Thu 2018
Thu, trước nhà mới, lối xóm, phố cũ, downtown,Toronto. Thơ cũ,
mới thấy lại ở tiệm sách cũ
Bài giới thiệu Brodsky dưới đây, là
từ tuyển tập thơ thế giới, The Vintage Book of Contemporary World Poetry. Nhận
xét, thơ ông đẫm chất tôn giáo, khiến Gấu không làm sao nhập được vô thơ ông. Lần
này, thử cú chót: Though often grittily realistic, his poems manifest a deeply
religious aura; they are laced as well with a rueful wit, considerable
learning, and a vigorously moral point of view.
Post sau đây,
hai bài trong To Urania
JOSEPH
BRODSKY
Russia
(1940-1996)
Joseph
Brodsky was awarded the Nobel Prize for Literature in 1987-the second youngest
person ever given the prize-the Swedish Academy cited his "all-embracing
authorship imbued with clarity of the thought and poetic intensity." Born
in Leningrad, he left school at fifteen worked at menial jobs, from farmhand to
machine operator and coroner’s assistant. He began writing poems a few years
later and at the same time taught himself English and Polish in order to read
and translate the works of poets like John Donne and Czeslaw Milosz, whom he admired.
Because as a teenager he had joined a dissident political group, the Soviet authorities
arrested him in 1964 and put him on trial for "social parasitism."
The case drew wide protests, but Brodsky was sentenced to five years of hard
labor in the Arctic. He was released after eighteen months and worked as a
translator, but by 1972 he was forced into exile.
He headed
first to Austria, in order to meet W. H. Auden, one of his nurses. Eventually
he emigrated to the United States and in 1977 became an American citizen.
Despite the tumult of his personal life, his poetry is largely uninterested in
politics. "Language and, presumably, literature," he wrote, "are
more ancient and inevitable, more durable than any form of social organization.
The revulsion, irony, or indifference often exprssed by literature toward the state
is essentially the reaction of the permanent-better yet, the infinite-against
the temporary, against the finite." Steeped in the traditional themes and
verse technique of lyric poetry, his work took up both the abiding metaphysical
perplexities and the fleeting intimate moments of the individual life. He drew
his inspiration from the great modern poets of Russia-Osip Mandelstam, Marina
Tsvetaeva, and Anna Akhmatova-as well as from poets of other cultures: Cavafy,
Hardy, Eliot, Montale, Frost, and Auden. Though often grittily realistic, his
poems manifest a deeply religious aura; they are laced as well with a rueful
wit, considerable learning, and a vigorously moral point of view.
Belfast Tune
[có trong
Tuyển tập]
Here's a
girl from a dangerous town.
She crops
her dark hair short
so that less
of her has to frown
when someone
gets hurt.
She folds
her memories like a parachute.
Dropped, she
collects the peat
and cooks
her veggies at home: they shoot
here where
they eat.
Ah, there's
more sky in these parts than, say,
ground.
Hence her voice's pitch,
and her
stare stains your retina like a gray
bulb when
you switch
hemispheres,
and her knee-length quilt
skirt's cut
to catch the squall.
I dream of
her either loved or killed
because the
town's too small.
[1986]
Elegy
About a year
has passed. I've returned to the place of battle,
to its birds
that have learned their unfolding of wings from a subtle
lift of a
surprised eyebrow, or perhaps from a razor blade
-wings, now
the shade of early twilight, now of stale bad blood.
Now the
place is abuzz with trading in your ankles' remnants, bronzes
of sunburnt
breastplates, dying laughter, bruises,
rumors of
fresh reserves, memories of high treason,
laundered
banners with imprints of the many who since have risen.
All's
overgrown with people. A ruin's a rather stubborn
architectural
style. And the heart's distinction
from a pitch-black cavern
isn't that
great; not great enough to fear
that we may
collide again like blind eggs somewhere.
At sunrise,
when nobody stares at one's face, I often
set out on
foot to a monument cast in molten
lengthy bad
dreams. And it says on the plinth "Commander
in
chief." But it reads "in grief," or "in brief," or
"in going under."
[1985 /
Translated by the author]
Cuốn này, cũng
mới có lại. Phần tiểu chú ở cuối, cho thấy, bạn không có chút hiểu biết về Ky Tô
Giáo thì thật khó cảm nhận thơ Brodsky. Vậy mà có 1 đấng thi sĩ Mít dám phán, làm
đếch gì có chất Ky Tô giáo trong thơ Brodsky, và không chỉ ta, mà Ngài Thư Ký
Nobel cũng gật gù cùng với ta!
He used to
tell his students that they probably were not terribly familiar with
the
Decalogue, but it was possible to learn, since there were only
seventeen: the
Ten Commandments and the seven cardinal sins-taken together, the
foundation of
our civilization. His Muse,
the spirit of language, was, he said, Christian,
which explains the Old and New Testament themes in his poetry.
