôm qua. Ở Hải Phòng tôi cũng chẳng có ai quen. Đêm qua tôi ăn giao
thừa ở hôtel với một anh chàng say chán đời. Chán quá nên tôi nghĩ cứ về bừa Hà-nội.
Chẳng lẽ cả thành phố lại không có chỗ nào tá túc được hay sao. Năm tôi vào Sài-gòn tôi còn ngu ngơ hơn
bây giờ mà chẳng chết nữa là…
Bích nghĩ thầm:
làm đàn ông thật sướng, bạt mạng chẳng sợ gì hết. Nghĩ đến những đêm phải ngủ
trọ nhà lạ, thao thức trằn trọc, suốt đêm thấp thỏm lo sợ những hình thù mò mẫm
trong bóng tối, Bích thấy tuy phải nằm ép mình giữa hai đứa em trong gian buồng
chật chội, hôi hám hơi người và khói thuốc phiện còn hơn. Nhất là mấy đêm ngủ lại
nhà Liên, nhà chỉ có một buồng nghe rõ tiếng lục đục bên giường, Bích nằm trên
đi-văng
cứng mỏi, ghê tởm. Nhiều lúc giật mình, tay chân giá cóng, hơi thở dồn, tim đập
nhẩy, tưởng như Tích đến gần sờ mó vào người và Bích có thể giết chết được đứa
đàn ông bẩn thỉu. Thế mà Liên chịu đựng được? Người đàn ông nói: Xin lỗi cô, và
hắn xách va-ly
nhỏ sang băng phía bên kia kê đầu nằm nghiêng duỗi thẳng chân. Hai người đàn bà
nhà quê đã xuống ở ga Nam-sách,
không có hành khách lên thêm, chỉ còn hai người trong toa rộng với gió nắng lùa
chạy vùn vụt. Bích tháo khăn chùm tóc, nghe hai tay tê giá dần dần. Người đàn
ông nào cũng giống người đàn ông nào, nặng nề, chậm chạp, ẩm ướt, nhiều khói bụi.
Bích không tưởng tượng ra người chồng tương lai của mình như thế nào, Hội, lâu
ngày đã quên hẳn mặt, nghĩ đến như một lý tưởng trừu tượng xa vời. Tình yêu
chăng? Tình yêu như hướng vọng, đợi chờ một ảo tưởng có thể thành sự thật hay sự
thật lúc nào cũng có thể thành ảo tưởng. Anh chàng Thiện, y tá bệnh viện Phủ
Doãn, cao lòng khòng, chỉ có cái thú độc nhất là vô-lê-ban, người lúc nào cũng
thơm nức mùi nước hoa, đỏm dáng như con gái; bà mối giới thiệu anh chàng sẽ là
một người chồng, người cha gương mẫu, mỗi lần hắn gỡ đôi kính trắng lấy khăn
lau mắt hấp háy như gặp nắng trông đần độn khó chịu, nhìn vào mắt hắn như nhìn
vào đôi mắt mù. Một anh chồng không nhìn được gì vượt khỏi tầm mắt cận thị.
Bích sực nhớ mình đã hai mươi hai tuổi, hai mươi bốn tuổi với tình yêu tự tạo để
tưởng nhớ, để thuật với bè bạn khi cần chuyện tâm sự. Một thiếu nữ trong thành
chờ đợi người tình ngoài kháng chiến. Ngọc bảo: đó là một hạnh phúc, và lúc ấy
quả cũng cảm thấy tâm hồn bay bổng như được vuốt ve an ủi. Hội ở đâu? Hội ra sao?
Hội còn nhớ đến tôi không, đứa con gái ngày đó mới chừng mười bốn, mười lăm tuổi.
Tàu đỗ lại Cẩm-giàng,
đợi chuyến xuống. Nhìn ra ngoài ga, phố quận đìu hiu hơn. Người đàn ông chừng
ngủ say mệt, quay mặt ra ngoài lối đi. Nét mặt gồ ghề, sáng tối lẫn lộn. Bích
loay hoay lục lọi trí nhớ tìm cái khuôn mặt giống đã gặp. Một khuôn mặt già sạm
đứng im nhưng lẩn khuất những nét ngây thơ dại dột. Bích nghĩ không hiểu ở nhà
bà cụ có xoay đỡ được ít tiền tiêu Tết không. Sáng mùng một, nhà tấp nập khách
khứa mà không có tí gì coi cũng không được. Bích mừng thoát khỏi phải tiếp
khách mệt nhoài. Ông bố chắc đã dẹp bàn đèn vào tận giường trong cùng và cả
ngày bữa qua bọn em phải xoay trần dọn dẹp nhà cửa. Con Loan mệt, tối sẽ tìm một
só ngồi khóc rấm rứt; đã hai năm nó vẫn mơ ước một cái áo dài. Tiếng chân đi dẫm
trên đá xanh lổn nhổn bên thành toa. Kính đứng dưới đất nói lên:
– A, cô Bích. Hôm
nay cô cũng đi chợ nữa sao? Năm mới chúc cô năm nay cho tôi uống rượu.
– Năm mới chúc Thiếu-úy thăng chức. Có nhắn gì
Ngọc không, tôi về nói lại cho.
Kính đỏ bừng tai,
chớp mắt, nhe răng cười. Hắn là trưởng đồn, vốn thầy tu xuất, vẫn theo đuổi Ngọc.
Ngọc lấy làm xấu hổ vì bị một người như Kính mê, cô nàng nói: “Trông nó bề
ngoài lờ mờ vậy mà giết người không gớm tay”. Ngọc nghỉ chợ vì ngại gặp Kính,
cô nàng đi buôn như làm những chuyến du lịch, con một gia đình thầu khoán phong
lưu, Ngọc đòi đi buôn để được theo Bích và Liên xuôi ngược hằng ngày. Chiều nay
sẽ lại thăm Ngọc, cô nàng bây giờ lại hoạt động hướng đạo trong khi chờ đợi lấy
chồng.
– Hôm nào thiếu úy
về Hà-nội?
– Có lẽ còn lâu.
Kính rút khăn tay
lau mặt và cổ, có lẽ hắn muốn hỏi thăm Ngọc nhưng không biết cách mở lời, hắn
cũng biết Ngọc ghét hắn. Hắn đứng nép vào thành toa ngửa cổ nhìn đoàn toa xuống
ép hắn vào giữa, tiếng máy chuyển động át mất câu nói của hắn. Mãi sau Bích mới
nghe được đoạn cuối: … Các cô nghỉ chợ, Cẩm-giàng buồn quá. Bích cười
nhìn theo Kính mập mạp, lùn thấp len giữa hai đoàn tàu và leo lên mất hút ở một
toa tàu bên. Người đàn ông thức dậy ngồi lên ngơ ngác.
– Gần đến Hà-nội
chưa cô?
– Chưa. Ông có thể
ngủ một giấc nữa.
Hắn móc thuốc lá
châm hút, nhìn qua đoàn tàu ngược tò mò. Bích cố nhớ lại những nét quen trên mặt
người lạ và một chốc những nét quen bị bôi xoá chỉ còn lại hình ảnh xa lạ hoàn
toàn của một người đàn ông giống như những người khác.
✳
Trời còn se lạnh
nhưng vẫn nghe mồ hôi dâm dấp, có lẽ đói và khát. Cảnh vật trở nên nhàm mắt. Đồng
ruộng, đồn bót, làng xóm trong bầu trời thoáng nắng ủ ê. Con đường cái chạy
theo tàu lúc sát tới, lúc lui xa, lúc cắt ngang mất tích. Lâu lắm mới gặp một
chiếc xe hơi trên đường. Tàu đỗ lại những sân ga không người, chỉ có tường gạch
loang lở hoặc lỗ chỗ vết đạn bên những đầm nước bèo cỏ mọc hoang mọc tủa lên những
cọc nứa giăng hàng, một hai phố quận chỉ là hai dãy phố lụp xụp dựng bên đường
cái với đồn canh chặn đầu. Vẻ hoang tịch trên mọi vật phơi bầy. Liêm muốn được
nhìn thấy cảnh tượng đang diễn trong vòng những lũy tre dầy cô lập các làng mạc
giữa vùng đồng ruộng bát ngát. Ở đây vừa trống trải, vừa cô đơn. Không còn sự
luông tuồng nối kết dằng dặc bởi bờ bụi, cỏ cây, nương rạch từ làng này qua
làng khác như đồng ruộng trong Nam. Bất cứ chỗ hẻo lánh nào giữa bưng biền vẫn
có thể gặp người và nhà ở. Ở đó hoang dã nhưng không cô đơn. Liêm nghe thốn
trong bụng cảm giác mình đang dấn mình về nơi không được che chở. Bích bỗng hỏi:
– Ông về Hà-nội định
làm gì?
– Tôi chưa biết.
Cũng có thể ít lâu tôi lại vào Sài-gòn.
– Ông có vẻ thích
Sài-gòn.
– Tôi có cảm tưởng
như tôi đã là người Sài-gòn.
Tôi đã ở trong ấy hơn mười năm. Về đây thấy cái gì cũng lạ. Cũng sợ. Chắc tôi
không thể sống được ở Hà-nội.
Bích cười, nàng
búi lại đầu tóc, tiếng cười trong đơn giản. Liêm cười theo, rồi đứng dậy nhấc
va-ly
đặt về chỗ cũ.
– Quê ông ở đâu?
– Từ nhỏ tôi đã sống
ở tỉnh. Tôi đã bao giờ về quê đâu. Mười bảy tuổi là tôi bỏ nhà đi rồi.
– Ông anh hùng nhỉ?
– Không phải. Mỗi
người có một hoàn cảnh.
Anh hùng. Không
tôi không phải là anh hùng. Đó là lời nói mỉa. “Tôi không phải sinh ra để làm
cách mạng. Tôi tầm thường, tôi sống như mọi người. Tôi phục chị Hai nhưng tôi
không muốn làm như chị.”
Chị Hai, vợ của nhà cách mạng nổi tiếng đã chết ngoài Côn-đảo trong thời Pháp-thuộc, được anh em tôn gọi
và kính nể, sống hẩm hút với mấy đứa con tại chùa Bà-đầm nhưng vẫn nuôi chí chồng,
cầm đầu tổ chức phụ nữ nội thành; Tường đã dẫn Liêm đến thăm sau ngày Liêm được
thả và thất vọng chán nản vì bị bỏ rơi, hy vọng Liêm trông gương chị. Tường bảo:
“Ở bất cứ địa vị nào người ta cũng có thể tham gia cách mạng.” “Không. Tôi không làm
cách mạng, tôi chỉ muốn làm việc.”
– Tôi có người bạn
cũng người Bắc vào Nam từ lâu, lúc tôi về anh có khuyên tôi không nên. Tôi
không tin.
– Ông vội quá. Ông
đã về đến Hà-nội đâu.
– Cô đã chẳng nói Hà-nội
không giống Sài-gòn
hay sao?
– Tôi nghĩ ở đâu rồi
quen đấy.
Vấn đề không phải
là quen, sống không thể chỉ là thói quen. Trưa đang nhẹ dần, không khí ấm hơn.
Tàu bắt đầu chạy chậm, qua cửa sổ những mái nhà thấp bé bắt đầu xuất hiện. Bích
nói: Đến Gia-lâm
rồi. Bỗng dưng Liêm nghe nao nức lạ lùng, thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn. Quang cảnh
nhà ga đượm vẻ thân cũ, những bồn nước, cần ghi, các kho tối đóng cửa, các toa
than rải rác, đường sắt dan díu, nằm nguyên chỗ như chưa bao giờ đổi thay.
Trong một phút, tâm trạng biến đổi hẳn, tôi đang đặt chân bước vào ranh giới của
một vùng mơ ước của tuổi nhỏ.
– Tôi không hiểu Hà-nội
thay đổi thế nào nhưng tôi thấy Gia-lâm
không thay đổi mấy.
Bích quàng khăn
lên đầu, mở nắp làn mây có lắp tấm gương con soi mặt. Liêm nhấp nhỏm chờ đợi
con tàu huýt còi rời ga để chạy lên cầu Long-biên. Đường phố Gia-lâm vắng ngắt như trong một
bức ảnh chụp kỷ niệm. Ngày nào xa lắm, tôi đã ngồi trên chuyến tàu này cùng đứa
em trai và mẹ lên Hà-nội sau khi bố chết. Thạch đội chiếc mũ nồi đỏ, chiếc mũ nồi
lúc qua chợ Đồng-xuân
bị kẻ cắp giật mất khi nó ló đầu ra ngoài cửa sổ tàu điện dáo dác nhìn phố; sức
giật quá mạnh khiến môi nó vập xuống thành cửa gẫy mất một cái răng. Gió bốc
lên từ mặt sông Cái nước đã rút bớt, thành cầu ầm ì vang động lùi mãi. Giải đất
nổi chia đôi mặt sông xanh um cây cối, thỉnh thoảng xen những khoảng vườn ngô đều
hàng thưa trống. Tiếng động của gióng cầu như một khúc nhạc vang âm và từ phóng
trong thời gian của trí tưởng. Hà-nội như một niềm thân mật cuối cùng còn sót
phải tìm lại. Đường bộ trên cầu chỉ là lớp gỗ nằm gung đen bóng thỉnh thoảng điểm
một vệt sáng đen của sắt. Đường bờ sông bến Nứa, bồn nước Hàng Đậu… vẫn còn
nguyên. Tàu chạy trên cầu đá qua hàng Giấy, sông Tô-lịch, men theo đường
Thành. Như từ đỉnh cây dòm xuống, thành phố nghiêm trang vắng người bốc lên một
bầu không khí huyền hoặc.
– Hà-nội vẫn không
thay đổi gì cả.
Bích đứng lên,
Liêm nhích người nhường chỗ cho nàng trông xuống phố. Bích quay nghiêng mặt khẽ
mỉm cười, hai bàn tay nàng víu lấy thành cửa tím trắng.
– Tôi chỉ thấy nó
nhỏ quá, không còn lớn như trong trí nhớ.
Tàu đã chạy xuống
phố, ngang qua những rào cản. Một vài người, hai ba chiếc xe đạp, một chiếc xe
hơi đứng đợi dưới phố. Con tàu như chạy quá nhanh và khi đỗ lại bên một mái
hiên chụp tối của ga, Liêm bàng hoàng ngơ ngẩn. Bích nhấc chiếc làn mây đeo vào
tay tiến ra ngoài đầu toa. Liêm chậm chạp khoác áo dạ vào người, xách hai chiếc
va-ly
lên. Bước xuống đến sân ga, Liêm đã thấy Bích tiến vào đến cửa vào nhà ga. Mươi
hành khách nữa xuống ở một toa gần cuối, trong ấy có hai người đàn bà cùng đi
trên chuyến tàu thủy. Họ không trông thấy Liêm và Liêm nhìn họ như những người
quen cũ. Ra đến cửa ga Liêm gặp Bích vẫn còn đứng trên thềm. Con đường hàng Lọng
thật xa thật thấp.
– Ông về đâu?
Liêm móc túi tìm
lá thư của Tùng, đọc lại địa chỉ, đưa cho Bích xem. Bích nói: Ông gọi xe về,
đây vô đấy khá xa. Chúc ông năm mới mọi sự như ý. Bích thoăn thoắt bước xuống
các bực thềm, đi khuất vào phía tường ga nhô ra thu hẹp con đường. Liêm nhìn
khoảng trống trước mắt. Mặt đường rộng, con đường tàu chôn dưới nhựa, xe tuần cảnh
nhà binh đậu ở một góc đường, hàng cây xanh sâu sao động.
✳
Liêm không vào
thành phố, địa chỉ Tường giới thiệu là nhà thương Bạch-mai. Phải mất gần giờ đồng
hồ mới tìm được một chiếc xích lô bằng lòng ra ngoại ô, người phu xe già rách
rưới hom hem trông như mùa đông vẫn còn xung quanh, như hình ảnh miền Bắc đói
rét co ro không thay đổi. Chiếc xe tuy đã mất, nhưng còn lại những người phu xe
này. Tối mùa đông, cửa ngõ đóng kín, Liêm nghe tiếng gõ cửa gọi, bà cô có môn
bài thuốc phiện phải bật đèn dậy càu nhàu, mở hé khuôn cửa gỗ tròn đút lọt một
cánh tay dơ bẩn khẳng khiu van nài, gió rít ào ào ngoài trời, bóp thuốc đặc
quánh trong chiếc hộp đồng đục hai lỗ nhỏ vào trong vỏ hến; người phu xe kì kèo
xin thêm một giọt, le chiếc luỡi thâm tái liếm sạch chất thuốc trong lòng vỏ trắng
có vân xanh đỏ hoặc năn nỉ xin mua những chiếc rẻ rách lau hộp đồng; trong đêm
lạnh giá, bình nước nóng ủ dưới chăn bông của bà cô, tiếng vỏ không ném rơi
trên hè đường. Bên trái khu đóng quân của quân viễn chinh, bên phải hàng tường
dài của ga, lấp ló vài mái nhà. Ngã tư Khâm-thiên – hàng Lọng. Phố
Khâm-thiên
hiện một khúc ngắn, đường tàu chạy ngang, lầm lội bụi bậm. Con đường chạy ra
ngoài giữa cánh đồng, chuyến tàu điện một toa loong koong như không có hành
khách. Buổi chiều chớm nở nhạt nhẽo trong khoảng gió lớn, lất phất mưa bụi. Một
vài chiếc vận tải nhà binh chạy như giông gió nhắm hướng thành phố, mỗi lần người
phu tạt xe vào vệ đường đỗ lại, Liêm nhắm mắt tránh gió tạt cay, làu nhàu nguyền
rủa bọn tài xế bất lương. Ngày quá dài, chiến tranh cũng đã quá dài. Tôi như kẻ
mệt mỏi đào ngũ, về đây… Liêm mường tượng điệu hát của người thiếu nữ trên tàu
biển trong buổi mai sảng khoải, im cơn say sóng; Mới đó, đã tưởng thuộc vào một
quá khứ xa vời. Ở đây mọi vật, mọi người, cả trong không khí lửng lơ, đều khép
kín, nghi kỵ, đầy bất trắc. Rồi tôi sẽ phải đi tới nữa. Khu vực nhà thương rộng,
nhiều tòa nhà lớn, cây cối um tùm. Dãy phố lá trước mặt bệnh viện không có vẻ Tết,
các cửa hiệu vẫn mở nhưng không có khách, một vài chiếc xích lô đậu nghênh gếch
một bánh trên mặt nhựa cao, một bánh dưới đất lún trước các nền nhà, chỉ có những
đứa trẻ mặc quần áo súng sính đứng ngơ ngẩn nhìn quanh. Trong sân nhà thương, một
hai người lẽo đẽo đi mãi tới tòa nhà ba tầng ở sân. Liêm xách va-ly, đi vào cửa ngách, hỏi
thăm người canh gác, một người đàn ông đứng tuổi lầm lì như mặt ngày trời lạnh.
– Ông Hỗ hả? Ông Hỗ
làm bên khu lao phải không? Không biết ông ấy có về quê ăn Tết không? Đâu ông
thử vào trong tìm xem.
Người gác ra khỏi
chỗ ngồi, trước một cái bàn mộc có đặt ở góc một quyển sổ bìa đen, đi ra ngoài
phòng, chỉ trỏ rắc rối: đi thẳng vào, bên trái tòa nhà thứ nhất, đi nữa đến chỗ
để xe, rẽ tay phải, một cái ngõ, đi vào rẽ tay phải, qua một cái sân, đằng sau
tòa nhà thứ hai, dãy nhà ngang, nhà thứ hai thứ ba gì đấy. Lối đi trải nhựa đen
nổi hằn vết đá lồi lõm, cây lớn và cao, mương xi măng khô cứng dưới chân tòa
nhà lầu nhiều cửa sổ. Liêm loanh quanh một lúc, lạc lối vào một sân cỏ không
người hôi mùi y dược và rác rưởi ở đâu quanh, đi liều vào trong một hành lang
tường lát gạch men trắng với những phòng cửa kính bôi trắng không nhìn qua được
và cũng không gặp ai để hỏi thăm. Dù sao cũng phải tìm cho bằng được Hỗ, ở tạm
cho qua mấy ngày Tết không thể lang thang ở Hà-nội được. Từ trong một cửa phòng
mở đột ngột, một dì phước đi ra và quay lưng đóng cửa; Dưới lần khăn che một
khuôn mặt trái xoan xanh mướt và cặp mắt mơ màng, ngước lên tò mò. Liêm dừng bước
không biết có nên hỏi thăm không. Dì phước quay mặt bỏ đi vội vàng, vạt áo xòe
kêu sột soạt trong hành lang vắng. Nửa giờ Liêm mới tìm được nhà của Hỗ, nhà
đóng cửa đi vắng. Nhìn qua cửa sổ nhà bên cạnh, một bàn bất đông đúc quây quần
trên một tấm phản. Một người đàn bà hỏi ra: “Ông hỏi ai? Ông Hỗ à, ông Hỗ ở
trên buồng hộ sinh”. Liêm đặt va-ly,
xuống hè, nhìn trời, thỉnh thoảng liếc nhìn vào bàn bạc vang động tiếng cười
đùa ồn ào vui vẻ. Liêm nghe mệt nhoài cả thân xác và ý nghĩ, chỉ muốn được một
chỗ ngả lưng, đứng tựa vào tường thất vọng. Một người đàn ông, mặt mày đỏ sậm
đi đến trước mặt Liêm hất hàm hỏi. “Ông Hỗ, có khách hỏi thăm ông đấy. Ông ấy đấy”
“Hỏi tôi?” Thái độ của Hỗ ngang bướng sấc xược, không đợi nghe Liêm nói, quay
lưng mở cửa nhà và bước vào. Liêm theo chân, móc túi lấy thư của Tường và tự động
ngồi xuống ghế. Hỗ chăm chú đọc thư, chậm chạp như phải đánh vần từng chữ, còn
Liêm ngồi quan sát thân hình vạm vỡ, khuôn mặt ngang ngạnh của Hỗ. Đọc xong
thư, Hỗ thay đổi hẳn thái độ, tươi cười vồn vã, Liêm thở phào khoan khoái.
– Ở đây, chú không
có nhà ở tạm đây với tôi. Chú thân với anh Tường cũng như là thân với tôi.
Không có gì ngại cả. May mà vợ tôi nó đi vắng, cũng đỡ phiền. Chú biết đàn bà
là hay kiêng cữ. Tôi thì không có. Chẳng như mười mấy năm mình sống ở Tây về mà
lại vẫn còn lạc hậu.
Hỗ thao thao không
ngớt, quay tròn bén gót Liêm, đưa Liêm vào buồng trong rửa mặt thay quần áo,
xách cất va-ly,
dọn bánh chưng, rượu ra bàn. Chưa bao giờ Liêm được ăn một bữa ngon miệng như vậy.
Hỗ, biểu lộ một bản chất bộc trực, quê mùa, đã đi lính thợ sang Pháp, lấy vợ đầm
và khi về nước “bỏ thẳng cánh không thương tiếc”. Hỗ cười ha hả như trả được một
phần mối thù của dân tộc. Nhưng khi ăn Hỗ vẫn dùng dao, nĩa, “không quen cầm
đũa, dao nĩa sạch sẽ vệ sinh hơn” như dấu hiệu khoe khoang một thời ngang dọc đã
qua; Hỗ nhắc đến Tường bằng giọng kính phục như bậc đàn anh trí thức ngang
hàng: Hỗ gặp Tường ở Pháp khi anh vừa ở trường Mỹ-thuật ra, mở cuộc triển
lãm đầu tiên tại nhà hàng Continental, gia đình bắt cưới vợ, bỏ nhà trốn sang…
“Tôi tưởng anh Tường vẫn chỉ ở Sài-gòn.
Không nghe anh ấy kể…” Liêm hỏi. “Tính anh ấy thế, anh ấy không thích kể chuyện
đã qua. Năm tôi về nước gặp anh ấy ở Sài-gòn trông anh ấy lại thành người khác rồi.
Có lẽ không ai biết rõ quá khứ anh ấy hơn tôi”. Hỗ kể chuyện ngủ với đầm, hành
hạ đầm một cách sướng khoái “một con đầm, nhà khá giả mê anh Tường như điếu đổ
mà anh ấy không thèm. Chú thấy không? Anh ấy thật là cách mệnh”. Hỗ uống rượu
như hũ chìm, không để cho Liêm nghỉ ngơi. Tối đến Hỗ dẫn Liêm sang nhà hàng xóm
giới thiệu, bắt Liêm cùng ngồi đánh bất với mọi người. Người ta hỏi thăm bệnh
tình vợ Hỗ, Hỗ nói: “Yên rồi. Mấy ngày nay tôi mệt đứ đừ với nó. Hôm nay có người
bạn ở Sài-gòn
ra, tôi phải chơi cả đêm không thì mai hết Tết rồi”. Vợ Hỗ bị xảy thai, Hỗ bảo
vì thiếu vệ sinh, người Việt-nam
thiếu vệ sinh. Nhiều người cười. Khoảng mười một giờ đêm, Liêm cáo mệt đứng dậy
và Hỗ cũng thôi. Nhưng suốt đêm mùng một, Liêm chỉ ngủ được một cách chập chờn
vì Hỗ không ngớt chuyện trò. Hết chuyện bên Tây đến chuyện Sài-gòn, hết chuyện Sài-gòn đến chuyện Việt-nam, Việt-nam bẩn thỉu, khốn nạn,
không hòng ngóc đầu lên nổi, hết chuyện nước đến chuyện nhà, chuyện vợ con,
công việc… Liêm nằm ngửa như bị một cơn say trống đuổi mất giấc ngủ, lâu lâu ậm
ừ phụ họa, nghĩ không ra mục đích những ngày sắp đến, kiếm việc, đi làm, sẽ trở
về thăm Bắc-ninh,
hỏi thăm tin tức bà cô, mẹ và đứa em. Có lẽ sẽ trở lại Sài-gòn và chuyến về Bắc này
chỉ như chuyến thăm gia đình?
Sáng mùng hai, thức
dậy Liêm không còn thấy Hỗ trong nhà, anh ta đi thăm vợ. Liêm ngồi ở bàn ngoài
đợi Hỗ, nghe những lời chúc tụng đầu năm hai bên hàng xóm, mấy chục năm những lời
ấy không chút đổi thay. Tòa nhà lớn áng dọc một bên tầm mắt, ngoài cửa là một
khoảng vườn rộng lối đi lớn chạy đến xa tít mới có một dãy nhà ngang song song
với bên này, cuối dãy là một khu rào xi-măng riêng biệt. Hỗ trở xuống trong bộ
blouse trắng bệ vệ như một bác sĩ, hai mắt thâm quầng mệt mỏi. Liêm hỏi thăm bệnh
tình của vợ Hỗ, chị bị xảy thai. Hỗ rất buồn vì mất đứa con, gần bốn mươi tuổi
anh cần một đứa con hơn bao giờ hết. Liêm trả nhà cho Hỗ lên phố chơi. Thành phố
Hà-nội vắng, cổ kính. Vẻ tưng bừng rực rỡ của những ngày cũ vẫn mang trong ấn
tượng bị xóa nhòa, so với Sài-gòn
Hà-nội như một thành phố nhỏ. Cửa hiệu buôn bán chưa mở, Liêm đi trên vỉa hè nhận
ra bộ quần áo của mình quá cũ giữa những người dạo phố. Không mục đích, Liêm đi
loanh quanh trong các phố lớn nhìn ngắm thiên hạ ăn Tết trong nhà và ngoài đường,
không có một ý niệm rõ rệt nào về sinh hoạt hằng ngày. Mọi người đều có vẻ nhàn
nhã, phong lưu và vô tư. Liêm mua vé vào xem chợ phiên bên bờ Hồ, đi đi lại lại
hai ba vòng trước các gian hàng trải dài từ nhà Thủy Tạ đến góc phố Trường Thi.
Mỏi chân Liêm muốn vào ngồi nghỉ trong một quán giải khát nhưng không còn bàn
trống và không thể ngồi chung bàn như ở Sài-gòn. Lúc trở về, Liêm đi
tàu điện Kim Liên và phải đi bộ mất một quãng dài mới về đến nhà thương. Buổi
trưa Hỗ và Liêm lại ăn bánh chưng trừ cơm, cả buổi chiều Liêm được ngủ một mình
ở nhà. Tối khi Hỗ đã lên phòng trực, Liêm dạo quanh trong khu bệnh viện trên những
lối âm u không nghe tiếng động. Những khung cửa sổ đều thắp sáng trống trải.
Trên không trung vọng tiếng phi cơ ầm ì và súng đại bác nổ thật xa. Một lúc đứng
dưới một gốc cây, Liêm nghe tiếng rên la thảm thiết trên lầu cao vang trong một
phòng rộng, rồi tắt biến, bộ mặt nhà thương cũng chẳng thấy náo động hơn chút
nào. Trở lại dãy nhà ở, bàn bất bên cạnh đông hơn đêm trước, gần như hàng xóm đều
sang tụ họp ở đây. Liêm đứng ngoài lắng nghe những câu đùa cợt trêu chọc lẫn
nhau trong không khí đầm ấm, tự nhủ;
mình về đây ích lợi gì? Cuộc đời người ta không phải mỗi lúc đều có thể bắt đầu
trở lại. Dù thế nào đáng lẽ cũng phải tiếp tục… Ngày mùng ba Hỗ đưa Liêm lên phố,
đến thăm nhà một người họ. Liêm ngạc nhiên khi bước chân vào một gian nhà một từng
thông suốt được ngăn chia làm nhiều phần cho gia đình khác nhau trú ngụ. Cảnh hỗn
tạp ầm ĩ luộm thuộm do sự chung đụng của những nếp sống trái ngược hẳn nhau không
thể tưởng tượng. Vẻ tạm bợ bức bối vây chặt mọi người. Liêm hỏi và được biết phần
lớn nhà ở Hà-nội đều chịu chung cảnh như thế, có một gian nhà riêng là một mơ ước
viển vông. Chiến tranh đã lùa về thành phố ngày một thêm đông số người hồi cư.
Gia đình ông bác Hỗ cũng mới từ Vĩnh-yên
xuống cách mấy tháng, may mắn lắm mới kiếm được một khoảnh chừng mười thước
vuông làm chỗ tá túc cho năm người vừa lớn vừa nhỏ. Mặt trận ngày càng mở lớn dữ
dội, nhà quê không còn là vùng ẩn trú như ngày trước nữa. Chỉ còn những thành
phố và thành phố chỉ còn Hà-nội là dễ thở. Nỗi sợ hãi lo âu ghi rõ trên nét mặt
những người trong gia đình cuộc sống tạm bợ này không thể kéo dài hết năm này
qua năm khác được. Không thể lìa bỏ cái khung cảnh thân quen mấy chục năm để dựng
một đời sống mới trong thành phố xa lạ này. Hỗ nói:
– Nhưng làm thế
nào được. Về quê chết cả nút hay sao. Ở đâu quen đấy. Đến sang Tây tôi còn sống
được nữa là mới ở Hà-nội. Cứ hãy lo cho yên ngày nào hay ngày nấy. Tính sau.
Ông bác thở dài,
hai vợ chồng người con bó gối nhìn bố, hai đứa con nhỏ ngồi lê dưới gạch. “Làm
gì” “Thiếu gì việc, tìm khắc ra. Bác đừng lo. Mình phải như Tây, lúc này là mỗi
người đều phải lo tìm lấy việc mà làm, không ai nuôi ai nữa.” Rời khỏi gian nhà, Liêm
dễ chịu nhẹ nhõm cả người và bắt đầu nhìn qua cửa những gian nhà bên đường bằng
cặp mắt khác. Liêm nói với Hỗ: “Ở ngoài này khổ hơn Sài-gòn nhiều quá”. Ngày mùng
năm, vợ Hỗ về nhà, chị vẫn còn phải dưỡng bệnh, bắt buộc nằm trên giường ít đi
lại. Chị trẻ hơn chồng ít nhất là mười tuổi, gầy gò xanh xao. Có chị trong nhà,
Liêm mất tự nhiên, phải bỏ đi cả ngày. Buổi sáng đi bộ lên tàu điện vào thành
phố, xuống ở đầu hàng Bông và lang thang suốt ngày tìm việc, làm quen với những
tờ báo treo trước phòng Thông-tin,
các tòa soạn, ngồi nghỉ trên các ghế đá quanh bờ Hồ nhìn Tháp Rùa rêu ẩm trong
gió xuân, xem những người ngồi câu tôm ven hồ hoặc trên bờ đá ướt sau đền Ngọc-Sơn, đứng trên cầu Thê
Húc ngắm xe chạy và người đi sau những hàng cây xanh các phố; buổi trưa ăn bánh
tây vào ngồi ngủ trong vườn hoa Chí Linh hay thềm nhà băng cao, hay thềm viện bảo
tàng, vào Ấu-trĩ-viên nhìn trẻ con chơi
đùa và xế chiều lên tàu điện trở về. Suốt tháng giêng Liêm lang thang ngoài
thành phố, không kiếm được việc. Vợ Hỗ khỏe dần, vui vẻ, thích chuyện trò tâm sự,
thích săn sóc Liêm và Liêm sợ những chuyện rắc rối. Chị hay than thở anh chồng
gàn bướng lúc nào cũng coi chị là con trẻ quê mùa, thuật lại những ngày con gái
ở Vĩnh-yên
được anh đồn trưởng pạc-ti-dăng và một anh lính Tây mê say theo đuổi. Hỗ không
hay biết về những ý nghĩ của vợ, anh vẫn tưởng chị ta khiếp phục mình là kẻ từng
trải giang hồ. Một bữa vợ Hỗ đòi Liêm đưa lên phố, chị ta bảo sẽ giới thiệu với
một người quen tìm việc hộ Liêm. Hỗ bảo: “Chú đi với nhà tôi”. Vợ Hỗ dẫn Liêm
xuống chợ Hôm, tìm một người cùng làng chính chị cũng không nhớ rõ số nhà. Hai
người đi quanh hỏi thăm không ra, Liêm có cảm tưởng người mà vợ Hỗ nói đến chỉ
là cái cớ. Chị ta gọi Liêm bằng chú một cách ngọt ngào, khuyên Liêm không nên vội
chán nản rồi rủ Liêm vào một hiệu giải khát bên đường nghỉ chân. Liêm kiếm cách
tháo lui, nói mình phải đến một người quen khác có hẹn trước nhưng chị ta nằng
nặc bắt Liêm phải cùng đi và đưa về đến nhà. Chưa khi nào Liêm kinh hãi sự táo
bạo của người đàn bà như lúc ấy, vợ Hỗ nắm lấy cánh tay Liêm đi trên hè, cười
nói luôn miệng không một chút e dè ngượng ngập. Liêm nghĩ: sau buổi này, không
thể ở lại trong nhà Hỗ và không biết mình sẽ đi đến đâu. Người đàn bà dường như
không đến xỉa đến thái độ lảng tránh, khó chịu của Liêm. Mặt chị ửng đỏ che khuất
màu da còn xanh, mắt ướp lấp lánh, hơi thở cồn cào trên ngực áo, môi hé mở một
hàm răng đen bóng, tóc rối lòa xòa trên vừng trán lấm tấm mồ hôi. Liêm rùng
mình nghĩ nếu chỉ có một mình với chị trong nhà lúc này… Đưa được vợ Hỗ về nhà,
Liêm bàng hoàng như thoát nạn nhưng nhìn vào mắt chị ta Liêm biết người đàn bà
chưa tỉnh, cặp mắt chị nheo lại tình tứ coi như Liêm đã thành đồng lõa. Trong bữa
cơm chị ta nói với chồng: “Không gặp anh ấy ở nhà. Mai lại phải đi nữa. Thật là
mất công quá”. Buổi chiều Hỗ đi làm, Liêm cũng bỏ đi, vòng vào lối đường đất bụi
sang bên chợ Bạch Mai, không biết mình phải làm thế nào để thoát khỏi tình thế
khó xử. Con đường ngoại ô đông đúc, hai dãy nhà lụp xụp bẩn thỉu dẫn đến một
ngôi chợ nửa quê nửa tỉnh với ga cuối của con tàu điện chạy suốt lên đến Bưởi.
Xe cộ đủ loại chen chúc trên một đoạn đường hẹp lẫn lộn với người gồng gánh qua
lại, con đường tàu lồi cao trên mặt đất như là một chướng ngại của cả một bên
hàng phố trước chợ. Bọn lính Tây-đen
lang thang bên đường hoặc chui rúc vào trong các quán lá thấp với bọn gái trang
điểm lòe loẹt chướng mắt. Liêm leo lên ngồi trên tàu điện đợi được đưa trở lên
phố. Đôi giầy bám bụi vàng khè, tay chân nhờm nháp, đầu óc trống rỗng quay tít.
Tại sao tôi lại về đây? Không có gì ràng buộc tôi ở nơi này; Mẹ tôi, em tôi nếu
còn sống cũng coi như tôi đã mất tích, đã chết từ hơn mười năm nay. Tôi đã
thành một người khác với một đời sống khác. Liêm bỏ xuống chỗ tàu tránh nhau gần
rạp Majestic, sang đường vào xem tranh ảnh dán trên tường, hành lang rạp chớp
bóng mát mẻ thơm tho, xin một tờ chương trình ở ghi-xê và đứng đọc không bỏ sót
một chữ. Liêm ra ngồi trên ghế đá, quay lưng vào toà Thị-chính, nhìn buổi chiều
trên Hồ Gươm. Ánh sáng trống trải bị bao giữa màu xanh của đám cây ven hồ và mặt
nước, sự im lặng mơ màng trên mặt hồ bị vây giữa một vòng phố náo nhiệt chuyển
động. Liêm nhớ những ngày đi lại trong Sài-gòn – Chợ-lớn rộng rãi đông đúc gấp
bội nhưng chưa khi nào bị bơ vơ lạc lõng, bất cứ chỗ nào cũng có thể kiếm được
một chỗ ghé chân. Những người qua lại trước mặt, sau lưng không nhìn ngó chú ý
đến những người ngồi ngây trên cùng một chiếc ghế không trao đổi với nhau một lời.
Liêm liếc nhìn người đàn ông, đầu cắt ngắn, quần áo cũ nhàu, chân đi dép cao su
cáu ghét vừa ngồi xuống ở đầu ghế, vẻ mệt mỏi chán chường. Liêm tìm thuốc lá
hút, hỏi xin lửa, mời thuốc người đàn ông, bắt chuyện làm quen. Người đàn ông
nói giọng Nghệ-tĩnh
khó nghe, anh ta ở khu Tư trốn vào bị giữ ở Công-an sáu tháng, mới chỉ được
phóng thích nhân dịp Tết Nguyên-đán
vừa qua và cũng đang thất nghiệp. Liêm vẫn có nhiều thiện cảm với dân Nghệ, những
người cần cù kỹ lưỡng trong công việc, khắc khổ cứng rắn trong tình cảm, kiên
nhẫn dẻo dai trong tranh đấu, thứ dân sinh ra đã có máu cách mạng chứ không phải
làm loạn. Trông anh ta còn ngơ ngác lạc lõng hơn cả mình và Liêm hài lòng với ý
nghĩ ấy. Lúc chia tay, Liêm hẹn với người bạn mới sáng hôm sau gặp lại tại ghế
đá đã ngồi, và trở về nhà Hỗ trên chuyến tàu điện cuối cùng. Buổi tối Liêm trốn
chạm mặt với vợ Hỗ, đi dạo hàng giờ trong vườn nhà thương, nghe nhen nhúm những
hy vọng mới mẻ kỳ lạ. Có được một người bạn mới, Liêm nhìn trước những buổi lê
gót trên vỉa hè phố xá dễ dàng hứng thú hơn. Hỗ hỏi: “Ngày mai chú lại đi với
nhà tôi chứ?” Liêm vội đáp: “Khỏi làm phiền chị. Tôi đã có một nơi mai người ta
hẹn đến gặp”. Vợ Hỗ bảo: “Thì chú cứ đi với tôi. Bắt cá hai ba bốn tay cho chắc”
“Thôi, mất công chị. Để lúc nào tôi hỏng việc này, tôi sẽ phải nhờ chị.” Vợ Hỗ tỏ thái độ không
hài lòng và Liêm nhẹ nhõm. Ngày hôm sau Liêm lên phố rất sớm, đi thẳng đến nơi
hẹn như đến một nơi quan trọng, ngồi trên ghế đá một mình đợi. Buổi sáng mùa
xuân mát rượi dịu dàng. Người bạn mới đến, rủ Liêm xuống phòng Thông-tin đọc báo. Trong một tờ
báo cũ đến cả tuần lễ Liêm đọc được lời rao cần thợ xếp chữ. Ra khỏi phòng
Thông-tin;
Liêm bảo: “May ra tôi có việc. Tôi phải đi ngay” và hỏi tên người bạn, hẹn chỗ
gặp lại. Anh ta tên là Khôi và hẹn buổi trưa anh ăn ở dưới trại Tế Bần, đầu hàng
Bột. Liêm nhảy tàu điện, xuống chợ Hôm tìm đến địa chỉ đăng cần thợ. Đó là một
tòa báo, đặt trong ga-ra
một biệt thự, phần ngoài kê hai bàn viết, phần trong là chỗ xếp chữ và đặt một
máy in nhỏ. Anh xếp ti-pô, thử nghề Liêm và nhận vào ê-kíp, lương theo lối chấm
công: “Nếu báo ra đều đặn không hết tiền hay không bị đóng cửa thì lương anh một
tháng khoảng chín trăm đến một ngàn. Chủ nhật không nghỉ, báo ra cả bảy ngày.
Anh nhận không? Bao giờ anh đến làm?” Liêm hẹn ngày hôm sau. Ra khỏi tòa báo,
Liêm không biết mình phải đi đâu nữa. Vẫn còn một vấn đề phải giải quyết là tìm
một chỗ ở, tránh những chuyện phiền phức với vợ Hỗ. Liêm nghĩ có thể điều đình
về ở chung với Khôi.
Mười hai giờ trưa
Liêm đến nhà Tế bần. Ngoài trời nắng sáng nhưng vẫn còn mát. Bước chân vào
phòng ăn, Liêm choáng váng mặt mũi mất vài giây vì mùi hơi người bẩn thỉu hôi
thối lẫn lộn với mùi tanh tưởi lâu ngày của thức ăn vãi đổ đóng thành mùn trên
gạch và gỗ. Phần đông thực khách là hành khất rách rưới ghẻ lở, một số phu xe
và lao công ăn mặc tương đối lành lặn hơn, tất cả đều ngồi dưới đất hai bên những
chiếc bàn dài thấp đến ngang bụng. Khôi ngồi tận mãi góc trong, Liêm phải đi
len giữa hai hàng lưng người hở những mảng da cháy xám xịt như màu thức ăn
trong các bát đĩa tiến vào. Khôi hỏi: “Được chưa”? Liêm gật đầu, Khôi nhích
người nhường chỗ cho Liêm. Người bên cạnh Khôi là một lão hành khất, cánh tay
tróc loét nhèm màu thuốc đỏ ruồi bâu không thèm đuổi, cũng ngồi lui lại sau để
mở rộng chỗ trống, lão cầm đũa và bát trên một tay, còn một tay kéo theo sát
bên mình chiếc bị và cây gậy như sợ bị đánh cắp. Cơm và thức ăn đều nguội tanh,
khó nuốt hơn cả cơm trong bót Catinat. Ở nhà Tế bần ra, Khôi đưa Liêm sang Văn
Miếu, ngả lưng ngoài thềm nhà thờ lát gạch Bát-tràng sạch sẽ và mát mẻ.
Dưới sân cỏ, gần hàng mả đá xây hình mai rùa với những tấm bia to dựng đứng,
hai anh học sinh chăm chỉ đi đi lại lại giữa mấy gốc cây học bài. Khôi cũng
không có nhà, tối đến anh về ngủ trong trại Tế bần. Anh nói anh sẽ đi làm nhưng
chưa biết làm công việc gì, chắc chắn không thể vào công sở vì hồ sơ công an.
Anh không có nghề chuyên môn, nếu có thể gọi được là nghề thì anh là nghề cán bộ.
Anh quen đi họp, thảo luận, hoạt động, vận động dân chúng. Anh vỡ mộng vì thực
tế. “Kháng-chiến
không còn nữa chỉ còn Cộng-sản.
