Robert Lowell
Elegy: for
Robert Lowell
I
In the
autumnal blue
of your
church-hooded New
England, the
porcupine
sharpens its
golden needles
against
Bostonian bricks
to a point
of needless
blinding
shine.
White foam
kneels and breaks
on the
altar. People's
eyes glitter
inside
the church
like pebbles
splashed by
the tide.
What is
Salvation, since
a tear
magnifies like glass
a future
perfect tense?
The choir,
time and again,
sings in the
key of the Cross
of Our
Father's gain,
which is but
our loss.
There will
be a lot,
a lot of
Almighty Lord,
but not so
much as a shred
of your
flesh. When man dies
the wardrobe
gapes instead.
We acquire
the idle state
of your
jackets and ties.
II
On the
Charles's bank
dark,
crowding, printed letters
surround
their sealed tongue.
A child,
commalike, loiters
among
dresses and pants
of vowels
and consonants
that don't
make a word. The lack
of pen
spells
their
uselessness. And the black
III
Planes at
Logan thunder
off from the
brown mass
of
industrial tundra
with its
bureaucratic moss.
Huge
autoherds graze
on gray,
convoluted, flat
stripes
shining with grease
like an
updated flag.
Shoals of
cod and eel
that
discovered this land before
Vikings or
Spaniards still
beset the
shore.
In the
republic of ends
and means
that counts each deed
poetry
represents
the minority
of the dead.
Now you
become a part
of the
inanimate, plain
terra of
disregard
of the common
pain.
IV
You knew far
more
of death
than he ever will
learn about
you or
dare to
reveal.
It might
feel like an old
dark place
with no match
to strike,
where each word
is trying a
latch.
Under this
roof
flesh adopts
all
the
invisibility of
lingering
soul.
In the sky
with the false
song of the
weathercock
your bell
tolls
-a ceaseless
alarm clock.
1977
Joseph
Brodsky
Note [by the
ed.]: This poem was written in English
Bi Khúc dành
cho Robert Lowell
Elegy: for
Robert Lowell
I
Trong màu xanh
mùa thu, của ngôi nhà thờ của bạn ở New England
Mái giống
như 1 cái nón chùm đầu
Những con
nhím mài những sợi lông mầu vàng của chúng
Vào những
viên gạch
Đến trở
thành nhọn hoắt, sáng lòa
Bọt biển trắng
quì xuống,
Vỡ tan thành
từng miểng
Ở nơi bàn thờ
Những tín hữu,
ở bên trong nhà thơ,
Mắt sáng ngời
Như những
hòn sỏi
Tung toé trước
sóng biển
Cứu Rỗi
nghĩa là gì
Kể từ khi mà
Nước mắt
lung linh như pha lê
Của một
tương lai hoàn hảo?
Đội đồng ca,
nữa, lại nữa nữa
Xướng lên
Trong chiếc
chìa khóa của Cây Thập Tự
Của sự thu
nhập của Vì Cha Của Chúng Ta
Nhưng với
chúng ta, chỉ là mất mát
II
Ở phía
Charles
Tối, đông
đúc, những tờ chữ
Vây hãm cái
lưỡi đóng khằn của chúng
Một đứa bé,
giống như cái dấu phết, những tên la cà,
Giữa những
chiếc áo dài, quần dài
Của những
nguyên âm và phụ âm
Cái thứ như
thế đó, đâu làm nên thành 1 từ, 1 chữ
Đếch có cây
viết, chính điều này phán lên, sự vô dụng
Một chiếc
Cadillac, như 1 con thuyền,
Dăng buồm
qua những tiếng còi hụ của xe cảnh sát
Đâu có khác
chi một Odysseus câm lặng
III
Phi cơ, những
thần sấm thần sét
Từ khối đất
màu nâu tundra, kỹ nghệ, phủ 1 màn rêu bàn giấy, bay lên
Những
“autoherds” lớn xướt qua
Trên những vạch
mầu xám, xoắn xuýt, bèn bẹt, lấp lánh mỡ
Như lá cờ được
tân trang – updated.
Những bãi
nông cá chim, cá chình, lươn
Đã khám phá
ra vùng đất này
Trước cả hai
giống dân Vikings, hay Spaniards
Vẫn xúm xít
vây quanh bãi biển.
Trong nền cộng
hòa của những mục đích và phương tiện
Nó tính đếm
như thế này:
Mỗi thành tựu
thi ca tượng trưng cho thiểu số những người chết.