Tôi đã là đảng viên dự bị sắp được tuyên thệ thì bỏ trốn về.” Anh chỉ có thể làm cán
bộ nhưng về đây làm cán bộ cho ai. Liêm nghe, hai tay khoanh đỡ gáy, ngửa mặt
nhìn kèo cột và mái ngói có những tiếng chim kêu rúc vỗ cánh nấp ở trong. Sau
cùng khi Khôi lặng im mơ màng như ngủ, Liêm nói: “Nhưng cũng phải kiếm việc gì
làm mà sống chứ” “Tôi không biết làm gì cả. Chữ không hay, nghề không có. Ai cần
đến tôi? Có chỗ cần thì tôi không làm được vì người ta không cho tôi thấy lý tưởng”
Liêm nằm lim dim không thể thốt một lời khuyên nào nữa. Một anh học sinh mỏi
chân đến ngồi ở đầu thềm xa, mắt vẫn dán vào quyển vở, và thiếp ngủ ngon lành
lúc nào không biết. Mở mắt Liêm nhìn thấy dãy cửa gỗ đỏ đóng kín, phần trên có
song khít trông qua vào trong tối om. Liêm bảo với Khôi mai mình đi làm, định
cùng ở chung với Khôi nhưng như thế không thành, hỏi nếu muốn gặp lại thì tìm ở
đâu, để lúc nào có chỗ ở riêng rủ Khôi về ở chung cho vui; Khôi bảo tìm thì xuống
Tế Bần. Buổi chiều về gặp mặt vợ Hỗ khó đăm đăm không nói lời nào. Tối Hỗ phải
trực. Trong bữa cơm Liêm báo tin đã tìm được việc, Hỗ vui mừng bảo vợ phải làm
gà ăn khao chú Liêm, vợ Hỗ không nói gì cả. Khi Hỗ đã đi khỏi, Liêm sửa soạn ra
ngoài sân nhà thương, vợ Hỗ đón hỏi: “Chú ghét tôi lắm phải không?” Liêm chối:
“Không, tôi chịu ơn anh chị. Khi nào tôi lại thế. Không có anh chị tôi chết đói
từ ngày mới ra Hà-nội kia” Vợ Hỗ ngồi xuống ghế và bật khóc thút thít một cách
mau chóng. Liêm bối rối ngồi theo xuống ghế đối diện, trông chừng ra cửa sợ người
vào bất ngờ. “Có phải chú có việc và chú sẽ đi ở chỗ khác không?” “Vâng. Tôi chẳng
muốn làm phiền mãi anh chị. Tôi định khi nào tìm được chỗ ở tôi sẽ thưa với anh
chị” “Làm phiền tôi. Từ ngày chú về ở, tôi cảm thấy đời tôi đỡ buồn tẻ, đỡ khổ
hơn. Chú không biết hay sao?” Liêm nhấp nhỏm đứng lên, không biết phải ăn nói
thế nào. Vợ Hỗ cúi gầm mặt, kể lể nho nhỏ những nỗi thống khổ của kiếp làm vợ
“… Tôi xảy thai là vì bị anh ấy đánh. Chú không biết…” Liêm không nói gì cả, đi
ra đứng tựa cửa. Trên một khung cửa sổ cao, một người nghiêng đầu nhìn xuống
sân. Mấy tối nay tiếng súng đại bác nổ nghe gần hơn, tiếng động cơ không rõ của
phi cơ cất cánh ở phi trường hay xe hơi chạy ngoài đường cái. Khi Liêm liếc
nhìn phía sau, vợ Hỗ đã vào trong buồng nằm nín tiếng từ lúc nào. Liêm khép cửa
bước vào trong bóng tối, đi theo những lối đã thuộc lòng. Sài-gòn đã quá xa, Hạnh cũng
quá xa. Mai tôi bắt đầu đi làm và bắt đầu một đoạn sống khác chưa biết dài đến
bao giờ. Có những gì thay đổi? Gió từ những bãi ruộng xa thổi vào thơm mát. Tôi
cũng vẫn bấp bênh như lúc mới lớn lên không rễ buộc. Sẽ đi ở chỗ khác và chưa
biết đến dịp nào có phương tiện trở lại Sài-gòn. Liêm trở về nhà, đèn
ngoài vẫn thắp sáng nguyên, dón dén dọn chỗ ngủ của mình ở đi-văng buồng ngoài rồi tắt
đèn. Nửa đêm Liêm hốt hoảng choàng thức dậy thấy mình bị ôm ghì bởi người khác.
Một nửa mặt đàn bà đè chặt lên mặt, mái tóc dài sổ rơi nặng trên vai, hai cánh
tay ôm vòng giữ đầu, hai chiếc chân dài quặp giữ lấy chân; cả tấm thân cựa quậy
rẫy rụa chậm chạp với tiếng rít âm ỉ sau hàm răng nghiến, hơi thở nóng như người
sốt. Liêm ngộp hơi, cố cựa mình lách ra khỏi sự đè ép nhưng không thoát. Liêm tỉnh
trí lại, nằm thẳng, nghe một bàn tay với những móng dài vuốt ve run rẩy và Liêm
thở, rồi thấy tay chân mình cũng bắt đầu cử động đáp ứng mỗi lúc một thêm tàn bạo
cho đến lúc Liêm lật mình nằm lên… Không phải là một giấc mơ, người đàn bà vẫn
còn nằm gối ngang trên ngực, tóc phủ cả lên miệng, bàn tay mềm nhũn vẫn ấp trên
nhớp nháp, há miệng thở. Mãi đến gần sáng, khi xe đã chạy ngoài đường cái, vợ Hỗ
mới chịu trở vào giường trong. Liêm xuống nhà rửa mặt, gặp vợ Hỗ đã ngồi bên bếp
đun nước. Chị ta thản nhiên nhìn Liêm cười lẳng lơ nhưng không nói một lời nào.
Liêm đi làm trước khi Hỗ về đến nhà. Buổi sáng hơi lạnh ủ kín những ý nghĩ.
Không còn cách nào khác hơn, bỏ đi càng sớm càng tốt. Liêm đi vòng sang chợ Bạch-mai để lên tàu điện, đến
nhà in sớm nhất và phải đứng ngoài cửa. Anh xếp ti-pô hài lòng, đưa Liêm vào giới
thiệu với những người trong ê-kíp.
Ông cụ San tóc bạc trắng, đeo kính lão; Tuất người trông vạm vỡ lực sĩ; Hải trắng
trẻo nho nhã; thằng Long láu táu khoảng chừng mười sáu mười bảy. “Còn tôi là Ngọc”
anh tự giới thiệu. “Làm ăn tử tế thì bọn này cho nhập đảng”. Cả bọn phá lên cười
và ông cụ San đùa: “Đằng ấy đừng đi theo bọn nó mà hư”. Buổi trưa Liêm theo thằng
Long ra chợ Hôm ăn cơm và hỏi nó xem có biết nhà cho thuê hay chỗ trọ giới thiệu,
Long bảo về hỏi Hải, Hải hứa sẽ để ý giúp. Chiều khi Liêm từ chợ Bạch-mai đi bộ về đến nhà
thương trời đã tối. Cơm đã dọn, vợ chồng Hỗ ngồi đợi, mâm cơm có món gà quay
khao Liêm. Hỗ uống rượu, cười đùa vui vẻ, đề nghị Liêm lĩnh lương nên tìm mua
cái xe đạp đi làm cho tiện, tháng này chưa phải giả tiền cơm vội. Vợ Hỗ gắp món
ăn tiếp Liêm một cách tự nhiên: “Chú ăn đi. Làm khách thế”. Mấy hôm sau, Liêm lại
nhắc Hải ý định tìm chỗ ở của mình và Hải bảo nếu Liêm thích có thể về ở tạm
nhà Hải ở trong xóm Chùa Vua. Buổi trưa Liêm theo Hải về nhà cho biết, gia đình
Hải chỉ có hai mẹ con ở trong một gian buồng nhỏ cạnh bếp một ngôi nhà gần bãi
đất trống cỏ hoang rác rưởi và một ao rau muống; bà mẹ bán bún riêu bánh đúc,
bánh khoái, chè đậu đen tùy theo mùa, Hải ngoài giờ đi làm tối đạp xe theo học
lớp tối của Hội Phụ-huynh
Học-sinh.
Hải đề nghị Liêm sẽ ngủ chung luôn với mình trên bộ phản rộng, bà mẹ Hải ngủ
trên một chiếc chõng nhỏ gần ngay cửa vào. Tối hôm ấy Liêm báo với Hỗ ý định đổi
chỗ ở của mình, nại cớ đi làm quá bất tiện. Hỗ vui vẻ bảo: “Ngày nghỉ xuống đây
chơi đổi không khí”. Vợ Hỗ không tỏ thái độ nào, chỉ cười tủm tỉm, trái lại
sáng hôm sau còn nằng nặc đòi xách va ly hộ cho Liêm ra cổng nhà đón xe xích
lô. Chị ta hỏi: “Chú ở một mình?” “Không, tôi ở nhà một người bạn làm cùng ở
nhà in”. Liêm mang va ly đến nhà in, trưa mang về nhà Hải. Bà mẹ Hải thổi cơm
cho cả Liêm ăn, mỗi tháng Liêm đưa năm trăm cả tiền ăn ở. Những ngày đầu tiên mới
đến, buổi tối khi Hải đi học, Liêm ngồi nói chuyện với bà cụ. Bố Hải là Việt-nam Quốc-dân-đảng bị thủ tiêu năm 45,
các anh Hải đều còn ở hậu phương theo kháng chiến, người chị gái duy nhất của Hải
mắc bệnh lao mất năm ngoái mới có hai mươi hai tuổi, Hải mười tám. Bà cụ kể
chuyện với giọng thầm thầm ẩn nhẫn, không than thở không oán hận, mắt tối mờ
trong những đau đớn hành hạ của số mệnh trời đất, giữa tiếng ếch nhái kêu om
ngoài bãi, tiếng huyên náo của hàng đoàn trẻ nít còn reo hò chạy đuổi tít trước
đền thờ Hai Bà và bóng tối mù mịt của xóm không điện. Hải trở về, bóp chuông xe
chạy vào sân, nhiều hôm đến lúc ấy mới ăn cơm, thắp ngọn đèn dầu lớn đặt lên phản,
kê chiếc ghế đẩu đã cưa chân ngồi ngay lối cửa đón gió lấy phản làm bàn học.
Liêm nằm trên phản nghe tiếng động của nhà quê ở bên ngoài, đập muỗi, thỉnh thoảng
đáp một câu hỏi của Hải hay của bà cụ. Bốn năm giờ sáng bà cụ đã lục đục dậy nấu
bún hoặc làm bánh và Hải theo mẹ giúp một tay mang theo quyển sách ngồi đọc bên
bếp lửa lớn. Bà cụ nói: Mày học vừa vừa chứ, không thì lao sớm. Tao già rồi
không sao. Cuối tháng bà cụ nhất định chỉ nhận bốn trăm của Liêm.
Một buổi sáng chủ
nhật rảnh rỗi, Liêm xuống nhà thương Bạch Mai thăm Hỗ. Hỗ đi vắng và vợ Hỗ nói:
“Tôi tưởng chú không thèm về chơi nữa” Vợ Hỗ đang thổi cơm, giữ Liêm ở lại đợi
chồng cùng về ăn cơm. Hơn mười hai giờ Hỗ vẫn chưa về, vợ Hỗ dọn cơm ra và bảo
cứ ăn trước để phần cho Hỗ. Cơm xong Liêm muốn về nhưng vợ Hỗ giữ lại bảo đợi
thế nào Hỗ cũng phải về, và dẹp giường cho Liêm nghỉ lưng. Lúc ấy đầu mùa hè,
trưa nắng gắt, Liêm nghĩ ngại quãng đường bụi bậm. Rửa bát xong, vợ Hỗ lên đóng
cửa ngoài lại che ánh nắng chiếu xiên vào đến đi văng Liêm nằm và bảo: “Chú vào
trong nằm cho mát. Nhà gạch hoa tôi đã lau sạch. Liêm đi vào sau bếp xối nước rửa
mặt, trở ra thấy người đàn bà xổ tóc nằm nghiêng trên gạch nhìn nói: “Chú đóng
hộ tôi cửa sổ với cửa ngang”. Buồng tối xầm lại như đầu óc Liêm và Liêm bước chập
choạng tới chỗ thân người đàn bà nằm vươn dài trên một nền nhẵn trơn không mảy
bụi. Người đàn bà lần này không hung dữ trâng tráo như trong đêm, trái lại đầm
thắm dịu dàng khuất phục một cách êm ái. Hỗ không về, đến tối mới về. Liêm
không nói gì, nhưng vẫn nằm lại để mặc cho bàn tay người đàn bà vầy nghịch .
Khi Liêm về đến nhà in đã trễ giờ, Ngọc hỏi: “Anh đi đâu thế?” Liêm nói thác vì
gặp người thân cũ của gia đình. Đầu óc hoang mang, Liêm nghĩ: mình cần, mình cần…
Những đêm mùa hè dài, ngột ngạt và nhầy nhụa. Tấm phản dội nước bị hút khô ngay
trong năm phút. Bà mẹ Hải quạt phành phạch suốt đêm. Ánh đèn của Hải ngồi học
loá mắt và nóng nực. Ở bên ngoài tiếng chân bước nặng nề tiếng xì xồ của lính
Tây ra vào quanh xóm kiếm gái. Trong giờ làm việc mọi người đều cởi trần kể cả
anh cò sửa bài, chỉ trừ ông chủ báo người xương sẩu lúc nào cũng cổ cồn cà-vạt, lưng áo sơ-mi ướt như nhúng nước. Một
buổi sáng đang làm việc, Liêm nghe anh thầy cò gọi có người nhà hỏi thăm. Liêm
vẫn còn cầm trên tay cái dẻ chùi chữ đi ra thấy vợ Hỗ đứng tận ngoài cổng biệt
thự. Mắt chị đỏ hoe, mặt hốt hoảng, bảo: “Anh Hỗ bị bắt rồi” “Tại sao thế?”
“Tôi cũng không biết”. Liêm đứng ngẩn trên hè nhìn xuống chiếc rãnh đang rỉ chảy
nước. Vợ Hỗ bảo bây giờ đi lên Công-an
hỏi thăm tin tức và hẹn trưa sẽ quay lại gặp Liêm. Vợ Hỗ cầm khăn tay lau một vết
nhọ dầu trên ngực Liêm một cách âu yếm. Liêm không còn thể hiểu nổi mình, khi Hải
hỏi: Ai đấy? Liêm đáp: Người nhà bị bắt. Trưa tôi không về ăn cơm. Trưa vợ Hỗ
đòi Liêm đưa vào hiệu phở, nói cho biết chưa được tin tức gì rõ rệt, chiều chị
sẽ trở lại nữa, rồi săn hỏi về công việc và chỗ ở của Liêm và bảo: “Chú đừng
làm gì bậy. Chú mà bị bắt nữa là khổ tôi” Trong hai tiếng đồng hồ, Liêm phải dẫn
vợ Hỗ lang thang trong những phố rợp, thỉnh thoảng ngồi lại trên những thềm nhà
cửa đóng. Vợ Hỗ băn khoăn không hiểu lý do bị bắt của chồng. Sáng hôm qua anh
lên phố không thấy về và sáng nay có người xuống cho hay tin anh bị bắt. Đến
chiều vợ Hỗ vẫn đón Liêm ở đầu ngã tư gần nhà in. Thoáng nhìn thấy bóng, Liêm bảo
Hải: Tối nay tôi không về nhà, cậu nói với bà cụ cho tôi. Và Liêm đi tới, trong
khi vợ Hỗ quay lưng lại làm như không chú ý. Chị nói: “Vẫn chưa có tin gì cả”
“Bây giờ chị về đâu?” Không có tiếng đáp, Liêm vẫy một chiếc xích lô và kéo tay
người đàn bà lên. Mùi hôi nhễ nhại trên tóc cổ lưng, hơi nóng như lửa chiều. Phải
có một chỗ để nằm, một chỗ kín đáo để nằm. Liêm hỏi: “Đi đâu?” “Đâu cũng được”.
CHƯƠNG III
– Chú Liêm này,
tôi có mang.
Câu nói không gây
ngay xúc động, lẫn trong tiếng ve sầu kêu ran theo hàng cây dài ngoài phố vắng
trong buổi chiều đã thật tối. Đầu óc lười biếng, mồ hôi khô rít trên da trần,
lưng nằm ngửa trên nệm giường nhầu nhẽo nóng bức. Không một cơn gió, đám lá cây
ngoài cửa sổ với ánh điện đường mờ nhạt vừa bật lên lấp ló im phắc. Vợ Hỗ không
nói thêm và câu nói đã mất hút không còn chút vang động nào. Màu trần vôi trắng
nhiều vết hoen lang vàng khé, những vết lở lói của vôi, vỡ từ ngày nào, nhòa lần
vào bóng mờ của gian phòng. Tôi có mang, một đứa con, Hỗ bị bắt, một đứa con với
vợ Hỗ. Những ý nghĩ diễn qua lặng lẽ rửng rưng như bầu không khí buổi chiều mùa
hè trong một phố khuất không tiếng xe cộ, không tiếng trẻ con nô đùa. Người đàn
bà ngồi nhỏm lên, bới lại đầu tóc, da thịt nhễ nhại toát ra một hơi thở nồng
khó chịu; hai cẳng chống lên, đầu cúi, lưng nghiêng về đằng trước, cặp vú hơi
chảy xệ đụng vào bắp đùi. Liêm với tay, tuột đầu khỏi gối, đặt lên chiếc bụng
da căng không có một dấu hiệu nào khác lạ, hỏi: “Mấy tháng?” “Hai tháng” “Đúng
không?” Người đàn bà cười rúc một cách vô duyên, buông mình ngã sấp lên người
Liêm. “Còn phải hỏi nữa. Con mình chứ con ai”. Con mình, không bao giờ tưởng tượng
ra như thế. Rồi làm sao? Vợ Hỗ không đả động gì thêm nữa, mải lo đùa nghịch.
Liêm lạnh mình, chợt nghĩ: bây giờ Hỗ nằm ở đâu? Liêm du người đàn bà sang một
bên, “làm đau người ta, bắt đền bây giờ”, bảo: “Đi ra Bờ Hồ cho mát”. Vợ Hỗ phụng
phịu xong cũng ngoan ngoãn chiều ý. Xuống dưới đường, Liêm quay cổ nhìn vào
khách sạn trong khi vợ Hỗ cẩn thận buộc chiếc chìa cửa khóa phòng vào khăn mùi
soa. Trên tấm bảng hiệu treo một bóng điện vàng bám bụi và muỗi, trên đầu bờ
rào dăng giây thép gai với cọc sắt như trại lính. Đi vài bước bờ hè đã tối ngay
dưới bóng những cây me già. Vợ Hỗ hỏi: “Đi đâu?” Liêm nghĩ giá vợ Hỗ ở lại
trong buồng, được thong thả một mình sướng hơn. Xung quanh bờ hồ đông người dạo
mát, các quán nước đều chật khách, những chỗ cỏ tốt đều có người chiếm. Vợ Hỗ
sung sướng ra mặt, “anh ấy chưa bao giờ đưa tôi đi hóng mát bờ hồ buổi tối”, chị
ta nhìn ngắm những người qua lại tò mò. Đi qua đoạn đường sáng, bến tàu điện đầu
bờ hồ, vợ Hỗ nhìn chăm chăm vào mặt Liêm hỏi: “Thích không? Có con thích
không?” Ngồi xuống bờ cỏ bên bờ hồ, chỗ tối, Liêm gọi mua kem vừa ăn vừa nhìn mặt
nước lấp loáng đằng xa, nghe tiếng vọng của máy phát thanh từ bên kia bờ hồ. Vợ
Hỗ vẫn nói luôn miệng những chuyện đâu đâu. Thích không? Có con thích không? Tiếng
xe, tiếng chân bước, tiếng cười nói vắng dần, chỉ những quán nước còn tụ tập được
khách. “Bây giờ hết tàu điện về Bạch-mai
rồi nhỉ” “Hết lâu quá rồi”. Liêm nghĩ sợ đêm nóng bóc ngột ngạt này, giấc ngủ sẽ
bị khuấy động từng lúc vì người đàn bà, chắc chắn như thế, trong gian phòng chỉ
có chiếc giường nệm là chỗ nằm được. Vợ Hỗ phải giục hai ba bận Liêm mới chịu đứng
lên. Ở đầu ngã tư, Liêm giữ người đàn bà đứng đợi cho hai ba tên Lê-dương say đi với gái vào
khách sạn một lúc lâu rồi mới tiến tới. Vợ Hỗ lúi cúi mở khóa còn Liêm nhìn
bâng quơ những cánh cửa đóng, chữ số viết bằng sơn trắng trên gỗ. Bước chân vào
buồng, quờ quạng trong tối, Liêm có cảm tưởng vào trong nhà tù. Liêm ngồi ngây
trên giường như người mất hồn, ánh điện bật lên trơ trẽn. Vợ Hỗ đứng rửa mặt
trước tấm gương ố góc phòng mỉm cười khi lau mặt và cởi cả áo cánh mặc ngoài bỏ
nửa thân trần. Nhìn mắt Liêm, đột nhiên người đàn bà quay mặt gắt: “Cấm nhìn
người ta” rồi chạy đi tắt điện. “Bức quá, cởi quần áo ra cho mát” và trong bóng
tối tràn ngập Liêm nghe người đàn bà chậm chạp cởi bỏ nốt những gì còn lại mang
treo lên mắc rồi thong thả đi về phía Liêm ngồi. Liêm không thể cưỡng được những
cử động, cũng tự động trút hết áo quần trên người. “Như thế này có phải sướng
không”. Vào khuya Liêm nghe hàng quà rao không phân biệt được rõ tiếng dưới đầu
phố, anh lính Tây say hát lè nhè qua ngoài cửa buồng, súng nổ âm rền một góc trời
xa trong không khí lặng thinh không cản trở. Liêm chợt nhớ đến Bích, tôi về Hà-nội
đã nửa năm. Nửa năm giời, ý định trở lại Sài-gòn đã quên khuấy. Tại sao
khi ở Sài-gòn
mười năm không khi nào có cảm giác tạm bợ nhất thời, còn ở đây trong thành phố
này cứ thấy như mình bập bềnh trôi nổi? Nằm bên cạnh tôi lúc này, không phải là
anh chàng thanh niên chán đời ngày mới đặt chân xuống đất Bắc, một người đàn bà
cũng mệt mỏi rã rời và một đứa con của tôi đang thành hình trong bụng. Vì đời sống
tan nát vây quanh chăng? Bà mẹ Hải với hai đứa con trai lớn theo kháng chiến
không biết mất còn, đứa con gái mệnh yểu và ông chồng mất không kiếm thấy xác.
Và Khôi, Khôi không biết đã tìm được công việc làm chưa hay còn ở nhà Tế-Bần. Thành phố này thật nhỏ
thật xa. Hỗ bị bắt và vợ Hỗ nằm đây. Liêm đi ra cửa sổ nhìn xuống phố đang
trong giờ giới nghiêm. Một con chuột chạy nhởn nhơ ra vào ở một lỗ cống gần bãi
rác dưới ánh điện vằng vặc. Những mảnh chai nhọn cắm dài trên đầu tường. Tôi đã
trông thấy những gì, nghe thấy những gì? Tại sao thế? Ngày mai nhìn từ thành phố
này rắc rối bất trắc. Sài-gòn
yên ổn, dễ dãi và đơn giản cách xa mấy ngàn cây số. Liêm đói bụng, quay trở vào
giường, không thể ra chợ kiếm thức ăn bất cứ giờ nào như ở Sài-gòn. Trong giấc mơ, Liêm
thấy mình trở lại Sài-gòn,
gặp Hạnh và Hạnh bồng một đứa con đứng trước cửa quán, Sài-gòn chỉ còn nhà cửa đường
phố không như trong những ngày bom Nhật.
Sáng Liêm thức dậy
sớm nhưng người đàn bà còn ôm giữ lại, “còn sớm mà”, rốt cuộc đầu Liêm nặng như
khối chì đặc. Người Liêm ráo hoảnh, nổi gai trong buổi sớm không gió. “Tôi về
trước. Chị ở lại về sau.”
Như buổi sáng nào, Liêm ra khỏi khách sạn một mình, đi bộ về chợ Hôm ăn quà
sáng. Hè phố còn vắng và dơ bẩn, trời mùa hè trắng như trần nhà. Chưa đến tám
giờ đã bắt đầu thấy nắng. Ở nhà in, Hải hỏi: “Đêm qua anh ngủ đâu?” “Ở nhà người
quen. Đi tìm chỗ vận động cho cái anh bị bắt” “Được không?” “Chưa biết”. Buổi
trưa về nhà, mẹ Hải cho ăn bún chả khai trương món hàng mới của bà. Cơm nước
xong bà bỏ ngủ trưa vội gánh hàng ra phố. Gần đến kỳ thi, Hải xanh xao gầy sút
trông thấy. Vợ Hỗ vẫn lên xuống, bụng mang mỗi lúc thêm rõ, Hỗ vẫn chưa được thả.
Ngày nào Hỗ về không còn được tính tới nữa. Chủ nhật Liêm về nhà Hỗ ở cả ngày,
vợ Hỗ bảo: “Chú về nhà cho có đàn ông để họ đỡ bắt nạt tôi, nhà thương đang muốn
đuổi nhà”. Liêm cười, nghĩ cứ tình thế này kéo dài không biết mình sẽ đi đến
đâu. Hàng xóm chắc cũng biết chuyện, Liêm có ngượng nhưng thấy vợ Hỗ thản nhiên
cũng yên tâm. Một hôm trong bữa cơm, mẹ Hải bảo: “Cả hai cậu dạo này đều xanh đấy.
Phải giữ sức mới được”. Liêm soi gương chỉ nhận thấy mình già hơn nửa năm trước.
Hải thức đêm mỗi lúc một khuya hơn, mặt mày hốc hác ngơ ngác trông tội nghiệp.
Liêm khuyên Hải không nên cố gắng quá và Hải nói: “Tôi phải học như đi ăn cướp
vậy. Không cách nào khác hơn anh tính nếu tôi muốn thoát khỏi cảnh ngộ của
tôi”. Liêm tự hỏi: còn tôi làm cách nào thoát khỏi được cảnh ngộ của tôi? Làm
cách nào? Cuối cùng vợ Hỗ cũng phải dọn nhà ra khỏi nhà thương, thuê một gian
nhà lá ở Kim-mã
trong một ngõ dốc bên đường tàu điện Ô Cầu Giấy. Con đường nhỏ lát gạch như đường
vào làng chạy giữa những bụi chuối, bụi dứa dại xanh mát, nhà ở trước một ngôi
từ đường đổ nát vàng bị các gia đình lao động xâm chiếm chia nhau thuê từng buồng
trừ gian chính cửa vẫn đóng ỉm bụi bậm. Về đây Liêm không còn sợ ai dòm ngó và
mỗi tháng ngoài bốn trăm đưa cho mẹ Hải, Liêm còn phải đưa cho vợ Hỗ ba trăm. Mặc
dầu vợ Hỗ khuyên Liêm nên về ở chung đỡ tốn, Liêm không chịu, bảo: “Thế nào anh
ấy cũng còn về chứ”. Nhưng Liêm vẫn lui tới thăm nom, sờ tay lên bụng người đàn
bà nghe cái thai mấp máy. Và chờ đợi những ngày tháng sắp tới trong tâm trạng ù
lỳ buồn bã. Những ngày tháng sẽ tới trong thành phố ngợp ngụa lạ hoắc mà khi trở
về tôi tự nhận là quê hương của mình.
✳
Nắng chợt tắt
nhanh, gió thổi là trên mặt cỏ. Chỗ Đồng nằm là khoảng cỏ thoải nhiều gốc cây
giữa hai con đường, dưới lưng một lớp lá khô ròn. Trong đám cỏ nhìn sát được
phóng lớn, những con kiến đen bóng chạy loăng quăng không thành đường, một con
leo bò dọc theo cánh tay duỗi, gân phồng ở dưới lần da, buồn buồn. Thật xa cùng
trên giải cỏ, chỗ nghiêng vòng thấp hơn, hai thiếu nữ áo trắng ngồi trên hai
chiếc nón mở ngửa dưới hai gốc cây đối chếch bứt cỏ chuyện trò. Họ vừa từ trong
Nha Học-chính
ra, dựa xe dưới đường thấp lên ngồi đấy; có lẽ họ đi lấy phiếu báo danh, lát nữa
họ sẽ vòng xuống Cổ-ngư
ăn bánh tôm. Buổi chiều êm mát lười biếng trong vườn, nắng không lên nữa. Gió
đang bắt đầu bốc lên cao, trên các con đường không tiếng động nào khác hơn những
chiếc lá khô cuốn chạy. Sắp mưa, những trận mưa rào giông gió sẽ dập tắt mùa
hè. Mùa hè như tiếng cười trong sắp sửa trôi xa, đôi bạn gái đã đi khuất sau
các gốc cây lên xe đi. Hai chiếc xe, bàn đạp quay ngược từng nửa vòng một, từ từ
qua ở con đường dưới họ im lặng cùng quay đầu nhìn lên chỗ mình đang nằm. Hắn
đang mơ mộng gì? Hết cả hình ảnh để mơ mộng, trừ nỗi cô đơn gói kín. Nỗi cô đơn
của một thời gian quay vòng tròn, trói khít dần. Éternel retour. Đồng đứng
lên phủi quần áo, dắt chiếc xe đạp dựa gốc cây, đẩy lên đường trên, đạp ngược dốc
về nhà. Dốc là acte sexuel, mặt hồ xanh biếc dưới xa tít nhìn ngắm hằng
ngày là cái bộ phận của người đàn bà, vừa vượt dốc vừa thở và nhìn Hồ Tây; Trí
óc đang hư hỏng dần như cái máy chạy không. Gió thổi ngược ào ào như trận mưa
đã tới, chiếc xe đạp chao nghiêng muốn đứng im. Đồng đứng nhỏm lên khỏi yên xe,
hai tay nắm chặt, môi bậm lại, nhấn bàn đạp. Tiếng người gọi nhau ơi ới trong
các sân nhà lan truyền, cây gạo Quảng-bá đã chìm mau vào màn mưa trắng. Đồng đẩy
xe chạy mau xuống lối dốc sau nhà, đập cửa thình thịch, chỉ nghe tiếng thở dồn
lùng bùng trong tai. Cánh cửa bật mở tự động, Đồng nhấc xe qua cửa, nhảy lên
yên đạp lách qua các gốc cây, đầu cúi thấp tránh những cành cây xòa chắn ngang.
Vào đến sân gạch tiếng chó sủa quẫng ngoài cổng trước cùng tiếng mưa bắt đầu
rơi lộp độp trên ngói, náo động. Đồng cho xe chạy thẳng vào nhà ngang, chỉ gặp
u già đang loay hoay xếp mấy mẹt cau khô vừa bưng cất. Đồng nghe tiếng gọi của
chị Đạo ở nhà trên: Có người hỏi cậu ở ngoài cổng; chị ngồi ở bực cửa trên thềm
tay cầm quyển truyện tóc vừa gội còn rũ hong. Đồng đứng thở nghỉ mệt nghĩ: còn
ai đến tìm mình. Ai đến tìm mình nhỉ? Mẹ Đồng tay che tóc, chạy vào suýt vấp
vào hai con chó theo bén gót, mắng: Tiên nhân cha con đẻ mẹ mày… Không biết Đồng
đã về, bà lên ngay nhà trên, chị Đạo hỏi: Ai hỏi gì đấy cụ? Mưa trút ào ào át hết
mọi tiếng động khác, Đồng nhìn lên chỉ thấy mẹ đang đứng nói chuyện với chị Đạo.
Chị Đạo đứng lên, chỉ tay về phía Đồng, bà quay lại giơ tay vẫy gọi. Đồng nhe
răng sua tay lắc đầu, cố sức la lớn: Con không nghe gì cả. Bà bước ra đầu thềm
gần lối xuống nhà ngang, chị Đạo đi theo một tay vẫn cầm quyển sách, một tay vuốt
đuôi tóc, chỗ ấy ống máng đổ nước xuống ào ào dẫn vào cái bể đầu nhà. Chị Đạo
nói to: Cụ bảo… Thạch… Đồng bắc loa tay vào miệng: Để chốc nữa con lên, rồi cười
đi vào ngồi xuống cái ghế con nhặt một miếng cau trong mẹt cọ răng. U già ngửng
lên bảo: “Cậu hút thuốc nhiều quá. Tay vàng hết.” “Cả ngày ngồi một chỗ
buồn quá” “Các cậu ấy đi đâu cả không thấy xuống chơi nhà nữa. Còn cậu Thạch dễ
đến cả năm không thấy về.”
“Bây giờ người nào có công việc nấy, đâu như dạo còn đi học nữa u.” U già bỏ dở câu chuyện,
đi lại bếp ghế nồi cơm. U vừa vần nồi cơm trên bếp vừa hỏi: “Tại sao mợ Đạo ra
vào luôn được mà cậu Đạo không về chơi nhỉ, cậu Đồng?” Đồng cười: “U lẩn thẩn.
Ai người ta cho về. Mà cậu Đạo cũng sắp về u khỏi lo”. U nghiêng đầu, hấp háy
đôi mắt kém hỏi: “Sắp yên rồi hở cậu Đồng?” Đồng gật đầu, vứt miếng cau sơ ướt
ra sân. Mưa đã vợi nhẹ nhưng trời tối xầm, sans amour et sans haine, mon
coeur a tant de peine. Đèn nhà trên đã thắp, mẹ ngồi trên phản với cháu ngồi
giữa hai chân tay đang múa may. Chị Đạo có lẽ đã lên nằm ở võng. Đồng sách chiếc
nón lá của u già đội lên đầu, chạy ù qua sân, nước bắn tung tóe. Mẹ Đồng ngửng
lên nói: “Cậu Thạch cho người nhắn về cậu ấy bị thương nằm trong nhà thương Bạch-mai”. Đồng khựng lại ở ngưỡng
cửa, cúi đặt cái nón xuống đất, vuốt lại tóc. Một lát hỏi: “Có nặng không mẹ?”
Bà bồng cháu đứng xuống: “Tôi cũng không biết. Mai cậu có vào thăm cho tôi đi với”
“Phòng số mấy hở mẹ?” “Vội quá tôi cũng quên không hỏi”. Đồng nói: “Mai mẹ đừng
đi, xa lắm. Để con xuống trước đã” và Đồng vào buồng thay quần áo, nằm dài trên
giường. Trên đầu giường quyển La chute de Paris, trang đầu có chữ ký của
Cảnh với An, nằm dưới cùng chồng sách. Mưa đã tạnh, Đồng cũng không mở cửa sổ
buồng, bóng tối đặc quánh dần trong mắt. Trong bữa cơm chị Đạo hỏi Thạch là ai,
mẹ bảo bạn học của Đồng. Tại sao lại đi lính cho Tây? Cậu ấy bị động viên. Bao
nhiêu người bị động viên đều trốn, sao cậu ấy không trốn? Chị Đạo nhìn hỏi Đồng
và Đồng chỉ cười. Không có ai thương nó cả, đáng đời nó, nó tưởng mình là anh
hùng, anh hùng theo cái kiểu của nó. Nếu Thạch chết? Mai tôi xuống đến nơi nó
có thể chết rồi. Sau bữa cơm Đồng vào ngồi trước bàn viết, lật quyển sổ ghi những
ý nghĩ vụn vặt hằng ngày từ khi đi làm. Câu trơ khấc, cộc lốc không nhớ được những
cảm xúc phát sinh; những câu thơ chép lại, ý tưởng không đầu đuôi. Tôi già hay
tôi trưởng thành? Trưởng thành là một ý thức, ý thức về mình về người và về sự
vật một cách rõ rệt. Tôi không làm gì được cho Thạch và nó cũng bất cần. Đồng
lên giường đắp chăn nghe mưa bắt đầu rơi trên mái.
Buổi sáng trời
trong mát mẻ. Đồng dắt xe ra ngõ, mẹ Đồng gọi với theo hỏi có tiền mang theo
ghé chợ Đồng-xuân
mua cam cho Thạch. Đồng dựng xe trước cổng, quay trở vào bảo: “Cụ có tiền thì
cho con thêm cũng được.”
Bà mần mò mở cái túi vải đựng tiền, đưa cho Đồng một trăm, dặn dò: “Cậu nói tôi
sẽ xuống thăm cậu ấy” Đồng cười khì: “Sợ nó chết mất rồi”. Bà mắng: “Cậu chỉ độc
mồm độc miệng” Đường nhựa còn ướt như xe phun nước vừa đi qua. Xe đạp nhẹ hơn
ngày thường, cây lá xanh tươi rậm rạp. Đường Cổ-ngư hàng phượng đỏ ối bên
bờ nước thẫm. Còn lâu nắng mới lên. Biệt thự gia đình Nga không thay đổi, im lặng
thâm nghiêm, các cửa sổ mở rộng, sau những đám lá trong vườn. Đồng tạt vào chợ
Đồng-xuân,
mua nửa cân cam, đèo sau xe và đến hiệu ảnh xin phép nghỉ. Cúc bảo: “Anh cứ đi.
Tôi sẽ nói lại với chú tôi”. Cúc mặc áo dài xanh nhạt, nàng cũng vừa đến, mặt hồng
hào khỏe mạnh hơn ngày mới hồi cư đến tìm ông chú để xin được giúp đỡ. “Cô phải
trông hộ tôi mệt đấy” “Không sao. Thứ bảy, chủ nhật anh giúp lại tôi. Tuần này
tôi cũng có việc bận” Đồng bặm trợn đùa: “Hẹn với ai thế? Cô dạo này trông đặc Hà-nội
rồi đấy”. Cúc cười không tỏ vẻ khó chịu, cặp mắt liếc tránh vào phía trong. Tại
sao không yêu Cúc nhỉ? Đồng nhớ trong một nhịp rung mau tâm trạng của người mới
lớn, khoan khoái thảnh thơi. Tôi có thể làm thơ được. Và bây giờ thì sẽ đọc những
bài thơ tình cho Cúc nghe, không giấu giếm sợ hãi để rồi ném theo dòng nước cuốn.
Trên đường xuống nhà thương, Đồng đạp xe thong dong, từ lâu rồi, từ ngày Nga
đi, mất cái thú đi chơi các vùng lân cận thành phố. Những ngày tháng chật hẹp,
bất giác nghiền ngẫm một cách âm thầm. Con đường tàu điện ngắt lưng chừng giữa
một khoảng đồng trống. Gió còn lùa nhưng nắng bắt đầu hé. Sau lũy tre xa, tiếng
còi tàu Văn Điển mất hút. Xuống đến cổng nhà thương, Đồng mới nghe mệt rã rời.
Gửi xe ngoài cổng, Đồng hỏi thăm, đi lòng vòng đến mười lăm phút mới tìm ra chỗ
Thạch. Trong phòng hai giường, Thạch nằm quay đầu nhìn ra cửa sổ, một chân bó bột
treo đặt trên một mảnh gỗ, Thạch như chợt thức giấc mở mắt nhìn Đồng và mỉm cười.
Đồng ôm gói cam, đứng ngẩn ngơ quan sát bạn, nó không chết. Giọng của Thạch trầm
yếu hơn lúc thường. Thạch chỉ Đồng kéo chiếc ghế sơn trắng pha màu xanh loãng đến
ngồi gần. Đồng hỏi: “Thấy thế nào?” “Đỡ rồi. Đợi tuần sau tháo bột là xong. May
không phải cưa là phúc. Hai hôm đầu mê man chẳng biết giời đất. Cậu nhận được
tin hôm nào?” Thạch giẫm phải mìn ở Hưng-yên, được trực thăng chở ngay về Hà-nội,
khi tỉnh là yêu cầu báo tin cho Đồng biết. Thạch nói đùa: “Làm gì mua quà như
đàn bà đến thăm chồng thế.”
“Của bà cụ. Bà cụ sẽ xuống thăm cậu” Đồng nhìn quanh gian phòng, người nằm giường
bên bó kín ngực và băng quấn quanh đầu che cả mắt. “Hắn có lẽ mù”. Đồng ngửi
mùi ê-te
phảng phất, mùi y dược sực nồng, chóng mặt. Đáng lẽ chỗ của tôi phải ở trong
nhà thương này, cái không khí yên tĩnh biệt lập một màu trắng xóa giống như những
ngày tôi đang sống, hợp với tôi. Ở đây lắng nghe bệnh trạng của mình, tha hồ đuổi
theo những ý nghĩ, tưởng tượng.
“Có tin tức gì của
Cảnh với An không?” Đồng lắc đầu, nếu nó không bị thương, nếu nó chết ngay tức
khắc, tôi cũng chẳng hay biết. “Còn tình hình thế nào?” “Tình hình. Có gì thay
đổi đâu. Cậu biết hơn tôi chứ” Thạch quay nghiêng mặt ra ngoài một cách khó
khăn: “Từ ngày đi lính như mù mắt. Chẳng hay biết chuyện gì cả.” Đồng sực nhớ cuộc gặp gỡ
với Nghiêm và nói: “Cách đây một tháng tôi có gặp Nghiêm. Nhớ Nghiêm không? Có
nghe hắn nói chuyện chính trị. Hắn bảo tình hình sắp sửa có nhiều chuyện lạ.
Chiến tranh Đông-dương
sẽ phải chấm dứt bằng hòa ước như Cao-ly và có thể mình cũng bị cắt đôi chia cho
hai phe giống như Đức với Cao-ly.
Ranh giới sẽ rõ rệt. Tình hình thế giới đẩy đến như thế. Hắn có hỏi thăm tôi về
các cậu và bảo chúng mình nên hy vọng. Thời cơ sẽ đến với những người đang ở
ngõ bí.”
Thạch đưa tay xuống gãi chân hỏi: “Nhưng hắn, thái độ của hắn vẫn mơ màng như
cũ hả? Vẫn cái lịch sử của dân tộc Việt nhai mãi hả?” “Hắn nói mình nghe, tôi
cũng chẳng hỏi thêm. Cậu nghĩ thế nào?” “Lâu lắm tôi hết nghĩ rồi. Nghĩ cũng vô
ích, vô ích một cách ghê gớm. Nói chuyện cậu đi” “Tôi, chuyện tôi. Chẳng có gì
đáng nói. Không còn cả chuyện yêu đương nữa”. Đồng tự chế riễu mình, nhăn mặt
nhíu mày, Đồng hỏi: Hút thuốc được không? và rút châm cho Thạch một điếu, nhặt
một chiếc hộp các-tông
để trên đầu giường làm gạt tàn. Không ai vào thăm Thạch, hắn sẽ phải nằm cả tuần
lễ như thế này, với bô lót dưới mông, điều dưỡng giúp cho ăn uống, thay quần áo
“Mai tôi phải đi làm không xuống thăm được. Cậu cần gì không?” Thạch muốn có sách
đọc, những sách gì Đồng đang đọc. Trời bên ngoài nắng lớn, Đồng ngại trở về, xuống
trước cửa nhà thương ăn cơm trưa rồi lẻn trở vào với Thạch. Thạch mệt, nhắm mắt
ngủ chập chờn chốc chốc lại hỏi Đồng một câu vu vơ, Đồng cũng ngồi ngủ gật trên
ghế. Buổi trưa không cả tiếng chân người ngoài hành lang, nghe rõ tiếng một con
nhặng vo ve lọt vào buồng bay quẩn cao ở trên trần, tiếng ve kêu ran ở hàng cây
lấp sau dãy nhà song song đối diện. Thạch tỉnh táo hoàn toàn từ lúc nào và cũng
như đang dỏng tai nghe ngóng tiếng động trưa nắng trong bệnh viện. Đồng bỗng
nói: “Ngồi ở nhà thương gần người bệnh, tôi cứ nghĩ đến truyện của Tchékov”. Thạch
hỏi: “Có ở nhà không? Cho tôi đọc Tôi chưa đọc Tchékov”. Ý tưởng bất chợt đến Đồng
nói: “Nhìn cậu, nghĩ đến bọn mình, tôi thấy giống như bọn thanh niên Nga hồi thế
kỷ 19 mà Tourgueniev tả, idéalistes, utopistes mỗi đứa một cách.
Đọc Gogol, Dostoïevski xong mới hiểu nổi Tchékov. Tchékov như sự rớt xuống tầm
thường hay sự trở về đời sống hằng ngày cũng thế. Tôi chắc là cậu sẽ không
thích Tchékov. Chỉ có một điều khác là bọn mình không phải là bọn aristocrates”.
Thạch cựa quậy, chân bị đụng mạnh, nhăn mặt kêu khẽ và nhắm mắt đợi cơn đau dịu
xuống: “Chắc không? Có chắc mình không phải là một bọn aristo không? Tôi
nghĩ có khi mình là bọn aristo mới của cái xã hội đang phân hóa. Cậu có
thể được chấp thuận vì cậu là poète, hả, còn như thằng An hay tôi hay thằng Cảnh
hả, nous sommes condamnés à mort, condamnés à se détruire… Tôi có ý nghĩ
ấy từ lần trước khi tôi đưa một tên đồng đội về nhà thương này, gặp cái bọn
cùng lớp với mình nội trú ở đây. Tôi nhìn bọn chúng, vẻ quan trọng của chúng
trước đám bệnh nhân và thấy chính mình cũng có thể trở thành như thế. Chỉ một
vài năm nữa thôi, nếu không có gì thay đổi, hả, cậu sẽ là poète nổi tiếng
của nước này và ở mọi ngành khác đi đến đâu cậu cũng gặp bọn quen với cậu từ những
năm còn đi học. Mình không phải là aristo còn là gì nữa? Cậu có thể nguyền rủa
chúng nó, chúng nó có tức cũng chỉ cười, car nous sommes des amis, quoi?
Thạch mở mắt, nhếch mép cười hỏi: “Cậu có can đảm gọi tôi bằng phản động không?
Không, chắc chắn là không. Chúng mình đồng lõa. Tôi hiểu rõ như thế. Cách đây mấy
tháng tôi phải đứng dàn chào đón các phái đoàn chính phủ đến quan sát mặt trận
có ông bố thằng An. Ông ta bắt tay tôi, nhìn tôi hồi lâu như cố nhớ, rồi ông ta
hỏi: Mobilisé? Oui. Thiếu úy trước ở Hà-nội? Tôi bảo: Không, tôi chưa hề ở Hà-nội.
Ông ta đã nhìn thấy ở tôi cái dấu hiệu nào đó của sự đồng lõa với ông: cái
marque Hà-nội. Cậu thấy không? Một ngày nào cậu cũng sẽ bị chúng nó bảo: À, thằng
Đồng ấy à, cùng promo đấy mà, biết nhau quá. Cùng lắm có ghét cậu chúng
cũng chỉ bảo: nó “tốc-kê”. Hòa cả làng.” Đồng rung rung lưng ghế,
tưởng như bọn An với Cảnh cũng có mặt trong buồng: “Mà tôi đã bảo đời nào tôi
trở thành poète được. Jamais”. Người bệnh cùng phòng rên rỉ, Thạch
bấm chuông gọi: “Cô y tá săn sóc bọn này khá lắm. Để cậu xem. Hắn bị cùng một
lượt với tôi. Đêm nó rên nghe mới sợ”. Cô y tá vào đến bên giường Thạch, trong
khi Đồng ra đứng tựa cửa sổ, lên tiếng hỏi: “Thiếu úy cần gì?” Thạch bảo: “Cô
xem hộ tên kia. Vừa nghe nó rên.”
“Ông thấy trong người thế nào? Ông uống nước không? Tối rồi ông nên ngủ cho khỏe”
Đồng cười thầm, trời nắng dịu trong, quay mình nhìn cô y tá đang cho bệnh nhân
uống nước. Ngày vẫn còn dài, Đồng lại ngồi xuống ghế, bóc cam cùng ăn với Thạch.
Thạch như quên lửng câu chuyện đã qua, nói chuyện khác: Những cái chết vô nghĩa
hằng ngày trước mắt, cảnh tang tóc khi ruồng trong các làng bỏ ngỏ, những cơn
hung bạo của bọn dưới tay phải chấp nhận, đêm tối bơ vơ rình rập và bị rình rập.
Cậu không thể tưởng tượng đến được. Cái nguy là tôi bắt đầu quen. Nằm đây nhớ mới
chết. Tôi cũng mong như tên Nghiêm nói chấm dứt cho xong xem mình thế nào”. Đồng
đưa khăn tay của mình cho Thạch lau miệng bảo: “Cái gì rồi cũng quen. Tôi thì bắt
đầu quen với cái đời ngày hai buổi đi làm đều đặn. Không biết bây giờ thất nghiệp
thì sẽ ra sao nữa”. Vào khoảng bốn giờ Đồng từ biệt Thạch và nói: “Lúc nào tôi
rỗi, tôi sẽ vào hả. Đừng buồn. Cần gì nữa không?” Thạch dặn: “Cậu gửi cho tôi
mượn Tchékov”.
Trên đường về, Đồng
rẽ vào đường Cổ-ngư,
ngồi bên hồ Trúc-bạch
nhìn những lưng nhà lô xô men bờ mạn Quan-thánh và trong Ngũ-xã. Tôi đang ở phía sau của
thành phố, thành phố mà Thạch cho là một dấu tích tủi hổ phải từ chối. Những giọng
cười đùa trong trẻo phía xa, những cánh buồm trắng lửng lơ, những chiếc
périssoires ở ngoài khơi hồ Tây… cả buổi chiều mùa hè quang đãng đang nhẹ bay
này cũng đều là tội lỗi như những xúc cảm của tôi. Quá khích, nó vẫn là đứa quá
khích. Lẩn quất ở ngoài hay ở trong những vang vọng quen của những câu thơ muốn
thành hình, nhưng tôi nhất định không viết, và chỉ chốc lát sẽ tan hút vào đáy
sâu của bản thể và bản thể sẽ tiêu mòn cùng ngày tháng. Jamais. Đồng bước
vào nhà, cảm tưởng như đã đi vắng xa lâu ngày, phải trả lời những câu hỏi săn
đón của mẹ. Sau bữa cơm Đồng chỉ dẫn đường đi cho bà và suốt buổi tối bà loay
hoay sửa soạn làm giỏ như ngày hôm sau đi lễ đền chùa nơi xa. Chị Đạo bảo: “Để
mai con đưa cụ đi luôn thể cho biết. Cho cả cháu nó đi chơi nữa.” Đồng bỏ vào buồng nằm
nghỉ, giấc ngủ đến thật mau, bóp siết đằng sau lưng ê ẩm rời rã, Đồng không kịp
dậy mắc màn.
✳
Mùa hè đã hết. Những
trận mưa rào cuối mùa không còn. Đêm tối vắng bặt tiếng ếch nhái trong đầm ao,
bắt đầu nghe gió thổi nhẹ ngoài những bãi trống lùa vào nhà lay động màn ngủ và
ngọn đèn dầu soi bài học cho Hải. Đã gần tuần lễ không xuống Kim-mã, Liêm như quên hẳn vợ Hỗ
và cũng không thấy chị lên tìm ở nhà in. Liêm ngại trông thấy cái bụng đã
trương phềnh, dáng điệu uể oải mệt nhọc của người đàn bà. Trong giấc ngủ Liêm
nghe chập chờn tiếng đọc thì thầm hoặc tiếng ho húng hắng của Hải cùng tiếng trở
mình thở dài của bà mẹ. Thường khi bà cụ hỏi: Đi ngủ chưa con, và Hải vừa đập
muỗi dưới chân vừa trả lời: Chưa mười hai giờ mà mẹ. Buổi sáng ngày Hải đi thi,
hai mẹ con dậy từ tờ mờ sáng. Bà đưa tiền cho Hải, nói với Liêm: “Hôm nay tôi
khao hai cậu ăn phở. Anh đi ăn phở cùng với em cho vui”. Liêm đèo Hải trên xe đạp
của Hải ra phố lúc trời còn nhọ nhem. Hải nói: “Anh đèo tôi đi một vòng chơi
cho thoáng lấy tinh thần, chốc nữa vào làm bài”. Và Liêm đạp xe ra đường, bờ
sông. Dải đê cao cỏ tối chạy dài như một bức tường. Đèn đường còn thắp nhưng
ánh sáng tỏa xuống mặt nhựa đang tan. Gió từ sông thổi vào gợn lạnh. Đến Cột Đồng-hồ, Liêm vòng lại xuống bờ
Hồ. Hải gõ tay xuống ghi đông làm nhịp hát:
Liêm rẽ vào đường Trường-thi,
nhìn vòm cây xanh mát dài đến cuối tầm mắt. Hải chun miệng thổi sáo vang lừng.
Những bông hoa ngày mai, đón tương lai vào tay. Những xuân đời mỉm cười ca hát
lên… Ngưng hát Hải quay ngước lên nhìn mặt Liêm nói: “Tôi đỗ kỳ này, tôi sẽ phải
tìm việc khác chiếm ít thì giờ hơn để học tiếp. Tại sao anh không cố học thêm?
Liêm bỏ một tay sờ hàm râu lởm chởm một ngày không cạo: “Tôi già rồi. Tôi bỏ học
hằng chục năm nay. Chỉ tại cô Ái-Liên.
Hôm nọ thấy ảnh in trên báo cô ấy bây giờ già cú đế. Cậu còn trẻ, nhiều hy vọng
lắm.”
Hải gập người xuống, khuỳnh hai khuỷu tay chống lên ghi-đông nhìn thẳng trước mặt:
“Mai kia xã hội mới, cách mạng rồi, anh sẽ phải học. Được học là sướng nhất. Đi
học không còn là đặc quyền của bọn nhà giàu”. Liêm bảo: “Cậu trông tẩm ngẩm thế
mà ghê hả”. Liêm dừng xe trước cửa hàng phở gần chợ Hàng Da, Hải khóa xe cẩn thận
trước khi vào. Trong hàng phở, Hải không nói thêm gì nữa. Liêm vừa ăn vừa ngắm
Hải cũng vui lây vẻ hy vọng cương quyết. Liêm nghĩ: mình đã dại bỏ về Bắc, chỉ
cần một lòng tin và hoạt động với những người thân sẽ có đủ mọi thứ. Liêm không
hiểu mình đang buồn hay vui. Ở hàng phở ra, Liêm đèo Hải trở lại trường thi. Vẫn
sớm, bọn học sinh còn tụ tập trên vỉa hè trước cổng trường. Liêm đứng cùng với
Hải dưới gốc cây sát vệ đường, Hải nhìn những đứa học trò khác qua lại có bạn
bè bằng đôi mắt xa lạ. Hải nói: “Anh thấy không. Tôi đi học như tên ăn trộm lẻn
được vào nhà.”
Liêm cười xòa: “Thế mới hay chứ.”
Khi tiếng trống nổi trong sân trường, Hải dục Liêm về nhà in cho kịp và dặn:
“Hôm nào thi xong tôi sẽ nói chuyện với anh lâu hơn”. Liêm đi bộ về nhà in
trong buổi sáng mùa thu mới chớm với nhiều cảm xúc mới lạ dễ chịu. Tâm thần thoải
mái, những nặng nhọc của ngày hè đã tan. Hà-nội khoác một bộ mặt quyến rũ hơn
trong màn trời và cảnh phố. Trong khi làm việc không còn phải cởi trần, ấm nước
chè tươi khi nguội lạnh có mùi vị đặc biệt, và những hơi thuốc lá đầu tiên
trong ngày thơm dịu. Buổi trưa ăn cơm nhưng giấc ngủ ngắn ngủi âm u mệt mỏi như
trời đất. Tối phải đắp chăn đơn, Hải trong mấy ngày thi cũng ngủ sớm hơn thường
lệ, bọn trẻ cũng vẫn reo cười khắp xóm nhưng không còn thức khuya như những đêm
mùa hạ. Hải đỗ, bà mẹ mừng chảy nước mắt. Anh em trong nhà in khao Hải một chầu
Siêu-Nhiên
và xi-nê.
Mọi người uống thật say và khi kéo nhau ra khỏi hiệu mì, ông già San chập choạng
ôm lấy Hải suýt ngã xuống cống bảo: “Đâu con rể lại đây với bố.” Cả bọn được mẻ cười thỏa
thích khi ông San đẩy lưng bắt Hải phải đi vào ngõ hàng Giầy. Cái ngõ hẻm chật
tối bẩn thỉu nhiều lính Tây và những ả mặt phấn, Hải kêu trời nhưng cả bọn phụ
họa thúc dục “bố vợ cho con đi chơi cho biết mùi đời” khiến ông San không buông
tha Hải. Chỉ khi một tên Tây đen đang đứng giữa ngõ chắn lối nắm lấy Hải, ông
San sì sà sì sồ đối đáp bị nó xô ngã, và dẩy ép Hải vào trong tường, mọi người
mới tỉnh rượu. Tuất nóng mắt xông vào đánh thằng Tây đen, cả bọn vội ùa theo trợ
lực. Cả ngõ náo loạn: bọn lính trong các nhà chứa đổ ra kéo theo bọn gái điếm,
bọn con gái trở mặt quay đánh lính Tây thêm mấy bác xích-lô bỏ xe chạy đánh vào
đánh hôi. Liêm bị một chiếc đòn gánh nước phang vào lưng tỉnh hẳn, bỏ chạy ra
khỏi ngõ, mua vé chui vào trong rạp tuồng ở phố hàng Bạc. Giờ đồng hồ sau, Liêm
bỏ ra khỏi không khí nồng nực hơi người, phố xa đã thưa vắng hồ Gươm đang thiếp
ngủ trong heo may. Hải đã về đến nhà, mắc màn ngủ. Bà mẹ Hải hỏi: “Các anh làm
gì nó thế?” Liêm đáp: “Không có gì.”
Sáng đến nhà in vắng mặt ông San và Long, Tuất sưng vếu một bên mắt, Ngọc bị một
vết trầy bầm máu ở cánh tay phải. Hải bầm một bên gò má, chỉ có Liêm không mang
dấu vết gì nhưng đau ê ở bả vai. Một lát cô con gái ông San đến báo cho Ngọc biết
bố mệt cảm không đi làm được. Tuất cười khúc khích trong góc nói khẽ với Hải:
“Chỉ tại cô ấy thôi” Hải nghiêm mặt lừ mắt. Mãi tới mười một giờ Long mới đến,
hắn bị giữ ở quận cảnh sát “suýt nữa thì bị chở xuống trại Ngọc-hà, tôi phải cãi mãi là
chưa đến tuổi”. Long đang nói chuyện huyên thuyên, Liêm nhìn ra cổng nhác thấy
bóng vợ Hỗ. Anh thầy cò gọi: Anh Liêm ơi. Liêm còn cầm theo bản vỗ mo-rát ra
đưa cho anh này, nói vài câu bâng quơ, xong mới đi ra cổng. Liêm giật mình khi
nhận ra Hỗ đứng lấp sau cột gạch ngoài vỉa hè. Trông anh già và gầy nhom, mắt lờ
đờ ngơ ngác. Hỗ nói: “Tôi mới được ra ba bốn hôm nay. Đợi không thấy chú xuống
chơi. Nhân tiện đi qua ghé thăm, cám ơn chú. Nếu không nhờ chú giúp đỡ trong thời
gian tôi bị bắt, vợ tôi lại có mang, thì chắc là…” Hỗ lúng túng không nói tiếp,
mắt anh thành thực đáng thương. Liêm ngượng ngập đáp: “Có gì đâu anh. Anh cũng
đã giúp tôi nhiều lắm.”
Hỗ bảo: “Chiều chú về nhà ăn cơm với vợ chồng chúng tôi.” Liêm chỉ biết nói theo:
“Vâng”. Trước khi quay đi, vợ Hỗ ân cần: “Chú xuống sớm đừng để vợ chồng tôi đợi.” Trong mắt người đàn bà
không tiết lộ tình ý gì. Liêm trở lại bàn đứng làm việc ngơ ngác như người mất
hồn. Buổi chiều, Liêm mượn xe đạp Hải nói thác phải đi ăn giỗ tối về cho tiện.
Sau mấy tháng bị giam Hỗ đổi hẳn tính trông thấy, thâm trầm kín đáo hơn xưa.
Anh nói anh chưa biết làm gì, ít nhất cũng phải nằm dưỡng tinh thần nửa tháng mới
lo kiếm việc được. Anh cầm bát đũa ăn cơm, không còn đòi dùng dao phống-sét như ở dưới nhà
thương, không thấy chê bai cách ăn ở thiếu vệ sinh của người Việt Nam. Vợ Hỗ chốc
chốc liếc Liêm mỉm cười âu yếm một cách tự nhiên như người trong gia đình cũng
săn sóc một người thân. Liêm hoang mang không biết nói năng cách nào, chỉ ngồi
im nghe, thỉnh thoảng nghe giọng cười lạc lõng của mình nổi lên. Lúc Liêm ra về,
trong ngõ xóm đêm như đã khuya, dắt xe đẩy trong bóng tối rậm rịt cây lá. Lên đến
trên tường Liêm ngơ ngác bên đường tàu điện trống nhìn những căn nhà lụp xụp tối
om ở ngã ba Kim-mã,
hàng điện thẳng chấp chới dẫn vào trong phố. Gió thổi từ ô vào vi vút, trên cao
phía sau lưng những đám cây cao trên đồi Giảng-võ rào rào. Bây giờ tôi phải
làm gì? Liêm tự hỏi. Tôi phải làm gì?✳
Làm gì? Bỗng dưng
nhớ mùi sình lầy trên một bờ sông san sát nhà sàn ven thành phố Sài-gòn, mùi nồng nặc trong
không khí sau những trận mưa rào ngắn giữa trời nắng; nỗi nhớ đột cuồng như một
sức đẩy mau trong máu, dưới thịt và tan hòa cũng nhanh. Gió khỏa sau lưng, tuôn
về trước chạy theo một đường phố um tùm bóng cây, lấp ló những ngọn điện, không
người. Bờ tường đá cao chạy dài, vây những khóm cây rậm cái tháp tối của một
nhà tu kín, lầm rầm huyễn hoặc tiếng cầu kinh đông người, tiếng vọng mong manh
của một thế giới khác, bay biến gờn gợn như gai ốc trên cánh tay vén trần. Tiếng
hát ầm ĩ trống trải của hai ba tên lính tây say ngả nghiêng trên một bờ hè khuất,
phía bên kia vườn hoa sáng trơ những bãi cỏ, lối đi, ghế đá; chúng tiến về phía
nhà khiêu vũ, ngọn đèn hiệu ngoằn ngoèo xanh yếu như lửa đom đóm, tiếng nhấn
trên vòng quay bàn đạp trùng nhịp với điệu hát cổ của một thời vẫn được nghe
lính Lê-dương
hát ở tỉnh nhỏ. Mùa thu đó, nỗi bâng khuâng mệt mỏi tách lìa váng vất, thành phố
như im tiếng khắp lượt chờ đợi vu vơ. Các cửa hiệu buôn bán cũng đang lên cửa.
Liêm mường tượng những ngày biến động cũ trên những đường phố này, cái dáng vẻ
ngây ngất triền miên mơ mộng của thành phố như bất tận. Các rạp chiếu bóng chưa
tan, đèn thắp sáng ở hành lang bên ngoài sau những màn cửa sắt đã kéo lại. Vợ Hỗ
sẽ sinh vào gần dịp Tết, một đứa con của tôi; biết đâu Hạnh đã không mang trong
bụng nàng một đứa con khác nữa. Những đứa bé một mai lớn lên như tôi trong một
khung cảnh nhất định rồi cũng bỏ đi như nhớ tiếc một điều gì xa vời tìm không
thấy.
Xóm ở không đèn
đóm, đường đất gồ ghề dội lên tiếng lọc xọc của dây xích. Gió lùa từ các hốc tối
với tiếng côn trùng. Hải bắt đầu học lại, ngồi tựa lưng trên phản, sách mở trên
hai đầu gối co, ngọn đèn đặt trên thành cửa sổ. Liêm cất xe đạp vào nhà, nghe
da mặt ướt lạnh. Hải cười bảo: “Đi ăn cỗ về mà trông anh có vẻ buồn.” Lúc Liêm đã đi nằm, Hải
bỗng hỏi: “Tối mai anh rỗi không? Anh đi chơi với tôi.” Liêm nói đi thì đi.
Trong đêm khi Liêm kéo chiếc chăn đơn lên đắp, trong một quãng thức tỉnh, nghe
một nỗi buồn vang dội như tiếng âm trong một tòa nhà cao rộng. Giọng nói của Tường
bỗng nghe thấy rồi trộn vào trong giấc ngủ. Buổi sáng ở nhà in, Hải nói với Ngọc:
Tối nay anh Liêm cũng đến. Ngọc nheo mắt cười: Tốt. Liêm hỏi: “Hai người âm mưu
gì thế? Không được đùa dai”. Ông Kiêm, chủ bút, vào đứng giữa buồng xếp chữ nói
chuyện bông đùa, nhìn Liêm xếp một tin quốc tế bằng chữ corps 6. Ông hỏi: “Nghe
nói anh đã ở Sài-gòn?”
Ông San ngồi bên cạnh đang chọn chữ đùa: “Anh ấy có vợ Nam-kỳ đấy.” “Thế hả? Có lẽ rồi
chúng mình đến vào Sài-gòn
cả thôi.”
“Tại sao thế ông?” “Có thể nước ta chia đôi. Một nửa cho Cộng-sản, một nửa cho Quốc-gia” “Thật như thế
không?” Ông Kiêm người gầy gò, xương sẩu, da mét như nghiện, mắt hấp háy sau
đôi kính cận vốn người lừ nhừ ít nói, theo lời Hải ông là bạn đồng chí cũ với
ông bố Hải bây giờ là một chính khách chờ thời. Ngày trước ông Kiêm và một số đồng
chí khác ngày nay đều trở thành các “chiến sĩ quốc gia” tên tuổi đến ăn dầm ở dề
nhà Hải, Hải còn nhỏ, không nhớ nhưng được nghe mẹ kể lại. Ông Kiêm không biết
Hải, Hải cũng không bao giờ muốn nhận những bạn của bố; Hải nói: “Thuộc về quá
khứ. Bố tôi là Việt-quốc,
còn tôi không bao giờ là Việt-quốc”.
Ông Kiêm tháo cặp kính lau mắt: “Chỉ nay mai là điều đình thôi. Như thế cũng tiện.
Ai thích quốc gia thì ở với quốc gia, ai thích cộng sản thì ở với cộng sản. Cho
dứt khoát.”
rồi cười khà, điệu cười ngắn ngủi nhạt nhẽo. Tuất hỏi: “Còn những người chẳng
thích thứ nào hoặc thích cả hai thứ họ mới tính sao đây?” Liêm nghĩ đến Sài-gòn, thấy thoáng hiện mơ hồ
tia hy vọng có cơ hội trở lại. Lúc đó… trí tưởng tượng cụt hẫng không thể phóng
tới một tương lai chưa thành hình. Trở lại Sài-gòn? Để làm gì? Ở lại đây?
Hết giờ làm việc buổi chiều, Liêm đi cùng với Hải ra phố Huế đến một cửa hiệu sửa
xe đạp và mô-tô.
Trước cửa, ngay ngoài hè, người chủ nhà đang xoay trần quanh chiếc Motobécane
ráp lại máy. Hải đứng sau lưng gọi: Anh Thái. Thái ngoái cổ cười: Chú Hải, đợi
tôi xong ngay, rồi cúi xuống vặn nốt những con ốc cuối cùng. Thái đứng thẳng
người dậy, chùi tay vào một cái dẻ lớn, nghe Hải giới thiệu Liêm, nở miệng cười
– Thái có nụ cười rộng rãi chân thực – đưa cổ tay cho Liêm bắt: “À, anh Liêm.
Tay tôi bẩn quá. Mình vào nhà chơi. Ngọc đâu?” Hải đáp: “Anh Ngọc đến sau.” Thái đẩy chiếc mô-tô vào nhà; trong cửa hiệu
còn hai chiếc mô-tô
khác và dăm chiếc xe đạp, những chiếc sườn xe mới sơn treo thành hàng, hai bên
tường là tủ kính chia ô bầy các món phụ tùng. Vượt qua cái tủ kính thứ ba dùng
làm vách ngăn chia cửa hiệu với bên trong, là một căn buồng giả kê một tấm phản
và một bộ bàn ghế uống nước. Thái đi trước vào trong sân – sân gạch dài trống
chỉ có ba bốn cái vại đặt bên tường rồi đến bếp – trèo lên một cầu thang xi-măng mà tay vịn nhiều chỗ
loang lở. Buồng trên gác là chỗ ở của gia đình Thái, vợ Thái đang ngồi chơi với
hai con trên chiếc giường sát bên cửa sổ trông xuống phố. Chị bồng một đứa, dắt
tay một đứa, lặng lẽ chào khách bỏ xuống nhà dưới. Liêm theo Hải ngồi xuống bên
một cái bàn gỗ chữ nhật đặt bốn chiếc ghế trong khi Thái đi theo vợ dặn dò một
vài điều nơi đầu cầu thang. Thái trở vào, ngồi trước mặt Liêm, hỏi về những
chuyện kháng chiến miền Nam. Vui câu chuyện, Liêm nhớ được lại những kỷ niệm bất
ngờ chính Liêm cũng cảm thấy thú vị như truyện bà Năm Lửa dưới Hậu-giang tự xưng mình là Phàn
Lê Huê đội mão mang hia cầm quân xuất trận. Ngọc đến và lúc bấy giờ Liêm mới vỡ
nhẽ Hải đã đưa mình đến một tổ kháng chiến nội thành. Đó chỉ là một cuộc sinh
hoạt thường lệ để học tập đường lối. Có lẽ Hải đã nói sao đó nên cả Ngọc lẫn
Thái đều mặc nhiên coi như Liêm đã là người trong nội bộ và Liêm đành ngồi im
nghe.
Thái lấy trong giỏ
ấm một cuộn tài liệu in nhập nhòe trên giấy xấu trao cho Hải và Ngọc, nói: “Chú
Hải và anh Liêm nghiên cứu chung một tập cho tiện”.
Tám giờ hơn, Liêm
và Hải mới ra về. Ở ngoài hè, Liêm hỏi: “Tại sao cậu không hỏi ý kiến gì tôi cả
mà đưa tôi đến? Nhỡ tôi không thuận thì sao?” Hải bối rối giây lát đáp: “Tôi
nghĩ thế nào anh cũng thuận. Người lao động nào cũng có ý thức cách mạng.” Liêm mỉm cười, nhớ đến
câu đã nói với Tường: Tôi không phải sinh ra để làm cách mạng. Chưa khi nào tôi
muốn tìm hiểu sâu về cách mạng? Tại sao phải làm cách mạng? Tôi chỉ muốn được
làm việc, được sống. Không khi nào tôi quen được cái không khí của những buổi hội
họp. Tôi muốn làm những công tác cụ thể và trở về trong xóm gặp Hạnh. Nhưng bây
giờ không có các thứ ấy, hằng tuần Liêm theo Hải đến gặp Thái và Ngọc, những giờ
rảnh rỗi phải thảo luận đối đáp với Hải. Một lần Liêm bảo Thái: “Anh có thể
giao phó một công tác nào cho tôi. Tôi vẫn quen hoạt động nội thành”. Thái đáp:
“Chưa cần. Chúng ta là những phần tử nòng cốt của cách mạng. Không thể phí phạm.
Chừng nào đến nhiệm vụ chúng ta, chúng ta sẽ làm. Hiện nay hoạt động nội thành
không cần thiết nữa, đã có những người khác phụ trách. Không nên có cái mặc cảm
anh hùng cá nhân. Lúc này là lúc chúng ta được nuôi dưỡng để phát triển ý thức
cách mạng lao động”. Công tác của Ngọc và Hải chỉ là báo cáo những luận điệu phản
động nghe được trong tòa soạn và thỉnh thoảng giả vờ lơ đễnh bỏ sót một đoạn
tin tức hoặc bình luận bất lợi cho chính phủ kháng chiến. Nơi họp mặt cũng thay
đổi luôn, lúc nhà Thái, lúc nhà Ngọc, lúc trong một ngôi đền ở phố hàng Đàn,
người giữ đền là một anh đồng cô bạn học của Thái từ thời nhỏ. Ngọc ở phố Lò-đúc, cuối một ngõ hẻm, gia
đình gồm một vợ, bốn con, vợ Ngọc tóc hoe vàng, có máu lai, nên những đứa con
tuy trông lam lũ vẫn có vẻ trắng bụ bẫm. Người đàn bà mang nét mặt ủ rũ ẩn nhẫn
của Việt-nam
tương phản với những dấu tích Tây-phương
còn ghi lại trên dung nhan, chị ru con bằng những điệu quê mùa chưa thuần và
chưa một lần nghe chị thốt tiếng nói trước người lạ. Những ngày tháng ấy của
Liêm trống trải đầy ắp. Một đôi khi Liêm chẳng còn ý nghĩ, thản nhiên xuống
thăm vợ chồng Hỗ và quên mọi chuyện thắc mắc. Hỗ đã xin được một chân chào thuốc
cho một công ty nhập cảng dược phẩm, phải về các tỉnh, vắng nhà luôn. Vợ Hỗ hài
lòng về việc thỉnh thoảng Liêm trở lại thăm và những lúc Hỗ vắng chị giữ Liêm ở
lại để khoe về những biến động của cái bào thai. Có Hỗ ở nhà thì ba người ngồi
ăn cơm để nghe Hỗ thuật lại về những chuyến đi của anh. Liêm tự hỏi không hiểu
Hỗ có rõ chuyện không, hay anh cũng học theo Tây coi thường việc ngoại tình của
vợ. Vợ Hỗ ngày càng trở nên ì ạch, nặng nhọc vì bụng quá to, Hỗ tỏ ra lo lắng sợ
chị quen dạ như lần trước và thường nhắc Liêm: “Chú phải xuống luôn nhỡ tôi đi
vắng còn có chú xoay sở hộ. Đàn bà xảy một lần là đáng ngại lắm”. Liêm nghe như
Hỗ nhắc lại một bổn phận của mình, và Liêm sực tỉnh thảng thốt ngơ ngẩn, còn vợ
Hỗ lại nhoẻn miệng cười lẳng lơ, ngớ ngẩn. Vợ Hỗ thì nói: “Chú phải để dành tiền
đưa tôi cất cho. Sau này còn phải lo cho con. Ai lại con mình mà bắt người khác
chịu hết”. Người đàn bà nằm trần truồng với cái bụng phưỡn căng trắng hếu, tỏa
ra một hơi nóng trong bầu không khí ủ đặc của buổi chiều thu muộn, tiếng chuông
tàu điện leng keng tít đầu ngõ, tiếng kèn ô-tô vang khuất như gặp ống
hút, Liêm nằm câm như thóc vừa xấu hổ vừa tức giận. Nhưng Liêm không nỡ nói một
lời tàn nhẫn. Mỗi lần người đàn bà quay nghiêng, chiếc bụng ấp vào mạng sườn gồ
lên, nghe tỏ cả những tiếng lạo xạo cồn cào. Liêm chỉ còn biết mong ước một
cách sợ hãi đứa nhỏ không thể ra chào đời được hoặc một tai nạn làm cho hai mẹ
con cùng chết lúc sinh nở, Liêm sẽ được giải thoát. Liêm cũng tự hỏi những đêm
mất ngủ, Hải vẫn còn dong đèn ngồi học, tại sao không dời chỗ ở, không thay đổi
việc làm; lúc đầu tôi chỉ có ý định ở tạm trong gia đình Hải rồi tôi quên hẳn ý
định ấy. Muốn thay đổi chỗ ở, công việc phải có thì giờ tìm kiếm, tôi không còn
tự do nữa. Lúc ấy Liêm bỗng trực nhớ đến Khôi, người bạn đã gặp trên ghế đá
ngày thất nghiệp sống nhờ nhà Tế Bần, không hiểu còn sống hay chết. Rất có thể
anh đã tự vẫn vì chẳng biết phải làm gì ở đây; trong mấy tháng thành phố đã vớt
được ba bốn xác đàn ông tự tử ở hồ Bảy-mẫu, hồ Thiền-cuông không mang căn cước
trong người và một người chết còng queo một buổi sáng trong nhà Tế Bần mà người
ta độ chừng là một tên hành khất. Một tên hành khất. Liêm vẫn tham dự những cuộc
sinh hoạt của tổ, nhưng từ chối khi Thái đưa cho một tờ khai lý lịch đảng viên
dự bị mà Thái đã long trọng tuyên bố trước như một vinh dự lớn lao không phải
ai muốn cũng được. Liêm thối thác: “Lập trường tôi vẫn chưa vững. Vả lại từ
ngày còn ở trong Nam, tôi cũng chỉ hoạt động như một công dân. Tính tôi không
ưa đảng phái.”
Thái bảo: “Anh nói lập trường anh chưa vững thì tôi tin. Vấn đề ấy rồi tất cả
anh em trong tổ sẽ mang ra mổ xẻ. Nhưng còn anh không ưa đảng phái là một điều
sai lầm. Nếu anh muốn phục vụ thực sự
cho cách mạng, anh cần phải hy sinh cá nhân cho đảng.” Liêm đáp: “Các anh để
cho tôi nghĩ lại”. Sau buổi ấy, Liêm hết sức lẩn tránh câu chuyện của Hải, ngại
phải thảo luận, phải phanh phui con người mình, tôi cũng chưa biết rõ hẳn về
tôi, những ngày tới của tôi sẽ được xếp đặt như thế nào; những đuổi bắt ý nghĩ
hôm nay có thể buộc tôi phải lựa chọn, sự lựa chọn cầu âu vô nghĩa lý. Ở nhà
in, Liêm chăm chú vào công việc ít chuyện trò vẩn vơ; sau giờ làm việc buổi chiều,
Liêm thác cớ mệt mỏi không về nhà ngay đi bộ ra mạn bờ sông thơ thẩn. Gió thổi
lộng trên mặt đê, con đường vắng vẻ với cây cối bàng hoàng thảng thốt, nhà cửa
kín mít một bên hè như không người ở, Liêm nghe trong người rời rã như bị cơn bệnh
không tên xâm nhập; trong nỗi rã rời quyện theo hất hơi nhẹ bay bốc lên đầu cứng
và rỗng, tỏa ra một vùng sương ngăn cách trí nhớ và tưởng tượng len lỏi một thứ
âm thanh đìu hiu xa khuất. Thành phố như một sức hút chậm chạp không ngừng nghỉ,
một sức nặng đè không gỡ thoát. Những ngày cuối mùa thu hoang mang vẩn đục
trong cảm giác mù mịt bất định. Một hôm bà mẹ Hải nói riêng với Liêm, nhờ Liêm
khuyên Hải chỉ nên chăm lo học hành đừng tham gia hoạt động chính trị, bà sợ những
tai nạn có thể xảy đến, sợ Hải giống như số của người chồng, Liêm hứa cho bà
yên lòng, nhưng biết chắc mình không khi nào nói lại với Hải. Những lo nghĩ của
bà không thể nào lay chuyển được đứa con trai ham mê lý tưởng ấy, hắn sống
trong cái thế giới của tương lai ở đó không có những vướng bận nhỏ nhặt phiền
toái của những người như bà. Và cả mình nữa. Làm sao nói được?
✳
Một ngày đầu mùa
đông, Liêm rủ Hải đi chợ Giời tìm mua một cái áo lạnh cũ, cái áo dạ cũ của Tường
không hợp với công việc đang làm. Ngọc cho phép Liêm và Hải nghỉ vào nửa buổi
sáng. Liêm đèo Hải trên xe đạp xuống đầu phố Sinh-từ. Chợ chỉ là một cái ngõ
đất lầm lội nằm bên tường nhà ga, đồ đạc vật dụng tạp nhạp đủ thứ bầy trên mặt
đất – phần lớn là của nhà binh ăn cắp. Vào buổi sáng chợ vắng người trông quang
cảnh giống như khu cháy nhà người ta phải dọn đồ đạc ra ngoài. Liêm dắt xe đi
lên đi xuống chọn mua được một cái áo dạ của lính với giá trăm bạc, Hải mua hai
quyển sách đóng bìa da của một gia đình Pháp – Hải cười nói: “Bọn Tây đã sửa soạn
về nước”,
và một tờ báo in trên giấy bản ngoài hậu phương. Trở về còn sớm Hải bảo Liêm đạp
xe theo ngả hàng Lọng, để đi qua phố Ôn-Như-hầu Hải sẽ chỉ cho xem gian nhà trụ sở của
Việt-quốc
thời 45 nơi người ta tìm thấy những người bị thủ tiêu chôn ở ngoài vườn. Đến ga
hàng Cỏ, một xe cảnh sát đỗ trong một góc khuất thổi còi bắt ngừng. Liêm vừa ngừng
xe chưa kịp xuống, hai ba người cảnh binh đã chạy đến đứng vây quanh. Một người
ra lệnh cho Liêm xuống xe dắt lại gần chỗ ô-tô đỗ. Hải vừa bước xuống
đất vùng bỏ chạy sang phía quán rượu đầu phố hàng Cỏ, người cảnh binh đứng gần
bắt hụt chới với, rút chiếc còi bên lưng thổi inh ỏi. Hải sang đến bên đường đứng
sựng, từ mấy gốc cây gần đấy một người cảnh binh và hai người lính võ trang chạy
ra nắm lấy tay Hải bẻ quặt ra sau lưng dẫn trở lại. Người cảnh binh thổi còi
lúi húi đi nhặt mấy quyển sách bỏ rơi trên đường. Trên xe đã có khoảng mười
thanh niên khác ngồi, một người ở trong cười bảo lớn: “Đen quá. Chúng nó khôn
quá.”
Liêm đem theo xe đạp lên, Hải được ngồi đằng trước giữa người tài xế và người
lính. Mấy người cảnh binh leo lên đóng cửa, đứng khom lưng quay mặt vào trong
trông thẳng vào Liêm tựa giữ xe đạp đứng giữa hai hàng người ngồi. Xe trở về
bót Cửa Nam và mọi người được lùa vào trong ty cảnh sát, xét hỏi giấy tờ; riêng
Hải bị còng tay dẫn vào phía sau. Chỉ có Liêm và một người nữa được ra về, còn
bao nhiêu được trở ngay xuống dưới Ngọc-hà, Hải còn phải ở lại. Liêm dắt xe ra đường
còn đứng ngơ ngác vài giây, phố trong giờ làm việc vắng vẻ hiu quạnh, chuyến
tàu đang chạy xa tít trên đường hàng Đẫy. Lúc Liêm giật mình nhìn lại, người
thanh niên cũng được về đang cắm cúi đi như chạy bên phố hàng Bông. Liêm nhảy
lên xe đạp nhanh về nhà in báo tin cho Ngọc, mọi người ồn lên mỗi người một
câu. Long bảo nếu Hải bị đưa xuống trại Ngọc-hà thì có đường trốn. Tuất
nói: Thế nào Hải cũng được cho vào Thủ-đức vì Hải đỗ bằng Trung-học Phổ-thông. Ông San bàn nên
nói với ông Kiêm xem có cách gì vận động cho Hải. Ngọc nói đến trưa sẽ ghé cho
Thái hay tin. Liêm nghĩ còn mình phải báo cho bà cụ mẹ Hải. Liêm về nhà nằm một
mình đợi; gian nhà chật hẹp đến nỗi không có chỗ cho kỷ niệm – tường vôi ám
không một khung hình ảnh, một tấm lịch; bàn thờ những người đã chết chỉ là một
chiếc xích-đông
treo trong một góc. Mẹ Hải về, lên tiếng từ ngoài cửa sổ: “Sao hôm nay các cậu
về sớm thế?” Liêm ngồi lên đón bà cụ, bà cụ xếp quang gánh ngoài hè lục tìm gói
giò chả – hôm nào hàng bán hết bà cũng cho ăn món chả cốm hàng Mành – cầm vào
nhà. Bà đưa mắt tìm Hải và nhìn thấy bộ mặt của Liêm: “Em đâu?” “Hải nó bị bắt
rồi” “Bao giờ?” “Nó bị bắt động viên”. “Khổ thân tôi. Làm sao bây giờ?” Bà cuống
cuồng hốt hoảng, quay lưng như sắp chạy ra cửa. Liêm gọi: “Bác đi đâu?” “Tôi đi
tìm nó. Nó ở đâu?” “Bác bình tĩnh lại mới lo cho Hải được.” Bà cụ quay trở lại sững
sờ, ngồi xuống phản: “Tôi thân cô thế cô. Chỉ có hai mẹ con thì làm thế nào” và
bà bật òa khóc. Liêm cúi mặt ngồi im, không biết cách xoay sở. Một lát cơn xúc
động qua đi, bà cụ bình tĩnh lại than thở: “Khổ thân tôi quá, bây giờ nó ở đâu?
Tôi đi thăm nó.”
Liêm không dám nói thực, bảo: “Bác để chiều nay cháu đi tìm trước đã. Biết chắc
chắn bác hãy đi. Bác ở nhà sửa soạn quần áo để đưa đi cho Hải.” “Cậu thương em, giúp
tôi. Tôi không còn biết tính sao.”
Liêm dắt xe đi ngay, lúc ấy đã mười hai giờ trưa, thở nhẹ nhõm khi ra đến ngoài
đường. Bà cụ sẽ bỏ bữa cơm trưa nay và nằm khóc trong gian buồng than thở với
người chồng và đứa con gái đã khuất mặt, chờ Liêm mang tin về. Trưa mùa đông
không lạnh lắm, Liêm mặc trên mình tấm áo mới mua nghe hầm hơi, ghé vào hiệu phở
đầu phố ăn bữa trưa. Từ trong hiệu nhìn sang bên đường là bờ tường một nghĩa
trang đặt trong thành phố, không khí khuất tịch nín lặng trải trên mặt đường
không có nắng. Liêm đến nhà Ngọc, bảo mình nghỉ buổi chiều để đi hỏi thăm tin tức
Hải cho bà cụ. Ngọc nói vừa ở nhà Thái về, đã thảo luận với Thái về trường hợp
của Hải, nếu Liêm biết tin Hải cũng báo ngay cho hai người để định liệu. Vợ Ngọc
nằm lim dim trên võng, vạch trần nửa bên ngực cho con bú, đứa con ngủ lơ mơ miệng
vẫn nút chóp chép. Chưa đến giờ làm việc, Liêm đạp xe xuống thẳng Kim-mã. Buổi trưa ngoại ô tiêu
điều buồn bã hơn. Những chuyến xe hàng chạy đường Sơn-tây cũ kỹ già nua không
người đỗ trước dãy nhà gạch lụp xụp dơ bẩn. Con ngõ gạch dốc chỉ có bờ bụi rậm
rạp. Gian nhà của Hỗ, cửa đóng kín như không người ở. Vợ Hỗ tóc xổ dài, đi đất
ra mở cửa. Trong nhà tối lạnh không nhìn rõ đồ đạc khi cửa khép lại, chỉ nghe
hơi nhiệt của thân người đàn bà đứng kề bên cùng tiếng thì thào: Anh ấy đi Hải-phòng từ sáng sớm làm sao
chú cũng biết, nhớ quá. Liêm bước mò mẫm như một người say có cánh tay đỡ ngang
lưng vào giường, nằm ngửa thẳng bất động, nhìn ánh sáng mờ nhạt ở một khe hở
trên đầu vách, nghe trùng nhão các thớ thịt và gió ào trên các bụi cỏ sau nhà.
Người đàn bà bắt Liêm tháo gỡ hết áo quần như mình; để được mặc tình ôm ấp da
thịt gợn lạnh dưới chăn bông, Liêm hoàn toàn thụ động, chán nản mặc người đàn
bà xoay trở một mình. Và Liêm thiếp ngủ ngay trong khi người đàn bà còn chưa chịu
rời xa. Liêm tỉnh sau một giấc dài, ánh sáng trên đầu vách không đổi, ngoài cửa
nghe tiếng chân nhảy lò cò thình thịch của trẻ con. Người đàn bà còn nằm nguyên
trong thế gắn bó và cũng ngủ quên, Liêm tung chăn trở dậy, không rửa mặt. Người
đàn bà hỏi: “Tối chú về không?” “Tôi sợ có nhiều việc bận.” “Muộn muộn về cũng được.
Chú có xe đạp mà.”
Buổi chiều bắt đầu u ám. Liêm lên đến phố đã gần hết giờ làm việc. Trong bót cảnh
sát Liêm hỏi thăm, Hải không còn ở đây nữa, người cảnh sát còn trẻ, giở sổ tìm
tên Hải không thấy; những người đã bắt buổi sáng không thấy. Liêm nghĩ Hải đã bị
đưa sang Công-an,
nhưng khi về lại nói với mẹ Hải là Hải đã bị đưa xuống trại Ngọc-hà. Bà cụ nóng ruột đã xếp
đủ các vật dụng vào trong làn chỉ chờ Liêm về là đi ngay, suốt từ trưa bà không
ăn uống gì cả và không thấy đói. Chỉ một buổi chiều, nhà cửa trông hoang lạnh
buồn thảm. Liêm mua theo bánh tây về cho bà cụ nhưng bà không ăn được, Liêm
đành ngồi ăn một mình với gói chả buổi sáng trong buổi chiều sập tối không thắp
đèn. Bà cụ nằm trên ghế mở mắt đợi trời sáng. Liêm không thể nào ở lại trong
nhà, lại đến Ngọc và hai người đi bộ đến Thái. Tối mùa đông phố vắng sớm, chỉ
những rạp chiếu bóng tụ tập đông đảo. Cửa hiệu của Thái cũng đã đóng, dưới nhà
đèn tắt, ngửng lên gác thấy đèn sáng, nghe tiếng Thái nói chuyện lớn. Ngọc phải
gọi cửa một lúc trên gác mới có người xuống. Cửa mở, một người thanh niên dắt
xe đạp ra trước, Thái ở đằng sau. Người thanh niên cười khúc khích như chưa hết
thú vị về câu chuyện đã qua và nói “Anh có khách này”, rồi đẩy xe thẳng ra đường.
Thái cất tiếng gọi: Đồng ơi, người thanh niên đã ngồi trên yên, ghếch chân trên
hè ngoảnh cổ, Thái chạy đến dặn dò nho nhỏ và người thanh niên lại cất tiếng cười
ròn ấm trước khi đạp xe xuôi về mạn chợ Hôm. Thái quay trở lại rủ Liêm và Ngọc
đến hiệu cà phê cùng phố còn mở cửa. Ngọc nói: “Có lẽ Hải bị đưa sang Công-an”. Thái bảo hai người
yên trí anh sẽ nhờ người bạn trong Công-an hỏi hộ. Liêm nói: “Tôi phải nói dối bà
cụ, mai bà sẽ xuống dưới Ngọc-hà.
Nếu anh được tin gì anh nên cho tôi biết ngay.” Sau đó Thái có ý trách
Liêm tại sao không cản để cho Hải mua cầm theo tay một tờ báo kháng chiến, nhất
là một tờ báo văn chương, cho rắc rối. Liêm đèo Ngọc về đến nhà đã gần mười một
giờ đêm. Gió thổi giá buốt thêm, trời tối kịt. Liêm không còn đủ can đảm đạp xe
xuống Kim-mã
nữa. Suốt đêm bà mẹ Hải trằn trọc thao thức làm Liêm cũng mất ngủ. Nửa đêm gió
nổi ào ào, Liêm mệt thiếp như chết. Bà cụ lịch kịch trở dậy lúc trời còn tối
đen. Thấy ánh đèn Liêm ngỡ như thường lệ bà sửa soạn hàng bán. Sực nhớ, Liêm vội
cố nhướng mắt dậy bảo: “Bác đi đâu sớm thế? Giờ này ai người ta cho vào. Để chốc
nữa cháu đèo bác đi.”
Bà cụ khăng khăng đòi đi, bà sợ xe đạp, bà sẽ đi tàu điện xuống hàng Đẫy và đi
bộ một quãng. Bà chỉ sợ người ta đưa Hải đi mất không cho bà nhìn thấy mặt con.
Bà hẹn Liêm sáng xuống sau gặp bà. Liêm nằm trở lại ân hận đã dối bà nhưng rồi
cũng ngủ thiếp thêm một giấc nữa. Buổi sáng Liêm xuống trại Ngọc-hà, nhưng không thấy bóng
bà cụ, không dám vào, đến ngồi ở quán nước xế trại ngóng nhìn. Đến chín giờ,
Liêm quay về nhà in làm việc. Buổi trưa về nhà cũng không thấy bóng bà cụ. Mãi
đến chiều tối bà mới về đến nhà. Bà đã hỏi thăm trong trại, không ai biết Hải
và bà đã ngồi ngay ngoài cổng cả ngày rình các xe cộ ra vào xem có Hải đến hoặc
đi không. Liêm bảo: “Như thế có lẽ Hải chưa xuống. Mai bác ở nhà cháu đi hỏi lại
xem.”