Bây giờ, bạn
trở thành 1 phần của mảnh đất giản dị, trần trụi, vô hồn
Của sự lơ là
- đếch thèm coi trọng, disregard - của nỗi đau chung
IV
Bạn thì quá
rành về cái chết
Như nó sẽ từng
Học về bạn
Hay, dám
trưng ra.
Có vẻ như
người ta sẽ cảm thấy
Đó là 1 nơi
chốn xưa cũ, u tối
Vô địch thủ
Không nơi
nào khác dám chọi lại nó
Nơi, mỗi từ
là một ướm, thử một cái then cửa
Dưới cái mái
nhà này
Da thịt, cái
còn sống
Chấp nhận tất
cả cái vô hình
Của 1 linh hồn
dai dẳng
Trong bầu trời
Của bài ca dởm,
giả
Của cái
chong chóng
Cái chuông của
bạn gõ lên một cú thức tỉnh không ngừng
1977
ROBERT
LOWELL
(1917-1977)
Volume by
volume, the books of Robert Lowell revealed the age in which he lived, both
drawing its portrait and animating its conscience. At the time of his death,
Lowell was the most prominent, influential, and honored American poet of his
generation. Born in Boston, the heir to a patrician New England family, he was
instinctively rebellious; he dropped out of Harvard (preferring to study at
Kenyon College with John Crowe Ransom), converted to Catholicism, and served
time in jail as a conscientious objector during World War II. His troubled
family history, broken marriages, and manic-depressive episodes later became
the subjects of his poems, beginning with the celebrated Life Studies in 1959,
a book that also marked a shift away from the dense symbolic rhetoric of his
early work toward a more open, febrile style. His preference for existential
narrative, his calculated use of surreal imagery, his deployment of historical
allusion, and his confessional method-these were constant during his career, as
were themes of will, authority, breakdown, and recrimination in history and his
own life. Lowell was active as a teacher, translator, and playwright; he twice
won the Pulitzer Prize (in 1947 and 1974), in addition to the National Book
Award (1960), the Bollingen Prize (1962), the National Book Critics Circle
Award (1978), and many others.
The Vintage
Book of Contemporary American Poetry, second edition 2003
Bồ câu
Vẫn những chuyến bay cũ, vẫn những trở về nhà cũ
Chừng một tá, mỗi ngày
Nhưng sau cùng, những con bồ câu duỗi /dứt /thoát… ra khỏi những cái lồng….
Nhà nghĩa là cái quái gì, nếu không phải là nỗi nhớ nó
Cho khoảnh khoắc biệt tăm, của cơn kinh hoàng lững lờ,
Của chuyến bay?
Trở về với cái chuồng, có 1 con chim khác
Cho tất cả những cơ may, những run rủi… con chim đẹp nhất.
Chẳng bao giờ bay,
Chẳng biết gì về sự dịu dàng
Tuy nhiên, bằng khốn khổ, đau thương, của lũ…. Ngụy,
Trong đấu trường
Chỉ khi đó, trái tim mới có thể biết, có thể học được, “đập” nghĩa là gì?
Hãy nghĩ tới vua Leonidas, có thể, hay những chiến binh “holites”
Lấp lánh, sáng ngời với niềm tin giải phóng
[Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai. TTT]
Khi họ trải tóc cho nhau, bộ tóc vàng Botticellian
Ở Thermopylae, bạn bè và người yêu, cô dâu và chú rể-
Và đứng vào vị trí, để chết
[Chúng nó làm Cộng Sản
Chúng ta làm tù nhân. TTT]
Leonidas I - Wikipedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Leonidas_I
Leonidas I was a warrior king of the Greek city-state of Sparta, and the 17th of the Agiad line; a dynasty which claimed descent from the mythological demigod ...
Hoplites (Greek: Ὁπλιτης) were citizen-soldiers of Ancient Greek city-states who were primarily armed with spears and shields. Hoplite soldiers utilized the phalanx formation in order to be effective in war with fewer soldiers.
Pigeons
(For Hannah Arendt)
The same old flights, the same old homecomings,
dozens of each per day,
but at last the pigeon gets clear of the pigeon-house . • •
What is home, but a feeling of homesickness
for the flight's lost moment of fluttering terror?
Back in the dovecote, there's another bird,
by all odds the most beautiful,
one that never flew out, and can know nothing of gentleness….
Still, only by suffering the rat-race in the arena
can the heart learn to beat.
Think of Leonidas perhaps and the hoplites,
glittering with liberation,
as they combed one another's golden Botticellian hair
at Thermopylae, friends and lovers, the bride and the bridegroom-
and moved into position to die.