“Không, mai tôi lại xuống nữa. Tôi tìm cho bằng được mới thôi” Liêm dỗ dành:
“Bác ở nhà nghỉ cho khỏe. Để cháu tìm thế nào cũng thấy”. Bà cụ mếu máo: “Ruột
tôi nóng như lửa làm thế nào ngồi yên được.” Ba ngày liền, bà dậy đi
từ tờ mờ đất đến tối mịt mới trở về nhà, mệt mỏi phờ phạc, mặt hốc hác mất hồn;
đêm ngủ nói mê ú ớ. Liêm chỉ sợ bà ngã bệnh, người bà vốn gầy gò ốm yếu. Ngày
thứ tư gần trưa bà tìm đến nhà in để báo cho Liêm biết đã gặp Hải. Sáng nay người
ta mới đưa Hải xuống trại, tay bị còng, bà từ bên vệ đường đã nhào đuổi theo xe
mặc người lính gác ngăn cản hăm dọa, kêu réo lên ầm ĩ, cuối cùng người ta đành
để cho bà vào gặp mặt con và bà đã trao cho Hải được giỏ quần áo và món tiền dắt
lưng. Hải nhắn về bảo Liêm nói với Thái Hải bị đưa đi Thủ-đức nội nhật ngày mai. Bà
đang nói chuyện với Liêm ngoài cổng thì ông Kiêm ra về. Ông sửng sốt nhìn bà hỏi:
“Có phải chị Tín không?” Bà ứa nước mắt: “Anh còn nhận ra tôi ư? Thằng Hải bị bắt
đi Thủ-đức
rồi. Anh có cách nào giúp mẹ con tôi không?” Ông Kiêm càng sửng sốt hơn: “Thằng
Hải là con chị? Tôi đâu có biết.”.
Ông mời bà mẹ Hải vào trong hỏi han gia đình. Bà mẹ Hải chỉ nhắc đi nhắc lại một
câu: hai đứa con lớn bà còn ở ngoài kháng chiến, bây giờ có cách nào cho Hải được
ở gần bà. Ông Kiêm chỉ biết an ủi, hứa đợi Hải ra trường ông sẽ tìm nơi quen biết
gửi gấm: “Chị yên chí. Con trai thời này là phải đi lính cả. Không bên này thì
bên kia. Không chết đâu chỉ sợ.”
Bà chùi nước mắt bằng vạt áo, đứng lên, bà lại trở xuống để xin vào gặp Hải. Được
tin Hải, Thái cũng lắc đầu: “Tưởng nó đưa sang Công-an thì có cách xoay ra.
Chứ thế thì chịu. Nếu anh có gặp Hải nhắn chú ấy hộ tôi là ở hoàn cảnh nào cũng
có thể phục vụ cho cách mạng được”. Buổi chiều, Liêm định xuống Ngọc-hà thăm Hải nhưng lính gác
không cho vào, không gặp được mẹ Hải, Liêm đạp xe thẳng xuống nhà Hỗ. Hỗ đã về,
được nghỉ ở nhà, trông thấy Liêm hỏi: “Chú ốm hay sao mà gầy tọp đi thế?” Liêm
tự hỏi: mình gầy thật ư? và đưa tay lên sờ mặt. Vợ Hỗ lên Phủ Doãn thăm thai,
“Tôi mệt quá không đưa nhà tôi đi được.” Liêm ngồi lại một lúc rồi lại về phố, đạp
xe lang thang đến tối quên cả bữa cơm chiều. Về đến nhà, Liêm thấy cụ lại đang
xếp những món đồ mang thêm cho Hải vào làn, bà đưa cho Liêm một mảnh giấy của Hải
viết vội: Anh Liêm. Mai tôi phải vào Thủ-đức rồi. Tôi đi vắng anh cứ ở lại nhà cụ đỡ
quạnh quẽ. Học xong, chắc tôi lại được trở về. Anh nói với anh Thái, anh Ngọc
không bao giờ tôi quên các anh ấy. Gửi lời anh ấy thăm ông San anh Tuất, Long,
vì hoàn cảnh không thể từ biệt được. Hải.
Sáng hôm sau khi
bà cụ xuống đến Ngọc-hà,
trời chưa sáng rõ, người ta đã mang Hải đi mất. Buổi trưa đi làm về, Liêm gặp
bà nằm dài trên ghế quay mặt vào tường, chiếc làn còn nguyên vẹn không trao được
đặt dưới đất. Liêm ngồi lên phản, không biết phải ngỏ lời thế nào. Nếu tôi gặp
lại mẹ tôi, nếu bà mẹ Hải nằm kia chính là mẹ tôi, bà có thể là mẹ tôi được chứ,
bà vẫn chỉ là kẻ xa lạ không dính dấp không ràng buộc. Nỗi thống khổ của bà,
tôi hiểu, tôi hiểu rõ hơn ai nhưng tôi làm gì được. Tôi ở lại bên cạnh bà cho
bà bớt quạnh quẽ, thay thế những đứa con ruột của bà, tôi ở lại và tôi vẫn chỉ
là kẻ xa lạ. Cố gắng mãi Liêm lên tiếng: “Bác ăn gì không?” Bà cụ không quay mặt
ra, bảo với Liêm lục tìm trong làn lấy bánh tây mua từ sáng cho Hải mà ăn. “Bác
ăn cho đỡ đói.”
“Không. Cậu cứ ăn đi.”
Bà ngơ ngẩn ra vào không làm ăn gì được đến hơn tuần lễ và Liêm như bị nhốt tù
trong vùng ủ ê buồn bã của bà. Chỉ ngay hôm sau bà thổi cơm lại cho Liêm ăn
nhưng không đi bán hàng, Liêm phải về ở trong nhà ngoài giờ làm việc không bỏ
đi đâu được. Đêm mùa đông, cửa đóng kín, gió xô đập, Liêm nằm một mình trên tấm
phản rộng, đèn tắt sớm, lắng nghe sự im lặng đè nén của bà cụ lẫn trong bóng tối
buốt lạnh. Hơn một tháng qua, Liêm nhận được thư Hải gửi về cho mẹ. Tối hôm ấy,
Liêm đọc thư cho bà cụ nghe, bà vừa cười vừa khóc và Liêm nhẹ nhõm thơ thới cả
người. Liêm kể cho bà nghe cảnh vật, phong tục miền Nam, bà say sưa nghe và
Liêm tưởng như chính mình đang ở trên đường trở về Sài-gòn. Rồi Liêm thay bà viết
thư vào cho Hải, Liêm muốn giới thiệu Hải lúc nào được về Sài-gòn tìm đến Tường nhưng
không nhớ số nhà, muốn viết thư cho Hạnh nhờ Hải đưa đến nhưng nghĩ Hải
không thể vào xóm Đồng Ong Cộ. Vả lại một năm rồi biết bao nhiêu đổi thay làm
sao lường được – nên chỉ viết vài dòng hỏi thăm thường tình. Ngày hôm sau, bà cụ
dậy sớm đi chợ, bà về trước giờ Liêm đi làm với đôi quang gánh đồ vật, bà bảo:
“Mai tôi lại đi chợ. Ở nhà cũng buồn”. Bà đưa cho Liêm mấy cái bánh khúc còn
nóng. Liêm vừa thổi vừa ăn nhồm nhoàm, bảo: “Ở trong Nam không có bánh khúc”.
Buổi sáng càng ngày càng rét cắt, Liêm hé mắt nhìn ánh đèn chập chờn, nghe tiếng
động lịch kịch quen thuộc; một mình bà cụ trong tấm áo kép, thỉnh thoảng miệng
suýt soa, nhóm ngọn lửa đầu tiên trong xóm, sửa soạn gánh hàng buổi sớm; Liêm
cũng mong ngày Hải được trở về để trả lại gian nhà và bà mẹ.
CHƯƠNG IV
Trời thành phố những
ngày mùa đông tái ngắt trong gió bấc, những trận mưa tầm tã – nước nhọn buốt
như mũi kim đâm trên da mặt căng nứt, da tay nhăn nhúm. Chiếc áo cũ mua ngoài
chợ Giời không đủ ấm, Liêm đành lôi chiếc áo dạ của Tường ra mặc thêm, áo đã bị
dán nhấm tôi rũ lùng thùng vướng víu mỗi lần ngược gió làm chiếc xe đạp nặng
thêm lao đao trên những đoạn đường đất mấp mô; Liêm nghĩ mình giống như anh hề
của gánh xiếc Tạ Duy Hiển được xem thuở bé. Bọn trẻ trong xóm vẫn dẫm chân đất,
những ống cẳng thâm tím khép lại run rẩy, co ro tựa vào các mặt nhà há hốc miệng
phà khói nhìn. Những chuyến tàu điện từ ngoại ô vào nhớp nháp vẫn chở chật những
người nhà quê lủng củng quang gánh, áo tơi và nón; mặt đường in hằn những vệt
bùn dài của bánh xe nhà binh, xích-lô
trống che kín mui và cánh gà. Liêm thức giấc bất cứ lúc nào cũng tưởng như chưa
sáng, ngọn lửa bếp cháy sèo trên những thanh củi ướt và tiếng húng hắng của bà
mẹ Hải trong gian buồng ẩm thấp như muốn chảy thành nước, hoạt động của phố xá
trong những giờ giấc phải qua trái ngược: người đi bộ trên hè tay giấu kín đi
nhanh hơn còn xe đạp dưới đường chậm chạp không vững. Thành phố vào mùa đông hợp
với Liêm hơn, sự giá lạnh gói chặt vào mình che chở cho mình, mọi vật mọi người
đều đông cứng riêng biệt. Chỉ trừ những buổi tối trong nhà phải đón nhận sự săn
sóc thái quá của bà mẹ Hải, và Liêm bối rối vì chưa từng quen săn sóc người
khác.
Một ngày đầu tháng
chạp, Liêm đến nhà in thấy mọi người ngồi tụ tập ngoài buồng tòa soạn, đang bàn
cãi ồn ào. Liêm hỏi Tuất: “Chuyện gì thế?” Long mau miệng: “Anh chưa biết gì cả
hay sao? Báo bị đóng của.”
Liêm nhìn Ngọc đang mải nói với ông San, tính toán công việc, từ ngày Hải đi,
Liêm làm quên không đến với Thái và Ngọc, cũng không nghe Ngọc đả động đến
nhưng trong công việc hàng ngày Liêm thấy rõ Ngọc tỏ vẻ kiêng mình giữ thái độ
lạnh nhạt. Đợi đến chín giờ, ông Kiêm không thấy lại tòa báo; anh thầy cò hớt hải
đạp xe tới báo tin ông đã bị bắt và có lẽ bị đưa vào Sài-gòn an trí. Ngọc nói lớn:
“Còn tiền lương của anh em bây giờ đòi ai?” Anh thầy cò ngơ ngác: “Cả tôi nữa.
Hai tháng nay tôi đã lĩnh hết lương đâu.” Viên quản lý tờ báo dăm thì mười họa mới
gặp mặt ở tòa soạn, còn chủ nhiệm từ ngày Liêm vào làm chỉ đọc thấy tên chứ
chưa biết mặt, lương nhân viên đều do ông Kiêm phát. Liêm hỏi: “Thế còn nhà in
này của ai?” Tòa báo và nhà in đặt ở tầng dưới của biệt thự, một nhà chứa xe và
hai gian buồng ngang, dường như không liên quan gì đến những người cư ngụ trong
biệt thự – một gia đình công chức đông con ra vào theo lối cổng riêng. Anh thầy
cò bàn để anh chạy đi tìm quản lý và hẹn ba giờ chiều anh em trở lại sẽ biết
tin, anh quyết sẽ kéo bằng được quản lý đến nếu gặp. Ngọc bảo đành vậy, dặn mọi
người buổi chiều đúng hẹn, lấy tiền xong sẽ tính công việc khác. Anh thầy cò hỏi
xin ông San điếu thuốc trước khi nhảy lên xe đạp đi. Mọi người đều bỏ ra đường
và Ngọc chỉ khép các cánh cửa buồng lại. Tòa báo trống không người coi. Ông San
khoác tay Liêm ở ngoài cổng bảo: “Rỗi chẳng làm gì về đằng tớ uống rượu cho ấm.
Nhà có chai rượu thuốc ngon lắm”, ông quay gọi Ngọc: “Về nhà uống rượu đi” Ngọc
từ chối, đi cùng với Tuất và Long ngược về phía khác. Còn ông San giữ chặt tay
Liêm, cặp kè như bạn trẻ thời đi học xuôi xuống nhà Rượu. Con phố hẹp không cây
cối, hai dãy nhà một tầng kín cửa, từng quãng bị ngắt bởi những con đường thẳng
góc lớn hơn; càng về cuối quang cảnh càng buồn tẻ hơn khi bức tường dài của nhà
Rượu trồng mảnh chai và chăng giây điện ở trên chiếm hẳn một bên đường. Hai người
đi lấn gần hết nửa mặt đường không gặp xe cộ, Liêm dắt xe một tay còn tay bị quặp
đút trong túi áo, nghe tiếng nước lép nhép trong đế giầy của ông San. Ông San
nói suốt dọc đường không nghỉ, ông kể về ông Kiêm bằng giọng thán phục: từng được
mời làm bộ trưởng không nhận, làm báo nghèo kiết mùng tơi mà lại phải nuôi hai
vợ tám chín đứa con, bây giờ lại bị bắt. Liêm lơ đãng nghe, chốc chốc mỉm cười
phụ họa. Nhà ông San ở trong xóm nhà lá dựng trên bãi đất trống quá nhà Rượu, một
nơi đổ rác của thành phố; ông nói như xin lỗi: “Ở chỗ này hơi bẩn thật nhưng được
cái không phải ở chung. Tôi chúa sợ cái cảnh ở chung chỉ tổ cãi nhau điếc tai.” Ông liếc mắt ra hiệu
cho Liêm nhìn vào những gian nhà đầu tiên, bảo khẽ: “Lúc nào cần giải quyết, cậu
có thể đến đây được. Xong sang nhà tôi nhắm tí rượu lấy lại sức.” Trước mặt nhà ông San
là khoảng đất cỏ xa chỗ đổ rác cũng sạch sẽ; nhà nền đất quét dọn và bầy biện
tươm tất, bộ bàn ghế mộc đặt cạnh cửa sổ dùng làm chỗ tiếp khách. Ông có năm
người con đều đã lớn, ba người lập gia đình sống riêng, còn cô con gái nói đùa
gả cho Hải bán vải ngoài chợ Hôm và đứa con trai út mười lăm tuổi học trường Trung-học. Vào đến nhà, khi ông
đã thay quần áo đi lại nhàn hạ mang rượu mời, ông khác hẳn, có vẻ già, nghiêm
trang đạo mạo đúng với tuổi ông hơn khi còn ở chỗ làm việc hay ngoài đường.
Trong bữa rượu, ông San bỗng hỏi: “Tôi xem hình như anh với anh Ngọc có chuyện
gì xích mích phải không?” Liêm chối: “Không. Không có chuyện gì cả.” “Sao lúc nãy tôi rủ anh
Ngọc về chơi thấy anh ấy có vẻ không bằng lòng.” “Anh ấy nghĩ thế nào,
tôi không biết.”
Rượu thuốc vừa nhạt vừa đắng, Liêm chỉ nhấm nháp lấy lệ chiều lòng ông San.
Liêm nghĩ đây là dịp tốt để tách khỏi Ngọc. Tôi sẽ làm gì? Còn bà mẹ Hải? Tôi
phải làm sao? Ngà ngà ông San bắt đầu thổ lộ tâm sự: “Đáng lẽ Ngọc nó là con rể
tôi. Tôi vẫn tiếc nó mãi. Tôi dự đinh gả con gái cho nó. Đứa lớn đã lấy chồng rồi
ấy. Tôi biết nó từ ngày bé kia mà. Anh đến chơi nhà nó bao giờ chưa? Anh trông
thấy vợ nó chứ? Nghĩ cũng tội nghiệp cho nó. Tôi không hiểu vì đâu nó lại chịu
như thế. Chuyện nó với vợ nó bây giờ có lẽ chỉ có tôi biết rõ hơn cả. Bà mẹ vợ
nó người cùng làng với tôi mà. Hồi xưa cô ta lên trên Tông lấy Tây đẻ được hai
đứa con gái. Vợ thằng Ngọc này tên là Mùi. Con chị tên là Mão. Sau anh chồng chết,
cô ta lấy một thằng Tây khác. Thằng này nó lấy tuốt cả mẹ lẫn hai đứa con riêng
lúc ấy mới độ mười mấy tuổi. Rồi là mẹ con ghen nhau tán loạn. Cả con Mão lẫn
con Mùi đều có con với thằng chồng sau, phải đưa đi đẻ giấu rồi mang về nuôi, cứ
gọi con Mão con Mùi bằng chị. Gia đình ấy bây giờ cũng ở Hà-nội này, mấy đứa
con đi học trường Tây lớn tướng. Không biết hồi tản cư thằng Ngọc gặp gỡ thế
nào mà lại bằng lòng lấy con Mùi này. Sợ mấy đứa con đầu của thằng Ngọc cũng vẫn
còn là của thằng Tây dê xồm kia chớ chẳng chơi. Tôi cứ tiếc cho nó mãi. Nó là đứa
tốt mà làm sao lại chịu cái cảnh chướng như thế được”. Ông San cười khà khà, giọng
cay đắng uất hận hộ cho Ngọc. Liêm cũng cười theo bảo: “Trông chị ấy cũng ngoan
chứ bác.”
Ông xì miệng bắn cả bọt rượu xuống bàn: “Cái thứ máu lai ấy làm sao mà tin được.” Liêm ngồi đối diện với
ông San, ngoài cửa sổ trời như tấm chăn dạ ẩm tung trên bãi cỏ rộng, nghe tiếng
hát trong im vắng của người gái chơi mãi tận đầu xóm. Một bài cải cách thịnh
hành. Buổi trưa ông San tự thổi cơm lấy ăn với đứa con trai, món ăn con gái đã
mua sẵn từ chiều hôm trước, xế chiều con gái đi chợ về mới lo cơm nước cho cả
nhà. Ông thường uống rượu trong bữa cơm chiều, đó là giờ khắc hạnh phúc trong
ngày của ông; ông nhất định nếu gả cô con gái này ông sẽ bắt rể. Liêm nói đùa:
“Nhưng Hải nó còn một mẹ già, đời nào nó chịu ở rể.” Ông San cũng nửa đùa nửa
thật: “Không thì anh làm rể tôi càng tốt. Anh chỉ có một thân lo gì, ở đâu chẳng
được.”
Liêm cười phá lên: “Bác lầm to. Cháu có hàng tá vợ rồi.” “Cũng không sao. Hàng
tá vợ mà ở một mình kể như không. Đàn ông ai chẳng thế”. Rồi ông nhắc lại những
thành tích thời thanh niên của ông, giọng đắc ý tự mãn; những người đàn bà ông
đã bỏ, mỗi người một vẻ, nhưng ông không thể yêu ai hơn mẹ của mấy đứa con hiện
thời của ông. Bà chết ngày còn ở ngoài hậu phương, ông thương tiếc bà nhất;
trông dáng bộ, nét mặt, nghe lời nói của ông thì bà là người đàn bà đẹp nhất,
đáng yêu nhất không một người đàn bà nào sánh kịp, không ai có thể thay thế nổi.
Liêm tự hỏi người đàn bà ấy khi còn sống như thế nào, có thật như hình ảnh ông
San ghi khắc trong trí chăng. Nếu chẳng may ông San chết trước bà, bà sẽ nhắc lại
về ông ra sao? Tôi, chính tôi đây cũng là đứa con của ái tình. Mẹ tôi đã trốn bỏ
gia đình nệ cổ để về sống với cha tôi trong cảnh nghèo, sinh ra tôi và em tôi.
Và cha tôi đã mất và bà… Tôi chắc không còn mong gặp bà nữa. Lúc Liêm từ biệt
ông San, cũng hơi chuếnh choáng; ông San đứng tựa cửa cười dặn đi xe cẩn thận
không ngã, về ngủ một giấc là khỏe ngay. Hai cô gái chơi đầu xóm vỗ tay, cười
chế nhạo khi Liêm đạp xe ngang, giây xích kêu cót két. Liêm cũng nhe răng cười,
đảo ghi-đông
xe như sắp ngã, tôi đang làm hề, từ khi lớn tôi nghiêm mặt đóng một vai hề tôi
vẫn thích khi bé đi xem xiếc mà không biết. Tôi không cười, tôi sục sạo trước mắt
đám đông xa lạ giữa những khoảng rộng mênh mông tìm kiếm vu vơ, làm trò tìm kiếm,
tôi không nói, tôi chỉ làm những cử động. Dis qu’as-tu fait, toi que voilà.
De ta jeunesse. Vẫn những bài học thuộc lòng không bao giờ quên được. Những
bài học ấy có dùng làm gì đâu.
Sau giấc ngủ trưa
rỗng nặng, Liêm trở dậy bỏ quên hẳn những việc buổi sáng vẫn tưởng mình đi làm
như thường lệ. Đến nhà in gặp ông San hỏi: đã tỉnh chưa? Đợi đến cả tiếng đồng
hồ, viên quản lý mới đến. Không có tiền, chỉ có những lời nói huyên thuyên đâu
đâu và lời hứa hão huyền. Ngọc nổi cục: “Các ông tranh đấu gì tôi không biết. Gần
Tết nhất đến nơi, chúng tôi cần tiền lại còn phải để thì giờ đi tìm công việc
khác nữa. Chúng tôi dân lao động, mà các ông cứ lằng nhằng thế này thì chúng
tôi chết đói hết cả lũ. Viên quản lý ngọt nhạt: “Anh em cứ yên tâm. Thế nào
cũng có, chỉ ngày mai ngày kia thôi. Để tôi gặp ông chủ nhiệm xem sao”. Ngọc nhất
định khăng khăng không trì hoãn, đòi được gặp chủ nhiệm để thanh toán dứt khoát
vấn đề. Cuối cùng viên quản lý phải nhượng bộ, hẹn sáng hôm sau sẽ đưa anh em gặp
chủ nhiệm. Ngọc nhắc đi nhắc lại bắt viên quản lý phải cam kết đúng hẹn trước
khi buông cho hắn ra về. Lúc ấy Liêm nhìn nét mặt Ngọc hầm hầm tức giận trông
hung dữ như sẵn sàng có thể giết người được. Ông San nói bỡn cho không khí bớt
ngột ngạt: “Mình lại được nghỉ thêm chiều nay với ngày mai nữa. Rồi tính sau.” Rời nhà in Liêm xuống
Kim-mã.
Bầu trời vẫn ủ dột tuy không mưa. Đường gần đến ngoại ô trơn, nhiều vũng nước đọng.
Ngõ vào xóm lạnh lẽo xa hút như một con đường làng. Tôi vẫn phải quay trở lại
những chốn gọi là quen thuộc, dù tạm bợ cho tới khi gây được những chốn quen
khác. Như thế tôi sống trôi trong ngày tháng. Buổi tối lại trở về trong gian buồng
khuất xóm chùa Vua. Từ đầu thành phố này đến đầu thành phố kia, những nơi mà
thành phố bị nhận chìm vào trong tối tăm ghẻ lạnh. Liêm nghe tiếng giầy lộp cộp
sau lưng, ngoảnh lại. Hỗ cắm cúi đi mau tới, kêu lên mừng rỡ: “Tôi định về nhà
rồi lên tìm chú. Chị chuyển bụng đưa vào Phủ Doãn rồi. Mà sáng mai tôi lại phải
xuống Phòng sớm. Một hai hôm mới về được. Chú ở nhà trông nom hộ tôi nhé.” Hỗ mặc bộ âu phục xám,
đeo kính cận thị, tay cắp cặp, vừa trịnh trọng vừa ngờ nghệch. Liêm thấy mình
ngồi trước mặt Hỗ trong nhà vắng như ngày nào mới đặt chân đến Hà-nội. Gian nhà
mờ tối với gió động xung quanh. Hỗ bảo: “Chắc chỉ đêm nay hay sáng mai là cùng.
Chốc chú đi ăn cơm với tôi rồi ta vào qua nhà thương để chú biết chỗ”. Liêm
châm thuốc hút, miệng nhạt khô, đầu váng vất. Hỗ ra vào nhặt nhạnh một vài món
cần dùng của đàn bà bỏ vào cặp. Bỗng anh đứng im giữa nhà hỏi: “Chú thích con
giai hay con gái. Tôi mong nó là con gái quá”. Liêm nhìn bóng Hỗ không rõ mặt rồi
cúi đầu. Chiếc áo dạ bị vướng kéo từ trên vai. Tôi mong một đứa con chết ngay
khi lọt lòng mẹ. Hỗ đi xích-lô,
Liêm đạp xe theo lên phố. Về chiều thành phố chỉ còn tiếng gió lùa trên các
chòm cây cao bên đường, nước rớt lộp độp trên mặt nhựa. Ngồi trong thùng xe bị
vây kín, chốc chốc Hỗ lại ghé miệng nói chuyện vẩn vơ. Bữa chiều ăn trong hiệu
phở gần cửa Nam. Nhìn qua con đường nhỏ là một công viên hình tam giác, xuống đến
con đường lớn ăn thông với hàng Đẫy và Cột Cờ; bên kia đường là đồn Cảnh-sát có lính gác Hải và
Liêm đã bị bắt về đấy, sau lưng đồn hai con phố gặp nhau thu hẹp lại về phía chợ
Cửa Nam. Mang máng nhớ như ngày trước khi mới trốn lên Hà-nội Liêm đã ngồi ở
đây, đã nhìn cái công trường chằng chịt đường phố này rộng bát ngát với xe cộ.
Bây giờ nó đìu hiu trống trải nhỏ hẹp và đang chìm sập vào bóng tối mặc những
ánh đèn lạnh lẽo của các cửa hiệu đã được thắp. Dưới sàn gạch, trong các gầm
bàn và lối đi, bừa bãi rác rưởi. Liêm thấy no, chỉ ăn một bát phở, uống cốc cà-phê ngồi đợi Hỗ. Đi ngược
trên hè phố Trường-thi,
bên cạnh vòm cây hút che mặt đường cao, Liêm nghe sự vắng lặng rét mướt ủ từng
nỗi cô đơn một. Trước cổng nhà thương Phủ Doãn, xe cấp cứu vừa đỗ, tiếng còi
còn rền rĩ, người ta đang sửa soạn mở cánh cửa sắt. Liêm bảo Hỗ: “Thôi anh vào
một mình đi. Mai tôi xuống. Bây giờ tôi có việc”. Hỗ đi đến trạm gác, tìm người
quen quay trở ra chỗ Liêm kéo vào giới thiệu: “Mai chú đến ông này sẽ cho vào bất
cứ giờ nào hả.”
Rồi Hỗ chỉ đường cho Liêm biết chỗ nằm của vợ. Liêm nhảy vội lên xe đạp ngược
chiều một đoạn phố.
Bà mẹ Hải vẫn chờ
cơm ở nhà, Liêm ngồi vào mâm sới nửa bát một để ăn cùng với bà. Liêm bảo: “Ông
Kiêm bị bắt rồi. Tòa báo đóng cửa bác ạ. Thế là cháu thất nghiệp”. Bà cụ nói:
“Lo gì, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo. Bao giờ cậu đi làm được cậu lại trả tôi
cũng không sao. Có cậu ở nhà tôi cũng đỡ nhớ thằng Hải”. “Nhưng cháu…” “Không
có cậu tôi cũng phải thổi cơm ăn chứ. Thêm bát thêm đũa mà vui. Với lại tôi
cũng coi cậu như người nhà”. Liêm không nói gì được nữa, mình đã bị buộc chặt
vào bà cụ. Cả buổi tối xong công việc, bà ngồi lo lắng thắc mắc về tình cảnh của
hai người vợ ông Kiêm. Bà nói chỉ có người đã ở trong cảnh ngộ mới hiểu thấu nỗi
khổ tâm của đàn bà, ngày chồng mới mất tích bà không thể nào ngờ mình có thể
nuôi con khôn lớn đến như ngày nay. Người đàn ông khi làm việc không đếm xỉa đến
gia đình, nếu chồng bà còn chưa biết ngày nay gia đình bà ra sao. Nhưng có lẽ đứa
con gái duy nhất của bà sẽ không chết và Hải có hy vọng học đến nơi đến chốn.
Bà khuyên Liêm nếu còn thích lăng nhăng thì đừng lấy vợ chỉ làm khổ vợ con mình
thôi. Liêm thiếp ngủ còn nghe loáng thoáng tiếng bà cụ chốc chốc hỏi một câu.
Trời thật lạnh, mưa rả rích cả đêm, Liêm mặc chùm tấm áo dạ nằm co quắp nhường
chăn cho bà cụ như ngày nằm dưới hầm tàu trở về Bắc, bấp bênh hốt hoảng, chân
tay mê mỏi ê ẩm. Sáng ngày sau, Liêm vẫn tới nhà in cùng đợi viên quản lý đưa cả
bọn đến gặp chủ nhiệm. Long sốt ruột bỗng nói: “Cứ làm cái kiểu này chán bỏ mẹ.
Chưa biết chừng kỳ này tôi đăng vào lính quách, đi đây đi đó một dạo cho sướng.
Trước sau gì nó cũng bắt mình đi lính.” Ngọc hỏi: “Mày đi lính để đánh ai?” Long
cười khềnh khệch ngây thơ: “Vào lính khỏi sợ ai bắt nạt, khỏi sợ gì hết”. Ngọc
cười mỉm: “Mày là lính ta vẫn sợ lính Tây như thường”. Long vỗ ngực hùng hồn:
“Ai sợ chứ thằng Long này không sợ. Đã vào lính còn sợ Tây thế nào được. Choảng
nhau với nó khỏi sợ tù.”
Ngọc giảng giải: “Mày ngu lắm. Tây nó vẫn có quyền mà mày ở dưới quyền nó mà
mày không sợ nó.”
Long vẫn cãi bướng: “Mình độc lập sợ đếch gì nó. Lôi thôi mình quạng chết thôi.” Câu chuyện bỗng xoay ra
cãi nhau xem mình đã độc lập chưa. Không ai ủng hộ Long cả, nhưng nó vẫn khăng
khăng bảo thủ ý kiến và Ngọc mắng: “Mày là thằng phản động.” Long tức đỏ gay mặt,
không cãi nữa nhưng ai cũng biết nó không thay đổi ý kiến. Ông San cười dàn hòa
bảo: “Thằng Long nó tin quốc trưởng Bảo-Đại mà. Phải không mày?” Long văng tục:
“Tôi đếch tin ai hết.”
rồi bỏ ra riêng một góc. Viên quản lý đến chậm cả giờ đồng hồ, vừa bước chân
vào đã xin lỗi rối rít, Ngọc hầm hầm nét mặt hỏi ngay: “Đi chưa?” Viên quản lý
bảo được, nói địa chỉ, tên phố hẹn mọi người lên đấy hắn sẽ đứng đón ở ngoài cổng.
“Phố Cao Bá Quát gần hàng Đẫy anh em biết không?” Cả bọn không ai biết phố ấy ở
chỗ nào và viên quản lý phải mất năm phút chỉ cho từng người một. Liêm đèo ông
San trên xe đạp của mình, Tuất đèo Long, anh thầy cò có xe riêng, Ngọc đi xích-lô chung với viên quản
lý. Dọc đường ông San nói về người sắp đến gặp, ông ta là người nổi tiếng từng
du học Pháp về, thời thực dân còn đô hộ ông ta dám tát tai quan Sứ Tây mà Tây
không làm gì được ông; từ ngày hồi cư ông là nhà tri thức trùm chăn có uy tín
Pháp rất nể. Liêm hỏi: “Nể sao còn đóng cửa báo của ông?” “Đâu phải Tây. Mình
đóng đấy chứ. Quốc gia với nhau nhưng vẫn gờm nhau mà”. Liêm nói bâng quơ: “Từ
ngày ra Bắc đến giờ tôi mới nghe nói đến Quốc-gia, lúc nào cũng người quốc
gia. Trong Nam không có…” Ông San hơi nhổm người lên nhìn sang bên đường bảo:
“Từ 45 ngoài Bắc này đã có Quốc-gia
với Cộng-sản
rồi. Tôi cho là mối thù dằng dai, đánh nhau còn lâu. Tây về nước cũng chưa
xong. Còn khổ lâu”. Con phố ngắn chạy
vòng gồm toàn biệt thự sang trọng, một đầu thông với con đường đôi cạnh vườn
hoa Canh-nông
một đầu thông với phố hàng Đẫy. Ngoài đường trống trải, cây sơ sác nhưng các vườn
trong biệt thự cây cỏ hoa lá rực rỡ xanh um. Không khí khuất tịch trong buổi
sáng mùa đông sau một đêm mưa dài nổi rõ tiếng chân rào rạo trên lối sỏi, tiếng
động nhẹ trong cỏ lá. Viên quản lý dẫn đường đi trước, mọi người tự dưng nói nhỏ
thấp giọng. Leo mấy bực thềm lên đến một bao lơn nhô ra vườn với những chậu cúc
vàng hoa đã nở đặt trên thành, mọi người đứng lại nhìn qua hai cánh cửa mở vào
một phòng khách tráng lệ, gạch hoa chùi nhẵn bóng. Viên quản lý một mình đi vào
trong, khuất vào một cửa buồng trên tường phản chiếu một thứ ánh sáng mờ tím lọc
qua những mặt kính dầy nổi vân của các cửa sổ đóng. Tiếng nói oang oang từ
trong xa vọng dội khi chưa thấy người: “Anh em đã đến đấy à, mời vào, mời anh
em vào tự nhiên”. Một ông già trạc năm mươi trông vạm vỡ quắc thước trong bộ quần
áo ngủ Nhật tươi cười bước ra. Ông thân mật bắt tay từng người mời ngồi, xin lỗi
về sự chậm trễ. Ngọc vừa ngồi xuống, đã cất mình nhỏm lên nói: “Thưa cụ, chúng
tôi…” ông già xua tay bảo cứ ngồi và viên quản lý vội đỡ lời Ngọc trình bày câu
chuyện. “Tôi biết, tôi biết. Tôi mời anh em đến đây là để thanh toán với anh em
vì dù sao tôi cũng có trách nhiệm. Luôn tiện cũng là xin lỗi, gần ngày Tết mà
công việc rắc rối gây khó khăn cho anh em. Nhưng chắc anh em cũng hiểu, chúng
tôi đâu muốn thế. Tôi tuy nghèo nhưng tôi có bổn phận… Anh em đừng thấy nhà
sang thế này mà cho là tôi giàu. Nhà của người ta cho tôi ở nhờ đấy. Anh em
nghĩ thử mà xem hoạt động như chúng tôi làm thế nào mà mua được căn nhà này. Chỗ
thân tình người ta gọi về cho ở vừa làm chân giữ nhà hộ. Tôi không nói dối anh
em đâu. Tôi đã lo xong món tiền của anh em rồi. Yên tâm”. Ông quay sang viên quản
lý hỏi về số tiền còn thiếu và móc ngay trong túi áo một cuộn bạc trao cho hắn
đếm đưa Ngọc về chia trả anh em. Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm không ngờ việc
nhanh chóng như thế. Ông già đứng lên đi về phía tủ rượu nói: “Anh em ở lại uống
chơi với tôi chén rượu gọi là tôi cảm ơn trước khi chia tay. Rượu cũng của người
ta. Nhưng rượu mà có người uống cho là hân hạnh lắm.” Ông cười ha hả, mang cốc
ép mọi người phải nhận, tự tay rót cho từng người. Ông uống rượu thật khỏe, ực
từng hơi dài không khề khà nhấm nháp. Khi đưa tiễn ngoài bao lơn, ông bắt tay từng
người, hỏi han tên tuổi như để nhớ và dặn: “Anh em chịu khó tìm việc làm tạm. Rồi
thế nào cũng phải đến lúc có cơ hội cho chúng mình làm việc lại chung với
nhau”. Ông bảo viên quản lý ghi địa chỉ anh em để báo ra lại hay có công việc
khác tìm gặp anh em cho dễ, viên quản lý vâng dạ một cách lễ phép. Liêm có cảm
tưởng như sau lần gặp gỡ này ông ta mặc nhiên coi mọi người là đồng chí của
mình rồi, ông nói hai tiếng chúng mình một cách ngọt ngào thân ái. Ông còn đứng
lại trên bao lơn, đợi mọi người ra đến cổng đưa cốc rượu lên cao chào rồi mới
quay vào. Viên quản lý bấy giờ bắt đầu lên tiếng ca tụng đạo đức cách mạng của
nhà chiến sĩ cách mạng lão thành, bình dân rộng rãi sẵn sàng chịu hy sinh thiệt
thòi vì người khác, “Cụ mà lên cầm quyền anh em mình đỡ nghèo biết mấy. Cụ ghét
Tây lắm”. Ngọc cắt ngang cảm hứng của hắn: “Cảm ơn ông. Bây giờ chúng mình còn
phải lo việc ngày mai nữa.”
Cả bọn dắt xe đi bộ đến vườn hoa Canh-nông, ngồi lại trên ghế đá giữa vườn và Ngọc
chia phần trả lại từng người. Ngọc nói: “Tôi đã điều đình được một chỗ làm. Nhà
in này ít việc chỉ cần ba người thôi. Anh em tính thế nào? Ai có thể tìm việc ở
chỗ khác đợi công việc nhiều lại về làm cùng ê-kíp hay nếu không mình
tính chia tua theo công việc?” Liêm ngắt lời ngay: “Tôi có thể tìm được việc chỗ
khác”. Ông San hỏi: “Ở đâu”?
“Chưa biết. Nhưng tôi tìm được.”
Ông San đề nghị: “Anh em đã làm chung với nhau, bỏ đi cũng buồn. Mình cứ nhận tạm
chỗ này thay tua mà làm trong khi tìm chỗ khác có hơn không?” Liêm nói: “Cám ơn
cụ. Tôi tìm việc khác cũng dễ mà.”
Long xen vào: “Tôi cũng vậy. Tôi rút lui chỉ còn anh Tuất với bác San là dễ
tính nhất.”
Ngọc đưa mắt nhìn Liêm rồi đến Long, Long ngồi trên bãi cỏ tay bứt những cọng cỏ
ướt, Liêm đứng tựa bên xe đạp sẵn sàng bỏ đi: “Nếu các anh không thích làm
chung với nhau nữa thì không kể. Còn không mình vẫn còn cách thu xếp.” Liêm cười: “Không phải
thích hay không thích. Nhưng lúc này ai cũng cần tiền mà việc ít quá chia sẻ
cho nhau chẳng được bao nhiêu. Tôi độc thân có nghỉ từ giờ đến ra giêng cũng
không sao”. Anh thầy cò đứng lên lấy xe đạp nói: “Chỉ có mình tôi là riêng rẽ
khỏe ăn. Thôi xin chào tất cả” và dắt xe ra đường. Ông San và Tuất cố khuyên
Liêm và Long ở lại làm chung cho vui, Ngọc lên xích-lô một mình về trước, bốn
người còn đi bộ chuyện trò đến đầu phố hàng Bông. Khi chia tay ông San bảo:
“Thôi thế cũng được. Nhưng lúc nào rỗi xuống tôi uống rượu tán gẫu hả? Tết này
thế nào anh cũng phải xuống chơi nhá.”
Còn một mình, Liêm
đạp xe loanh quanh vòng đến Phủ Doãn. Ở ngoài nhìn vào, nhà thương trông quang
đãng: vườn rộng, lối đi, cây trồng thẳng, những luống bụi cắt xén ngay ngắn tỉ
mỉ. Nhưng khi vượt qua vòm cổng đục trong dãy nhà nằm ngang quay nhìn ra đường,
Liêm lọt vào trong thế giới bệnh hoạn bẩn thỉu. Đầu tiên là vài người bệnh lang
thang dưới vườn, quần áo màu xanh bạc phếch nhầu nát như da mặt, một người chống
nạng chân còn quấn băng kín hoen máu lẫn mủ ruồi nhặng vo ve quanh, đứng tiểu
vào một hốc cây khuất, mắt ngơ ngác nhìn kẻ mất hồn. Trông các hành lang, bệnh
nhân nằm tràn bừa bãi trên những tấm chiếu rách, giấy dầu, một vài người thân
trong gia đình vây bám xung quanh. Trẻ con lê la kêu khóc inh ỏi, tiếng người
quát tháo dẹp đường, tiếng rên rỉ than thở lẫn mồ hôi thối nồng nặc. Phần lớn ở
khu vực ngoại thương toàn là dân quê bị thương trong các cuộc hành quân hay
pháo kích được chở về và không bao giờ đủ chỗ nằm. Người la liệt trong buồng,
trên giường, dưới đất, ngoài hành lang với những vết thương đã được băng bó hay
còn phơi trần lở loét, thiếp im như chết hay than thở khóc lóc. Liêm không nhìn
thấy bóng y tá hay bác sĩ, chỉ có những người phu sau đeo tạp-dề cáu bẩn mặt lặng thinh
hay nhăn nhó. Cảnh tượng hỗn loạn quái đản như xúc động nhận được qua các giác
quan, làm chóng mặt muốn nôn ọc. Khu hộ sinh cũng vậy, một mùi nồng nặc ngai
ngái khó chịu. Trong gian phòng lớn dài mấy chục giường vẫn còn nhiều sản phụ
phải nằm dưới đất, hài nhi còn đỏ quấn bó trong vải dầy đặt cạnh ga-men cơm bằng thiếc xỉn.
Da mặt người nào người nấy thâm tím, mắt tráo trâng nhìn người qua lại trên đầu
mình. Vợ Hỗ được nằm trong một gian phòng nhỏ hơn chỉ có sáu giường, cửa kính
sơn trắng cao khỏi tầm mắt. Liêm đẩy cửa nhìn vào, không thể nhận ra người đàn
bà đã từng ôm ấp nằm ở giường nào. Trong buồng có một chiếc giường trống. Liêm
nhìn vào đấy. Lúc quay lại Liêm bắt gặp một cặp mắt gần ngay chỗ đứng đang
giương chiếu vào mình và nghe tiếng gọi khẽ:
– Chú Liêm.
Liêm giật mình như
bị người bất chợt từ xó tối nhảy vồ lấy mình. Khuôn mặt nằm ngửa gói trong chiếc
khăn len, những nét bỗng trở nên mềm mại dịu dàng hơn. Người đàn bà chỉ cho
Liêm ngồi ghé xuống mép giường, mỗi lần nói Liêm phải ngoảnh cổ lại trông xuống.
Những lúc ngồi im, Liêm ngó thẳng đằng trước nhìn những sản phụ nằm các giường
bên; Người cuối dãy nằm nghiêng gối đầu lên tay hướng mắt vào Liêm. Vợ Hỗ nhắm
mắt mỉm cười, thò một bàn tay ở dưới chăn nắm chặt lấy bàn tay Liêm chống trên
nệm, rất lâu. Xa quá Liêm không thể trông được ánh mắt của người đàn bà tò mò.
Những người khác đang ngủ hoặc đang cố gắng ngủ. Liêm rút tay ra và lúc ấy mới
hỏi: “Con trai hay con gái?” Người đàn bà mở mắt nghiêng đầu hơi ngửng lên nhìn
chiếc nôi bên giường, chiếc nôi bằng sắt sơn trắng bong nhiều chỗ hở cả cốt,
cánh màn nhỏ buông rủ ngả vàng. “Chú nhìn xem”. Liêm đứng lên vén màn nhìn vào
chỉ thấy một đống chăn và giẻ, mãi sau mới nhận ra cái đầu của đứa trẻ chùm
trong chiếc mũ len tím. Đó chỉ là một gương mặt tròn nhỏ bé với những nét mờ của
lông mày, mắt, cái mũi, cái miệng. Liêm không thấy gì cả và cũng không biết là
con giai hay gái. Liêm hạ cánh màn, đứng ngẩn người, nhìn vào mắt người đàn bà
đang chăm chú theo rõi thái độ mình rồi lại chậm chạp ngồi xuống mép giường như
cũ. Vợ Hỗ hỏi: “Giống không?” Giống ai? Giống tôi ư? Tôi không nhìn thấy gì cả,
đó là một đứa trẻ sơ sinh người ta có thể tráo đổi dễ dàng. Hỗ có thể nhìn thấy
đứa bé và thấy giống anh. Anh đã trông thấy nó chưa? Đó là con của tôi và không
phải là con của tôi. Liêm hỏi: “Anh ấy vào đây không?” Có, Hỗ đã ở nán lại cả
sáng sớm nay đợi sinh xong mới đi, anh đã nhìn mặt đứa trẻ. Anh ta vui, đó là
con gái. “Chú muốn đặt tên nó là gì? Anh Hỗ bảo đặt nó là Vân, Kiều-Vân”. Liêm nói: “Đặt tên
nó là Vui đi. Tên Sài-gòn
mà, nhỡ có vào Sài-gòn
nó hợp hơn”. Liêm cười một mình, ít khi Liêm cười như thế trước mặt vợ Hỗ, Liêm
cũng không hiểu sao. Vui, con Vui. Liêm hỏi lảng không để cho người đàn bà kịp
tỏ phản ứng: “Chị cần gì không?” “Tôi thèm ăn nho”, người đàn bà lại luồn bàn
tay dưới chăn tìm tay của Liêm. Liêm vội đứng lên, tiến đến gần bên chiếc nôi
nhìn gương mặt mờ mờ của đứa bé trong màn. Một lát Liêm bảo: “Thôi, tôi về.” “Chiều chú vào không?”
“Không, tôi bận lắm”. Người đàn bà tỏ vẻ giận dỗi, quay mặt lơ đãng nhìn sang
giường kế cận. Liêm đẩy cửa ra ngoài hành lang, bước cắm cúi không muốn nhìn cảnh
tượng xung quanh. Dắt xe ra đến hè, Liêm dừng lại nhìn về hai đầu phố xa vắng vẻ
và nghĩ: phải nhớ tìm việc làm, bắt đầu từ bây giờ là mình đang ở trong tình trạng
thất nghiệp. Liêm vào một hiệu giải khát trong con phố dốc cạnh nhà thương trầm
ngâm tính toán nhưng đầu óc rối bung không mạch lạc. Bên kia vỉa hè bức tường
nhà thương rêu ướt loang lở, để lộ những mái nhà dài ngói nâu xẫm, dưới chân tường
một đống rác lớn có lẽ từ bên trong vứt ra còn lẫn cả một cuốn băng bột hình
cánh tay. Ngoài bờ tường này người ta không bao giờ nhìn thấy cảnh bên trong.
Liêm ngồi gần cả buổi mới rời chỗ. Không thể trở lại nhà thương lần thứ hai,
cũng không thể trở lại nhà Hỗ. Liêm nghĩ đây là dịp để trốn người đàn bà, chị sẽ
không biết tìm gặp ở chỗ nào. Đứa bé vẫn sống, vẫn lớn lên và chẳng liên quan tới
tôi, cũng như tôi… Buổi tối Liêm bảo với mẹ Hải: “Cháu thất nghiệp thật sự rồi”.
Bà cụ chỉ có một mối lo là tòa báo đóng cửa thư từ của Hải gửi về sẽ thất lạc,
bà bảo Liêm viết ngay thư cho Hải biết tin, đề địa chỉ của một người họ trên phố.
Từ ngày chồng chết, bà không muốn liên lạc nhờ vả họ hàng bên chồng nhưng lần
này bà sẽ phải ghé lên dặn nhờ giữ hộ thư Hải gửi về. “Thế này là Tết nhất tôi
lại phải đi lên đi xuống,”
Liêm không có địa chỉ nào để cho Hải gửi thư về khỏi sợ thất lạc.
Sáng vào giờ đi
làm, Liêm lên bưu điện rồi ngồi trên chiếc ghế đá dạo đầu năm đã gặp Khôi. Ghế
đá ướt lạnh, bờ hồ vắng vẻ, Liêm kéo cao cổ áo ngồi gù lưng ngắm vợ chồng người
Tàu bán lạc rang cho khách qua lại trên hè. Ngồi chán ngoài hè, Liêm ngược lên
phòng thông tin đọc báo, đọc cả những tờ báo cũ, những đoạn tin chính tay Liêm
đã xếp tuần lễ trước. Mười một giờ hơn Liêm trở về nhà, hý hoáy tìm cách nhóm bếp,
thổi lửa phù phù không cháy nước mắt ràn rụa. Bà mẹ Hải về sau bảo: “Để đấy.
Không biết thì làm làm gì cho tội thân”. Liêm lau nước mắt cười: “Cháu ở nhà ăn
không, phải tập làm cơm là vừa”. Những ngày tháng chạp ngắn và mau, mới nửa chiều
trời đã xẩm tối. Liêm quanh quẩn trong buồng chật ngồi bó gối nhìn qua cửa sổ cảnh
sinh hoạt của những gia đình ở chung. Sống gần cả năm, Liêm vẫn không quen biết,
không nhớ nổi hết mặt những người ngụ trong gian nhà trên. Những gia đình lao động
này, đàn ông cũng như đàn bà đi làm từ sớm và tối mịt mới về nhà, ban ngày chỉ
toàn thấy trẻ con vài đứa con gái chừng mười lăm, mười sáu, vài bà già còn khỏe
trông nom bếp nước chạy nhảy đi lại trong sân. Căn bếp chật không đủ chỗ, ngay
sát buồng lúc nào cũng ồn ào chí chóe, bếp của bà mẹ Hải phải đặt ngoài sân dưới
một tấm tôn. Nhiều lúc không hiểu trẻ con ở đâu kéo đến chạy túa ngoài bãi rác
vào đến sân như một cảnh chợ, Liêm không thể ngồi nhà quá nửa buổi, đành đạp xe
lang thang ngoài phố nhìn thiên hạ sắm Tết, vào ngồi nghỉ trong vườn hoa không
người lui tới, những ngày lãng đãng trong một nỗi tuyệt vọng rửng rưng. Mình sẽ
làm gì? Bây giờ chính Sài-gòn
là nơi mơ ước được trở lại. Trở lại, nghĩ tưởng đến những háo hức của mỗi lần đổi
thay đã tan biến trong ngày tháng cũ. Hà-nội, tôi đã về Hà-nội được một năm. Những
ngày cuối năm bà cụ nhận được thư Hải. Hải than được nghỉ Tết bốn ngày nhưng
không có nơi mà về, có lẽ nằm lại trại. Liêm ước được đánh đổi chỗ ở với Hải.
Nhưng còn gì không? Hay lại đặt chân xuống Sài-gòn như đã đặt chân xuống Hà-nội?
Hải cũng hỏi Liêm không còn liên lạc với Thái và Ngọc nữa hay sao mà không lấy
địa chỉ Thái cho tiện. Hai mươi tám Tết, mẹ Hải nghỉ chợ, dọn dẹp nhà cửa bàn
thờ, tối ba mươi bà đi lễ đền Ngọc-Sơn
cùng hàng xóm, Liêm cũng mặc quần áo ra phố. Trời tối lạnh, cửa ngõ đóng kín,
phố xá vắng tanh như trong giờ giới nghiêm nhưng từng quãng nghe tiếng chân và
tiếng cười nói của đám người lẩn trong các bóng tối trên hè rủ nhau đi lễ giao
thừa. Liêm đi bộ vào những đường vắng nhớ lại cảm giác đêm mùng một năm trước
khi mới xuống Hải-phòng
phải ngủ chung với anh chàng thanh niên tuyệt vọng, nửa đêm còn mở cửa uống rượu,
chợt nảy ý kiến đến nhà ông San. Vượt khỏi bức tường nhà Rượu, Liêm đứng trước
một khu vực trống tối đầy gió không trông rõ lối, lắng nghe những tiếng nói thoảng
bay ở xa như trong bãi rác. Liêm phải lần mò theo ánh đèn lay động đi vào trong
xóm. Mấy căn nhà của các cô gái chơi đóng ỉm cửa tối om. Liêm đi sát vào các cửa
sổ, trông thấy ông San ngồi một mình trước bàn quần áo tề chỉnh. Ông ngạc nhiên
tưởng nhìn nhầm, mừng rỡ mở cửa hỏi: “Anh đi đâu đấy?” Liêm cười: “Đến xin bác
cho về ăn Tết. Thất nghiệp không nhà cửa.” Ông kéo tay Liêm vào nhà bảo: “Đang ngồi
nhà một mình buồn quá. Bọn trẻ nó đi lễ Ngọc-Sơn cả rồi. Giao thừa nó
mới về”. Liêm ngồi uống rượu nghe ông San nói, hơi rượu làm ấm người nóng mặt,
câu chuyện của ông San làm khuây khỏa trí nhớ. Ông bảo với Liêm có chỗ làm rồi
nhưng để sang năm ngày rộng tháng dài hẵng tính. Nghe khuya gần giao thừa, Liêm
mới từ biệt ông San. Bước ra ngoài trời, Liêm nghe gió lạnh lẽo hơn, nhớ đến
gian nhà của vợ chồng Hỗ ngoài Kim-mã.
Gió ở đấy lộng trên cây cối rậm rạp hơn. Đứa bé gần đầy tháng, Hỗ chắc đang hỏi
vợ: Sao lâu không gặp chú Liêm? hay vợ Hỗ hỏi: Mình có gặp chú Liêm không? Sao
không rủ chú về nhà ăn Tết như năm ngoái. Trước khi đóng cửa ông San nói bỡn:
“Đừng ngã vào đầu xóm nhé. Xúi quẩy đấy. Mùng một hay mùng hai đến đây chơi, ăn
cơm.”
Liêm khép tay ôm chặt tấm áo dạ, bước thấp bước cao, muốn hát nghêu ngao như bọn
lính Tây say. Mấy cô gái chơi đã về, thắp đèn cười rúc rích ở trong nhà. Liêm
ghé miệng vào cửa sổ nói lớn ngoài sức tưởng tượng: Năm mới năm me lấy que chọc
đít… rồi cười khô khố bỏ chạy. Đến đầu bãi rác, đứng lại thở, đi tiểu. Một cô
gái chơi mở cửa, thò đầu nhìn theo rồi lại trở vào. Ngoài đường phố, người đi lễ
giao thừa đang lục tục trở về từ hướng bờ hồ, mỗi người cầm trên tay một cành lộc.
Một vài đứa trẻ còn quơ nghịch những chùm hương cháy dở, gió thổi tàn sáng rỡ.
Liêm nghĩ nếu không vướng bà mẹ Hải có lẽ tôi cũng đi tìm gian buồng trọ trong
khách sạn ở mấy ngày Tết. Tôi cũng sẽ uống rượu và tôi cũng có thể sẽ khóc như
anh chàng… Liêm về đến nhà, bà mẹ Hải đang sửa soạn giường chiếu, chiếc chiếu
hoa mới được trải lên phản. Bà ngửng lên: “Cậu xông nhà đấy”. Liêm đứng dừng ở
cửa buồng sóc lại áo ngay ngắn, chắp tay hỏi: “Giao thừa rồi hả bác?” “Hơn mười
hai giờ rồi. Năm mới rồi. Tôi chúc cậu…”✳
Đồng đầm mình giữa
những linh cảm, những dự tưởng như trong một cơn mê mở mắt, một sự sáng suốt hoảng
hốt; hiện tại bị lật ngược vào quá khứ, quá khứ nhào chụp lấy hiện tại không
còn phân biệt. Những chuỗi huyễn tượng liên tiếp xô đẩy như mây nặng trên trời
mùa đông, màu xám chì dằng dặc nối kết ngày tháng. Đêm trằn trọc thao thức, Đồng
nhìn rõ mình – mình cứ mọc cao lên mãi một cách kỳ quặc như một thân cây đã khô
héo chờ đón cơn giông thổi trốc rễ nhào đổ vô giác, cơn giông còn xa tít tận
chân trời và thân cây cạn nhựa mỗi giây phút vẫn tủa mọc những nhánh cành trơ
trụi. Thành phố u ám vẫn rực rỡ nhởn nhơ không nhìn thấy một dấu hiệu nào của
cơn khủng hoảng sẽ tới, trong nhà đời sống gia đình, với đứa con anh Đạo chập
chững tập đi, chị Đạo lúc ra lúc vào giữa hai vùng, vợ chồng anh Thái đưa con
cái về chơi những ngày nghỉ – đã thấy như hội đủ mặt không còn không khí vắng
thiếu, chỉ chờ người đi xa trở về đúng ngày hẹn – anh Đạo mỗi lần vợ về nhà đều
gửi theo lời nhắn ngày đoàn tụ. Những linh cảm dự tưởng mở thành những huyễn tượng
làm ngõ thoát sự cô lập, nhưng không thể thay thế được bè bạn coi như đã mất,
chỉ dẫn đến niềm cô đơn buồn bã. Không hiểu xung quanh mình những gì đang biến
diễn, trong mù tối, chỉ nghe những tiếng vọng dội của ám ảnh, những ám ảnh của
tuổi thiếu niên khuất mặt.
Một ngày mưa dầm,
Nhai hốt hoảng đến tìm ở hiệu ảnh, nằn nì, lôi kéo đi cùng với hắn ra phố để hắn
được tâm sự, Đồng từ chối không xong. Đã có đến hằng năm Đồng mất cái thú khoác
áo mưa đi men trên hè cùng với bạn, nhìn phố xá rét mướt, bàn những chuyện viển
vông. Nhai đi đầu trần ngoài mái hiên các nhà, người cao lênh khênh, nói mà
không nhìn, mặt ngửa trông mưa đáp xuống, những thất vọng, tuyệt vọng dồn dập
không ngăn giữ nổi, Đồng nghe bằng tai lơ đãng, cảm như được ru trong thế giới
mơ mộng của mình đã thoát bay ở ngoài. Nhai thổ lộ về người yêu bé nhỏ của hắn,
ngây thơ trong trắng như một nàng tiên; những khó khăn cách trở mà gia đình
nàng tạo ra để cản hắn không tới gần được, nàng đau khổ, hắn đau khổ và cái chết
hò hẹn đã trùm phủ lên hai đứa như những đám mây đen chĩu. Ngồi lại trong hiệu
cà-phê
vắng, nhìn qua tấm kính mờ hơi nước, một con phố hẹp dốc dẫn xuống nhà thờ lớn,
Đồng bỗng nghĩ có lẽ Thạch cũng đã nghe những lời tâm sự của mình bằng một tai
giống như thế và Đồng nhắc với Nhai một câu nói đùa của Thạch: “Cậu như người ở
thế kỷ mười chín rớt lại”, Nhai không chú ý đến lời riễu cợt, hắn mơ màng, hắn
thoạt tỉnh, hắn nói, hắn đọc thơ, hắn cười, hắn buồn bã, hắn trầm ngâm, hắn
vùng vẫy một mình trong tấm lưới của tưởng tượng đã dăng trải. Đồng uống từng
ngụm cà-phê,
tự hỏi mình cũng đã rửng rưng rồi hay sao. Tuần lễ sau, Nhai lại tìm tới cuống
cuồng như người mất trí bất kể sự có mặt của Cúc và khách hàng, hắn nói như sắp
bật khóc: Nàng chết rồi, hai mắt đỏ ngầu dữ dội. Đồng lại đi theo Nhai vào bệnh
viện Đặng Vũ Lạc ở phố hàng Cỏ. Trong nhà xác Nhai đứng cúi gầm ở một góc cửa
không nhúc nhích, bên những tiếng than khóc nỉ non của gia đình người thiếu nữ,
không ai buồn đếm xỉa hỏi han đến Nhai và hắn cũng bất kể đến sự khó chịu bực dọc
của những người khác. Đồng đứng vơ vẩn ngoài sân, nhìn chán những cửa kính đóng
dài trên gác, cây hoa đại trụi lá bên bờ tường trong một khoảng đất nhỏ, lại ra
đứng ngoài bờ hè phố trong sang nhà Đấu Xảo, trông lên nhà Ga. Rồi Đồng lững thững
trở về hiệu ảnh một mình, không đợi Nhai nữa. Trời không mưa nhưng đường vẫn
trơn ướt giá lạnh, Đồng không hiểu, không kịp hiểu ý nghĩ lúc ấy như thế nào.
Chỉ biết trong sự nôn nao trống rỗng cào trong buồng ngực, dội âm u trong đầu
những tiếng động vô lý, những đợt sóng ùa ào hỗn loạn, tay chân bứt rứt đòi
vung vẩy có thể xô chạy tự động nếu không cố ghìm hơi thở để chế ngự. Cơn khủng
hoảng thổi qua mau như cơn gió cuốn. Gặp Cúc, Đồng cười bông đùa: “Tôi sắp
điên. Cô sợ không?” Cúc bĩu môi chế nhạo: “Anh điên lâu rồi mà anh không biết.” Đồng gật gù: “Có lẽ. Có
lẽ. Ở trước mặt cô mà tôi không nhìn thấy đẹp quả là tôi điên thật. Mãi đến
sáng nay. Tôi vừa đến chứng kiến sự tan vỡ của một mối tình đẹp nhất thế kỷ
này. Cô có ước được một mối tình lớn như thế không?”
Câu chuyện tình của
Nhai được đăng trên trang nhất các nhật báo, Cúc đưa chỉ cho Đồng xem, Đồng bảo:
“Hà-nội đang buồn, hết chuyện nói rồi.” Cúc nghiêm mặt: “Tôi thì không bao giờ
tôi tự tử dại như thế cả. Việc gì mà phải tự tử.” “Tự tử vui chứ. Được
nhiều người thương. Có khi sống mình không được như thế.” Cúc hỏi: “Thế có nghĩa
là anh không được ai thương hay sao?” Đồng nhả nhớt: “Tôi hỏi thế cô có thương
tôi không đã nào? Giả thử ngày mai tôi tự tử chết, chắc chắn cô sẽ bảo tội nghiệp
anh chàng ngày nào mình cũng gặp anh ta hai buổi mà không ngờ. Trông chẳng ra
gì, chỉ được cái đùa nhả, thế mà lại là một anh chàng chung tình nhất đời. Biết
đâu anh ta không yêu thầm mình và thất vọng.” “Nếu tôi biết anh yêu
tôi thật thì tôi yêu anh ngay” Đồng nhìn Cúc chằm chằm, Cúc không nao núng má
nàng chỉ hơi ửng hồng như màu áo len khoác ngoài ánh lên. Buổi sáng mưa rả rích
ngoài phố, trong cửa hiệu chỉ có những dãy hình bóng nhập nhòa ở trên tường. Đồng
bật cười khì: “Tôi sợ ở ngoài chắc cô làm địch vận,” và Cúc không trả lời. Đồng
nghĩ Nhai sẽ trở lại tìm để được tâm sự, hắn không thể một mình vượt nổi cuộc
khủng hoảng, nhưng cả tuần lễ không thấy bóng. Một buổi chiều trời tối sớm, Đồng
ghé thăm Nhai, gặp hắn ngồi thu lu trong một góc tối của căn gác như một người
vừa ốm dậy, mắt thất thần, râu tóc tua tủa, quần áo hôi hám. Mọi người trong
nhà đều nói khẽ và né tránh, bà mẹ bảo với Đồng, giọng nghẹn ngào: “Hình như nó
mất trí.”
Đồng vừa bước đến gần vừa gọi: Nhai, cậu làm sao thế? Hắn cử động thân mình
trên phản, nói một tiếng gì không rõ; Đồng ngồi xuống cách khoảng một thước, mẹ
Nhai dụt dè phía sau lưng. Một phút bà ghé vào tai Đồng thì thầm: Cậu ngồi đây
chơi với nó, có lúc nó tỉnh. Gian gác không có ánh sáng, tối om, dưới phố đèn
đã thắp. Đồng ngồi nhìn trừng trừng qua bóng mờ cái hình bóng thảm hại của Nhai
gục đầu trên gối im lìm không động đậy chốc chốc phát ra những tiếng rên nhỏ nhỏ
trong cổ họng. Phía đầu gác những bước chân lên thang dón dén lọt vào buồng rồi
lại rút mau. Đồng nghe rõ nhịp hơi thở lúc hổn hển, lúc yếu ớt như đã mất; Nhai
không thốt một lời nào và Đồng bị bỏ rơi trong gian gác đến lúc tối mịt không
thấy bóng một người trong gia đình Nhai trở lại. Đồng sắp sửa cố gắng đứng lên
để ra thoát cái không khí nửa tỉnh nửa mê, bỗng thấy Nhai ngửng đầu lên, mắt hắn
chiếu từ trong tối lấp lánh như mắt mèo. “Đồng hả?” Đồng dịu dàng thận trọng:
“Cậu tỉnh rồi phải không Nhai?” Nhai thở mạnh như sắp sửa rời chỗ nhưng sau đó
vẫn ngồi im.
“Tôi điên rồi.
Điên thật rồi. Không có ai ở nhà sao? Anh đến lâu chưa? Anh có cười tôi không?
Nhưng quả tình trí tôi cuồng loạn. Không biết từ lúc nào. Có lẽ tôi phải xin
vào ở trong nhà thương. Anh thấy không? Ở nhà không ai dám gần tôi. Tội sợ ánh
sáng bây giờ mà anh bật đèn lên tôi chóa mắt là tôi phát cơn điên ngay. Không
hiểu mấy ngày nay gia đình tôi phải sống ở đâu? Tôi không thể sống nổi nữa. Sống
để biết nàng đã chết tôi càng thêm oán thù những người khác. Tại sao họ lại làm
như thế? Họ được lợi cái gì? Không ai hiểu tình yêu của chúng tôi cả. Đây này
thư của Ngân tôi còn xếp đầy trong túi đây này. Tại sao người ta có thể ác đến
như thế, Ngân chết rồi, chết thật phải không? Tôi cũng chết, lúc ấy tha hồ mọi
người hối hận. Hối hận ăn thua gì. Hối hận rồi họ cũng quên. Tôi còn nhớ, tôi
không thể quên Ngân nổi… Tôi không thể quên Ngân…” Nhai bật khóc òa như một đứa
con nít, Đồng không biết xoay trở cách nào. Khóc chán, Nhai lại im không nói gì
nữa, bỗng hắn như muốn nhảy chồm lên hét ra ngoài cửa gác: “Chúng mày sướng lắm,
rình xem tao khóc sướng lắm hả.”
Đồng giật mình quay nhìn thoáng thấy bóng hai đứa em gái của Nhai thụt lui xuống
nhà. Đồng bảo: “Cáu làm gì. Cậu đừng nghĩ gì nữa.” Nhai thở gấp một hồi,
giọng cao hơn và rung động: “Tôi cũng bảo tôi thế những lúc tỉnh. Không nghĩ nữa,
vô ích. Tôi cũng phải bình tĩnh như Ngân mà chết. Không được. Tôi cứ trông thấy
Ngân nằm đó phủ trong tấm khăn trắng và đầu óc tôi bắt suy nghĩ quay cuồng.” Nhai ngừng bặt như nghe
ngóng những tiếng động bên dưới, những tiếng động tạo hình cho im lặng của phố
xá. “Anh về đi. Tôi nghe như không chịu nổi nữa.” Đồng đứng dậy, đế giày
trơn cọ trên cát bụi của nền gác nghe sắc, mỏi mệt ê ẩm cả người. Gia đình Nhai
vây Đồng ở ngoài đầu cầu thang hỏi xem Nhai còn tỉnh không, Đồng lắc đầu. Ông bố
Nhai bảo: “Sáng mai đưa nó xuống Bạch Mai. Tôi đã điều đình xong cả rồi.” Đường về phố vắng tanh,
lạnh buốt. Liếc nhìn vào trong các quán rượu còn mở cửa, những khoảng sáng đỏ kệch
trên con đường lớn cây um tiếng gió, Đồng sực nhận thấy quang cảnh tẻ nhạt
không náo động ầm ĩ như những năm trước. Bọn lính Tây dạo này bớt phá phách,
thành phố có vẻ yên tĩnh thanh bình, đêm tối thêm thân mật. Có thể lên phố về
đêm, đạp xe dạo chơi để không nghĩ, tôi cần không nghĩ như đã khuyên Nhai. Sáng
hôm sau Đồng báo cho Cúc biết Nhai đã loạn óc. Cúc hỏi Nhai có phải là bạn thân
với Đồng không, Đồng đáp lững lờ bảo là phải cũng được mà không phải cũng đúng.
Cúc vặn: “Anh không có bạn thân hay sao?” “Có chứ. Sao không?” “Tôi có gặp anh
đi chơi với ai khác ngoài anh chàng điên đó đâu?” Đồng ngẩn mặt nghĩ ngợi: “Ừ
nhỉ. Cô có muốn gặp chúng nó không? tôi giới thiệu. Chỉ sợ cô lại mê chúng nó mất.” Cúc trễ dài môi dưới:
“Anh nói nghe dễ thế. Hôm nào anh thử giới thiệu xem.” Cúc rẽ câu chuyện sang
lối khác thuật những chuyện đồn khắp thành phố về bọn lính Ta-bo bắt cóc trẻ
con ăn thịt. Ông chú của Cúc từ trên gác xuống lại hỏi đến chuyện Nhai, ông
trách hắn là đứa con trai không có lý tưởng. Trong khi ông nói Cúc liếc nhìn Đồng
mỉm cười như nàng và Đồng có chung một ý kiến nào đó; Đồng không hiểu ý của Cúc
và nghĩ không rõ Cúc nhìn thấy mình như thế nào. Chủ nhật ấy Đồng xuống thăm
Nhai, gió ngoài đồng thổi ngược cản xe như không muốn chạy, hai lỗ tai buốt ù
lùng bùng. Đồng tiếc những ngày nắng khi Thạch còn nằm dưỡng sức trước khi rời
bệnh viện trở lại đơn vị. Khu điên nằm khuất một góc sân phía trong cùng của
nhà thương, con đường dẫn vào chạy ngang qua nhà xác mở cửa và tối om. Bờ rào
xi măng vây một khoảng đất trống đào thành những luống trồng – không thấy cây mọc;
ở giữa một ngôi nhà nhiều buồng cửa sổ chấn song sắt với một hành lang xẻ đôi
thẳng lối từ cổng vào; trong các góc sân cỏ và chuối mọc lan bẩn thỉu. Mùa đông
rét mướt vẫn thấy hai ba người đi lại vơ vẩn giữa các luống đất, đằng sau những
cánh cửa sổ bất động những khuôn mặt ngơ ngác nhìn ra ngoài cánh tay trần bíu
chặt lấy song sắt. Đồng đẩy cánh cổng, bước vào lối gạch, không nghe tiếng động
huyên náo như tưởng tượng, đi thẳng vào gian nhà không gặp ai ngăn cản, những
người đang đi lại ngoài sân không ai biết đến Đồng. Người giám thị khu điên ở
ngay trong gian buồng đầu tiên mở cửa, gian buồng trần trụi với một chiếc giường
sắt cũ và một chiếc bàn mộc không có ghế, chùm chìa khóa lớn ném ở trên bàn.
Ông ta nhìn Đồng bằng cặp mắt soi mói, tôi cũng có vẻ điên chăng, hỏi trống
không cọc cằn: “Đi đâu?” Đồng nói muốn được gặp một người bệnh tên Nhai rồi đưa
trình giấy phép của bác sĩ. Ông ta đọc đi đọc lại như nghi ngờ giấy giả mạo,
quan sát Đồng từ đầu đến chân. Thốt nhiên trong buồng kế cận tiếng la rống thất
thanh khiến Đồng giật mình sởn gai ốc, tiếng giây xích va chạm loảng xoảng. Người
giám thị chạy tới, kiễng chân ghé mắt nhìn vào, khi quay lại chỗ Đồng ông nói
như dọa: “Sợ chưa? Xích rồi đấy?”
Đồng tưởng đó là Nhai vội hỏi: “Sao người nhà bảo bác sĩ nói bệnh không có gì
nguy hiểm cả?” Người giám thị ngơ ngác hỏi: “Ai?” và sực nhớ ra: “À, số 21 hả?
Trường hợp này cũng hiền thôi, không bị giam, phòng mở cửa mà. Ông đi theo tôi,
cẩn thận, nhỡ mà có bệnh nhân lên cơn bất thình lình trở tay không kịp.” Những cánh cửa sắt dầy
nặng khoét những khung hổng lớn độ hai bàn tay, nhìn qua chỉ thấy một mảng tường
trắng nhờ nhờ. Đến trước cửa một gian buồng gần cuối mở một nửa, người giám thị
nghiêng mình thò đầu vào trong rồi quay trở ra bảo: “Không có. Có lẽ đi dạo ở
ngoài. Số 21 này lúc nào lên cơn chỉ có khóc, khóc ti tỉ cả ngày. Thỉnh thoảng
cũng bị xiềng vào giường, nhưng ít lắm. Không phá mấy.” Đồng theo người giám thị
ra đứng trước thềm nhà, đưa mắt nhìn quanh sân chỉ thấy một người đang đứng bên
bờ rào trông ra bên ngoài – con đường chạy giữa hai hàng cây như chết rũ. Người
giám thị bắc loa tay gọi: Số 21 phải không? Có người nhà đến thăm này. Người bệnh
quay nhìn vào, lững thững đi theo lối rãnh giữa hai luống đất dẫn thẳng đến bên
hông nhà. Không phải Nhai, người giám thị đảo mắt tìm. Đồng bất chợt trông thấy
Nhai ngồi nép vào bờ tường bên góc nhà, hai khuỷu tay chống trên đầu gối, mặt
cúi nhìn đất, Đồng nói vội cảm ơn và đi mau về phía Nhai. Nhai ngửa mặt lên bỗng
hé miệng cười, miệng méo xệch ngây dại, hắn điên thật tình, Đồng đứng cúi nhìn
xuống. Không thấy Nhai biểu lộ thêm cử chỉ nào, Đồng cũng ngồi ghé vào mép tường
hỏi: “Đỡ không?” Nhai lắc đầu, một lúc lâu: “Tôi muốn chết.” Đồng rùng mình như gặp
gió lạnh, tôi muốn chết, thật là buồn, Đồng không tìm được câu nào để hỏi nữa
đành ngồi lặng nghe gió lùa trong đám cây ngoài đường. “Tôi muốn chết.” Nhai như quên hẳn Đồng ở
bên cạnh dán mắt xuống dưới chân. Bàn tay gầy guộc tái thâm, đất cục lổn nhổn
lăn lóc mang những rễ cỏ trắng bệch. Lại nghe những tiếng rú từng hồi ở trong
nhà như lợn bị chọc tiết. Một người đàn ông ngồi ẩn sau gốc chuối gần bờ tường
chạy xổ ra, vỗ ngực bành bạch: Vũ Tam Kỳ đây, ông là Vũ Tam Kỳ đây, ta gơn, ta
gơn. Đồng nhận ra người đàn ông rách rưới mấy năm trước vẫn dẫn một mụ ăn mày
già mù mắt đi hát nghêu ngao ngoài phố và chửi nhau với bọn trẻ con. Vũ Tam Kỳ
đây, Tây ông còn chẳng sợ nữa là thứ mày. Nghe chưa con. Tăng xông, ta gơn. Một
bàn tay vỗ lên vai, Đồng giật thót mình, người thanh niên Đồng đã trông thấy đứng
cạnh bờ rào đến cạnh Đồng lúc nào không biết. “Trông anh quen quá mà không nhớ.” Chưa hề gặp mặt người
này bao giờ: cặp mắt sâu đen, đầu tóc chải mượt, khuôn mặt xanh xao hốc hác,
hàm răng vổ như lúc nào cũng cười, dưới nách cắp một quyển sách dầy đóng bìa
da. “Anh học ở đâu?” Đồng lắc đầu: “Có lẽ mình hay gặp nhau ở phố.” Hắn khẽ nhíu mày xong
cũng ngồi xuống mép tường ép Đồng vào giữa, Nhai vẫn không động đậy. Hắn hất
hàm sang Nhai hỏi Đồng: “Thất tình? Bệt quá.” Đồng ngạc nhiên nhìn
người lạ mặt, hắn cười ranh mãnh, ánh mắt chiếu sáng tinh quái: “Anh tưởng tôi
điên hay sao?” hắn ngừng lại dò xét phản ứng rồi hạ giọng thì thào: “Tôi không
điên đâu. Chúng nó gọi tôi động viên tôi không muốn đi thì vào ở đây. Chẳng việc
gì phải trốn mất công. Anh thấy không? Khi nào ra tôi lại có thừa tài liệu viết
một quyển sách về nhà thương điên. Thật sống nhé. Tội gì chết thiệt thân một
cách vô ích.”
Hắn cười khanh khách khoái trá. Lúc ấy trong nhà vang lên những tiếng đập cửa sắt
thình thình, tiếng người giám thị quát tháo trong hành lang và người đàn ông ở
ngoài sân chạy lại lồng lộn vỗ ngực bành bạch, hét nhai nhải; Vũ Tam Kỳ đây,
ông là Vũ Tam Kỳ đâu, ta gơn, ta gơn. Anh chàng thanh niên bên cạnh Đồng đứng bật
dậy, chạy một hai bước rồi cũng hét: Faut pas gueuler comme ça, couillon.
Tao mới là Vũ Tam Kỳ. Vũ Tam Kỳ chính cống bà lang Trọc đây. Vũ Tam Kỳ đây… Người
đàn ông đứng ngoài sân ngẩn mặt im bặt, trong khi tiếng la inh ỏi vẫn vọng ở
trong nhà, rồi lủi thủi chui vào ngồi sau bụi chuối. Anh chàng thanh niên trở lại
chỗ Đồng nói: “Anh xem tôi có điên không? Ở trong này tôi được tự do đi lại.
Lúc nào chán thì cũng la hét đập phá để họ giam mình lại nằm im một chỗ mà suy
nghĩ, nghiền ngẫm. Anh xem tôi còn đọc được sách mà.” Đồng bật cười hỏi: “Anh
vào đây lâu chưa? Kể cũng thú”. Nhai chẳng nói chẳng rằng, bỏ chỗ đứng lên, Đồng
cũng vội theo, anh chàng thanh niên với nắm cánh tay Đồng kéo lại bảo: “Mặc nó.
Ngồi nói chuyện một chốc đã.”
Đồng gỡ tay hứa sẽ quay ra, nhưng anh ta cũng theo bén gót phía sau. Nhai vào
nhà, đi thẳng về phía buồng của mình không nhìn ai, người giám thị cản Đồng đứng
lại bảo: “Thôi ông về đi. Anh ta đến cơn rồi,” rồi quay sang hỏi anh
chàng thanh niên: “Đi đâu?” “Đi đọc sách.” Anh chàng lại lững thững quay lưng đi ra
ngoài thềm. Đồng vừa bước xuống thềm, anh chàng đã níu tay đi kèm bên cạnh, ghé
sát tai thì thầm: “Tôi nhớ rồi. Tôi vẫn gặp anh ngoài thư viện. Đúng không?”
Hơi thở hôi hám xông lên mũi khiến Đồng phải nhăn mặt đứng lại. “Bọn các anh có
mấy người mà. Đâu cả rồi?” Đồng kiếm cách tháo gỡ những ngón tay bấu chặt lấy
tay áo như móng quặp, nhìn trừng trừng vào mắt người đứng gần bảo: “Buông ra”.
Hắn buông tay, cười toe toét: “Anh sợ tôi điên thật hả? Điên không phải là bệnh
truyền nhiễm. Tôi không sợ bị lây mà. Tôi ở đây đã cả hai ba tháng.” Đồng nghe hai tay lạnh
giá, đầu nặng và trống lao đao, hơi thở dồn dập mệt nhọc, phải ngửa mặt lên trời
hít mạnh không khí. “Tình hình ở ngoài có gì lạ không?” Đồng bước mau ra cổng,
vừa sợ hãi vừa phẫn nộ, tôi hiểu Thạch, hiểu những cơn giận dữ vô lý của nó,
còn tôi nhu nhược, nghe tiếng gọi với bên bờ rào: Thỉnh thoảng xuống chơi nói
chuyện. Đồng dắt xe đạp đẩy đi không dám nhảy ngay lên yên, sợ chóng mặt ngã
lúc nào không biết.
✳
Vào đến phố, Đồng
mệt nhoài, thở không thấy hơi, mồ hôi ướt đầm trong mình giá lạnh. Gió bưng kín
đầu mặt choáng váng, quang cảnh chập chờn mờ nhạt trong những bóng sắc trôi nổi,
thành phố như không còn thực. Xe đạp vẫn lăn bánh, ghìm chặt tay lái, không dừng
lại được. Tôi sắp ngã, chết, đập đầu xuống mặt đường… Tôi sắp ngã, chết, óc
vung vãi. Đồng nhắm chặt mắt trong một giây, cắn mạnh vào môi dưới; mở mắt kịp
lượn tránh cục đá ném bên vệ đường. Xe lảo đảo cọ bàn đạp vào vỉa hè, lạng ra
giữa đường. Phố đìu hiu, không xe cộ, im khuất và Đồng hồi lại dần trong cơn lạnh
toát khắp thân. Chuyến xe điện chạy ngược lên muốn đẩy lùi xe về phía sau. Hàng
cây xanh um mở ở ngã tư cuối phố một vùng ánh sáng xa xôi. Cảm giác vĩnh viễn –
con đường đi không hết, không đến chỗ nào, dằng dặc và sâu hút – trôi nổi và chẳng
chuyển dịch. Đồng bỗng thấy mình đang khóc, nước mắt chảy ròng và vội nở một nụ
cười với mình. Actes gratuits, phải không? Ngón tay cái tự động bóp
chuông xe tiếng kêu lạch cạch, lạch cạch, lạch cạch hoen rỉ. Mặt hồ nước phẳng,
cây xanh bò lổm ngổm lên cao, con đường ngoại ô không hoạt động, đường sắt đen
nhánh, ngõ hẹp quanh co men theo bờ tường rêu. Đồng đứng tựa lưng khá lâu vào
trong góc tường nhờn ướt trước cánh cửa gỗ nhà đóng. Có phải không? Ở trong ấy,
những ngày tháng. Và cái chết, tôi sắp chết, lần này thì quỵ hẳn.
Tiếng trò chuyện
vui vẻ, bát đũa khua quanh mâm cơm trên phản, vợ chồng anh Thái và những đứa
con. Không kịp trả lời những câu chào hỏi ríu rít. Đồng đi thẳng vào giường,
rơi mình xuống cơn sốt lạnh lẩy bẩy mê man chờ sẵn. Cơn sốt chụp kín mít, bốc
ra khỏi sự nhịp nhàng của ngày tháng, ném vào giữa vùng tối ám hỗn loạn ào ạt.
Lúc tỉnh, lúc mê, Đồng không nhớ được gì ngoài một ý nghĩ vắng vẻ hiu hắt không
vang động bao nhiêu: tôi sắp chết. Sắp biết hình dung của cái chết với đôi mắt
bơ vơ vẫn nhìn mình. Đôi mắt đen láy như trời đêm cuối năm mướt lạnh, không chớp
và mở lớn. Et la mort aura tes yeux… Hồng-hà ơi, trôi cát đến chân
làng xa… Cuối sông… Vẫn những điệu hát, điệu
hát đuổi nhau trong một giấc mơ đã rách bươm trong những cơn ho xốc người, những
giòng nước mắt vô tình khô như muối trên gò má. Điệu hát của vĩnh viễn dăng mở
và quấn quýt chôn vùi, vang trong một vòm rộng thênh thang kéo dài không cùng.
Không cùng nên trở thành đường hầm sáng quắc ầm ĩ những tiếng dội liên miên
không ngớt, Đồng đứng ở trong đường hầm ấy choáng váng ngơ ngác nghe lẫn tiếng
la hốt hoảng không phải phát ra từ miệng mình nhưng là của mình. J’ai un
projet: devenir fou… Devenir fou. Faut pas gueuler comme ça. Những khúc hát
cũng là bóng dáng của cái chết bay nhởn, không quá khứ, không hiện tại, không
tương lai, đó là vĩnh viễn. Vĩnh viễn buồn nhạt như mây mù trên hồ buổi mai, buổi
chiều, vĩnh viễn như nhịp sống vẫn đập quanh nín thinh tội lỗi, vĩnh viễn như
tình yêu không bao giờ thỏa. Cái miệng rộng ngoác của Thạch, Thạch, Thạch trên
một thân thể trần truồng dựa vào hai chiếc nạng đang hát – Thạch không bao giờ
hát, không biết hát – một bài ca tuyệt vọng ồ ồ. Một bài hát trơ trẽn, xúc động
rẻ mạt. Mắt nhắm tít lại say sưa, Thạch, Thạch, a quoi bon? C’est moche.
Thạch nói: Mày sắp chết rồi và tao hát đưa mày. Những con vi trùng chạy buồn buồn
trong ngực, đang tìm lối bò ra miệng. Và Nga quỳ hôn xâu chuỗi tượng trên đầu
giường. Anh biết không, em đẹp như một tội lỗi? Anh có yêu em như một tội lỗi
không? Không biết, không thể nào biết được, Nga ạ. Chính nó, nó cũng đau ngực
mà cậu không hay, nó cũng bệnh hoạn. Thật không? Sao anh không nghĩ đến điều ấy
nhỉ? Rồi niềm im lặng rã rượi của những ngày đông tàn dần, ngọn lửa âm ỉ thiêu
tàn những lượng máu dịu dàng, dưới lớp chăn bông nghe chân tay quều quào khô
héo. Gương mặt già cả của mẹ nghiêng trong bóng mờ tối, di động ngập ngừng, lá
rụng chạy ngoài vườn từng chập. Đồng dương mở hết mắt, bao nhiêu ngày bao nhiêu
đêm đã qua, đời sống chia tay biền biệt không còn quay mặt trở lại. Tôi một mình,
tê liệt ngóng đợi chuyến đi của riêng tôi. Đồng vẫn mỉm cười trong trí với
mình.
– Anh Thái bảo đưa
cậu xuống nhà thương. Cậu nghĩ thế nào?
Đồng lắc đầu phều
phào không rõ tiếng. Còn gì nữa đâu để nói nhưng nước mắt vẫn ứa. Tiếng nói vô
ích, thừa thãi đã rút xuống tận dưới cuống họng khò khè nín lặng, nhưng sự nín
lặng tràn lan như một nỗi kinh hoàng bóp giật các bắp thịt mỏi rời. Lần này
không phải là đùa rỡn, đang chết dần từng chút một đây.
– Hôm qua cô Cúc
xuống thăm cậu. Cái cô làm cùng chỗ với cậu ấy.
Cúc hả? Hôm qua là
bao giờ, những chuyện thật xa xôi. Cúc, Cúc còn trở lại lần nữa không? Một
gương mặt nữa để nhìn, để thấy. Một dấu hiệu nào đó giữa muôn vàn dấu hiệu hoảng
hốt. Đồng nhắm mắt lại nhưng không tưởng tượng được gì. Một luồng hơi ấm tỏa từ
ngực nhẹ nhẹ bay lên đầu chỉ làm tăng cơn gió lạnh cùng tột. Đồng khóc gào lên
nghe rõ như tiếng chó tru hãi hùng trong xóm. Giữa hồ lớn mênh mông, không còn
đủ sức vào đến bờ, cố nhắm hướng cây gạo trụi lá Đồng tự nhủ tại sao không trở
lại gốc cây sung sau đình nơi vẫn ngồi xem sách. Đồng thụt sâu, ngoi lên, sặc sụa
nghẹt thở, thụt mãi xuống đáy dẫm chân trên bùn lầy nhầy. Sắp chết, không ai đến
vớt được. Màu nước xanh rêu thật đẹp. Anh Thái cao giọng: Tôi không ngờ cậu hỏng
đến thế. Cậu đã làm được gì cho ai? Để mà nói… Cậu vào nhà thương điên ở là vừa…
Không, tôi không… Thạch đang cúi xuống cười, còn Đồng nằm ngửa trên cỏ, đầu ê ẩm
gối trên một rễ cây sù sì. Tôi vừa ngất đi chăng? Cảnh vật im sững như trong một
bức ảnh. Và tôi đang gắng cười, hơi nước lạnh toát như đá chườm. Từ một giòng
sông thao thiết chảy dưới một bầu trời đỏ ối và đen thẫm. Trên con đường đất
không ánh đèn lửa nhìn những đốm sáng dăng lơ lửng thật cao dài. Cầu Long Biên.
Những đà sắt nặng xa tít không thấy chắc là đầm hơi sương. Chạy thật mau, chạy
một lúc như thoát bay bổng rồi rớt xuống bò lết và cây cầu vụt biến mất. Chỉ
còn cảm giác đau đớn râm ran, giữa một phố tối mịt, hai dãy nhà như phông vẽ.
Người nữ tu làm dấu thánh giá, cười rũ rượi. Nga, Nga, em đau ngực phải không?
Ai bảo anh thế? Anh bảo, anh sẽ hôn em không sợ gì cả. Em vào nhà tu rồi, đừng
nghịch. Để anh nhìn tóc em. Em thấy không? Anh có thay đổi không? Hà-nội có
khác trước không? Em nhớ Hà-nội và em nhớ anh. Em đã bỏ trốn. Chốc nữa em lại
phải xưng tội, phải sám hối. Tội nghiệp Nga quá nhỉ? Nga không còn khăn, tóc chảy
dài, tóc đen trên chiếc áo đen dài lòa xòa. Em bỏ nốt tấm áo kia ra, anh không
nhìn, anh nhắm mắt mà. Đẹp bằng Phương không? Phương đây. Một bức tượng đá khắc
nổi im lìm. Cánh tay giơ lên không cử động. Đôi mắt của bức tượng động đậy hé mở.
Em chết rồi, em về đón anh đây. Đừng khóc, đừng khóc chứ. Em chết thật rồi ư?
Chết nó như thế nào? Nga thốt cười rũ, gặp đôi người, chết như anh mơ thấy chết.
– Anh Đồng.
Cúc đứng ở bên đầu
giường. Mở mắt nhưng không thể đáp. Không biết là lúc nào mà bặt không tiếng động.
Ánh mờ tối bao quanh không đổi thay. Đồng muốn nói: Cám ơn cô và cố mỉm cười.
Cúc không nhìn thấy, đứng đó, khắc dần vào bóng tối thành một hình nổi. Không
rõ Cúc biến mất lúc nào, chỗ đứng vẫn thấy loáng thoáng những đường tan biến nửa
vời. Có phải Cúc đã yêu tôi? Hay tôi mê gặp Cúc? Cúc đến làm gì?
– Anh đỡ chưa?
Đồng ra dấu muốn mở
cửa sổ. Tiếng chân dẫm nhẹ đi vòng lên trên đầu, cánh tay nhoai lơ lửng ấn vào
cánh cửa, mùi hương ấm. Cửa không mở. Cúc trở lại nhấc chiếc ghế đẩu ngồi xuống
cách giường một khoảng.
– Ở ngoài lạnh lắm.
Tôi muốn được nhìn
mặt Cúc. Trong nhà không còn ai? Không thể nhìn quá khỏi cửa buồng.
– Hôm nay anh thấy
trong người thế nào? Khá hơn chứ. Hôm trước tôi đến anh mê đâu biết gì phải
không? Tết đến nơi rồi. Anh tĩnh dưỡng cho khỏe mà ăn Tết. Anh nói được chưa?
Đồng mấp máy môi,
đắn đo, sợ hãi. Tấm chăn bông dầy ấn nặng trên ngực, bên mạng sườn cấn giỏ nước
nóng được ủ thêm. Đầu óc choáng váng, da mặt lạnh săn, gió nổi ở ngoài xa dữ dội
và mơ hồ. Đồng nhắm mắt, hít hơi mạnh cố phát âm:
– Cúc.
Đồng không rõ mình
có nói được thành tiếng không, trong tai lùng bùng như nước vỗ, đưa lưỡi liếm
môi khô nẻ, nuốt miếng đờm khò khè vướng víu.
– Cúc.
Đồng thở mệt nhọc
như vừa leo đến đầu dốc, đầu gối yếu khuỵu ngã lăn bất tỉnh. Dường như Cúc dạ.
Dạ. Đồng tỉnh trở lại, nghe đâu đây tiếng chuyện trò của mẹ và Cúc. Tay chân bải
hoải rũ liệt, nhưng cái đầu bập bềnh trôi bay như một quả bóng nhẹ. Muốn được
nhìn mặt Cúc, nhìn cây nhãn ở ngoài cửa sổ, mặt nước hồ sau đình. Đồng rớt nghẹo
đầu khỏi gối, bị dốc ngược vào cơn buồn nôn chóng mặt.