Robert Lowell: Imitations
[Lộng dịch,THNM]
Note:
Chỉ là đang nhớ nhà, Sài Gòn, và Huế, khi nhìn bức hình
What is home, but a feeling of homesickness…
for the flight’s lost moment of fluttering terror?
Qu'est-ce que la maison, sinon un sentiment de mal du pays
pour le moment perdu de vol de terreur flottante ?
Nhà nghĩa là gì nếu không phải là nỗi nhớ nó
Cho 1 khoảnh khắc mất mát của chuyến bay của cơn kinh hoàng lững lờ?
Từ "kinh hoàng", THNM, thì bèn bật ra Mậu Thân, và Huế.
Tks, both of U
NQT
Tự Khúc Gọi NgườiNote:
Chỉ là đang nhớ nhà, Sài Gòn, và Huế, khi nhìn bức hình
What is home, but a feeling of homesickness…
for the flight’s lost moment of fluttering terror?
Qu'est-ce que la maison, sinon un sentiment de mal du pays
pour le moment perdu de vol de terreur flottante ?
Nhà nghĩa là gì nếu không phải là nỗi nhớ nó
Cho 1 khoảnh khắc mất mát của chuyến bay của cơn kinh hoàng lững lờ?
Từ "kinh hoàng", THNM, thì bèn bật ra Mậu Thân, và Huế.
Tks, both of U
NQT
Quoc Tru Nguyen shared a post.
Em
Em về tự hôm qua
hỏi dậm sân cỏ trước nhà
đã lâu không cắt
trăn trở cành
bụi hoa khập khễnh
Gió mù, hơi thở hổn hển những con đường
ngấu nghiến nhai, thời gian tất bật
hàng thông già nhễ nhại cơn mê
Em về tự hôm qua
đau đáu khoảng quá khứ gạch ngói
màu son, màu thẳng đứng
tiếng dương cầm tìm lại những ngón tay
Em về tự hôm nay
khánh kiệt trên từng sợi tóc
con chó già tru tiếng
mạng nhện trong con mắt lừ đừ, khốn khó
bài đồng ca không trọn hơi
và thời gian vữa nát
Khoảng trời lặng chờ con trốt
Em cũng lặng thinh
tất cả rồi sẽ bị cuốn trôi
như con nước ung thư
định mệnh yểu
Em về,
Em về, em về
tự hôm qua, tự hôm mai
và tự hôm nay
Em về, em về
Em về
phả hương thời con gái
bưng mặt khóc
giọng cắt da.
Đài Sử
Mùa Em
Thu đến
Và em cũng đến
Lá ngơ ngẩn chuyển màu
theo từng bước em qua
Nắng bàng bạc
bờ mi nào buông rủ
Gió man mác buồn
cho dài ngọn tóc mai
Phố
Người
Vắng
Em nụ cười hun hút
Màu ấm môi hôn
Hàng cây khẳng khiu gầy
Mùa cỏ cuối
nghe dậy mùi hoang vắng
Em đi
và mùa thu lặng lẽ,
theo em.
Đài Sử
Note: Đài Sử là con trai TTT
Thơ của anh, không tới được cõi thơ của Bố, cực kỳ đàn ông, virile – theo cái nghĩa mà Lukacs sử dụng để định nghĩa tiểu thuyết, hay đúng hơn cõi người khi không còn thần thánh nữa – khi thần thánh đã bỏ chạy, “tiểu thuyết là để diễn tả cõi không nhà siêu việt” – nhưng thoát ra được cõi thơ vãi nước đái của thơ Mít, đúng như Bùi Giáng diễn tả, em chưa đái mà hồn anh đã ướt. Thơ của anh, nằm trong cõi mà Hirsch diễn tả, trong bài Intro cho tuyển tập thơ hay nhất Huê Kỳ 2016, mà ông là nhà biên tập khách mời. Từ từ, Gấu dịch, và giới thiệu, hầu độc giả New Tinvan và FB.
(1)
Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la principale forme littéraire, của một thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng không có tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de la maturité virile).