Khi Đồng có thể ngồi
được lên, dựa vào thành giường, húp bát cháo nóng với muối và đậu om, Đồng nghe
vẳng tiếng guốc của Cúc bên ngoài, tiếng Cúc trò chuyện với u già thân thiết dưới
sân và nhìn thấy mắt mẹ tươi cười mừng rỡ. Bà không nói gì cả, chăm chú theo
rõi cử động của Đồng, bưng bát cháo bỏ dở đi ra ngoài. Đồng ngả người xuống giường,
thả trí bông lông trong bầu không khí se lạnh dịu dàng nhận được như dấu hiệu của
đời sống vẫn miệt mài xung quanh. Một chốc Đồng sực nhìn thấy Cúc đang đứng
trong buồng gần cửa, cũng vẫn còn mờ ảo như một chiếc bóng được tạc vào tường
và Đồng hồi hộp, mồ hôi toát ướt hai lòng bàn tay giấu trong chăn. Đồng nghiêng
hẳn mặt về phía Cúc, hơi ứ dồn trong miệng không dám mở. Có thể tiếng nói chưa
phát được, Cúc vẫn đứng im, nàng trông chờ gì nơi mình? Một mối tình bệnh hoạn.
Sự tỉnh táo sáng suốt còn chông chênh như màu sáng mờ tỏ trên nét mặt cách xa của
Cúc và những bước loáng thoáng dưới nhà ngang.
– Anh có thích mở
cửa sổ không?
– Thích.
Tiếng còn yếu
nhưng lan động như một niềm vui đột ngột quá mạnh rồi tắt dần như sự luyến tiếc
âm thầm chua chát. Cúc rời chỗ, vòng lên đầu giường, nhoài người mở cửa. Đồng
quay đầu, ngửa cổ, nhìn thấy khuôn mặt Cúc treo ngang trên cao với nửa thân
nghiêng gẫy tỏa xuống hơi ấm của tóc và áo như một luồng gió mạnh thốc làm nghẹn
thở. Cánh cửa bị đẩy mạnh xô đập vào tường, ánh sáng bật lên nhức nhối như những
tia nhọn cùng với nụ cười ngượng nghịu của Cúc khiến Đồng phải nhắm mắt. Đồng đợi
cho Cúc rời chỗ, không nghe rõ Cúc tiến về hướng nào, đứng ở đâu, Đồng thấy
mình đang quay trên một tấm thảm bay mất phương hướng một hồi lâu. Đồng vẫn
không chịu mở mắt, đợi tâm thần bình thản đặt trả lại mình đúng vị trí nhận thức
được rõ ràng. Đột nhiên nghe như một tiếng cười khẽ nhưng khi mở mắt Đồng chỉ
thấy Cúc nghiêm trang đứng nhìn trong một vùng ánh sáng không rực rỡ như Đồng
tưởng. Áo dài xám như màn trời, chiếc áo len đen khoác ngoài, gương mặt bầu
bĩnh hơi trắng quá. Và Đồng mỉm cười đón trước nụ cười của Cúc:
– Tôi tưởng tôi chết.
Cúc kéo ghế ngồi
xuống, kéo tà áo phủ lên đùi, quay nhìn nhà ngoài trước khi nhìn xuống Đồng.
Trong mắt Cúc, Đồng đọc rõ những nét thảm hại của khuôn mặt mình, cảm thấy ngứa
ngáy khó chịu vì hàm râu tua tủa. “Sợ không? Hôm nay thứ mấy nhỉ?” Cúc lắc đầu,
cắn lấy môi trên của mình như đang đắn đo về một ý nghĩ. “Cám ơn Cúc”. Cúc lại
lắc đầu, cúi nhìn vạt áo phủ dưới chân. Đồng kéo chăn phủ lên ngang miệng, quay
ngó ra cửa sổ, những đám lá xanh nặng xóa mờ đi những cảm xúc.
– Anh thấy lạnh
không? Đóng cửa lại nhé.
Đồng nằm chờ Cúc rất
lâu, theo bước chân nàng ra khỏi buồng, xuống dưới sân gạch, ra vườn, mất dấu một
quãng, rồi trông thấy mái tóc nhô trên mép khung cửa trước khi hai cánh được
khép lại từ bên ngoài. Dường như Cúc còn đứng ngoài vườn một lúc mới rời bước,
sự trông ngóng loanh quanh trong bóng mờ làm mắt Đồng nặng díu. Đồng chợp ngủ
quên và lại nghe tiếng guốc Cúc dón dén vào buồng. Cúc về đây, Đồng thở những
hơi thật dài yên tĩnh dễ chịu. Tuần lễ sau, Đồng rời được khỏi giường, bước những
bước bấp bênh ra được đến nhà ngoài nằm trên võng, nhìn mẹ và u già dẫn vài người
khách mua hoa Tết đi qua sân ra vườn rồi lại tiễn chân ra cổng. Nhìn lên bàn thờ
đỉnh đồng lư hương chùi sáng; mấy tấm vải đều thay mới Đồng biết Tết sắp đến
trong một hai ngày nữa. Đứa con anh Đạo chắc đã được gửi xuống anh Thái, sợ bị
truyền nhiễm. Một chốc mẹ Đồng lên bảo: “Hôm nay hai mươi tám Tết rồi. Chắc là
vợ anh Đạo ăn Tết ở ngoài với chồng không vào đâu. Tôi nhờ cô Cúc xin cho cậu
thôi việc rồi. Có lẽ hôm nay cô ấy cũng xuống chơi đấy”. Đồng đùa buồn bã: “Con
dâu tương lai của cụ đấy. Cụ thấy thế nào? Cụ có thích không?” Bà nghiêm giọng
nhỏ to: “Tôi thích thế nào được. Cần nhất là cậu phải làm thế nào cho khỏi hẳn
bệnh mới mong người ta thương chứ.”
Cúc xuống bà mừng tíu tít khoe với Cúc về những cành hoa vừa bán được; Cúc
không biết Đồng nằm trên võng, đứng ngoài sân quay lưng vào. Đồng nghĩ Cúc đang
chứa chan hy vọng, mối tình nào cũng điên như mối tình nào nên cũng buồn thảm
như nhau. Cúc bỗng quay mặt lại thấy Đồng và hỏi to: “Anh khỏe thật rồi à?” Mẹ
Đồng bảo: “Cô lên nhà chơi” và bà bỏ ra vườn. Cúc bước lên thềm, đi thẳng vào
chỗ Đồng: “Trông anh đã đỡ nhiều”. Đồng không còn thấy hồi hộp, người nhẹ nhõm,
nhưng vẫn nằm dài trên võng hơi đu đưa, nhìn Cúc không chớp mắt. Có lẽ Cúc chỉ
là một người bạn tốt? Một người bạn tốt còn quý hơn người yêu lúc này, Đồng bảo:
“Cúc ngồi chơi.”
Cúc giữ được vẻ tự nhiên như ở nơi làm việc, cười vặn: “Anh đổi lối xưng hô lúc
nào thế?” Đồng cười xòa lấp liếm, định nói: Trong giấc mơ, tôi còn gọi bằng em.
Buổi sáng trôi qua êm ả không một vẻ gì đổi khác nếu Đồng không thỉnh thoảng
trông thấy bàn tay gầy guộc nổi gân xanh của mình và cảm giác láp nháp như cát
mỗi lần sờ lên má. Cúc kể những chuyện lặt vặt ở cửa hiệu những ngày Đồng vắng
mặt và nói có lẽ ra giêng nàng cũng xin nghỉ việc. Đồng hỏi Cúc định làm gì, lấy
chồng chăng. Cúc bảo nàng có ý định học nghề hoặc thợ uốn tóc hoặc thợ may, hoặc
y tá hay cô đỡ… chưa biết nhưng nàng muốn có nghề nghiệp. Cúc ra về vui vẻ, hẹn
mùng hai xuống chúc Tết mẹ Đồng, Đồng tự hỏi phải chăng những lần Cúc bước vào
buồng Đồng đã chỉ nhìn thấy những mơ tưởng của mình phóng lên những cử động của
Cúc. Đời sống của mình cũng rẫy đầy những mơ tưởng như vậy. Đồng ngơ ngác nhưng
không buồn, sự trống rỗng vẫn ôm đầy ngực hút hết mọi ảnh tượng và luôn cả mình
ở trong ấy. Cái chết có nhiều đôi mắt khác nhau, của bè bạn, của người yêu, của
người thân… Và Đồng hy vọng Cúc trở lại, ngồi ở ghế với khoảng cách đo lường và
chuyện trò hay im lặng cũng được.
Ngày hôm sau, trời
kín gió như một chiếc bầu đặc không một âm vang nào khác hơn tiếng chuyển động
vù vù quanh quẩn. Đồng vẫn nằm trên võng, quấn chăn quanh mình, ngây ngất trong
một giấc ngủ lúc nào cũng có thể tới và lúc nào cũng có thể mất. Đồng nghe tiếng
ai gọi ở ngoài cổng, giật mình hốt hoảng rồi lại mơ màng chìm đắm, tiếng gọi bị
gió cuốn bay không vượt xa được; Đồng nghe gọi tên mình: Đồng, Đồng ơi nhưng
không động đậy. Ai? Mẹ Đồng dẫn Thạch vào lên đến trên thềm nhà Đồng mới biết.
Thạch bảo: “Tôi về ăn Tết. Thế nào ốm đau ra sao?”
– Tôi tưởng chết.
Thạch bước khập khễnh,
dáng đi trở nên hấp tấp hơn, đứng bên cạnh võng: “Thật không?” Đồng không muốn
tỏ ra yếu đuối trước mặt bạn nhưng tự dưng cũng thấy nước mắt cồm cộm trong mi.
Thạch xoay mình, ném mẩu thuốc ra sân: “Vẫn bệnh cũ?” tiến đến đặt cái sắc tay
lên phản, rồi trở lại: “Tết buồn nhỉ? Tôi đi chơi một mình à. Điệu này đến mùng
hai lại phải đi sớm mất thôi”. Thạch chỉ ở nhà buổi sáng hôm ấy, sau bữa cơm Thạch
xuống phố biến mặt. Tối có lẽ Thạch lại ở lại với một người đàn bà nào, có lẽ
trong cái nhà chứa đã có lần Thạch dẫn Đồng đến, Đồng không hiểu Thạch nói những
chuyện gì với những người đàn bà không quen. Chiều ba mươi Tết, Thạch mới lò dò
trở về trong khi Đồng còn ngủ. Thấy Đồng từ trong buồng men tường ra, Thạch rời
võng đứng lên: “Cậu gầy thật. Trông như ông già sáu mươi”. Đồng nằm xuống võng,
ngắm Thạch đi qua đi lại trong gian nhà đã sạch bóng, chiếc chân phải hơi lết
trên gạch, mặt càng ngày càng khắc sâu những nét đen đủi lầm lì. Thạch hỏi: “Vợ
chồng anh Thái không về ăn Tết?” Đồng bảo chắc sáng mai, anh Thái sợ ngừa cho sức
khỏe của mấy đứa bé. “Nhiều lúc tôi nghĩ xin vào nằm quách trong nhà thương là
yên chuyện. Đỡ phiền người khác. Chỉ sợ lại không chết”. Thạch không nói gì cả.
Buổi tối, Thạch và Đồng ngồi ở nhà trên, mẹ và u già loay hoay dọn dẹp nhà dưới
và sửa soạn mâm lễ giao thừa. Đồng tỉnh táo và căng thẳng lạ thường, tưởng chừng
không thể kéo dài được lâu chỉ chốc lát có thể tắt thở bất ngờ. Thạch bỗng nói:
“Sáng đi chơi buồn quá tôi ghé thăm Nghiêm. Gặp lúc hắn đang in báo bí mật. Chẳng
kịp nói chuyện gì cả.”
Rồi Thạch nhắc đến hôm về suýt bị mìn trên đường số Năm. “Chiến tranh sắp kết
liễu mình không biết sẽ đi về đâu nữa. Có khi chính tôi chết trước cậu là khác.
Lính bắt đầu đào ngũ nhiều, rồi đến lượt sĩ quan. Chẳng biết đám như Nghiêm còn
hy vọng gì không?” Gân máu bên thái dương Đồng nhảy giựt hai ba cái một. Mùi
hương trầm trên bàn thờ làm nôn nao khó chịu. Trong không khí vắng lặng rì rào
trên xa, mắt Đồng sụp xuống, quên hẳn Thạch, một phía khác vọng lại nỗi bát
ngát của mặt hồ lạnh. Thạch ngồi trên ngưỡng cửa, quay mặt ra hàng hiên trông
xuống sân hút thuốc lá, Đồng chỉ nhìn thấy tấm lưng phẳng và những đốm tàn thuốc
gió thổi bay lả tả rồi ngủ quên trên võng. Lúc Đồng thức dậy, tấm chăn đã được
phủ ngang ngực, chân đi bí tất vẫn buốt giá, ngoài sân bàn lễ giao thừa đèn nến
lung lay. Cảm giác hãi hùng không ngờ như khi bị người lạ mặt trong khu nhà
điên nắm cánh tay, ghé sát vào mặt. Tấm phản của mẹ Đồng vẫn nằm đã nhường cho
Thạch ngủ, bà sẽ ngủ với u già dưới nhà ngang trên một tấm phản khác. Nếu mình
chết, Thạch sẽ hết chỗ tá túc khi về Hà-nội. Lúc ấy Hà-nội còn không? Thành phố
sẽ thay đổi như thế nào? Đồng rùng mình tưởng đến lúc cái ý thức vẫn hằng ngày
ôm ấp thân quen vụt tắt vào trong một cuộc hôn mê vĩnh viễn không khi nào còn
ngoi lên được nữa. Cái ý thức không biết khởi sáng ở đâu, bao giờ và không thể
biết tàn lụi lúc nào, chỗ nào; chỉ biết mỗi phút giây vẫn vùng vẫy muốn thoát
ngoài những trói buộc một cách mãnh liệt. Đồng chập choạng lần vào giường một
mình không tin mình có thể đi đến nơi, nghe tiếng Thạch hỏi theo ở trong màn. Đồng
đi ngủ đấy à? Liệu có ngã được không? Đồng muốn đáp nhưng sợ hụt hơi và vội tựa
tay vào tường bên cửa buồng.
✳
Những ngày Tết qua
mau trong sự tẻ nhạt lạc lõng. Sáng mùng một bà mẹ Hải đi lễ chùa, Liêm vẫn
không mở nổi mắt, cơn say đè nặng lấy đầu óc. Mãi đến hơn mười giờ, Liêm mới rửa
được mặt mũi, la cà ngoài sân xem những đám bạc của bọn trẻ con trong xóm. Người
lớn đánh bạc trong nhà, những canh bạc thâu đêm suốt sáng với những người rời
chiếu bạc vội vàng đạp xe sang tận Gia-lâm làm giờ phụ. Bà mẹ Hải vào một ngôi
chùa quá Hà-đông
mãi tận chiều mới về, bà bóc sẵn bánh chưng và nồi thịt kho để trong chạn cho
Liêm. Ăn xong Liêm đóng cửa và lại ngủ. Tối đến bà mẹ Hải bảo: “Thế là hết Tết”
và hỏi: “Cậu không đi đâu à?” Bà ngồi chuyện trò một lúc và đi ngủ sớm, nhắc
Liêm sao không tìm cách hỏi thăm tin tức của mẹ và em, bà biết vẫn có nhiều người
ra vào buôn bán giữa hai vùng, thuê tiền người ta có thể bắt liên lạc tìm hộ
người nhà, Liêm cười: “Thật cháu có biết hiện giờ gia đình cháu ở đâu mà nhờ.” Bà trách: “Các cậu con
trai thật tệ”. Sáng mùng hai, Liêm đến ông San, nhà ông khóa cửa đi vắng. Liêm
đành trở vào phố, không mục đích, mấy lần định xuống vợ chồng Hỗ. Hà-nội ngày Tết
nửa quen nửa lạ, quang cảnh phố phường vẫn như những ấn tượng đã mờ xa trong
trí nhớ xuất hiện rõ rệt hơn. Trời rét ngọt thấm thía. Hè phố rác rưởi không
quét dọn. Những phố hẹp quanh co nhà thấp cũ kỹ toát ra màu sắc và hương vị cổ
kính lâu đời. Gần trưa Liêm trở lại ông San và ở lại uống rượu với ông. Con gái
ông San không còn vẻ gì là người buôn bán ngoài chợ, cô trang điểm như một thiếu
nữ Hà-nội trung lưu, Liêm nghĩ: ông San nói gì thì nói, Hải làm thế nào lấy được
cô. Sau bữa ăn cô rủ em đi xem chiếu bóng và Liêm thấy thoải mái hơn khi được
ngồi riêng với ông San trong nhà. Ông San có lẽ hơi ngượng về con gái, ông nói:
“Ấy, con gái là thế cả. Nó không bằng lấy một phần mười của mẹ nó. Nhưng cũng tại
ở Hà-nội. Ở Hà-nội không thế không được cơ.” Liêm làm như không để
ý, lảng sang lối khác. Ông San bảo Ngọc ngỏ ý muốn Liêm cùng về làm với anh em
lại cho vui. Liêm thối thác nại tính mình ưa thay đổi cũng không thích làm mãi
một nghề. Ông San hỏi Liêm còn nghề gì khác, vui câu chuyện Liêm thuật lại
quãng đời lưu lạc từ năm mới lớn. Ông San sửng sốt hỏi tên đứa bạn ngày ấy đã
cùng bỏ trường kỹ nghệ Đáp-cầu
đi với Liêm sang Hà-nội, Liêm không thể nhớ được. Ông San cười ha hả thích chí:
“Thằng con lớn của tôi đấy. Bây giờ nó làm ở sở Lục-lộ trong Hà-đông ấy. Bốn con rồi. Thằng
Sinh đấy mà, phải không? Ngày ấy tôi cứ rủa mãi đứa bạn nào rủ rê nó, không ngờ
lại là anh. Ít ngày sau cu cậu thất thểu về nhà và từ đấy ngoan ngoãn hẳn”.
Liêm cười: “Chính Sinh rủ cháu mà. Cháu còn kém Sinh một tuổi”. Ông San hẹn hôm
nào sẽ vào thăm Sinh để hai người bạn cũ gặp gỡ, hôm qua Sinh cũng đưa vợ con về
chúc Tết bố. Từ nhà ông San về Liêm tự hỏi nếu ngày ấy Liêm cũng theo Sinh trở
lại, không biết bây giờ mình ở đâu và trở thành người như thế nào. Bây giờ thì
mình là anh chàng thất nghiệp vất vưởng chưa biết rõ ngày mai, không nơi trông
cậy. Bà mẹ Hải vừa là kẻ cưu mang mình lại vừa là một gánh nặng tinh thần bất
ngờ. Suốt ngày mùng ba Liêm nằm buồn ở nhà không bước ra khỏi cửa, bà mẹ Hải lo
lắng tưởng Liêm ốm. Mỗi ngày Liêm càng bị dồn vào thế khó xử với bà. Việc kiếm
không ra, đạp xe rong cả ngày ngoài phố, tối mới về ăn một bữa cơm với bà và bà
vẫn săn sóc tận tình như ngày còn đi làm chung với Hải. Cuối tháng giêng Liêm định
đành trở lại với Ngọc, không thể kéo dài mãi tình trạng bông lông, Liêm sẽ đến
thẳng Ngọc nói chuyện hơn là nhờ qua ông San. Sẽ nói với Ngọc: tôi cần việc
làm, mình bỏ qua chuyện cũ, nguyên do chỉ vì Hải không hỏi ý kiến tôi trước,
tôi đã bỏ Sài-gòn
về đây cũng chỉ vì tôi không còn thích cách mạng nữa, cách mạng gì tôi cũng
không thích, anh nên hiểu cho tôi như thế, tôi không có ý gì khác. Nhưng buổi tối
hôm ấy bà mẹ Hải về nhà mang theo thư của Hải, báo cho Liêm tin mừng là trên
nhà người họ nhờ bà chỉ giúp cho một người thợ in để giới thiệu với người quen.
Bà đưa địa chỉ cho Liêm, bảo sáng mai nên đến ngay cho kịp. Sáng hôm sau bà
đánh thức Liêm sớm, trước khi bà gánh hàng ra chợ. Liêm đến trước một ngôi nhà
hai tầng gần ngõ Hội-vũ,
nằm trong phố Quán-sứ
dốc chạy bên nhà thương Phủ-doãn,
không bảng hiệu, nhìn qua cửa rào sắt ở trong tối om chẳng có vẻ gì là một nhà
in; cách đấy mấy nhà là một tòa báo nhỏ, Liêm nghĩ bà mẹ Hải có thể nghe lầm số
nhà. Liêm vào ngồi uống nước trong hiệu đã đến một lần khi đi thăm vợ Hỗ, nhìn
sang hè đường cạnh chân tường nhà thương vẫn còn đống rác lớn. Mười lăm phút
sau Liêm bấm chuông gian nhà kín đáo, một người đàn ông mặc quần tây dài, áo sơ
mi ngắn tay, tóc cắt cua bờm xờm xuất hiện. Ông ta nhìn Liêm bằng cặp mắt dò
xét hoài nghi, lặng lẽ nghe Liêm trình bày lý do, đưa vào nhà mời vào bàn nước
nói chuyện. Ông hỏi han cặn kẽ đủ điều như lấy khẩu cung: Trước làm ở đâu? Có
gia đình chưa? Quen thuộc thế nào với người giới thiệu? Những năm tản cư ở đâu?
Có theo kháng chiến ngày nào không? Sức học đến trình độ nào? Có xếp được chữ
Pháp không?… Liêm nhức đầu khó chịu trong gian buồng bức bối ở thấp như một căn
hầm nằm dưới một tầng gác không cao lắm ở trên. Sau này Liêm mới rõ ông Phạm với
ai cũng có những câu hỏi tò mò lẩn thẩn không chán như công việc hằng ngày ông
làm. Ông ở nhà soạn sách và tự điển tự in lấy, nhà sau là buồng xếp chữ và một
chiếc máy in nhỏ, chỉ có Liêm làm thợ xếp và một người trông máy in khi nào cần
mới gọi đến. Mỗi buổi sáng ông xuống nhà dưới bật đèn ngồi làm việc đều đặn như
ở công sở đến trưa, ông viết đủ cho Liêm xếp trong một ngày nếu không có công
việc làm phụ từ ngoài cửa hiệu sách ngoài hàng Bông đưa về; buổi trưa ông ra
ngoài cửa hàng trông nom công việc phụ với bà vợ và Liêm làm việc một mình nhà
dưới không bị ai quấy rầy, hết việc có thể ra về sớm. Chủ nhật Liêm được nghỉ.
Những ngày làm việc thảnh thơi nhàn hạ không lo lắng thắc mắc về người xung
quanh, những buổi về sớm Liêm xuống hàng Da vào xem chiếu bóng và nghĩ cuộc đời
mình cũng tạm yên.
Mùa hè đến gần,
nơi làm việc hằng ngày của ông Phạm và Liêm bắt đầu sắp thấy ngột ngạt. Dưới
ánh đèn da ông Phạm xanh mướt thiếu máu, ông hoạt động uể oải chậm chạp, bỏ nhiều
thì giờ trò chuyện với Liêm. Không khí thành phố căng thẳng, xôn xao vì những
tin tức loan truyền. Một buổi chiều Liêm ra về sớm, đi vào phố hàng Da, gặp những
gia đình dân quê gồng gánh lếch thếch đi rong trên vỉa hè, mặt mũi sạm đen ngẩn
ngơ. Một đứa trẻ con ngồi trong thúng giữa đống quần áo rách rưới lẫn gạo gào
khóc, người mẹ gánh bồng đầu nặng đầu nhẹ không buồn nhìn đến, người cha cầm
cây gậy tre đi trước lủi thủi. Nhiều gia đình trải chiếu ngồi nghỉ ngay trên hè
phố, choáng lối người qua lại, dân hàng phố nhìn ngó hoang mang. Liêm không hiểu
chuyện gì đã xảy tới. Buổi tối về nhà, trong xóm đồn ầm tin quân Pháp đã bỏ Nam-định – Thái-bình đột ngột không báo
trước. Việt-Minh
sắp về đến Hà-nội. Bà mẹ Hải cũng thuật lại những chuyện của đám dân chạy loạn
mới đổ về Hà-nội không ngờ trước, các anh của Hải sắp về đến Hà-nội và Hải thì
gần đến ngày ra trường. Sáng hôm sau, Liêm vừa bước chân vào nhà ông Phạm đã nhận
thấy cảnh tượng khác lạ, chỗ làm việc của ông Phạm đồ đạc ngổn ngang, tụ tập
đông người, hai ba gia đình dưới quê vợ của ông Phạm mới tìm đến lúc chiều tối
qua. Suốt buổi sáng ấy, ông Phạm và Liêm không còn bụng dạ làm việc. Ông Phạm
ngồi hỏi tẩn mẩn cả buổi về những việc mới xảy ra. Quân đội Pháp rút lui giấu
kín ý định với dân chúng nhưng người ta vẫn biết. Xe vận tải nhà binh không đủ
chở, người ta nhảy bám theo kêu khóc ngã lăn lóc xuống đường, tàu thủy đã rời bến
vẫn còn người lội đuổi bị nước cuốn chết đuối. Tại sao vậy? ông Phạm hỏi. Người
ta sợ. Sợ cái gì? Sợ V.M. về. Trong cái thành phố bị bỏ rơi hỗn loạn, tiếng kêu
khóc la ó vang rân, Liêm không hiểu kịp những biến chuyển. Sự sợ hãi, kinh
hoàng như một chứng bệnh truyền nhiễm mau lẹ, Hà-nội cũng bắt đầu sống trong thảng
thốt khắc khoải. Đám dân quê túa về đã được dồn vào trong các trường học bắt đầu
nghỉ hè sớm. Những ngày nối tiếp chập chờn mê hoảng như một giấc mơ dữ, Liêm
cũng bị dìm đắm vào trong cái tâm trạng mong mỏi bất an của thành phố. Những
gia đình tạm trú trong nhà ông Phạm rời đi, trả lại cái không khí êm tĩnh nặng
nề của mùa hè cho nơi làm việc. Ông Phạm không còn xuống nhà được đều đặn nữa
và Liêm thì quanh quẩn không công việc trong nhiều giờ. Đợi chiều ra bờ hồ đứng
ngóng nghe tin tức ở phòng Thông-tin
cùng đám đông tụ tập, tối về xóm lân la sang nhà có máy thu thanh ngồi quây quần
bàn tán. Ông Phạm quyết định ngưng làm việc, trả thêm cho Liêm một tháng lương,
hẹn thỉnh thoảng ghé ông xem tình hình thế nào nếu làm việc Liêm sẽ trở lại.
Trên đường về nhà, Liêm đi qua các phố vắng, các biệt thự Tây ở, trông thấy đồ
đạc bầy trên vỉa hè trước một vài ngôi nhà vài mươi người lân la dạm mua bán.
Liêm nghĩ: không hiểu mình sẽ đi đâu? Trở lại Sài-gòn chăng? Bằng cách nào?
Muốn thoát khỏi cơn mê sảng kỳ quái của thành phố này, cơn mê sảng của những kẻ
khác. Tôi chỉ thèm một chốn yên ổn mà không được. Bà mẹ Hải đón Liêm reo mừng
“Tuần sau Hải về rồi”, bà đưa cho Liêm xem điện tín của Hải. Liêm thở dài nhẹ
nhõm, thoát nạn, nghĩ mình được giải phóng. Tôi sẽ làm gì? Không biết. Tôi tự
do, không còn vướng bận. Và tôi… tôi sẽ bỏ thành phố này, bỏ không thương tiếc,
Liêm trông đợi ngày về của Hải, đó là vào tháng sáu trời trong sáng không mây,
những cơn gió hốt nóng phả đầy vào mặt.
PHẦN THỨ TƯ
CHƯƠNG I
Chiếc xe díp chậm
lại, không còn tiếng gió ùa ngược đạp lùng bùng trên vải mui xe, cảm giác tối xầm
vụt nhanh rối mắt khi nhìn mãi vào vách núi đá ven đường; tất cả im bặt, buổi
chiều bỗng chết lặng trong khoảnh khắc. Con đường dứt quãng, biến vào trong khoảng
bờ dốc dài của con sông cạn, dưới nước chiếc cầu phao nổi do công binh bắc trên
những thùng hắc ín lập lờ. Người lính ngồi phía sau hơi nhoài người ra trước muốn
trông ra ngoài, hai đùi vẫn kẹp giữ khẩu súng dựng đứng, nụ cười thoáng hiện
trên nét mặt không rõ rệt như một cơn gió thổi ngang.
Tùng gài số, buông
chân thắng, để xe lăn xuống cầu. Thạch nghiêng ra ngoài, cúi nhìn những hạt sạn
bắn tia dưới bánh xe, chiếc cầu đung đưa lầm rầm, nước hình như không trôi, liếc
nhìn về sau, có thể bị bắn tới từ phía sau, ngay trong xe, xác thả trôi sông và
hắn sẽ ôm súng, tước thêm hai khẩu súng lục, bỏ đi vào một làng gần đây. Trời sắp
tối, những đêm liên hoan mừng chiến thắng Điện-biên vẫn kéo dài trong các
làng xóm vây quanh đồn, hằng ngày lính vẫn ôm súng đào ngũ và Thạch không thể
làm gì được. Không thể làm gì được. Không phải mở đường, không phải hành quân,
chỉ được lệnh phòng thủ với số quân hao mòn dần, ở trong những vòng rào của đồn,
nằm chán lại leo lên vọng canh lấy ống dòm trông vào làng phất phới cờ quạt.
Vòng vây còn nghẹt thở hơn dạo nào phải sống hai mươi mốt ngày liền bị tấn công
(đồn nhận tiếp tế bằng phi cơ, không đêm nào ngủ yên quá một giờ đồng hồ, lồng
lộn vùng vẫy như một thằng điên khát máu) bởi bây giờ những người còn lại xung
quanh đều ngơ ngác hoang mang, tinh thần bất định. Liên lạc với “secteur” cả mấy lần mới được một
lần trả lời, không nhận được gì hơn là “chờ lệnh” mới. Merde. Chờ
cho đến khi còn trơ một mình cháy thui như một con bò giữa đống gạch vụn.
Con đường nổi lên
lở lói, giữa một vùng đồng khô vàng cháy. Chiếc thánh giá đeo trước cổ Tùng lấp
lánh, hắn vẫn nhìn thẳng bóng dâm đang lùa chạy ngược đằng trước. Đêm mùa hè oi
ả như đá tảng vây chặn giấc ngủ, bên tai vang động tiếng loa kêu gọi từng hồi
lâu tiếp nối bằng những lớp hò reo vọng tới trong thinh không rỗng tuếch đen kịt.
Tại sao tôi còn ở lại đây đầm mình trong tuyệt vọng? Nhớ Liên, nỗi nhớ căng thẳng
da mặt bứt rứt ướt nhờn, cào cấu da thịt bằng những móng vuốt của hồi tưởng dữ
dội. Càng nhớ càng như rớt chìm xuống tận đáy cùng của căn hầm mù tối bưng bít,
Liên không thể xuất hiện, Thạch chạy cuồng lên tháp canh hướng vào làng ra lệnh
xả súng bắn. Cho chúng câm đi, câm luôn cả mối kiêu hãnh nhục nhã của mình. Những
vệt lửa sáng tia dài trên những thửa ruộng trống, mất hút, không thể đến mục
tiêu, đánh thức sự hoảng hốt lan tràn trên các tháp canh khác; súng nổ không cả
đến mươi mười lăm phút át được những tiếng động trong làng, rồi im bặt để cho
đêm nổi dềnh lên trong các hình thù quái đản của bụi cây bờ cỏ. Thạch lắng nghe
những tiếng nổ xa hơn ở đồn bạn cách chừng hai cây số như lời đối đáp vội vàng
vô ý nghĩa của những kẻ chung số phận. Merde, dưới sân đồn một vài bóng
chạy qua lại ngơ ngác, máy truyền tin mở rè rè, trung úy Tùng hỏi có chuyện gì,
chẳng có gì cả, bảo ở dưới cứ ngủ yên. Nếu mày ngủ được, merde, nếu mày
cầu kinh và ngủ được với bức ảnh người yêu trên đầu giường và nếu mày thích, cầu
nguyện cho tao, cho hết cả. Đồ con một ngu đần. Trong làng đì đẹp vài tiếng
súng trường vu vơ, Thạch nắm lấy tay người lính gác không cho bắn nữa, chúng
cũng đang đùa. Rồi tiếng loa lại gọi, lần này gần hơn, trước cổng làng, và tiếng
hoan hô òa òa phụ trợ. Đủ rồi, đêm nay như thế là đủ, tôi đi ngủ đây. Những vệt
lửa vẫn bay tít trong hư không mù mịt, những ánh sao băng, như những đốm đèn xa
vời của thành phố khuất dạng, bè bạn khuất mặt, người mình yêu mất tích. Thạch
nằm co quắp trên ghế vải, khóc tức tưởi, những tiếng nấc dồn vỡ khúc khắc trong
cổ họng. Tại sao? Tại sao tôi ở đây, tôi vẫn ở đây? Trong cuộc chiến tranh này
tôi đứng chỗ nào. Tại sao lại khóc? Đồng, tại sao lại khóc? Hiểu được không?
Tùng buông lơi tay
lái, ngả người vào lưng ghế bảo:
– Đường số 5 kia rồi.
Xe đã chạy êm hơn
trên đoạn đường phẳng. Vùng đất bằng đến chân trời, hai chuyến xe hàng đuổi
nhau như ở giữa ruộng. Người lính nói:
– Chúng nó về đến
đây rồi. Dạo này chuyên môn đường số 5 bị mìn.
– Như thế coi như
xong. Không biết nó đã ký chưa? Tối nào tôi cũng mở đài Hirondelle nghe tin tức
đến nửa đêm. Chẳng thấy gì cả. Hà-nội chắc là biết rõ hơn. Anh nghĩ có thể chia
đôi được không? Ông cụ bà cụ tôi đã chạy cả lên Hà-nội. Quốc gia mình thật hạng
bét.
– Bây giờ mới biết
hả?
Trên đường vòng
ánh mặt trời đột ngột đập lóa mặt kính xe. Khuôn mặt cháy đen của Tùng vẫn
không giấu được những nét ngờ nghệch dễ tin của một tín đồ công giáo lâu đời.
Thạch cười sự ngây thơ ấy và Tùng không hiểu.
– Anh định hôm nào
về?
– Chưa biết. Để
xem.
– Cũng định đào
ngũ hay sao?
– Chưa biết chừng.
– Sau đây mới thật
là chiến tranh của mình. Nó có ký mình mới có chính nghĩa mà chiến đấu.
Giọng Tùng vững
vàng giản di, Thạch không muốn bàn cãi. Nó có những lý do của nó. Thạch bỗng
dưng thèm gặp bạn bè, được đối diện với Cảnh nghe chúng biện thuyết để nhìn thấy
rõ mình. Hơn lúc nào hết cô đơn trống trải như bị bỏ rơi. Chúng đang làm gì?
Mình sẽ làm gì những ngày tới, một mình? Xe lao nhanh trên quãng đường vắng, vượt
qua những loại xe chuyên chở hành khách hàng hóa, gió lộng bạt những ý nghĩ.
Sau bức tường vàng chạy dài theo đường cái, đoàn tàu hỏa đang chuyển động, con
tàu vẫn đi lại hằng ngày, Liên vắng mặt. Đoàn tàu cùng chạy song song trên cầu
với những toa than trống rác rưởi khắp tàu. Hà-nội đã nhìn thấy nhấp nhô dưới
xa khuất im trong buổi chiều nhòa nhạt trơ trên những cồn cát nổi giữa lòng
sông. Thành phố ấy đến bây giờ mới nhận ra cũng là một người bạn, sau khi đã đứng
nhìn mãi những vòng rào thép gai, đồng ruộng bỏ hoang bao vây bởi làng xóm thù
nghịch. Rồi thành phố cũng sẽ mất như bè bạn, mày chỉ còn trơ một mình trôi nổi
vào cuộc phiêu lưu vô cùng đích. Thạch nắm vòng quai da trước mặt, nghiêng người
trông xuống con đường chui dưới gầm cầu.
Xuống hết dốc cầu,
Tùng xả tốc lực cho xe phóng nhanh trên đường bờ sông, mặt ngước lên khoái trá,
hắn vẫn có những phút bất kể sự đời bên những phút khiếp nhược yếu đuối, lòng
tin ở hắn vừa vững mạnh vừa bấp bênh một cách đáng yêu, hắn có thể chạy cuồng
như thế khắp thành phố. Đến trước viện bảo tàng, Tùng hãm xe lại nhìn sang Thạch
bảo:
– Đi một vòng bờ hồ,
tìm cái gì ăn rồi hãy về. Anh đói chưa?
Chiều đang ánh rực
hấp hối trên mặt nước hồ. Tiếng động vẫn tuôn chảy đủ chiều. Đám đông lũ lượt,
tản mác trên các lối đi, bãi cỏ dưới những bóng cây đứng gió. Trên cầu Thê-húc nhiều người đứng tựa
nhìn xuống nước, các hàng quán nhộn nhịp. Loa phóng thanh vang vọng ở đầu phố
xa đang loan truyền bản tin tức buồn tẻ. Xe chạy chậm cùng với những chiếc xe đạp
thong thả.
– Chẳng có gì lạ cả?
Cho đến lúc hấp hối,
Hà-nội vẫn không thay đổi, hay không hay biết. Ánh điện quảng cáo nhấp nháy
trên các góc cao in bóng xuống nước hồ xa. Đám đông đậm đặc trong những khoảng
sáng, tản lẫn vào trong bóng tối của những hàng cây um tùm. Không khí dịu nhẹ dễ
thở một thoáng. Một đàn chim tóc trắng bay về ngang trần gian báo tin rằng
có nàng Giáng Hương… điệu hát mơ mộng cố hữu vẫn bám chặt lấy thành phố;
hình như Tùng hát theo, giọng khàn khàn lẫn vào trong tiếng máy nổ đều. Nếu
Liên còn? Và bây giờ? Liên là niềm tuyệt vọng mở lớn đôi mắt đen ở trong hồn,
đôi mắt lẩn bay trên các chòm cây, rơi chìm… Người về trong đêm tối ôm cành
hoa tả tơi, bóng đêm dài, gác đời… lẻ loi.
– Thôi đi ăn.
Người lính cắm cúi
nhồm nhoàm không để ý đến xung quanh, khẩu súng gác cạnh chân bàn. Tùng rót bia
vào cốc, cặp mắt vằn lên những tia máu đỏ và ướt trên khuôn mặt màu bồ quân, hỏi:
– Hôm nay thứ mấy
nhỉ?
Thạch nhìn vào tấm
gương ở sát mặt, râu tóc lởm chởm bẩn thỉu. Trong gương cặp mắt Tùng đờ đẫn ướt
nhẹp như khóc; trong đêm Phục-sinh
Thạch đã bị dựng dậy nghe báo cáo; bên trung úy Tùng bắn pháo hiệu cầu cứu, đứng
ngoài sân đồn nhìn về hướng Tùng vừa kịp trông thấy đạn châu đỏ tắt rụng, những
đốm lửa cuối lả tả như tàn lửa bay theo gió; Trung-úy Tùng gọi Trung-úy, giọng mũi khàn và lừ
nhừ, và có lẽ với cặp mắt dại khờ này. Chuyện gì thế? Có, tôi đang buồn. Merde.
Ngủ đi. Tôi không ngủ được, tôi muốn đi nhà thờ. Đi nhà thờ? Say chưa? Chưa,
chưa say. Mấy năm nay tôi không bước chân đến nhà thờ, tôi nhất định không đến
nhà thờ. Đêm nay tôi nhớ lời mẹ tôi dạy, có thể bỏ hết nhưng đêm nay thì không.
Anh còn nghe tôi nói không? Oui, Idiot. Mẹ tôi dạy hồi tôi còn nhỏ tôi vẫn
nhớ, con mất cả và thiên hạ nhưng con được linh hồn là con được tất cả. Mất cả
và thiên hạ, anh nghe tôi rõ chứ. Có lẽ giờ này Chúa sống lại và Chúa được tất
cả. Et alors. Imbécile. Continue. Chúa sống lại Chúa bất tử, Lui,
il est immortel mais toi, n’oublie pas, tu es mortel.
Nghe rõ không, thôi ngủ đi. Tôi muốn đi nhà thờ. Nhà thờ đâu mà đi? Ở trong
làng. Này thôi đừng điên, nghe bảo đây này, Chúa có mặt ở khắp nơi, cứ quỳ trên
giường mà cầu nguyện, Chúa sẽ đến nghe chưa? Trên secteur mà nó biết tự
nhiên bắn pháo hiệu cầu cứu thì cứ lo sửa soạn mà nhận củ. Thạch cười hỏi:
– Còn tỉnh mà lái
xe không?
Tùng làm hiệu bất
chấp, không trả lời. Ngoài cửa hiệu là phố hàng Buồm huyên náo, buổi tối còn mới
nguyên. Chiếc xe díp đậu làm chật nghẹt một đoạn phố. Người lính ăn xong trước,
nói sẽ chuyển xe sang đậu ở phố ngách gần bên. Tùng bảo:
– Có lẽ ngày kia
hay ngày kìa tôi đi là cùng.
– Nếu tôi xong việc
tôi sẽ đến tìm cùng về.
Thạch chẳng có việc
gì cả nhưng muốn ở lại Hà-nội. Để làm gì? Chưa biết. Có thể sẽ không trở về đơn
vị nữa. Những ngày tới vẫn chờ đợi, cần có mặt ở Hà-nội. Chắc chắn đó là một biến
động lịch sử, trong biến động lịch sử chân trời sẽ mở rộng tôi có thể nhìn thấy
rõ những mộng tưởng của mình còn hay mất. Tout est possible et impossible.
Cái xã hội mục nát lần này sẽ tan tành trước cơn sóng lũ và bọn thanh niên sẽ đứng
trước những vùng đất mới của riêng mình. Phải vậy không?
– Tôi không hiểu
nay mai Cộng-sản
về Hà-nội, dân Hà-nội sẽ sống như thế nào?
– Họ không chết và
dân thành phố này chỉ còn dám mơ ước có thế thôi.
– Nhiều khi tôi
nghĩ nếu chủ nghĩa C.S. không xâm phạm đến tín ngưỡng của tôi, tôi không dám đã
trở thành C.S. rồi. Hình như anh cũng vô thần phải không? Tại sao anh không
thích C.S.?
– Ngoài tín ngưỡng
còn nhiều chuyện khác nữa chứ. Vì anh có tín ngưỡng nên chủ nghĩa C.S. bị phủ
nhận ngay khi va chạm vào thành trì ấy. Nếu anh vượt ra ngoài tín ngưỡng anh sẽ
nhìn thấy nhiều vấn đề khác nữa. Dài dòng lắm.
– Có thể. Nhưng đại
khái với anh…
– Không. Không phải
với tôi… Với tôi thì cái lỗi lầm nặng nhất là họ đã dồn tôi phải đứng vào trong
hàng ngũ những kẻ tôi cũng thù nghịch.
Cơn giận đột ngột
vô cớ tiếp sau câu nói, phải dằn xuống, chỉ có thể nói được với Cảnh, với Đồng
và chỉ có chúng hiểu. Tùng gật gù ra chiều thông cảm:
– Mình phải đi
lính cho Tây chứ gì… Không phải một mình anh.
– Gần như thế.
– Cho nên tôi đã bảo
tôi chỉ mong nó ký mau như nó cởi giây trói cho mình. Lúc ấy quốc gia mình mới
ăn nói được.
Thạch cất tiếng cười,
mày phải bắt đầu biết chấp nhận nếu không muốn tự tử, chấp nhận cảnh ngộ, chấp
nhận những cần thiết của lịch sử. Mày chưa bao giờ có một quê hương, bị chiếm hết
ở mọi nơi; bởi mày chưa chết, mày phải chấp nhận, nuôi lấy tuyệt vọng với hy vọng
vượt được khỏi tuyệt vọng. Cảnh, hắn cũng đã chấp nhận những cần thiết của lịch
sử và chúng ta chỉ nhìn thấy những cần thiết ấy đối nghịch nhau.
Tùng khều vào khuỷu
tay Thạch đặt trên bàn hất hàm ra hiệu nhìn sang một bàn ở dãy bên. Một người
đàn bà trang điểm diêm dúa, đi cùng với một người đàn ông, chốc chốc lại liếc
Thạch cười mỉm; Thạch không nhớ nổi vẻ mặt hao hao quen thuộc là ai và lắc đầu
với Tùng. Bất chợt trông vào gương mặt bắt gặp người đàn bà hướng về bàn Thạch,
nháy mắt trề môi dưới làm hiệu trong khi người đàn ông cúi mặt vào bát, Thạch mới
sực nhớ. Mai. Madeleine. Thạch kêu khẽ: Đúng rồi. Tùng hỏi: Ai thế? Mai,
Mai ở dưới Nam-định.
Người đàn bà đầu tiên với bài học đầu tiên cho cơ thể. Không khí chật hẹp bức bối,
giọng hát líu lo trong những đĩa hát cũ, và những anh lính Lê-dương, Ma-rốc, trong phòng hôi hám,
vết thương ở một bẹn đùi. Tùng vừa nghe kể vừa nhìn Mai chăm chú, trông Mai
sang và lịch lãm hơn xưa.
– Có lẽ cô ta cũng
vừa chạy ở Nam-định
lên.
Thạch tiếc rẻ, nếu
Mai đi một mình… Người đàn bà như là chỗ chôn vùi những mong nhớ hoang mang. Thạch
hỏi Tùng:
– Đi chơi nữa
không?
– Tôi đưa anh về rồi
còn phải về thăm ông cụ bà cụ.
Buổi tối đã vơi hẳn.