Trang Thơ Đài Sử
Một Thoảng Sài Gòn
Sài Gòn chiếc xích lô mất tích
Áo quần lính quýnh thả nắng loang
Sài Gòn mờ mắt hàng me cũ
Gió lộng ngang đầu ngây ngấy ban trưa
Sài Gòn nói chuyện xưa như diễm
vẫn phì cười làm tà áo chông chênh
Sài Gòn thả con dốc dài do dự
Tượng Đức Mẹ nhìn em giấu cả bàn tay
Sài Gòn thoảng mùi hương dạ lý
Áo trắng dài làm chới với gót chân
Sài Gòn vắng những chiếc xe lọc cọc
đạp một thời chở những giấc mơ rong
Sài Gòn cũ bơ phờ vóc dáng
em vẫn đứng chờ mưa từng hạt rơi nhanh
Sài Gòn dễ đồng đô la trong túi
Sài Gòn mơ những con phố xa xăm
Sài Gòn bụi đôi mắt em vẩn đục
“Kiều” Nguyễn Du bám chặt mãi tôi em
Sài Gòn tháng Giêng tôi đứng cuối tháng Chạp
tháng Sáu mưa sa hàng hiên nhỏ ướt lưng ong
Sài Gòn chật chội tôi một mình trơ trẽn
“Áo mão cân đai” hàng mã đốt nghiã trang
Sài Gòn cũ tôi tìm tôi trong đó
Hụt dài hơi con phố lạ tên xưa
Mưa bong bóng mưa dài mưa bất tận
Nắng Sài Gòn có đủ hong khô
Sài Gòn mới tôi đứng sau cánh cửa
tiếng gõ khan bóng ai đổ bên cầu
mùi thạch thảo vấn vương đóa hồng cũ
vỡ tan hoang mù tro nấm mộ hoang.
Đài Sử
Note:
Gấu mê nhất câu:
Sài Gòn cũ tôi tìm tôi trong đó.
Tks. NQT
Our Dead
Poets
Their lines
string out from nowhere, stretch to sorrow.
I think of
the others who once had the top billing,
ironclads in
our literary havoc,
now even
forgotten by malice. "He exists,"
as an old
Stalinist luminary said of a friend
sent to
Siberia. "Cold helps him to compose."
As a child
Jean Stafford stood on a chair to dress;
"It's
so much easier." It's easier not to dress,
not brush
our teeth, flick off unopened mail.
Sometimes for
days I only hear your voices,
the sun of
summer will not adorn you again
with her
garment of new leaves and flowers ...
her nostalgie
de la boue that shelters ape
and protozoa
from the rights of man.
Robert
Lowell
Nos poètes
morts
Leurs lignes
s'étirant de nulle part, s'étendent à la tristesse.
Je pense aux
autres qui ont jadis eu la première place,
des
cuirassés dans nos ravages littéraires,
maintenant
même oublié par la malice. "Il existe"
comme un
ancien luminaire stalinien dit d'un ami
envoyé en
Sibérie. "Le froid l'aide à composer."
Enfant, Jean
Stafford se tenait sur une chaise pour s'habiller;
"C'est
tellement plus facile." C'est plus facile de ne pas s'habiller,
pas se
brosser les dents, jetez le courrier non ouvert.
Parfois,
pendant des jours, je n'entends que vos voix,
le soleil de
l'été ne vous ornera plus
avec son
vêtement de nouvelles feuilles et de fleurs ...
sa nostalgie de la boue qui abrite des singes
et
protozoaires des droits de l'homme.
Những thi sĩ đã ngỏm của chúng ta
Những dòng thơ của họ, từ…. hư vô, vô thường, không biết xó xỉnh nào,
Bèn bò ra
Rồi tìm cách chuồn vào sầu muộn
Tớ nghĩ đến những đấng có thời đã ở trên đỉnh, hay, hơn cả thế nữa, đỉnh của đỉnh, kể cả về tiền bạc lẫn danh vọng, the top billing.
Những con tầu bọc sắt, ở trong cơn tàn phá văn học của chúng ra - chốn giang hồ gió tanh mưa máu, chắc là từ đó mà ra chăng, our literary havoc ? -
Bây giờ, đếch ai thèm nhớ đến, ngay cả “nhớ đến” theo nghĩa ma muội, bửn thỉu, ác độc.
“Ừ mà, đúng rồi, có thằng khốn đó!”
[Tớ đã từng nghe, chúng nói về thằng cha Gấu Cà Chớn, khi chưa ngỏm củ tỏi, nhưng được Đảng và Nhà Nước VC đầy đi nông trường cải tạo Đỗ Hòa - ở đám hải ngoại, kẻ thù của thằng khốn, từ thời còn Sài Gòn!]
Nguyên tác: “Có thằng cha đó”, như 1 tay cựu trào dưới thời Xì Ta Lin, nói về một người bạn bị đầy đi Siberia. “Cái lạnh sẽ giúp hắn sáng tạo”
Khi còn là 1 đứa bé, Jean Stafford đứng trên ghế mặc đồ.
“Dễ mà, dễ hơn nhiều.”
Dễ hơn là, không mặc đồ
Không đánh răng, dzục thùng rác, thư từ đếch thèm mở ra đọc
Đôi ba lần, thỉnh thoảng, tớ chỉ nghe giọng nói của bạn
Mặt trời mùa hạ sẽ chẳng còn ve vuốt, mươn man, vẽ vời, trang điểm bạn nữa
Với quần áo của nàng, là những lá cây xanh tươi, và những bông hoa…
“Nỗi nhớ bùn” của nàng che chở lũ khỉ vượn và giống “protozoa” –
Thoát khỏi quyền con người
Re: Nostalgie de la boue.
http://tanvien.net/Blog_Tin_Van/10.html
Cháu đọc entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm, hihi .
Hôm nào cháu viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
Tks. I am looking forward to reading your "To_Gau entry".
Cái hồn của văn chương Việt Nam... D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn Gấu nhiều. Ông gọi là "Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue]. Gấu thuổng chữ của ông, viết được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn:
"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ.
Những thi sĩ đã ngỏm của chúng ta
Những dòng thơ của họ, từ…. hư vô, vô thường, không biết xó xỉnh nào,
Bèn bò ra
Rồi tìm cách chuồn vào sầu muộn
Tớ nghĩ đến những đấng có thời đã ở trên đỉnh, hay, hơn cả thế nữa, đỉnh của đỉnh, kể cả về tiền bạc lẫn danh vọng, the top billing.
Những con tầu bọc sắt, ở trong cơn tàn phá văn học của chúng ra - chốn giang hồ gió tanh mưa máu, chắc là từ đó mà ra chăng, our literary havoc ? -
Bây giờ, đếch ai thèm nhớ đến, ngay cả “nhớ đến” theo nghĩa ma muội, bửn thỉu, ác độc.
“Ừ mà, đúng rồi, có thằng khốn đó!”
[Tớ đã từng nghe, chúng nói về thằng cha Gấu Cà Chớn, khi chưa ngỏm củ tỏi, nhưng được Đảng và Nhà Nước VC đầy đi nông trường cải tạo Đỗ Hòa - ở đám hải ngoại, kẻ thù của thằng khốn, từ thời còn Sài Gòn!]
Nguyên tác: “Có thằng cha đó”, như 1 tay cựu trào dưới thời Xì Ta Lin, nói về một người bạn bị đầy đi Siberia. “Cái lạnh sẽ giúp hắn sáng tạo”
Khi còn là 1 đứa bé, Jean Stafford đứng trên ghế mặc đồ.
“Dễ mà, dễ hơn nhiều.”
Dễ hơn là, không mặc đồ
Không đánh răng, dzục thùng rác, thư từ đếch thèm mở ra đọc
Đôi ba lần, thỉnh thoảng, tớ chỉ nghe giọng nói của bạn
Mặt trời mùa hạ sẽ chẳng còn ve vuốt, mươn man, vẽ vời, trang điểm bạn nữa
Với quần áo của nàng, là những lá cây xanh tươi, và những bông hoa…
“Nỗi nhớ bùn” của nàng che chở lũ khỉ vượn và giống “protozoa” –
Thoát khỏi quyền con người
Re: Nostalgie de la boue.
http://tanvien.net/Blog_Tin_Van/10.html
Cháu đọc entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm, hihi .
Hôm nào cháu viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
Tks. I am looking forward to reading your "To_Gau entry".
Cái hồn của văn chương Việt Nam... D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn Gấu nhiều. Ông gọi là "Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue]. Gấu thuổng chữ của ông, viết được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn:
"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ.
Pasternak by Robert Lowell
Robert Lowell
Introduction
Pasternak has given me special problems. From reading his prose and many translations of his poetry, I have come to feel that he is a very great poet. But I know no Russian. I have rashly tried to improve on other translations, and have been helped by exact prose versions given me by Russian readers. This is an old practice; Pasternak himself, I think, worked this way with his Georgian poets. I hope I caught something worthy of his all-important tone.
Pasternak, đặc biệt, làm phiền tôi. Đọc thơ xuôi và rất nhiều bản dịch, thơ của ông, tôi nghĩ trong bụng, nhà thơ lớn, rất lớn. Nhưng tôi lại đếch biết tiếng Nga. Tôi bèn làm liều, dịch đại, theo nghĩa, làm cho nó khấm khá hơn, improve, những bản dịch khác, và được trợ giúp bởi những ấn bản thơ xuôi đích thực, do độc giả Nga cung cấp. Đây là 1 cách thực hành cổ, xưa: Pasternak, chính ông ta, cũng chơi, cùng 1 trò như vậy, theo tôi, với những nhà thơ Georgian. Tôi hy vọng, chôm được 1 cái gì đó thật có giá trị, của cái giọng rất kẻ cả, trưởng thượng, của ông – his all-important tone -
Wild Vines
Beneath a
willow entwined with ivy
we look for
shelter from the bad weather;
one raincoat
covers both our shoulders- '
my fingers
rustle like the wild vine around your breasts.