Những tiếng guốc thưa thớt xa dần trên một bờ hè vắng. Thạch dành tay lái để
cho Tùng rã rượu. Tùng nghẹo đầu vào ghế xe, nghêu ngao hát. Các cửa hiệu đang
lên cửa. Khu chợ Đồng-xuân
sáng ở ngoài đường, bên trong tối om. Tháp nước bằng đá sừng sững kín mít. Đường
Quan-thánh
tối mờ, lá cây che khuất bầu trời sao mùa hè. Thạch thả cho xe trôi theo dấu đường
sắt tàu điện. Nhìn lên cửa sổ nhà An cũ, đèn vẫn còn sáng, có lẽ gia đình An đã
trở về nhà cũ. Thỉnh thoảng bắt gặp một tờ báo, Thạch đọc một đôi bài thơ của
An, những bài chán nản phiền muộn. Tất cả sự phá phách từ chối chỉ đến đó, trở
thành một nhà văn theo kiểu mẫu có sẵn của xã hội thành phố: nghèo đói, nghiện
hút, dơ dáy, khốn nạn, bất mãn, khinh bạc… Đánh đổi mặc cảm tội lỗi lấy mặc cảm
bị đày đọa có hơn gì. Cái nhìn lơ láo thất thần trốn chạy đáng thương, đã xong
chưa? Cái nhìn Thạch cũng đã gặp ở một đứa khác, mùa hè năm trước, một đứa bạn
học cùng lớp không thân lắm từ hậu phương trở về thành phố; Lục, không nói những
gì đã xảy ra trong đời hắn, nhưng trông vào mắt nhận rõ hắn không còn hy vọng,
hắn bỏ chạy và muốn chết biệt tăm. Tiếng rao hàng khuya khoắt trong một phố
ngách (lục tào xá… ơ…) đẩy sâu mãi đêm vào vùng tối đen xa lạ, khuôn mặt giá
băng của Bích buổi tối đi tìm Liên trong Ngũ-xã, Bích, có thể nàng đã gặp
Liên, trong gian nhà đông chật bề bộn ám khói thuốc phiện… Thành phố im nổi
trên tiếng rì rầm của nhà máy đèn Yên-phụ giống như tiếng phi cơ bay qua những
đêm ở đồn, chập chờn nghe tiếng kẻng truyền qua các tháp canh, chốc chốc tiếng
đại bác phát nổ đều đặn yểm trợ cho cứ điểm xa hơn… Những đêm lạnh giá rợn người
dưới hố cá nhân nghe ngóng sự rình rập, ngửa mặt nhìn gió phủ đầy đặc, không
nghĩ ngợi, không chờ đón, dưng không ở đó. Như vừa sinh ra đời và sẽ chết trong
những phút sau, rùng mình co cứng lại như một hòn đá vô tri. Trời sáng nhợt
trên mặt hồ Tây tuy không có trăng. Tùng im lặng như ngủ, thốt nhiên hỏi:
– Kể mất Hà-nội
cũng tiếc.
– Thế hả?
– Tôi đâu có được ở
Hà-nội nhiều. Thuở bé tôi ở Thanh-hóa
mãi đến khi lên Trung-học
mới được ra Hà-nội. Ra đến nơi là đánh nhau lại tản cư về Thanh Hóa. Hồi cư về
học mấy năm lại đi lính. Tính ra thế mà đã bốn năm đi lính. Thật không ngờ mình
lại có thể quen với cái nghiệp làm lính. Anh có ngạc nhiên không? Nếu yên được
ra khỏi lính anh có định học lại nữa không?
– Chắc là không.
– Anh định làm gì?
– Chưa yên đâu. Mà
chưa yên tôi cũng không ở lại nữa. Hết một giai đoạn rồi.
Tùng ngồi nhỏm lên
nhìn sang, con đường đang thẳng bỗng rẽ quặt bên trái chạy theo bên hông trường
Bưởi:
– Anh định đào
ngũ?
– Oui. Có thể như
thế.
Tùng dường như ngẫm
nghĩ không hỏi nữa. Ngoại ô đã ngủ kỹ, chỉ còn mấy con chó hoang chạy nhởn
ngoài đường. Thạch nhấn mạnh ga cho xe vọt nhanh, vượt quá ngõ nhà Đồng một
quãng, phải lùi xe lại. Thạch nhảy xuống trả tay lái cho Tùng hỏi: Tỉnh chưa?
Tùng quay xe, ghé sát vào chỗ Thạch đứng gần bên đường tàu, giơ tay chào, ánh
điện đường vàng khè soi nửa khuôn mặt Tùng lạ lẫm, trước khi lạng ra giữa đường
chạy nhanh vào trong phố. Đào ngũ, không, hắn không thể hiểu được, không phải
đào ngũ…
✳
Thạch tháo khẩu
súng đựng trong bao da, khóa an toàn, bỏ vào ngực áo. Đêm mùa hè đậm đặc sâu tối,
tiếng sóng hồ Tây rì rào, ngõ đã quen. Thạch đứng lại ở khúc quanh, bên cạnh
góc một bức tường rào trên thành phủ lòa xòa những lá cây, nghe tiếng giày đinh
im bặt. Hai bàn tay không, tôi quay lại khởi điểm, đột nhiên thấy mình đã đổi
khác lúc nào không hay biết. Những đêm mùa hè nín lặng như trong vùng chết, được
lệnh phòng thủ bố trí cẩn mật, chỉ mặc một chiếc xi-líp nằm trên ghế vải giữa
những bức tường bưng bít ngột ngạt, buổi sáng oi bức da dính nhớp mồ hôi bẩn thỉu
như màu đất bụi đường trông ngóng đoàn “convoi” đi ngang đồn với mấy chiếc
xe hàng lọc xọc mang theo những tờ báo cũ, mua một vài chai bia, nải chuối,
nhìn những bộ mặt đàn bà không son phấn may mắn hiện giữa đám dân quê; buổi chiều
dài lênh đênh trên các bờ ruộng; lũy tre khô cằn, những người làm đồng lủi thủi
trên đường vào làng, những người ban đêm đào đường và buổi sáng lấp lại; Con đường
lỗ chỗ, không cây cối, nắng làm mờ mắt, mặt trời đốt nóng trên gáy và sau lưng
áo, bóng người ngã vật cùng với tiếng nổ như một ảo giác trước khi bất tỉnh, Thạch
không ngờ mình còn sống, đang đứng đây, mù tối, hoang mang, bồn chồn và trơ trọi
trước tương lai, không nhìn thấy gì rõ hơn là sự chán nản suy đồi của người
khác bám chặt vào mình, bóp nghẹt thở.
Thạch đẩy cánh cổng
khép không gài then, trong sân vang tiếng cười nói. Mẹ Đồng, cùng hai ba người
đàn bà khác và trẻ con ngồi ở ngoài hiên nhà trên, điện không bật. Bà lên tiếng
hỏi:
– Ai đấy?
– Thưa cụ, cháu.
Thạch.
Bà mừng rỡ đứng dậy,
bước vào nhà bật đèn gọi Đồng; những người khác nhìn Thạch tò mò. Thạch chỉ nhận
ra u già quen thuộc, chị dâu của Đồng ở trên phố với mấy đứa con, còn một người
đàn bà lạ mặt chưa gặp lần nào. Đồng ngồi bó gối trên giường trong buồng một
mình đang nhìn qua cửa sổ ra vườn đêm. Lúc Đồng quay mặt lại, Thạch giật mình
kinh hoảng, Đồng sa sút trông rõ: mặt gầy sọm đen đủi, da như bị cháy, đôi mắt
ướt mơ màng lồi lên như hai hòn bi đục, tay chân khẳng khiu quều quào. Đồng mặc
chiếc áo lót trên thân ép sát vào ngực chỉ còn là bộ xương, vẫn cố gắng cười
như thói quen, tiếng cười khục khục vướng mắc trong cổ không thoát. Thạch nghĩ
ngay mình không thể ở lại nhà Đồng đêm nay và nói:
– Nhà đông quá hả?
– Về tối thế?… Bà
chị vừa ở ngoài vào.
Tiếng nói của Đồng
mệt nhọc phều phào không rõ. Thạch mở tủ của Đồng, tìm quần áo của mình; Đồng vẫn
ngồi một chỗ theo rõi. Thạch thay quần áo, nói dối:
– Về thăm cậu rồi
lại phải xuống phố có việc. Mai tôi lại lên.
– Có hẹn hả?
Thạch nhét khẩu
súng lục vào trong đống quần áo, bảo:
– Tôi để khẩu súng
trong tủ. Tối mang theo nguy hiểm.
– Không sợ tôi lấy
tự tử?
Đồng cười không
thành tiếng rồi bật ho sặc, rời chỗ ngồi xỏ chân vào dép đứng lên rủ Thạch cùng
ra ngoài. Hai người đi qua hàng hiên, những người đàn bà nín bặt chuyện trò. Mẹ
Đồng lên tiếng hỏi, giữ Thạch ngủ lại và Thạch phải thoái thác. Những dự tính,
băn khoăn định gặp Đồng thổ lộ không nói được.
– Có làm được bài
thơ nào không?
– Không.
Ngõ thật khuya, tiếng
của Đồng khào khào âm thầm như sự xô động vu vơ của cây cỏ lẫn trong bước chân,
Đồng không còn thể hồi phục, có lẽ Cảnh nói đúng, thế hệ này bị hy sinh, mỗi đứa
một cách. Từ ngày ấy chắc không bao giờ Đồng còn nghĩ đến thơ, chính tôi vẫn
thường chế riễu cái thái độ ngây thơ, chính tôi cũng dự phần vào trong việc phá
hủy cái tâm hồn mơ mộng của Đồng. Để được gì?
– Chắc cậu mới gặp
chị Đạo… chị ấy vẫn thường ra vào… mà cậu không gặp… Lần này… Ở trên phố có gì
lạ không?
Ngõ sáng dần khi
ra gần đến đường tàu điện. Thạch nghĩ có thể quay vào nhà ngủ chung với Đồng,
trong nhà Đồng đã hoàn toàn biệt lập một mình bên cái chết, nhưng Đồng không tỏ
một ý muốn giữ Thạch lại. Thạch muốn hỏi: Cậu còn nghĩ đến cái chết nữa không?
Nghĩ đến cái chết như khi chăm chú nhìn vào trong mắt của người tình thứ nhất.
Cậu có sợ không? Đêm ầm ì khuất tịch, tuổi trẻ đã qua mất hẳn, một đứa đã tới
cuối đường và lặng lẽ nhìn xuống vực sâu hút, còn một đứa vẫn quay cuồng với…
còn những đứa khác? Thạch cắn chặt môi, nén giữ những xúc động có thể biểu tỏ,
khi Đồng choàng tay bá lấy vai dựa vào người, sự đụng chạm vừa hãi hùng vừa đau
đớn.
Đồng buông vai Thạch,
ngồi bệt trên thanh đường sắt, thở hổn hển, nói như xin lỗi: Hơi mệt. Thạch bảo:
Để tôi đưa cậu vào, rồi tôi đi, nhưng Đồng vẫn ngồi nguyên đưa mắt nhìn về phía
cuối đường tàu chìm vào trong bóng tối của dãy phố nhỏ đã ngủ say. Đồng nói đã
lâu không bước ra khỏi cổng, cảnh tượng cũng chẳng có gì thay đổi và có lẽ mai
kia Đồng chết mọi sự vẫn bình yên phẳng lặng như cũ. Chỗ Thạch đứng dưới gốc
đèn xi-măng
là chỗ cả bọn thường dừng lại nói nốt một câu chuyện dở dang trước khi về phố,
nhiều khi vấn đề chuyển đổi kéo dài cuộc bàn cãi Đồng bước qua đường tàu rủ
sang phía sau đình nhìn Hồ Tây, hay đi dạo lui tới bên cạnh đoạn đường sắt
sáng. Bây giờ chỉ còn sự im lặng biền biệt của vùng ngoại ô phủ ngập bao vây những
khoảng sáng.
– Có được tin gì của
Nga, em An không? Vào nhà tu thật không?
Đồng không đáp, mỉm
cười, làm điệu hóm hỉnh buồn bã. Đứng vài giây, Thạch lại nhắc: Thôi vào nhà
đi. Đồng hỏi giờ này Thạch xuống phố bằng cách nào. Thạch đáp sẽ đi bộ và chợt
nhớ hỏi: Hà-nội còn giới nghiêm không nhỉ? Đồng bảo chắc vẫn còn. Và nói tiếp
không nhìn Thạch: “Chắc Cảnh nó sắp về phải không? Chỉ sợ tôi không còn được gặp
mặt đông đủ mấy cậu… Thật là tiếc…” Thạch cười xòa rồi cũng ngồi xuống đường sắt,
bên kia là ngôi đình làng um tùm bóng cây. Đồng hỏi Thạch về lần này có dự định
gì không và Thạch thản nhiên bảo mình chỉ về chơi. Đồng quay nhìn Thạch rất lâu
hỏi chân đã khỏi hẳn hay chưa? Thạch lắc đầu.
– Lúc mới lớn cứ bị
cái chết ám ảnh và sợ… Vậy mà… lúc thật nặng lại nghĩ đến một cách dễ chịu… Cậu
có thấy thế không?
Đồng cười được một
tiếng ngắn, xòe bàn tay đặt trên đầu gối.
– Cậu có nghĩ đã đến
lúc… mình trông rõ mình chưa?
Thạch vẫn lắc đầu.
Đồng cố ý thở phì phì bằng miệng nghịch ngợm, chỉ còn một vài thói tật giúp nhận
ra Đồng, chắc hẳn trong mắt Đồng, tôi cũng xuất hiện vụn vặt như sự câm nín lầm
lì khi phải đối diện với khổ đau – Tại sao tôi không thể phơi mở trần truồng những
cảm xúc, những ý nghĩ với người khác? Cảm xúc rồi tan biến, tôi muốn trung
thành, trung thành tới tận cùng với tôi và tôi bị vây kín trong bất trắc không
lường – Sự câm nín phân ly không sao vượt nổi.
Đồng chống tay đứng
lên giữa đường sắt hỏi Thạch còn nhớ đã có lần Đồng đi ngoài phố lo sợ viển
vông nhỡ những giây điện của đường tàu có thể rơi đứt, trói chết lấy mình, Đồng
cười khúc khắc đi vài bước trên những gióng sắt ngang. Dạo còn ở hậu phương thấy
người lớn đi qua sông trên một cây cầu xe hỏa bằng cách bước lên trên những
gióng sắt ngang dễ dàng không cần chú ý tôi cũng đã đi thử nhưng chỉ được năm
sáu bước đã chóng mặt phải bám thành cầu trở lại, Đồng nói, nước chảy siết qua
những mô đá, nhấp nhô giữa giòng, đó là vùng thượng du với những buổi sáng mù lạnh.
Đồng ao ước được học trở thành bác sĩ về sống ở miền quê, Thạch đã nghe nhiều lần
điều ước ấy từ những ngày còn cắp sách đến trường với Đồng, Cảnh bảo dự tính của
Đồng là của bọn tiểu tư sản, Đồng đang nhớ đến Hà; cảnh hoang vu thơ mộng của rừng
núi Phú-thọ
những ngày ấy giống như trong những trang sách Đồng xé dần từng tờ khi đi đồng,
ngồi đọc nghiền ngẫm giữa trời, có những đoạn gần như thuộc lòng – quyển Paul
et Virginie của người anh tình cờ, lẫn trong những đồ đạc mang theo khi tản cư;
người anh ấy đã vào học trường Trần Quốc Tuấn vẫn còn thương nhớ kinh đô, có lẽ
người đàn bà lạ mặt ở trong nhà chính là vợ anh. Đồng dừng lại quay lưng, thân
hình ốm yếu như sắp ngã; tiếng ve kêu tận trong vườn Bách Thảo lan ra vang lên
một lúc. Còn tôi có điều ước nào không?
Thạch đưa Đồng trở
vào ngõ, đến trước cổng; Đồng bảo Thạch vào nhà lấy xe đạp mà đi, lúc ấy đã hơn
mười giờ. Thạch không biết ngủ đâu cho qua hết đêm, cổng nhà Đồng đã đóng không
thể quay lại gọi, cũng không thể làm xáo trộn cái gia đình đang kết hợp lại nơi
đó không còn sự trống thừa để dung nạp mình như ngày trước, Đồng cũng đã rút
lui, thu nhỏ vào trong một khoảng hẹp còn được dành riêng chờ chết. Đồng đang hấp
hối cô đơn, tôi đi dong ở ngoài đường giữa ngoại ô chìm tối, một vài quán rượu
còn thức trơ trẽn ế ẩm, trong ngõ thấp thoáng bóng gái ăn sương lẩn lút. Đột
nhiên Thạch nghĩ, hoảng sợ Đồng có thể tự vẫn bằng khẩu súng mình để lại, Đồng
nằm dài trong một góc vườn hay dưới gốc sung lòa xòa bên hồ nơi vẫn ngồi đọc
sách, lỗ thủng khoét bên thái dương, cái chết như lời riễu cợt khúc khích cuối
cùng. Thạch nhấn mạnh bàn đạp, cố gắng theo đuổi những hình ảnh khác chưa hiện
lên; những ngày tháng tả tơi chia lìa không bao giờ kết nối được chăng, những bạn
bè, thân thuộc bỏ đi và mất tích không bao giờ còn nhìn thấy mặt nhau. Vẫn một
mình đi tới hay đi quanh, một mình, giẫm lên những xác chết chạy cuồng, như
trong lần bị phục kích, truy nã, không cần phương hướng.
Thạch tự hỏi đi
đâu, nơi nào có thể gõ cửa ngủ nhờ; bạn bè coi như chẳng còn ai; họ hàng không,
một người mẹ không biết còn sống hay chết, một đứa anh lưu lạc từ ngày nhỏ chẳng
nhớ được mặt mũi; những người quen cũ của gia đình, tuy biết nhưng không khi
nào muốn liên lạc. Chỉ còn cách thuê khách sạn, những gian buồng cho thuê trống
trải lem luốc chỉ gợi nhớ đến những người đàn bà thân thể phơi mở như bóng đêm
che khuất hẳn mình và sự vật; lúc này sự vỗ về ôm ấp gần gũi của đàn bà chỉ làm
tâm thần thêm bực bội. Trong phố buôn bán cửa đã đóng nhưng đèn sáng, nhiều người
bắc ghế ngồi ngoài hè hóng mát, quanh các cột đèn trẻ con còn chơi đùa. Thạch
ra đến bờ hồ ghé vào quán nước. Các lối dạo quanh hồ vắng người, cây và đèn phố
đứng im trơ, hơi nóng dưới hồ thỉnh thoảng bốc lên. Đêm còn dài nồng nực, Thạch
nhớ gian nhà nhỏ bên bãi rác trống gần ao, những ngày hạnh phúc tạm bợ với Liên
đã xa khuất thành kỷ niệm. Dưới gốc cây bàn đặt nghiêng bên những chiếc ghế trống;
sau lưng ba bốn thanh niên cãi nhau oang oang về các kỳ thi vừa qua, không chú
ý đến người chung quanh; Men theo bờ cỏ rậm, một người đàn ông lầm lũi xách chiếc
vợt vớt cá đi về phía ít ánh sáng và tiếng động.
CHƯƠNG II
Ra khỏi rạp chiếu
bóng Liêm nhẹ hẳn người, phố khuya thoáng mát mẻ hơn, đứng ngoài vỉa hè nhìn
đám đông tản mác. Hải ra sau ngơ ngác tìm kiếm, Liêm gọi: Hải. Hải. Hải vừa đi
đến vừa hỏi: “Anh khát không?” Hiệu kem gần rạp còn mở, máy vẫn chạy đều không
nghỉ, một số khách vừa trong rạp ra đã ngồi chật bàn. Hải đứng lại mua kem, bảo:
“Nóng quá, vừa nóng vừa khát.”
Trên hè vắng dần người, cửa sắt của rạp chiếu bóng được kéo đóng lại, kêu rít.
Hải nhìn ra đường nói: “Sài-gòn
giờ này vẫn còn vui. Hà-nội mình nhỏ thật. Khác hẳn. Hôm mới về tôi hơi bỡ ngỡ.” Qua một căn nhà còn hé
cửa, ánh đèn chiếu ra ngoài hè, Hải dừng lại lắng nghe tiếng máy phát thanh khẽ
vẳng. Tiếng nói đều đặn xa xôi lẫn trong những nhiễu âm chíu chít. Hải quay
nhìn Liêm đang đứng đợi: “Chưa có gì mới lạ cả.”
Liêm tự hỏi mình
có chờ đón biến cố ấy không, biến cố mà mọi người đều bàn tán mong mỏi lo âu.
Những người ở trong xóm đi làm cho nhà binh Pháp trong thành, bên phi trường
Gia-lâm
lo ngại bị giải công; ông San dự tính thu xếp gia đình sẽ trở về quê sống; ông
Phạm, một bữa Liêm ghé thăm, đang lo thanh toán công việc dời cơ sở gia đình
vào Sài-gòn,
ông nghĩ bỏ hẳn việc đang làm, chiếc máy in tháo rời các bộ phận sửa soạn đóng
thùng gửi đi. Hôm Hải về đến Hà-nội, cách đây bốn hôm, Liêm ra hãng hàng không
đón xe; trên chiếc xe ca đưa hành khách vào thành phố Hải ngồi cạnh ông Kiêm,
lúc xuống xe đợi lấy hành lý ông Kiêm bảo Hải: “Cháu nên nghĩ kỹ lại. Hôm nào đến
bác chơi. Nói với mẹ cháu bác gửi lời thăm”, ông cũng dặn Liêm đến cùng với Hải
và hỏi: “Anh còn thích hoạt động không?” Ông Kiêm được phóng thích sau Tết, còn
ở lại Sài Gòn dự Đại hội toàn quốc rồi sang Pháp, tình cờ về cùng chuyến phi cơ
với Hải; ông nhận ra Hải trước, trách Hải trong mấy năm đã không thành thật với
ông, dù sao không thể nào ông quên được những người bạn đã chết. Hải nói với
Liêm, ông Kiêm chắc chắn sắp được mời vào chính phủ, ông hy vọng và chờ đợi biến
chuyển của tình thế. Hải phê bình: “Anh thấy rõ chưa? Đến bây giờ mấy ông Quốc
gia mới lo đòi độc lập với Pháp. Chắc chắn là tôi phải đào ngũ; Tôi cũng mong
cho nó nhanh nhanh dễ cho tôi”. Hải trông khỏe, đen, nhanh nhẹn, có vẻ từng trải,
trưởng thành. Câu đầu tiên khi chỉ còn hai người đứng với nhau trên hè phố, Hải
hỏi: “Anh không còn liên lạc với anh Thái, anh Ngọc nữa phải không?” Liêm gật đầu,
thúc giục Hải lên xe về nhà, bà cụ đang mong ngóng. Hải được nghỉ phép nửa
tháng trước khi đổi vào Huế, Hải sẽ không đi, bà mẹ không có ý kiến chỉ bảo cậu
ở đâu tôi ở đấy. Liêm còn chần chừ chọn ngày từ biệt gia đình Hải, ông Phạm đã
hứa sẽ cho Liêm chỗ ở, ông cần một người phụ giúp trông nom trong khi chuyển dọn
đồ đạc xuống Hải-phòng
để đưa xuống tàu thủy.
Hai người rẽ vào một
con phố rộng xẻ đôi một đoạn ngắn trước nghĩa trang tối âm u. Hải hỏi: “Ở Sài-gòn anh ở đâu?” Liêm nói đến
những vùng mình đã hoạt động và Hải không biết, chưa nghe lần nào, những ngày
chủ nhật của Hải chỉ quanh quẩn trong mấy phố Sài-gòn – Chợ-lớn và những khu giải trí.
“Sài-gòn
thật là suy đồi. Tôi đã vào mới thấy những điều mình tin tưởng là đúng. Cái xã
hội này cần phải cải tạo. Hà-nội chưa thấm vào đâu”. Liêm bất mãn vì nhận xét của
Hải, Hải không nhìn thấy được Sài-gòn
Liêm mơ ước trở lại và sống vĩnh viễn. Liêm nói: “Hồi cậu còn ở trong trường,
tôi sợ làm hại cậu nên không giới thiệu với cậu những chỗ tôi quen. Nếu cậu đến
đấy cậu sẽ nhìn thấy Sài-gòn
khác hẳn.”
“Tất nhiên. Tôi hiểu như thế. Tôi muốn nói về một tình trạng…” Khoảng đất trống
tối om, cổng chùa quét vôi trắng hiện lờ mờ không hình thù, ngõ vào nhà khai nồng.
Liêm hỏi khi đi ngang gần ao rau muống bên nhà: “Cậu có định đến thăm ông Kiêm
không?” “Không”. “Tôi định đến thăm ông ấy. Cũng chẳng sao. Mình có cầu cạnh gì
đâu mà sợ. Cậu đi với tôi cho phải phép. Ông ấy cũng tốt”. “Tôi không thích
nghe chuyện ông ấy nói tức anh ách chẳng lẽ lại cãi nhau.” Ở trong nhà bà mẹ Hải
còn thức, mở cửa. Hải nói tiếp: “Lúc nào ông ấy cũng mang bố tôi ra dọa tôi.
May là ông ấy chết rồi, đến ông ấy còn sống ông ấy cũng chẳng làm cho tôi đổi ý
nữa là…” Liêm thôi không nói, đứng lại ở gần ngoài, tìm thau múc nước rửa mặt,
ngửa cổ nhìn trời lốm đốm sao, nghe bà mẹ nhắc Hải lời hứa đưa bà đi thăm mộ
con gái.
✳
Bích nằm im, lưng
mỏi nhừ, nghĩ lờ mờ: thế cũng xong một ngày giỗ, từ giờ đến cuối tháng còn một
lần nữa… Nhà chật, ở chung chạ, trong bếp thì chật ních ỏm tỏi, trên nhà bừa bộn
bầy ra hai ba mâm dọn dẹp đến nửa đêm mới xong; bà cụ vừa làm vừa gắt gỏng bọn
trẻ con đùa nghịch vướng cẳng, la mắng bọn con gái vô tích sự, đay nghiến ông cụ
cả ngày chỉ biết nằm dài bên bàn đèn, cuối cùng khi mâm cơm cúng dọn lên bàn bà
tủi phận hờn dỗi ngồi khóc trong bếp bảo con: Ra gọi bố mày mặc áo vào lễ đi.
Không hiểu sao bà vẫn nhớ những ngày giỗ, ngay cả những ngày họ hàng không ai
nhớ đến? Trong nhà đã yên lắng, không khí bị đè nén dưới hơi nóng của đêm hè.
Chiếc ra-đi-ô cũ đặt ở đầu giường ông
cụ vọng ra một chương trình nhạc khiêu vũ liên tiếp, ngọn đèn dầu đã tắt, ông nằm
đón nghe bản tin tức cuối cùng của đài con Nhạn, ông ngủ chung với hai đứa em
giai. Trên phản gần cửa sổ ngoài, bà cụ nằm với ba đứa khác luôn tay quạt phành
phạch. Mai nằm cạnh thở đều đặn, nhưng chắc chắn chưa ngủ, nó đang nghĩ ngợi mơ
mộng một mình; buổi chiều trong khi nhà bận tíu tít nó biến mất mấy tiếng đồng
hồ, Bích tin chắc Mai đến nơi hẹn với tình nhân, lúc trở về mặc bà cụ chửi rủa,
nó cúi mặt không cãi lo tiếp tay dọn cỗ. Nó đã lớn mười bảy tuổi, bắt đầu yêu,
không che được mắt Bích. Bích tự hỏi: người yêu của nó như thế nào?
Bích trở mình,
lưng áo vừa thay sau khi tắm rửa đã thấm mồ hôi. Trên gác thoáng vọng tiếng cười
nô. Một người từ nhà ngoài đi vào bếp, ngang gần nơi đầu phản nằm. Trong bóng mờ,
ngực áo trắng của Mai phập phồng giấu kín một niềm vui riêng. Bích nghe da rít
nhờn, muốn trở dậy sối nước tắm và rủ Mai ra ngoài hè ngồi hóng mát; giờ đã
khuya, cửa ngoài đóng chặt, chỉ còn có thể ngồi ở sân sau nhìn lên một khoảnh
trời nhỏ. Trong ra-đi-ô, bản tin tức bằng tiếng
Pháp do một cô đầm đọc Bích nghe chẳng hiểu gì, chỉ thỉnh thoảng bắt chợt được
một vài tên Việt-nam
lơ lớ. Bất chợt nghe tiếng bà cụ hỏi vọng sang về công việc hàng họ trong ngày.
Bích nói: “Con đang tính vài hôm nữa xuống Nam-định một chuyến… Nghe nói
xe đạp bán dễ lắm. Để xem tình hình thế nào”. Bà cụ im như đang ngẫm nghĩ tính
toán. Bản tin tức hết, ông cụ tắt máy, chui ra khỏi màn sỏ chân vào guốc đi đến
bàn rót nước uống. Ông bảo Bích: “Mày phải cẩn thận. Lúc này là hỗn quân hỗn
quan không biết đâu mà lường. Lỡ một cái thì khổ”. Bích nghe một tiếng cười ngắn
không phải của mình, Mai vẫn nằm im làm bộ như ngủ say. Ông cụ lép nhép trong
miệng, trở về giường. Mọi lần thế nào bà cụ cũng lên tiếng đối đáp nhưng cơn giận
dỗi vẫn chưa tan, bà im lặng đợi ông vào trong màn mới tiếp tục hỏi chuyện
Bích. Bà lo lắng không hiểu tình thế bấp bênh này kéo dài đến bao lâu, những chỗ
quen thường giao hàng cho hai mẹ con bán trước trả tiền sau bây giờ đều đòi phải
trả tiền trước, những chỗ tiêu thụ không chịu đưa tiền khi chưa nhận được hàng.
Tiếng bà cụ thưa dần,
nặng chìm, tay quạt uể oải. Bích mở mắt trông lên đình màn trắng, xua đuổi những
ý nghĩ lẩn quất như đám muỗi vo ve ngoài màn. Đêm đứng nặng không trôi, ngày
tháng bị kéo trì u uất. Mai cựa mình quay nghiêng mặt, hơi thở thổi bên vai
Bích. Một lát bỗng nghe tiếng hắng giọng khô khan của ông cụ, rồi bà cụ lên tiếng
hỏi giọng tỉnh táo: “Lúc nãy ông nghe tin tức có gì không?” “Vẫn còn đang điều
đình, chưa xong”. Bà cụ thở dài, lại im; ông cụ không nói thêm. Bích nằm ở phản
giữa, khát nước nhưng ngại dậy uống phải nối thêm câu chuyện buồn tẻ. Bích nhắm
mắt, mường tượng đến một phong cảnh nhiều cây cối dỗ giấc ngủ nhưng biết rằng
giấc ngủ chưa đến…
✳
Từ trên bao lơn
nhìn xuống, hồ Halais sáng mờ không một ngọn gió. Một góc hồ gian nhà sàn gỗ trắng
cho thuê thuyền lẫn trong đám cây đen đặc; Con đường đất bên kia hồ chạy ngang
xóm nhà lá thưa, đầu tiếp giáp với phố ngôi nhà lầu ba tầng mới dựng xong nổi
hiện trong ánh đèn đường lác đác. Sự im lặng như dồn tới từ khu Đấu-xảo, các dinh thự ở phía
sau, tỏa lan trong khoảng rộng trước mặt.
Ông Kiêm nắm chặt
thành bao lơn bằng đá mài nhẵn, tự nhủ: thành phố sẽ mất không thể cứu vãn. Sẽ
mất như khu đồn điền rộng mấy chục mẫu nơi có thể nuôi sống hằng trăm đồng chí
trong cả năm, với súng ống trang bị từng chống trả với Việt-Minh một tháng ròng rã.
Ông tưởng như sắp khóc, không khí khô nhạt bám trên mặt. Những người trấn giữ đồn
điền, số tử trận, số thoát thân lưu vong, số bị bắt, mười tám người bị buộc tội
Việt-gian
xử bắn ngay giữa chợ Phú-thọ,
theo truyền thống đã hô lớn: Việt-nam
muôn năm; ông gào lên trong nhà giam: Tại sao không bắn tao cùng với các đồng
chí của tao? Tại sao? Tại sao một mình ông được trừ lại để may mắn được giải
thoát nhờ cuộc hành quân của Pháp? Những người cách mạng thật sự chết sạch, còn
lại một bọn đầu cơ chính trị lưu manh.
Thành phố ngủ say,
lững lờ, không hy vọng. “Trăm phần trăm là từ vỹ tuyến 17 được cắt cho Cộng-sản. Chỉ còn một cách tổ
chức vũ trang chống lại. Không thể để mất miền Bắc.” Ông quan sát từng bộ mặt
gặp trong các cuộc họp, chờ xem phản ứng, và thất vọng. Khí giới lấy đâu? Tiền ở
đâu? Cán bộ đâu? Chiến khu đâu? Liệu Pháp có chịu không? Mỹ có chịu không? Có đủ
sức làm được việc gì hay lại thất bại chua cay như quá khứ? Thật chán nản với
những bộ mặt quen, nhìn lâu ngày trong các phòng khách, thảo luận về chính phủ
tương lai được sự ủng hộ của người Mỹ, lập trường đối với chính phủ ấy, những
cuộc vận động của bè nhóm này nọ. Bọn quan lại thối nát, công chức đàng điếm,
trí thức lẻo mép hèn nhát, chính trị hoạt đầu, bọn chờ thời cầu an, hãnh tiến,
tiết tháo kiệt lực… tập hợp với nhau nhan nhản như bèo Nhật-bản. Không tìm đâu được một
bạn đồng chí như ngày thanh niên.
“Nếu bố cháu còn sống
cũng thế thôi. Cháu vẫn theo con đường đã chọn. Cháu có thể nói thẳng bác và bố
cháu đã lầm khi bảo vệ cho một lý tưởng lỗi thời…” Ông Kiêm cay đắng. Hải nói,
má nó bạnh ra căng thẳng, giọng vững mạnh u tối lẫn trong tiếng động cơ rung đều;
ngoài cửa sổ mây trắng bay từng đùn che khuất màu xanh thẫm của rừng núi trùng
điệp bên dưới. “… cái xã hội mục nát. Cháu đã đủ trưởng thành để suy xét. Thanh
niên như chúng cháu không tìm được lòng tin ở nó…” Ông Kiêm nổi nóng: “Cháu
chưa có kinh nghiệm gì hết về cái chủ nghĩa gọi là Cộng-sản. Sợ đến khi cháu tỉnh
ngộ đã quá muộn. Cháu quên là bố cháu bị thủ tiêu hay sao?” “Cháu không quên. Vấn
đề không phải là thù hận.”
“Bác không bảo cháu báo thù. Cái chết của bố cháu không phải là một kinh nghiệm
cho cháu hay sao?” “Có chứ. Cháu học kinh nghiệm ấy theo một cách khác. Người
ta không thể nào vận động để kéo lui lịch sử…” Chiếc tàu lắc lư bay vào trong
vùng gió động lùng bùng và những cơn mưa rào ngắn ngủi, ông ngả đầu vào lưng ghế
mệt mỏi và già cả. Mặt của Hải nhìn nghiêng, đen đủi, chắc chắn giống bố như hệt;
người bố mất tích đã bỏ rơi những đứa con lớn lên trong tay đối lập. Ông Kiêm
cười buồn: “Cháu bướng giống như bố cháu ngày trước. Dạo ấy bác đã khuyên bố
cháu lánh mặt một thời gian mà bố cháu không nghe”. Nếu Trúc còn sống để nghe
những lời của Hải…
Hà-nội sẽ mất, ông
Kiêm thở dài, lý tưởng mất theo những người chết không còn ai nhớ tới. Trong
nhà giam, ông đã chứng kiến sự chia rẽ của hàng ngũ quốc gia tranh giành ảnh hưởng
trước sự khuynh đảo uy hiếp của đối phương. Sài-gòn tan nát trong tình trạng
sứ quân, đại hội toàn quốc họp dưới sự che chở của một tay anh chị đắc thời.
Tình hình bi đát cùng cực, những kẻ khôn ngoan nhất đã sẵn sàng bỏ chạy sang
Pháp. Sài-gòn
cũng sẽ chẳng còn. Hải có lý của nó, mình đang làm những hành động tuyệt vọng.
Đằng sau lưng,
gian phòng mở trong các cửa, đèn tắt, quạt máy quay tít trong bóng tối như tiếng
phi cơ ở xa. Ngôi biệt thự hoang tịch như một nhà mồ.
✳
Thạch đứng bên cạnh
dãy thùng xếp dài từng đôi trước vòi nước không chảy, dưới chân những bực gạch
dẫn lên Bến-nứa.
Ở trên cùng những bực gạch, cột đèn của phố cao xoay lưng lại và một khoảng trời
đốm sao. Cái ngõ ngắn không trải nhựa ướt lẹp nhẹp được soi sáng một đoạn bởi
ánh đèn ngoài phố hàng Đậu. Gian gác cửa mở, ánh sáng từ phố trên chiếu chếch
vào. Thạch cất tiếng gọi: Anh Nghiêm, anh Nghiêm, rồi im lặng phân vân, lắng
tai nghe những tiếng động xa. Anh Nghiêm. Thạch gọi, cảm như không biết làm gì
khác hơn để nghe tiếng của mình. Một bóng đàn bà đột ngột xuất hiện trong khung
cửa sổ, quan sát vài giây rồi mới lên tiếng hỏi: “Ai đấy?” Có lẽ đó là vợ
Nghiêm, Thạch bối rối ngập ngừng: “Tôi. Tôi hỏi anh Nghiêm. Anh Nghiêm có nhà
không?” Người đàn bà vẫn đứng im một chỗ. Nhà dưới dường như có tiếng động của
một người thức giấc. Người đàn bà biến mất trong khung cửa lúc lâu, Thạch đã định
nhảy lên xe đạp đi luôn, đến đâu thì đến, cùng lắm xin vào ngủ nhờ quận cảnh
sát.
Thạch giật mình,
khi đèn trên gác bật thấy mình đứng phơi trong ánh sáng, nghe tiếng Nghiêm: “Ai
hỏi gì thế?” Thạch cố nói lớn át sự ngượng nghịu: “Tôi, Thạch đây.” Nghiêm im, rồi bước ra
bao lơn nhìn xuống. Thạch nhắc: “Thạch đây, anh nhớ không?” Nghiêm hỏi bực dọc:
“Có việc gì cần không? Sao không để sáng mai. Giờ này mấy giờ rồi?” “Tôi không
có chỗ ngủ. Anh cho tôi ngủ nhờ được không?” Nghiêm quay vào nhà bàn bạc với vợ
và Thạch lại đứng đợi. Xe tuần cảnh chạy ầm ì ở trên cao không nhìn thấy bóng.
Nghiêm trở ra bảo: “Anh dẫn xe vào lối sau, tôi xuống mở cửa cho.”
Ngõ hẹp dẫn xe phải
đi nép người. Nghiêm đã đứng trong cửa hỏi: “Anh Thạch đấy phải không? Đi đâu về
mà khuya thế?” Thạch loay hoay nhấc xe vào trong sân ướt tìm chỗ dựng, đáp:
“Tôi mới về Hà-nội không có chỗ ngủ”. Nghiêm đi trước dẫn lên thang, ngang qua
gian phòng nhỏ khép cửa bên trong đèn sáng lục đục tiếng mở tủ, vào trong gian
gác chính. “Lâu lắm không gặp ai trong bọn các anh”. Trên đi-văng hai đứa con Nghiêm
ngủ với người làm. Ngoài bàn làm việc, tủ kệ sách và bộ bàn tiếp khách nhỏ,
gian gác còn thừa những khoảng gạch trống. Nghiêm vào buồng lấy chiếu giải dưới
cửa sổ ra ban công, tìm cách giúp Thạch mắc màn, xong ra ngồi bàn hút thuốc lào
duỗi chân thảnh thơi. Thạch cảm thấy dễ chịu nhẹ nhõm, bớt thắc mắc, vẫn mặc
nguyên quần áo đến ngồi vào ghế. Ánh đèn rực nóng. Thạch nhìn vẩn vơ lên những
kệ sách chất nặng rồi nhìn Nghiêm mơ màng như trong cơn buồn ngủ.
“Anh đã ngủ lâu
chưa?” Nghiêm mở mắt tỉnh táo, rót nước, ngắm nhìn dò đoán ý định. Nghiêm có hiểu
được tôi muốn gì không? “Dạo này các anh ở đâu?” “Tôi đi lính. Cảnh ra ngoài,
còn An ở dưới Hải Phòng. Tan tác, mỗi đứa một nơi…” Thạch ngừng ngang, không muốn
thú nhận thêm tình cảnh lạc lõng của mình, Đồng hấp hối. Nghiêm hơi nhíu mày,
đang lục trí nhớ về những người được nhắc đến. “Anh thế nào?” Thạch vội chữa lại
câu hỏi: “Anh thấy tình hình thế nào?” “Anh ở trong nhà binh thì thấy rõ đấy. Về
mặt quân sự Pháp thất bại hoàn toàn, bây giờ chắc chắn phải điều đình. Điều
đình cách nào để không phải là đầu hàng. Nó sẽ phải dựa vào thế lực của Mỹ, quyền
lợi của Anh muốn một phần nào ảnh hưởng của Cộng-sản đừng quá lan tràn
nguy hiểm cho khối Thịnh-vượng
Chung. Giải pháp chia đôi Việt-nam
là của bọn Anh đưa ra. Hiện giờ chúng nó chỉ còn mặc cả với nhau về vỹ tuyến.
13, 16 hay 17 chưa biết? Vấn đề chính yếu còn lại là Việt-Minh có chấp nhận không
khi đang thắng thế và có thể thắng trận hoàn toàn? Anh nghĩ xem? Chúng tôi nhận
định như thế này: Việt-Minh
có thể nhận vì chiến lược chung của toàn khối Cộng-sản. Chiến lược ấy là sau
kinh nghiệm Cao-ly,
sự bành trướng của Cộng-sản
nằm trong chiến tranh lạnh, tránh những cơ hội gây chiến tranh nóng với Mỹ. Bởi
thế chấp nhận điều đình là không cho Mỹ cơ hội can thiệp vào vì thấy tình thế
nguy ngập, anh nhớ là ở Điện-biên-phủ Mỹ đã có ý định tham
chiến cứu Pháp. Hơn nữa 10 năm kháng chiến cũng đã khá mệt, chiếm được một nửa
lãnh thổ để cho cán bộ, quân đội nghỉ ngơi dưỡng sức cũng là điều tốt. Việt-Minh tin rằng sau đó nếu
có tuyển cử chắc chắn sẽ thắng nhờ tổ chức dân chúng. Nếu không, lại tiếp tục
chiến tranh, lần này với cơ sở, bàn đạp vững mạnh hơn sau những năm củng cố xây
dựng chắc chắn mạnh hơn lúc này. Cho nên chúng tôi tin là Việt-Minh sẽ chấp nhận giải
pháp chia đôi lãnh thổ. Trong con tính này mấy anh quốc gia bù nhìn bị gạt ra
ngoài. Cũng đáng đời. Anh thấy đấy như tôi vẫn nói với các anh chiến tranh hay
hòa bình, Việt-Minh
không bao giờ đặt cứu cánh là dân tộc. Dân tộc này chỉ là phương tiện, vật hy
sinh không hơn không kém… Mấy anh Quốc gia nhà ta thật khôi hài sắp chết đuối mới
đòi đóng thuyền, họp đại hội để xin độc lập với Pháp, nghĩ là các anh có thể
huy động dân chúng chống Cộng. Thứ nhất là không đời nào Pháp nó để cho chống Cộng
nữa vì như thế phá hỏng cuộc điều đình, cái thân phận là khi nó cần chống Cộng
thì các anh hãy chống, khi nó thôi các anh đòi chống vào cái khổ nào. Thứ hai
là dân chúng cũng mệt mỏi, nếu có điều đình được thì cái chiêu bài Hòa-bình hấp dẫn hơn là một
cuộc chiến đấu mà mục tiêu dân chỉ nhìn thấy là mấy ông chính trị gia phè phỡn.
Thứ ba là Pháp đã phải nhường cho Mỹ ở đây, chống Cộng sau này là Mỹ chứ không
phải là Pháp. Anh có nghe nói đến Ngô-đình Diệm không? Ngô-đình Diệm là người của Mỹ
đã sửa soạn đưa về từ lâu. Hồi năm kia năm kìa gì đây một con mụ Mỹ trong phong
trào Chính-phủ
liên-bang
hòa-bình
thế-giới
có sang Hà-nội dạy Ăng-Lê,
hình như An có đi học với nó, trong các cuộc tiếp xúc với bọn trí thức Hà-nội
có đặt câu hỏi: Ai có thể là lãnh tụ quốc gia thay thế được cho Bảo-Đại? Ngô-đình Diệm có được không? Lần
này Pháp phải nhận cho Diệm là thủ tướng với nhiều quyền hành là bước đầu của Mỹ
vào Việt-nam.
Pháp rồi sẽ phải đi khỏi Việt-nam
vì tình hình Bắc-Phi.
Diệm sẽ được Mỹ ủng hộ để giữ phần đất còn lại… Đại khái nó như thế?” Thạch
nói: “Buồn nhỉ. Thế phải làm gì?” “Dù thế nào thì trong mười năm nay và cả những
năm sắp tới, dân tộc vẫn chưa bao giờ được đặt thành cứu cánh của tranh đấu.
Mình vẫn phải tranh đấu cho nó.”
Lần này Thạch không cười riễu như trước kia. Ngoài cửa sổ những mái ngói lô xô
ngang dọc trong bóng đêm, một ngọn đèn ngoài phố Hàng Đậu nhô giữa hai mái nhà.