I am wrong.
The rain's stopped.
Not ivy, but
the hair of Dionysus
hangs from
the willows. What am I to do?
Throw the
raincoat under us!
Pasternak.
In the Woods
A lilac heat
sickened the meadow;
high in the
wood, a cathedral's sharp, nicked groins.
No skeleton
obstructed the bodies-
all was
ours, obsequious wax in our fingers….
Such, the
dream: you do not sleep,
you only
dream you thirst for sleep,
that some
one elsewhere thirsts for sleep-
two black
suns singe his eyelashes.
Sunbeams
shower and ebb to the flow of iridescent beetles.
The
dragonfly's mica whirs on your cheek.
The wood
fills with meticulous scintillations-
a dial under
the clockmaker's tweezers.
It seemed we
slept to the tick of figures;
in the acid,
amber ether,
they set up
nicely tested clocks,
shifted,
regulated them to a soprano hair for the heat.
It seems a
green and brown happiness flits beyond us;
sleep
smothers the woods;
no elegiacs
on the clock's ticking-
sleep, it
seems, is all this couple is up to.
Pasternak
Dans les bois
Une chaleur lilas a rendu malade le pré;
haut dans le bois, les aigues coupées et déchirées d'une cathédrale.
Aucun squelette n'a obstrué les corps
tout était à nous, cire obséquieux dans nos doigts….
Tel, le rêve: tu ne dors pas,
vous ne rêvez que de votre soif de sommeil,
que quelqu'un d'autre a soif de sommeil
deux soleils noirs brûlent ses cils.
Les rayons du soleil se déversent sous l’effet du scarabée irisé.
La mica de la libellule tourne sur votre joue.
Le bois se remplit de scintillations méticuleuses
un cadran sous les pincettes de l'horloger.
Il semblait que nous avions dormi jusqu'au tonnerre des chiffres;
dans l'acide, l'éther d'ambre,
ils ont mis en place des horloges bien testées,
décalé, réglé sur un poil de soprano pour la chaleur.
Il semble qu'un bonheur vert et brun flotte au-delà de nous;
le sommeil étouffe les bois;
aucun élégiaque sur le tic-tac de l'horloge
Le sommeil, semble-t-il, est tout ce que ce couple prépare.
Pasternak
Trong rừng
Tử đinh hương
nồng, nặc, nóng, gây bịnh cho cánh đồng
Rừng cao, vòm
thánh đường nhọn, rách
Chẳng bộ xương
khô nào cản trở, gây rối những thân xác –
Tất cả là của
chúng ta, sáp ong ngoan ngoãn, ở những ngón tay của chúng ta….
Thế đó, giấc
mơ: Em đừng ngủ,
Em chỉ mơ,
em khát ngủ
Hay, kẻ nào
khác, ở đâu đó, khát ngủ -
Hai ông mặt
trời đen đốt cháy lông mi của hắn ta.
Những tia nắng
đổ xuống và rút đi, trên bầy ong sặc sỡ
Con chuồn
chuồn nhựa quay quay trên má em
Rừng tràn đầy
với những tia lấp lánh rất ư là chi li, tỉ mỉ -
Một cái mặt,
dưới những cú gắp, của cây nhíp, của người thợ sửa đồng hồ
Có vẻ như chúng
ta ngủ, tới sấm tới sét, của những con số;
Trong cường
toan, trong ê te mầu hổ phách
Họ gọn gàng
xếp đặt những chiếc đồng hồ thử nghiệm, lệch giờ, điều chỉnh lại, theo - cái gọi
là - lông tóc soprano (hair) - cho phù hợp với cái nóng
Có vẻ như, có,
cái gọi là hạnh phúc xanh và nâu, lờ lững di chuyển quá đôi ta
Giấc ngủ ngột
ngạt rừng, làm nó nghẹt thở;
Làm gì có, cái
gọi là, những bi khúc dành cho tiếng tí tách của cái đồng hồ.
Ngủ, có vẻ
như đó là tất cả những gì đôi ta có thể có, có thể sửa soạn, cho tới lúc này.
Hamlet in Russia, A Soliloquy
"My
heart throbbed like a boat on the water.
My oars
rested. The willows swayed through the summer,
licking my
shoulders, elbows and rowlocks-
wait! this
might happen,
when the
music brought me the beat,
and the
ash-gray water-lilies dragged, and a couple of daisies blew,
and a hint
of blue dotted a point off-shore-
lips to
lips, stars to stars!
My sister,
life!
the world
has too many people for us,
the sycophant,
the spineless-
politely,
like snakes in the grass, they sting.
My sister!
embrace the
sky and Hercules
who holds
the world up forever
at ease,
perhaps, and sleeps at night
thrilled by
the nightingales crying….
The boat
stops throbbing on the water….
The clapping
stops. I walk into the lights
as Hamlet,
lounge like a student against the door-frame,
and try to
catch the far-off dissonance of life-
all that has
happened, and must!
From the
dark the audience leans its one hammering brow against me-
ten thousand
opera glasses, each set on the tripod!
Abba,
Father, all things are possible with thee-
take away
this cup!
I love the
mulishness of Providence,
I am content
to play the one part I was born for…
quite
another play is running now…
take me off
the hooks tonight!
The sequence
of scenes was well thought out;
the last bow
is in the cards, or the stars-
but I am
alone, and there is none . . .
All's
drowned in the sperm and spittle of the Pharisee-
To live a
life is not to cross a field."
Pasternak.
Hâm Liệt ở
Nga. Một cú độc thoại
Tim của tớ đập
như 1 con tầu trên mặt nước.
Mấy cây chèo
ngưng. Liễu lòa xòa trong hạ,
Liếm vai,
khuỷu tay tớ, và những sỏi đá “cũng còn có nhau” ở bên dưới
Hãy đợi!
Điều có thể
xẩy ra
Khi nhạc Trịnh
đem nhịp điệu đến cho tớ
Và những bông
loa kèn mầu nước xám tro, lê thê,
Và một cặp cúc
thổi phù phù
Và 1 tí tí,
hình như màu xanh điểm thành 1 dấu chấm, xa xa, bên ngoài bãi biển
Những bờ môi
cho những môi bờ
Những vì sao
cho những sao vì
Em gái ơi, đời
ơi!
Thế giới quá
nhiều người đối với đôi ta,
Kẻ nịnh hót,
tên nhu nhược - rất ư là lịch sự, như những con rắn ở trong cỏ, chúng cắn, chúng
đợp
Em gái ơi!
Ôm lấy bầu
trời, và chàng Hercules
Kẻ đời đời nâng
giữ thế giới, dễ dàng, thoải mái, có thể,
Và ngủ vào
ban đêm
Sững sờ vì
những tiếng khóc của họa mi
Con tầu ngưng,
không còn đập trên nước
Tiếng vỗ tay
ngưng.
Tớ bước vô vùng
ánh sáng như Hâm Liệt
Loạng quạng
như 1 chàng sinh viên trước khung cửa
Cố nắm bắt sự
không đồng điệu xa vời của cuộc đời
Tất cả những
gì xẩy ra, và phải!
Trong bóng tối,
công chúng đưa cái trán búa tạ của nó ra, chống lại tôi
Mười ngàn cặp
kính opera, mỗi cái trên 1 cái càng ba chân của nó!
Abba, Người
Cha, tất cả thì đều có thể với kẻ - lấy chiếc cúp đi!
Tớ ngưỡng mộ
sự giầu sang của Chúa
Tớ hài lòng đóng
vai của mình khi được sinh ra…
Một vở kịch
khác hầu như đang được trình diễn vào lúc này..
Gỡ tớ ra khỏi
những cái móc câu tối nay!
Sự lớp lang
của vở kịch được suy diễn thông suốt
Cú rạp mình
cúi chào sau cùng thì ở trong những con bài, hay những vì sao
Nhưng tớ thì
trơ ra, cô đơn, một mình, chẳng có ai khác….
Tất cả thì đều
chết đuối trong tinh dịch hoặc khạc nhổ của Pharisee
Sống cuộc đời
thì không dễ dàng như đi qua 1 cánh đồng
Note: Bài thơ
này, để hiểu nó, thì phải biết tới 1 vài sự kiện: Pasternak là người dịch Hâm
Liệt qua tiếng Nga, và, do Xì rất ghét Hâm Liệt, nên ra lệnh cấm xb, cấm trình
diễn. Hâm Liệt như thế, là còn mang tính ẩn dụ, kẻ giết cha – ông bố Bắc Kít của
thằng con trai trong Tuổi Hai Mươi yêu dấu của NHT, là cũng có ý nghĩa như vậy.