Không khí mát mẻ hơn, gió từ ngoài sông thổi luồn nhẹ. Dân tộc này… Thạch lắng
nghe âm vang mơ hồ, tôi chỉ cần những bè bạn. Thạch bỗng nói: “Khi nói dân tộc
không thể nói một cách trừu tượng. Trong dân tộc phải không có mặt những phần tử
nào đó thí dụ như mấy anh quốc gia ăn cắp… Muốn trở thành một lý tưởng, một sự
thật, phải có những người chết cho nó, vì nó mà phải loại trừ. Tại sao các anh
không tổ chức loại trừ những bọn ấy. Tôi nghĩ cần hành động, tôi sẵn sàng gia
nhập với các anh nếu các anh bắt đầu bằng loại trừ. Định nghĩa bằng sự loại trừ…
Anh đồng ý không? Tôi đã đào ngũ rồi, không còn gì ràng buộc…” Nghiêm mỉm cười
bình tĩnh: “Không phải không dám làm. Nhưng vấn đề gì cũng cần cứu xét tường tận
và phải thảo luận kỹ. Hoạt động cách mạng không phải là hoạt động cá nhân, bốc
đồng… Hiện chúng tôi có dự định sẽ ném lựu đạn vào tòa lãnh sự Anh cho chúng nó
biết mặt. Thí dụ như thế anh có làm được không?” “Đó là trò chơi hằng ngày
trong mấy năm nay của tôi. Tôi làm cho.” Nghiêm lẳng lặng một hồi, thong thả đứng
lên bảo: “Thôi mình đi ngủ. Còn nhiều chuyện để mai nói.”
Nghiêm đi vào góc
tường tắt đèn, Thạch vẫn ngồi im trên ghế, trời bên ngoài xám nhạt xâu kín vô
cùng trong tiếng gió nhẹ lao xao. Đi ngủ đi, tiếng của Nghiêm trước khi vào buồng
riêng. Gian gác mờ ảo trong ánh sáng của điện đường chiếu vào, Thạch ngơ ngẩn mệt
mỏi, mặt nặng chĩu không rời chỗ.
✳
Suốt đêm Bích thao
thức trằn trọc, gian buồng ngột ngạt hơi người. Ý nghĩ lập lờ ẩn hiện như bóng
tối bóng sáng bay tan trong mắt lúc mở lúc khép. Những ngày không trôi xuôi nữa,
đột ngột chặn đứng lại năm tháng đã qua, những năm tháng buồn tẻ bỗng hiện lên
lần cuối cùng trước khi tan biến mất nhường chỗ cho một tương lai lạ mặt; những
ngày chờ đợi như miệng vực sâu bị đẩy nhảy qua lúc nào không hay. Rồi cái gia
đình gần mười miệng ăn không một người có công việc nhất định sẽ sống ra sao?
Còn mình nữa, đã hai mươi sáu tuổi đầu… Tôi vẫn sống hằng ngày đều đặn như mọi
việc mãi mãi yên ổn, những chật vật khổ cực cũng là một tình trạng quen thuộc
không đếm xỉa đến nữa, chẳng bao giờ đổi thay. Nhưng bây giờ, như buổi đầu lếch
thếch bồng bế nhau tản cư, dắt díu nhau hồi cư, lại sắp phải sửa soạn đón nhận
cảnh ngộ mới. Chưa lúc nào Bích cảm nhận rõ ràng hơn lúc này nỗi bấp bênh trôi
dạt của đời sống, đời sống mòn mỏi trong đưa đẩy của chiến tranh trong bất trắc
của tình thế.
Trời chưa sáng, những
người ở chung đã thức, xuống bếp đi qua ở trên đầu. Bích không thể nằm lại,
chưa ngày nào được như thế, nghe buổi sáng lên không thèm dậy, dù giấc ngủ thiếu
thốn làm đầu óc nghiêng nặng. Bích lay gọi hai ba lần Mai mới mở nổi mắt bước
xuống khỏi phản, nó còn ngồi ngẩn một lúc trên ghế mới tỉnh ngủ. Tiếng ngáy khò
khi tắc nghẽn của ông bố như cổ mắc vướng đàm, giấc ngủ của ông nặng nhọc thảm
hại; Bích nghĩ đến những bữa thiếu thuốc ông vật vã quằn quại trên giường trước
mặt mọi người như con thằn lằn gầy xác đứt đuôi.
Ngoài sân trời mờ
nhạt, thoáng nhẹ hơn trong nhà. Mai đã nhóm xong bếp, bắc ấm, đang rửa bình bên
bể nước. Hai ba người đứng lấp trong bóng tối, đợi trước hai nhà cầu chung.
Trong bếp bóng đàn bà ngồi ngây trước bếp lửa. Tiếng người nhắc hỏi nhau về
ngày tháng. Bích tìm chiếc ghế con ngồi tựa lưng vào tường, ngửa mặt trong buổi
sáng sớm bắt đầu oi bức, muốn quên hết mọi điều, nghe thấp thoáng một người nào
đi vào trong nhà nói: Hôm nay chủ nhật. Ngoài phố, những chuyến tàu điện đầu
tiên chạy ngang.
Mai đến đứng ở bên
cạnh lúc nào hỏi: “Sáng nay chị đi đâu không? Em đi với”. Bích giật mình ngơ
ngác tự hỏi: đi đâu;
mỗi buổi sáng, mỗi buổi trưa, mỗi buổi tối hai mẹ con chia tay, sách làn, đi ra
đường không mục đích rõ rệt, đến những nhà quen, ngồi truyện trò tầm phào trông
ngóng một món hàng được giao chạy ăn hoa hồng, từ nhà này qua nhà khác khắp
trong thành phố không biết trước sẽ phải đi những đâu lúc nào có thể trở về.
“Ai ở nhà thổi cơm?” “Em sẽ về sớm mà.” Bích mỉm cười, nghĩ dịu dàng: đích thị
cu cậu hẹn hò với ai, nhưng vẫn hỏi: “Mày đi đâu?” Mai bối rối, Bích ngửng nhìn
chằm chằm vào Mai mặc dầu không trông rõ nét mặt. Mai đáp đến thăm một đứa bạn ốm
nặng. Bích cười thầm, không tra hỏi thêm, nó nói dối vụng về không giấu được
ai.
Trời sáng nhanh,
gian phòng bề bộn tức mắt, dây giăng chi chít ngang lối, màu trắng ngả màu bẩn
thỉu, chỉ một lúc đã tưởng như sắp nắng lớn. Bích đứng chải tóc trước gương
treo trên tường nhìn cảnh tượng hỗn độn sau lưng trong giấc ngủ mệt vớt vát của
một đêm hè dài. Bích đã mặc xong áo dài, ngồi vào bàn uống nước đợi Mai gỡ đầu,
ông bố mới thức dậy chống tay nghiêng nửa mình bật lửa châm ngọn đèn trên khay
thuốc đặt ở ghế sát cạnh giường nằm. Mọi người sắp sửa thức dậy hết và gian nhà
sẽ ầm ĩ như chợ với cả những bầy trẻ con không phải đến trường. Bích đến đứng
bên đầu giường mẹ bảo: “Con đi phố. Con Mai nó đi với con…” Bà cụ trở mình uể oải
hỏi: “Con Mai đi làm gì?”, bà hỏi nhưng không tỉnh để nghe đáp; sau mỗi bữa giỗ,
ít nhất bà cũng bị ốm một ngày. Mai nháy mắt làm hiệu với Bích đừng chần chừ đợi
bà tỉnh.
Ở ngoài hè, Bích lại
hỏi: “Mày đi đâu?” Mai đáp xuống chợ Hôm, hỏi xin tiền Bích. Bích dặn Mai phải
nhớ về nhà trước mười giờ. Mai bước vội trên hè như sợ bị người ngăn trở gọi về.
Còn một mình Bích không có ý định nào rõ rệt, vừa buồn ngủ vừa chán nản không
muốn trở lại những nơi đã quá quen cũng ở trong tình trạng bế tắc hồi đầu tháng
sáu đến nay. Bích thèm được một gian buồng yên tĩnh biệt lập, nằm ngủ hết buổi
sáng, một mình không sợ bị ai khuấy động phiền nhiễu, buổi sáng chủ nhật nhộn
nhịp trong ánh nắng hạ, khi thức giấc chỉ nghe tiếng ve kêu ran trên hàng cây
ngoài đường, mơ mộng lười biếng; gian buồng như của Ngọc trên gác một ngôi nhà
cuối phố Sinh-từ
có thể nhìn sang Văn-miếu
với mái cổ kính, khoảng sân cỏ và những lối đi không người. Có lẽ cả năm nay
Bích chỉ gặp Ngọc một hai lần ngoài phố; đến ba bốn năm nay rồi trên những chuyến
tàu xuôi ngược, Cẩm-giàng
– Hà-nội, hằng ngày Bích cùng đi với Ngọc, với Hương, với Liên từ sáng tới sớm
đến chiều tối. Hương đã lấy chồng công chức yên phận vẫn ở nhà cũ ngõ hẻm Hai bà
Trưng với mẹ, chắc đã hết hoạt động cho kháng chiến. Liên sau lần gặp cuối năm
kia cũng không còn dịp gặp lại. Những sự đổi thay vẫn xảy ra xung quanh, trong
đời mình không chú ý, một lúc hồi tưởng nghe rơi hẫng trong lòng những cảm xúc
không thành tựu.
Ngọc mừng rỡ gặp lại
Bích: “Chị Bích. Lâu quá.”,
trong bốn người những ngày còn đi chợ Ngọc được coi là em Út. Ngọc kéo tay Bích
đứng lên thềm, tránh lối cho chiếc xe ô-tô từ trong nhà ra cổng; ông bố Ngọc tươi
cười vẫy tay chào. Ngọc vừa nắm lôi Bích vào phòng khách vừa nói: “May quá. Em
cũng định sẽ phải xuống chị… Hôm qua em gặp chị Liên ngoài bờ hồ. Chị ấy hẹn
sáng nay đến em. Chị đến đây thật vừa dịp. Chị ở đây chơi đợi chị Liên”. Bích
ngắm Ngọc tươi cười ríu rít, chạy ra chạy vào tiếp đãi: Ngọc trẻ và đẹp ra,
phòng khách trông sang trọng mới lạ hơn trước nhưng Bích không nhớ được nó đã
thay những món vật gì. Màu tường hình như sáng mát hơn không phải màu ngày trước?
Ngọc nói: “Gia đình em sắp vào Tourane. Có lẽ chỉ độ tháng sau. Thế nào chị em
mình cũng phải họp mặt một hôm để từ biệt.” Ông bố Ngọc thầu cho nhà binh Pháp và đi
theo công việc làm ăn của ông. Bích mỉm cười lơ đãng, chờ. Ngọc rủ mình lên gác
ra ngồi ngoài bao lơn nhìn xuống Văn-miếu.
Bỗng nhiên Ngọc hỏi bằng giọng tinh nghịch: “Em lấy chồng, chị mừng gì nào? Chị
còn nhớ ngày trước chị hứa những gì không?” Bích tự hỏi: mình đã hứa những gì với
Ngọc, và lắc đầu. “Chị không nhớ thì thôi. Nói thế chứ chị em mình gặp nhau là
mừng. Chúng em sẽ làm đám cưới trước khi vào Tourane. Anh ấy thầu chung với cậu
em. Mấy hôm nữa in thiếp xong, em sẽ đưa xuống chị. Thế nào chị cũng đi phù dâu
cho em. Nếu không kiêng em định mời cả chị Hương, chị Liên làm phù dâu thì thật
đông đủ. Tên anh ấy là Lân”. Bích không hiểu sao mình lại hỏi tên người đàn ông
sắp cưới Ngọc; Lân, thật là vô nghĩa, có biết thêm cái tên ấy cũng chẳng rõ được
điều gì. Bích cũng có ý nán chờ Liên, nhưng Liên không lại. Vào lúc hơn mười giờ,
Lân đến đón Ngọc đi phố. Người đàn ông gầy gò, khuôn mặt bội bạc, nước da xanh
mái trác táng, cặp mắt nhỏ lanh lẹn, đôi môi mỏng, cử chỉ không thành thật, chẳng
mảy may nào giống cái hình ảnh mơ mộng của Ngọc thường tâm sự, trên toa tàu bẩn
thỉu trống gió và nắng triền miên như cơn buồn bã hiu quạnh trong tiếng động
quen tai nối liền ngày tháng.
Bích từ chối không
đi cùng Ngọc trên xe của Lân, lủi thủi trên hè phố Sinh-từ, con phố náo nhiệt, nhơ
nhớp, bụi bậm, trong ánh nắng bắt đầu chói rực.
✳
Liêm đặt chiếc va-ly lớn xuống đất, quay
vào trong một lần nữa nói với mẹ Hải: Cháu đi; bà cụ vẫn đứng nơi góc phản nhìn
theo, Hải tránh mặt bỏ đi từ sáng sớm; buổi sáng khi Liêm báo cho Hải biết sẽ đến
ở nhà ông Phạm, Hải cau mày tỏ vẻ giận dỗi vì không hề được biết trước ý định của
Liêm; Buổi sáng ồn ào ngoài ngõ đã lắng dịu, bọn trẻ con trốn nắng đã ra tụ tập
ngoài sân chùa quanh mấy gốc đa. Mẹ Hải đưa chân Liêm ra khỏi sân nhà, đứng lại
bên bờ vũng rau muống dặn nếu còn ở Hà-nội ngày nghỉ xuống chơi. Liêm cũng nhắc
bà về chiếc va-ly
nhỏ để lại cho Hải dùng, yêu cầu bà ngăn Hải không cho mang trả mình. “Bác bảo
Hải, là kỷ niệm của cháu gửi cho Hải. Cháu đựng một va-ly quá thừa.” Quần áo, đồ vật ngày ở
Sài-gòn
ra không hiểu có những gì mà chứa đầy hai v-ly, Liêm không nhớ nổi.
Liêm chậm chạp
trong ngõ, nhìn vào trong các gian nhà lụp xụp vắng vẻ. Bãi đất trước chùa ngút
nắng, trong sân chùa đoàn sói họp bọn dưới gốc đa đang ca hát, lũ trẻ nghèo đứng
ngoài xem. Liêm phải đi bộ thêm một đoạn phố nhiều cây rợp trước nghĩa trang ra
phố Huế đón tàu điện. Trong túi Liêm còn hơn hai trăm bạc, không hiểu ông Phạm
sẽ trả giá công việc như thế nào; nhớ lại lần gặp trước, có lẽ ông muốn coi
Liêm như người nhà, cho ăn ở, trông nom việc thu dọn và sẽ đi tàu biển theo đồ
gửi, Liêm nghĩ: thế nào cũng được, miễn vào đến Sài-gòn là xong, ở đó sẽ tính
lại, làm lại cuộc đời. Trên chuyến tàu điện từ Bạch-mai vào, Liêm đứng lẫn ở
toa sau giữa những người nhà quê buôn bán quanh quẩn mấy chợ ngoại ô nghe họ
bàn tán về tình hình biến chuyển, mọi người đều hy vọng chiến tranh chấm dứt tưởng
tượng cảnh thái bình trong những ngày tới, đó là những ngày của một thời đã qua
rất xa trong trí tưởng tượng mọi người. Một người đàn ông ăn mặc xuềnh xoàng kiểu
một tư chức, áo sơ-mi
ngắn tay, quần nhầu nát, chân đi dép cao-su, tự nhiên xen lời nói bâng quơ với người
bên cạnh: “Không có đánh nhau chưa chắc đã là yên đâu bà ơi.” Câu nói của người đàn
ông chêm vào khiến mọi người yên lặng vài giây, rồi ồn lên cãi vã, Liêm tưởng
như không bao giờ dứt, về những chuyện đấu tố, dân công, đói kém, nghèo khổ…
người nói có, kẻ bảo không, không ai chịu ai. Đột nhiên ở giữa toa, truyền đơn
được ném ra làm nhốn nháo cả toa, một người thanh niên len qua mặt Liêm nhảy xuống
đường, tàu đang chạy giữa phố Đồng Khánh, suýt bị người đi xe đạp, anh ta nhảy
ba bước vào hè dưới mái hiên Godard lẫn trong đám đông dạo phố và đi thong dong
nhàn tản. Liêm còn ngoái cổ nhìn theo mãi người thanh niên ném truyền đơn cho đến
khi khuất dạng trong đường phố náo nhiệt ngày chủ nhật, nhớ tưởng lại những
ngày đầu hoạt động ở Sài-gòn
với cái thú mạo hiểm lâu không được hưởng. Truyền đơn tố cáo những âm mưu quốc
tế chia đôi lãnh thổ, kêu gọi dân chúng sẵn sàng chiến đấu cho nền độc lập và
toàn vẹn của đất nước, không thấy ký tên.
Bờ Hồ nườm nượp
người, một vài gia đình từ vùng quê lên ngồi xệp trên đất với gồng gánh lơ láo,
trẻ con thả rong chạy theo xin tiền người qua lại. Thành phố bắt đầu mở ngỏ, những
trạm tiếp đón ở các ngôi trường nghỉ hè không đủ sức chứa dân chạy loạn. Liêm
xuống tàu điện, đi bộ vào hàng Bông, theo sau một người đàn bà gánh hai đứa con
nhỏ trong cái thúng nhìn ngơ ngác vào trong các nhà như tìm kiếm người quen. Thỉnh
thoảng một vài người qua đường, ngồi sau cái tủ hàng liếc nhìn làm như không
chú ý, Liêm nhận rõ mình cũng được nhìn bằng tia mắt tương tự. Trước cửa nhà
ông Phạm, một đám người tụ tập huyên náo ngoài vỉa hè, người ta tranh giành mua
những đống sách báo cũ; ông Phạm đứng chấn cửa trông cho mấy đứa con bán. Thấy
Liêm, ông bảo: “Chú đến đấy à? Cất va-ly, giúp tôi một tay.” Liêm len qua hai người
đàn bà đang mà cả, bước qua những chồng sách mang va ly vào trong. Gian nhà hầm
nơi làm việc của ông Phạm trống trải, mấy gia đình dưới quê lên tạm trú không
còn đấy; bàn giấy bỏ không, những hộp chữ đã đóng thùng, chỉ có chiếc máy in mới
tháo rời một vài bộ phận xếp dọc theo chân tường. Liêm trở ra, theo lời ông Phạm,
lên nhà trên khuân những quyển sách đóng bìa da hẳn hoi được lấy từ trong tủ
sách của ông xuống, tủ sách của ông phải đến hai ba trăm quyển ông chỉ giữ lại
mươi lăm bộ không bán. Liêm nghĩ bụng vài mươi năm của đời ông chưa đọc hết số
sách, chắc chắn có những quyển chưa giở đến lần nào. Lom khom một lúc để truyền
sách cho người mua, Liêm hơi chóng mặt, phải đứng thẳng lên và bắt gặp trong
đám người vây quanh bên ngoài nét mặt quen thuộc đã lâu ngày, nét mặt gặp một lần
nhưng không thể nào quên được: đó là anh chàng thanh niên đã gặp dưới Hải-phòng tối ba mươi Tết ngày
mới ở Sài-gòn
ra. Không thể lầm được, anh chàng già còm thiểu não hơn, nhưng Liêm không thể lầm
được; anh kiễng chân qua vai người đứng trước nhìn xuống đám sách bừa bãi trên
đất cố gắng đọc những hàng tựa ở gáy chữ mạ đã xỉn cũ. Liêm đợi cho anh chàng
ngửng lên, mỉm cười muốn nhắc nhở, nhưng anh mải nhìn ông Phạm không thấy, rồi
lại cúi xuống. Lần thứ hai anh chàng nhận được Liêm cười với anh, anh nhe răng
cười đáp một cách ngượng nghịu xong ngoảnh mặt dòm xung quanh, Liêm muốn gọi
nhưng không nhớ được tên anh ta. Liêm lại cúi xuống cố lục lọi trí nhớ, mỗi lần
truyền sách ra ngoài Liêm lại đưa mắt trông chừng xem anh chàng có nhớ được ra
mình không; anh ta vẫn đứng im một chỗ hỏi mượn những người đã mua một vài quyển
lật giở xem, thỉnh thoảng cũng nhìn vào chỗ Liêm. Đêm giao thừa ấy, anh chàng
đã uống rượu say, nôn mửa ngồi ôm mặt khóc một mình, anh ta không nhớ được gì,
lúc Liêm bỏ ra ga hãy còn nằm xanh xám như xác chết; Liêm có muốn gợi lại kỷ niệm
anh ta cũng sẽ đến ngơ ngác thôi. Cái người mà anh đã gặp đối với anh chỉ là
cái bóng tình cờ không mặt mũi trong đêm cuối năm buốt giá. Anh ta đã nói những
gì? Hình như tôi đã từ chối không nghe tâm sự của người lạ mặt.
Liêm nhìn theo mắt
của người thanh niên, nhặt quyển sách dưới chân cầm lên tay, cười hỏi ý và chìa
đưa cho anh bảo: “Anh xem đi”. Anh chàng ngửng nhìn Liêm đỡ lấy quyển sách, ông
Phạm và hai đứa con ông bận đếm sách tính tiền không chú ý. Liêm chăm chú theo
rõi, anh chàng quay ngang mình như tránh sự thúc ép của hai người đứng cạnh đưa
quyển sách đã giở lên cao, liếc nhanh về phía Liêm. Liêm cười một lần nữa hy vọng
anh sắp sửa nhận ra người quen nhưng anh lại cúi mắt vào trang sách. Không biết
vô tình hay hữu ý, anh thụt lui mấy bước đứng tách ra ngoài giữa vỉa hè, tay vẫn
lật sách đọc. Một chốc Liêm thấy anh chàng kiễng gót nhưng không rời chỗ đứng
nhìn vào, rồi quay người đi kẹp quyển sách bên nách rảo bước. Liêm nghiêng đầu
trông theo phía sau lưng, chiếc áo nhăn nhúm vàng khè tuột một khúc lòng thòng
ra ngoài quần, đỏ bừng mặt ngượng nghịu như chính mình đã lấy quyển sách. Một
người đàn bà đứng ngoài nhanh nhẩu mách: “Kìa, cái anh kia lấy sách của ông”
Liêm tảng lờ như không nghe, nhưng hai đứa con ông Phạm đã hỏi lớn: “Đâu? Đâu?
Ai lấy?” Mọi người đều quay nhìn ra ngoài, Liêm nhanh chân chạy ra ngoài hè
nhìn lên phía hàng Bông nhưng đã không còn thấy bóng dáng anh chàng thanh niên.
Liêm nói át sự lúng túng của mình: “Có lẽ là quyển sách tôi đưa cho anh ta xem.” Một đứa con trai ông Phạm
chưa chịu buông tha: “Có lẽ nó rẽ vào ngõ Hội-vũ” và chạy đuổi theo. Ông
Phạm bảo: “Thôi tạm nghỉ sửa soạn ăn cơm. Chiều bán nốt.” Đứa con trai trở về hậm
hực vì không bắt được tên kẻ cắp, ông Phạm nói với nó: “Thôi mất một quyển ăn
thua gì”. Mấy người mua sách quẩy gánh đi tản mác trong khi một mình Liêm khuân
đống sách chưa bán vào trong nhà, Liêm nghĩ: anh chàng trông ngù ngờ mà chạy thật
nhanh. Không hiểu anh ta lấy được quyển gì, Liêm không kịp đọc nhan đề lúc đưa
cho anh, quyển gì giỏi lắm cũng chỉ bán được vài chục bạc là cùng. Không hiểu
khi anh chàng đã no thuốc sáng suốt có nhớ ra được mình không? Liêm nhìn qua đống
rác bên bờ tường nhà thương. Không, chưa bao giờ tôi là kỷ niệm của một ai, anh
ta sẽ chẳng thể nhớ ra nổi khuôn mặt xa lạ giống như mọi người.
CHƯƠNG III
An bước nhanh lách
mình qua cánh cổng sắt mở hé, đi qua giữa ba người thanh niên đứng cách xa nhau
ngoài sân, đẩy cánh cửa gỗ vào trong đường ngách tiểu tiện trước nhà cầu ở sâu
cùng; ngách nằm giữa hai bức tường khai nồng nặc, bức tường ngoài cao hơn bức
trong sân trồng mảnh chai lởm chởm. An chống một tay vào tường, ngăn hơi thở dồn;
ngoài sân ba người thanh niên ngưng bỏ câu chuyện đang sôi nổi, ngoài đường tiếng
chân chạy vượt qua ngôi biệt thự đến ga-ra ở đoạn ngõ quành, kèn hát vụt nổi cùng
tiếng chân lệt sệt lê trên sàn gỗ trong gian buồng kín mít mù ám khói thuốc. Vẫn
những đĩa hát cũ mấy năm trước quay tròn không biết bao nhiêu lần trong ngày,
những hình bóng luần quần gặp gỡ, An nghe cay bên khóe mắt, lớp khiêu vũ tối
tăm như chiếc hộp đóng nắp ru những cảm xúc đột khởi dẫy dụa chốc lát choáng ngộp
hết hiện tại; Phúc đã ngồi trong mờ chật đặc tiếng động không mặt mũi tôi đã ôm
lấy kéo ra nhận làm Định-mệnh.
Bọn thanh niên ở ngoài cãi nhau to tiếng như muốn át tiếng kèn hát, như nhắc
ta trên đường về… ngàn tre xa xa… Mùa đông lạnh buốt nỉ non nhàm nhạt như
những xúc động mòn, tôi thì tôi không chịu nổi… lịch sử không phải một bộ máy
nghiến nát cá nhân… như thế là cá nhân chủ nghĩa, thì sao? Những gì trong tiến
hóa đã đạt được không thể tiêu hủy trong phút chốc, chắc gì cái sẽ tới tốt hơn…
ngụy biện, ngụy biện, anh xử dụng tư tưởng như chiếc mộc che đỡ, tư tưởng không
là gì cả trước thực tế… Một người đàn ông đẩy cửa vào kêu “ô” khẽ, đi qua sau
lưng vào nhà cầu, thơm lừng mùi nước hoa ủ trên quần áo, An cúi mặt nhìn vũng
nước váng bọt trong rãnh liếc thấy ống quần thẳng nếp trên đôi giầy hai màu.
An mở cửa, bước ra
sân. Ba người thanh niên đứng giăng hàng trước cổng quay lưng lại; trên ban
công gian gác trước mặt một thiếu nữ đứng gập người chống tay trên bờ gạch ngoảnh
mặt nhìn về đầu ngõ. An nhớ rõ những ngày lui tới lớp khiêu vũ, nhà trước mặt của
một viên cựu tri phủ, chuyên bắt người làm cởi giầy rửa chân ngay trước buồng
khách để cửa mở những buổi chiều mùa đông tối sớm; đã nghĩ: hắn có thể là ông bố,
ông bố vợ chẳng hạn. Người thiếu nữ chải chuốt sạch sẽ thơm tho như một bó hoa
trong buồng khách thanh lịch, Phúc thèm muốn trở thành không bao giờ đạt, người
ta không thể vượt khỏi cảnh ngộ giam cầm, nó tưởng nó sẽ thế này hay thế khác rốt
cuộc nó vẫn hoàn nguyên về vị trí cũ… Còn tôi? Tôi đã trở thành một người khác
trong Định-mệnh
lựa chọn, những dây ràng buộc tự trói không phải chịu nhận. An kéo quyển sách cặp
chặt lên nách, đầu cúi gằm xuống, len qua khe hở giữa hai người đứng khiến cả
hai đều xoay ngang nhìn, rẽ về phía trái; một người đang nói: anh có biết thế
nào là đại táo, trung táo, tiểu táo, đặc táo không? Bộc lộ thành khẩn, phê và tự
phê, kiểm thảo và tự kiểm thảo, mea culpa… những hình thức khuynh đảo
tinh thần kiểu Trung-Cổ
của Thiên-Chúa-giáo để triệt hạ những đầu
óc độc lập. Mea culpa, An lầm lũi bước nhanh, hình dáng tôi đang ở trong
tầm mắt của người thiếu nữ đứng trên ban-công, một người nghiện ngập mạt hạng trong
xã hội, cô ta nhìn ngó và nghe câu chuyện của mấy anh chàng thanh niên hăng
hái. Như mình ngày nào, một đoạn đời trước, tôi muốn được nhìn bằng mắt của ai?
Của những đứa bạn thân nhất. Đồng, Thạch, Cảnh… bây giờ tôi ở ngoài tầm mắt của
chúng nó, không đứa nào nhìn được đứa nào, chỉ còn tôi lại nhìn tôi. Và tôi đã
quên thói quen, mất lúc nào lòng kiêu hãnh để tự nhìn soi mình. Phúc đã làm
quên hay thuốc phiện? Sự từ chối hay sự chấp nhận hóa thành buông thả trong lôi
cuốn hằng ngày của những nhu cầu ở ngoài mình. Quỵ lụy đê hèn, vô nhân phẩm hay
không cũng đến thế thôi.
An dừng lại trước
cửa hiệu sách đầu phố Trường-thi,
bóng mặt hiện lên kính tủ trên nền đám lá cây bên đường gầy gò hốc hác như một
người đói năm Ất Dậu, trong tủ kính lơ thơ vài quyển sách bầy hàng bụi phủ. Các
cửa hiệu buôn bán đã nghỉ trưa, phố xá đang lắng chìm xuống trong cơn nắng ngùn
ngụt bốc lên. Tôi đang nhìn tôi sau những ngày đã sống. Những ngày đã sống. Như
thế gọi được là sống chăng? Ngày tháng tiêu mòn trong một trò chơi hấp dẫn cả
trí tuệ lẫn cảm xúc; trò chơi nào cũng như nhau: lý tưởng, hành động, đàn bà
hay một thú đam mê vô nghĩa. Một trò chơi bắt đầu với đầy đủ ý thức, tận cùng bằng
sự mê sảng hoàn toàn, bị lôi cuốn dìm ngập không ngoi thoát. Phải không? Khi tỉnh
táo đời sống bị hút mất tuyệt tích. Nhưng tôi có đầy đủ ý thức lúc bắt đầu
không? Cảnh và Thạch đều bảo: Vô ích, cậu là đứa con của giai cấp tư sản, dù là
đứa con hoang chăng nữa. Còn chúng nó? Ánh nắng gay gắt chiếu qua lá cây lấp
lóe trên mặt kính làm nhức mắt, tiếng ve kêu trong cuối hàng cây phía xa. Những
ngày đã sống, vẫn còn, vẫn đón đằng trước, vẫn ở trong chính giây phút này
không chia rời; Phúc đã ra khơi, một mình nó quyết định, ném trả tôi, nó không
có một chút trách nhiệm. Không hờn giận, không đau đớn. Hay không đủ sức?
An băng ngang vườn
hoa Cửa Nam, ngáp chảy nước mắt, chân tay mỏi rã như sắp long các khớp xương
nghe văng vẳng tiếng gọi ở phía sau: Anh An, anh An. An quay lại, lúng túng
đánh rơi cuốn sách, mồ hôi và hơi thở che mờ cả mắt, lúc ngửng lên thấy Nga
đang đi gần tới. Anh An phải không? An cố giữ vẻ điềm tĩnh xa lạ muốn không nhận,
nhưng đầu óc chậm chạp không thể phản ứng, tay phủi phủi những hạt cát bám trên
bìa sách. Nga dừng bước vừa thở vừa nén ép nỗi kinh ngạc trong im lặng, hai mắt
mở chiếu thẳng vào mặt An.
– Anh An phải
không?
An gật đầu, rút
chiếc khăn tay nhầu nát lau mồ hôi trán, ngó lảng phía sau lưng Nga. Nga đột
nhiên cũng bối rối không biết phải làm gì nữa. An dợm quay bước, Nga hoảng sợ:
– Anh đi đâu đấy?
Đi đâu? An cố ngăn
giữ không cho há miệng ngáp, hai bên quai hàm căng bạnh mỏi nhừ. Trên khuôn cỏ
loang lổ ánh nắng, núp sau lưng chiếc ghế đá dài, một gia đình quê mùa gồm hai
vợ chồng, ba đứa con nhỏ, lớn nhất chừng năm sáu tuổi, một đôi quang gánh, đang
ngồi ăn cơm trong những chiếc đĩa nhôm.
– Vào trong kia
cho mát, anh.
Nga đi trước, sang
đường trong tiệm kem không có khách, chọn một cái bàn ở giữa khoảng từ cửa và
quầy thu tiền, kéo ghế ngồi quay mặt nhìn ra ngoài. Từ ngoài nắng bước vào, mắt
tối xầm, đầu mệt nặng thêm, An vội chống khuỷu tay lên bàn, úp hai bàn tay che
mặt, ngáp mạnh nghe xương cốt kêu rắc. Rời hai bàn tay khỏi mắt, An bắt gặp Nga
ngồi ngây mắt mọng đỏ, không hiểu vì say nắng hay sắp khóc, trông nó khỏe mạnh
tươi tắn không còn vẻ bệnh hoạn, màu áo vàng chói quý phái. Đứa bé bồi bàn khoảng
mười một mười hai tuổi quần áo tề chỉnh chắp hai tay đứng cạnh Nga như người lớn
trông buồn cười, chân đi giầy buộc giây hẳn hoi.
– Anh uống gì?
Cổ họng kho đắng,
miệng nhạt nhẽo, An cúi đọc bản liệt kê thức uống đánh máy lót dưới mặt kính.
– Cái gì cũng được.
An lúng túng không
chọn được tiếng gọi Nga, không thể gọi nó bằng mày thân mật hách dịch được nữa.
Nga cầm quyển sách lật giở vài trang lơ đãng, nét mặt đăm chiêu khó xử. Nó
không biết mở đầu thế nào, giữa nó và tôi còn mối liên hệ nào không? Có lẽ nó
muốn tôi lên tiếng trước, hỏi chuyện gia đình. Gia đình, bố mẹ, anh em, chẳng
quan hệ gì đến tôi đã từ lâu. Những mối quan hệ vô nghĩa. Nhìn xem, nhìn kỹ
xem, tôi là người nào.
– Từ dạo ấy anh ở
đâu?
An nhìn bàn tay
cáu bẩn bụi đất, những kẽ ghét bám từng vệt rõ ràng, những lằn chỉ trong lòng
bàn tay bôi đen. Ở đâu cũng không quan hệ, điều hiển nhiên là không ở trong gia
đình.
– Dưới Hải-phòng.
– Anh làm gì?
An mỉm cười, câu hỏi
thừa, nó dư biết, nó biết ngay từ lúc nhận diện. Làm gì? Lúc nào và bất cứ ai
cũng chỉ một câu hỏi ấy. Làm gì? Đã làm gì trong tuổi thanh niên, đã sống như
thế nào? An dùn vai lắc đầu, sống là không ân hận không nhớ tiếc. Nga cầm chiếc
ống hút khuấy trong cốc sữa trắng bông, An ực hai hơi cạn đến đáy cốc. An ngửng
đầu nhìn rõ hai dòng nước mắt lăn trên má Nga, nhếch mép cười. Em thương hại
anh ư? Anh không cần sự thương hại. Tôi không đi tìm sự thương hại tôi có dư.
– Sao?
An không nhìn nữa,
ngửa cổ xem chiếc quạt trần quay tít trên cao. Cửa hiệu dài hẹp, hai dãy bàn
vuông ghế từng đôi sát hai bên tường. Nga rút khăn tay thấm nước mắt, sụt sịt
mũi không giấu diếm.
– Cậu mợ cũng về Hà-nội…
Sao nữa? Tôi cũng
về Hà-nội, tôi cũng về thành phố nhiều kỷ niệm nhưng không có một kỷ niệm chung
nào với những người ấy. Thành phố sắp đổi dạng, tôi cũng đổi dạng và những người
khác. Những người khác thôi.
– Cả nhà sẽ sang
Pháp. Cậu đã mua được nhà bên ấy xong xuôi rồi. Lần này cậu mợ ra thu xếp bán hết
mấy gian nhà ở ngoài này, định sang ở luôn không về nữa. Đáng lẽ em phải sang
trước, em xin mãi cậu mới cho ở lại. Không hiểu sao em vẫn hy vọng về Hà-nội
may ra em gặp lại được anh. Một tuần lễ nay em đi chơi khắp các phố cốt ý tìm
anh, em đã tưởng tuyệt vọng…
– Tìm anh? Tìm anh
để làm gì? Tôi mới ở Hải-phòng
lên hôm qua…
– Em không có ý gì
rõ rệt… Em nghĩ dù sao anh cũng có thể muốn biết tin tức gia đình… Hay anh có
thể, anh có thể muốn làm lại…
– Muốn tôi làm lại
cái gì?
An cười buồn bã,
người ta vẫn xem đời tôi như là một phần công trình đã tạo tác bị tôi phá hư,
muốn được nhìn thấy nó được hoàn thành như dự ước. Tôi phải trở thành như bố
tôi đã trở thành. An bật cười gằn:
– Ý riêng của cô
hay…
– Bất chợt em nghĩ
thế.
– Cô xấu hổ vì tôi
chứ gì? Tôi nghiện ngập rách rưới làm mang tiếng gia đình chứ gì. Cô nhớ là
chính cô đã nhận tôi đầu tiên. Cô yên tâm, mai kia còn ai ở lại đây đâu mà sợ…
– Không phải. Anh
An. Em chỉ nghĩ là anh có thể làm hơn thế này… Em không hiểu…
– Cô không hiểu gì
cả… Thế nào là hơn, thế nào là kém?
– Anh có thể sống
khác…
– Thì tôi đang chẳng
sống khác đây là gì nữa? Tôi vẫn còn sống khác tôi sẽ sống khác bây giờ… Nhưng
thôi cô đừng nói chuyện ấy nữa.
– Anh không bao giờ
nghĩ lại.
– Tôi có cái gì để
nghĩ lại. Sống không bao giờ nên nghĩ lại.
Nga bặm môi, cúi mặt,
giấu khóe mắt ướt, tay nắn bóp thành bàn. An cồn cào trong bụng, chân tay bải
hoải, những bắp thịt trên gò má máy giật, nước dãi tiết trong miệng. Cơn bệnh sắp
hành, An gắng sức trấn tĩnh, mắt nhìn đồ vật chập chờn tranh tối tranh sáng. An
bỗng cất tiếng nói nghe xa như không phải của mình:
– Dù sao, cũng cảm
ơn.
– Em không hiểu… Cậu
mợ em không biết có nghĩ không? Riêng em nghĩ đến anh là em bị mặc cảm… Em được
sung sướng một mình trong khi anh… có thể tất cả là của anh. Em đã… Có phải anh
muốn làm mọi người bị ám ảnh về anh?…
An xua tay, chân
đá mạnh phải chân bàn gây tiếng động trên sàn gạch hoa.
– Không… Không phải…
An thấy miệng lắp
bắp, bắp thịt bên môi co rút như sắp làm méo miệng. Tôi chỉ là ám ảnh của riêng
tôi… Không quan hệ đến ai khác. An phải tựa vào lưng ghế, duỗi thẳng chân, chống
thẳng hai tay nắm cứng bàn tọa, cả thân mình đang như mềm nhão không xương sắp
sụp đổ.
– Gọi cho tôi một
cốc cà-phê
đen thật đặc không bỏ đường.
Dãi bắt đầu chảy
ròng một bên mép, hơi thở phì phò như sắp bị tắc nghẽn, An cố mở trừng mắt thu
nhận những cử động chậm chạp quanh mình Nga hoảng sợ thất sắc, đứng lên khỏi ghế
quay đi quay lại. Anh làm sao? Làm sao thế này? Một cốc cà-phê đặc… càng đắng càng tốt…
An hoa mắt phải nhắm nghiền nước mắt nước mũi tự động tràn ra ngoài, một bàn
tay quờ quạng đón lấy chiếc khăn tay của Nga lau.
Cơn vật vã lui dần
sau khi uống cạn cốc cà-phê
đắng chát, An tỉnh lại như trong một ngày mới, mấy phút trước đã biệt sâu vào
quá khứ. Nga vẫn còn ngồi trước mặt, chiếc khăn tay mỏng trắng bám đầy bụi than
vò vứt trên mặt bàn, đôi mắt ngơ ngác như vừa trải qua cơn mộng. An dịu dàng bảo:
– Tôi đã nói những
gì đừng để ý. Bao giờ thì cô đi?
– Bán xong nhà là
cậu mợ vào Sài-gòn.
Có lẽ là đi ngay. Cậu bảo không còn một hy vọng nào cứu vãn nổi tình thế…
– Nhà bán xong
chưa?
– Chỉ còn làm giấy
má nữa là xong.
An gật gù uống cốc
nước đá nhỏ lẫn mùi bạc hà tráng miệng. Chuông tàu điện reo đầu hàng Đẫy lẫn
trong tiếng ve inh ỏi cả khu phố. Ngoài đường không còn bóng người, buổi trưa đầy
ắp ánh nắng.
– Cô về đây có gặp
Đồng không?
Câu hỏi quá bất ngờ,
Nga không tin đã nghe đúng hỏi lại: Ai? An nhắc: Đồng. Nó bối rối ra mặt, nó đã
quên hẳn Đồng, không ngờ mình biết. Nhắc chuyện ấy ích gì? Còn Đồng? Nga tránh
đôi mắt soi mói, nhìn cốc nước vơi nửa. Nó cũng trở về thành phố này tìm gặp kỷ
niệm lần cuối trước khi vĩnh viễn xa lìa và Đồng là một kỷ niệm bị bỏ sót.
– Không. Em không
biết nhà anh Đồng.
An không đủ tàn nhẫn
hỏi Nga: Cô có muốn tôi đưa xuống gặp Đồng không? Mình cũng giống Đồng, nếu Đồng
có mặt hắn cũng đến cười rúc rích, nụ cười như chiếc mặt nạ bất biến. Hắn vẫn ở
trong gian nhà cổ kính giữa vườn tược, gần hồ, đi lại thảnh thơi trong bệnh hoạn,
không có gì đổi thay, như người ẩn sĩ chưa đầy ba mươi tuổi. Tôi chưa gặp Đồng,
nhưng có lẽ rồi sẽ gặp, nói với hắn một kinh nghiệm, kinh nghiệm đau đớn nhất:
văn chương chính là một hư tưởng bao phủ đời sống, là nỗi bất lực thú nhận và
chấp nhận của một kiếp người… Hắn đang làm thơ, những bài thơ tình cho Nga tôi
sẽ được đọc.
– Anh An. Bây giờ
anh định làm gì? Anh có làm gì không?
An lắc đầu, tôi mới
về, mới trở lại Hà-nội không ý định chủ đích. Đi ra khỏi một cảnh ngộ tự tạo
nên tin là có thể thoát, thoát đến đâu? Còn mù mờ. Tôi vẫn sống như thế, những
lúc buông xuôi và những hồi phản động.
– Anh ở đâu?
– Tôi ở nhờ nhà
người bạn dưới Sinh-từ.
An cười vu vơ thoải
mái, từ lúc gặp Nga chỉ những phút này là dễ chịu. Nó đã đứng bên làn ranh phân
cách, tôi nhìn nó chia lìa và được giải thoát không thấy một ràng buộc.
– Chắc anh chưa ăn
cơm?
– Chưa.
– Anh đi ăn cơm với
em đi. Em mời anh. Nhất định là anh không trở về nhà rồi mà em cũng khó gặp anh
được lần nữa… Em vẫn còn nhiều điều muốn nói với anh. Anh bằng lòng không?
Nga trả tiền, nhìn
năn nỉ, nhét cái khăn bẩn vào trong ví cầm tay, lấy cái khăn mới gấp nhỏ ra.
– Không. Em sẽ
không can thiệp đến chuyện của anh. Chúng mình đi chơi. Đã bao giờ anh em mình
đi chơi với nhau lần nào đâu. Mai kia có khi đến anh em không còn gặp được nhau
nữa. Em chắc chắn lần này cậu mợ đi luôn không về Việt-nam nữa.
Nga đứng lên trước
chờ đợi. Đi chơi với Nga, anh em từ biệt nhau từ biệt vĩnh viễn. Nó còn muốn gì
nữa? Bầy tỏ thật đầy đủ tấm lòng thương xót thằng anh khốn nạn để an tâm lên đường.
Phải thế không? Nó có thể, nếu gặp Đồng, cũng nói những lời tạ từ này. An thong
thả đứng dậy:
– Không phải về?
– Không. Cậu mợ
trưa nay ăn cơm khách. Anh còn nhớ chị Hằng không?
An không đáp, quay
mặt nhìn ánh nắng lóa ngoài hè, bước đến cửa, đứng trên thềm đưa tay che mắt.
Khu công viên nằm giữa ba mặt đường, những bãi cỏ trải vàng cách mấy bước cùng
bờ hè là hiệu cơm tháng Cảnh vẫn ăn trong những ngày còn ở Hà-nội. An ngoảnh
vào nhìn Nga, Nga vừa quay lại cầm quyển sách bỏ quên trên bàn.
– Cô đưa cho tôi đừng
cầm, nguy hiểm. Quyển sách này tôi mới ăn cắp được.
An cười, cầm lấy
sách. Nga cũng cười theo, nó tưởng là chuyện nói đùa, điều đó vượt ra ngoài ức
đoán của nó. An mường tượng đến nụ cười của người đàn ông đã đưa sách như đồng
lõa, hắn cũng thương hại mình. Trong cái xã hội trưởng giả này, lòng thương hại
như một lối có thể cứu chuộc hết tội lỗi đã gây ra. An hỏi nhưng không dừng bước
khi đi qua hiệu ăn của Cảnh:
– Cô có dám vào ăn
trong hiệu bình dân này không? Chắc là không được rồi. Những người bạn của tôi
vẫn ăn ở đây.
– Nếu anh thích…
Em không ngại gì cả.
An cười, đi sát
vào dưới mái hiên hàng phố tránh nắng. Nga theo sau, tiếng giầy gõ lóc cóc trên
hè. An nghe rõ tất cả sự vô lý của cuộc dạo chơi dưới nắng, nó đang tự hành hạ
vì một mớ tình cảm trái mùa. An muốn bảo với Nga: Thôi về đi, tôi buồn ngủ quá.
[1] Chương 1 của thiên truyện nầy, trước đây đã đăng một phần trên tập san Bách-khoa. Tuy
nhiên, xin lưu ý những bạn đã đọc cũng nên đọc lại vì ấn bản nầy có nhiều đoạn
mà trước đây tác giả đã không thể cho
in.
Comments
Post a Comment