Và phải biết
nguyên tác Hâm Liệt, của Pasternak, có post trên Tin Văn tanvien.net.
[post sau đây]
Về Pạt, thật nhã
Với những ai
quen thuộc với thơ của ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải
Nobel ban
cho ông vào năm 1958 quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà
thơ mà thế
giá ở Nga, người ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca
Akhmatova; một đại gia về dịch
thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng
cả!], thì mới dám đụng
vô Shakespeare, vậy mà phải
viết một
cuốn tiểu thuyết to tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây
chấn động
giang hồ, cả Ðông lẫn Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một
best-seller,
[có lẽ phải
thêm vô, phải có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc
đó, những thi sĩ của những xứ sở Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được
Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương tình để mắt tới.
Giá như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế mà mùi vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về một sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học Ðông Âu, và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Giá như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế mà mùi vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về một sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học Ðông Âu, và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được
Nobel, Pạt mới hiểu ra được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một
đại ác mộng
về sự hồ nghi, chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng
định với
chính mình, tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy
vì những
hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi, mi được Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi, mi được Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….
Tôi không kiếm thấy trong tác
phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự
chống đối triết học của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái
sự ngần
ngại khi phải đối đầu với những trừu
tượng
– và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng
nghĩa – và đây
là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô Viết là
cuộc sống
của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi chân
thực. Ông
chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của Pasternak là vô thần, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại, đối với ông, thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì ở nơi thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh. Và ông coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Dr Zhivago là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của Pasternak là vô thần, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại, đối với ông, thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì ở nơi thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh. Và ông coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw Milosz
ZHIVAGO'S
POEMS
HAMLET
Bản tiếng
Anh
The noise is
stilled. I come out on the stage.
Leaning against the door-post
I try to guess from the distant echo
What is to happen in my lifetime.
Leaning against the door-post
I try to guess from the distant echo
What is to happen in my lifetime.
The darkness
of night is aimed at me
Along the sights of a thousand opera-glasses.
Abba. Father, if it be possible,
Let this cup pass from me.
Along the sights of a thousand opera-glasses.
Abba. Father, if it be possible,
Let this cup pass from me.
I love your
stubborn purpose,
I consent to play my part.
But now a different drama is being acted
For this once let me be.
I consent to play my part.
But now a different drama is being acted
For this once let me be.
Yet the
order of the acts is planned
And the end of the way inescapable.
I am alone: all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your life is not as simple as to cross a field (1).
(1) The
last line
is a Russian proverbAnd the end of the way inescapable.
I am alone: all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your life is not as simple as to cross a field (1).
Bản tiếng
Tây
Tout se
tait. Je suis monté sur scène,
Et j'écoute, adossé au montant
De la porte, la rumeur lointaine
Qui m'annonce tout ce qui m'attend.
Et j'écoute, adossé au montant
De la porte, la rumeur lointaine
Qui m'annonce tout ce qui m'attend.
Et je suis
la cible des ténèbres
Cent jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut encore, Abba mon père,
Cette coupe, écarte-la de moi!
Cent jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut encore, Abba mon père,
Cette coupe, écarte-la de moi!
Ton dessein
têtu, pourtant je l'aime,
Et ce rôle, je le prends en gré.
Mais un autre drame est sur la scène:
Donne-moi pour cette fois congé.
Mais on a
pesé l'ordre des actes,Et ce rôle, je le prends en gré.
Mais un autre drame est sur la scène:
Donne-moi pour cette fois congé.
Rien ne peut changer le dénouement.
Je suis seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce n'est pas franchir un champ.
Bản
tiếng Mít
Tiếng ồn tắt ngấm. Tôi bước lên
sàn diễn
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.
Tôi trở thành cái đích của đêm
đen
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.
Con yêu cái ý định bướng bỉnh
của cha.
Con bằng lòng chơi phần của con.
Nhưng lúc này một vở khác đã được trình diễn:
Vở này, cho phép con được nghỉ chơi.
Con bằng lòng chơi phần của con.
Nhưng lúc này một vở khác đã được trình diễn:
Vở này, cho phép con được nghỉ chơi.
Nhưng, lệnh lạc đã được phát ra,
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người Pharisee.
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người Pharisee.
Sống, không có đơn giản như là vượt qua 1 cánh đồng. (1)
Tục ngữ Nga
Pasternak à Peredelkino en 1946
http://www.tanvien.net/tgtp_02/Pasternak_by_Milosz.html
Comments
Post a Comment