Milosz: Notes about Brodsky
[Nàng thơ của ông, linh hồn, tinh anh của ngôn ngữ là Ky Tô giáo, điều này giải thích những đề tài Cựu và Tân Ước trong thơ của ông]
Milosz: Notes about Brodsky
[Nàng thơ của ông, linh hồn, tinh anh của ngôn ngữ là Ky Tô giáo, điều này giải thích những đề tài Cựu và Tân Ước trong thơ của ông]
“Tây nguyên”
trong bài là lúc ông cùng tôi về Bảo Lộc. Tiếng gà trưa từng khiến cho
nhiều
người nao lòng, dứt cơn nghĩ ngợi mông lung. Nhưng tiếng gà làm cho một
người
điếng hồn, có lẽ là lần đầu tiên được nhà thơ Nguyễn Đức Nhân diễn tả.
Trong một
thư điện tử gần nhất, Nguyễn Đức Nhân khẳng định với tôi và Nguyễn
Lương Vỵ rằng
anh chưa bao giờ qua thơ để so đọ về tài năng. Vì đó là cõi thị phi của
làng
văn nghệ. Những con chữ rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm nhất
là: “làm
sao có thể từ thơ đến được với cõi vô ngôn”.
Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)
Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)
Đã 1 Thầy Kuốc,
phịa ra … Roland Barthes.
Bi giờ thêm 1 nhà thơ VCC, phịa ra… Brodsky, “đếch biết gì về Ky tô giáo", đúng hơn, "đếch gắn liền với một tín điều cụ thể nào"!!
Khủng thật!
Chắc là cũng nghi, đếch ai tin, cho… chắc ăn, ông nhà thơ Mít bèn lôi 1 tay Trùm Viện Hàn Lâm Thụy Điển ra, để bảo chứng!
Làm thơ dở như NDN, vậy mà, không chỉ sợ cõi thị phi hỏi thăm tới ông, mà còn đòi mò tới cõi vô ngôn!
Cả hai cõi đó, chúng đâu thèm biết đến thơ “điếng hồn” của ông!
Viết lách liều lĩnh, áo thụng vái nhau, vậy mà bày đặt khai quật, làm sống lại một nền văn chương bị VC quăng vô thùng rác, tìm lại hồn cho nó!
Việc này, có lẽ nên để cho đám hậu duệ VC làm, có lẽ lại bảnh hơn, chăng?
Bài này có
trong A Part of Speech,
Son of Man and Son of God
Tuesday,
July 29, 2014 4:11 PM
Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Nguyên tác:
Christ
speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
Theo tôi, nên
dịch như sau:
Christ bèn
trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà
Best
regards,
DHQ
Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards
NQTĐa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards
Note: Không làm sao kiếm ra khúc dịch trật nữa!
Son
of Man and Son of God (2)
Today at 12:02 PM
Dear ông
Gấu
Cháu xin
phép giúp ông tìm lại bản dịch "trật"
Mary nói với Christ:
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?
Mary now speaks to Christ:
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?
Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?
Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?
Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine
Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
Best regards,
Phúc đáp:
Tks
Take Care
Take Care
Như vậy là
GCC không dịch được từ “thine”, và không hiểu, từ "woman", trong câu
thơ.
… Anh khoe khong?
K
OK rồi, không què đâu. Tks
NQT
Mạnh khỏe la vui roi!
O.
Tks. Tưởng là què luôn.
K
OK rồi, không què đâu. Tks
NQT
Mạnh khỏe la vui roi!
O.
Tks. Tưởng là què luôn.
V/v Đi tu tới bến.
Tôi đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó
Tôi đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó
Bác Tru theo
dao nao vậy?
Toi theo
dao
tho ong baDen gia, doc Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.
Gentile or
Jew or simply a man
Whose face has been lost in time,
We shall not save the silent
Letters of his name from oblivion.
Whose face has been lost in time,
We shall not save the silent
Letters of his name from oblivion.
What could
he know of forgiveness,
A thief whom Judea nailed to a cross?
For us those days are lost.
During his last undertaking,
A thief whom Judea nailed to a cross?
For us those days are lost.
During his last undertaking,
Death by
crucifixion,
e learned from the taunts of the crowd
That the man who was dying beside him
Was God. And blindly he said:
e learned from the taunts of the crowd
That the man who was dying beside him
Was God. And blindly he said:
Remember me
when thou eomest
Into thy kingdom, and from the terrible cross
The unimaginable voice
Which one day will judge us all
Into thy kingdom, and from the terrible cross
The unimaginable voice
Which one day will judge us all
Promised him
Paradise. Nothing more was said
Between them before the end came,
But history will not let the memory
Of their last afternoon die.
Between them before the end came,
But history will not let the memory
Of their last afternoon die.
O friends,
the innocence of this friend
Of Jesus! That simplicity which made him,
From the disgrace of punishment, ask for
And be granted Paradise
Of Jesus! That simplicity which made him,
From the disgrace of punishment, ask for
And be granted Paradise
Was what
drove him time
And again to sin and to bloody crime.
[Mark Strand]
And again to sin and to bloody crime.
[Mark Strand]
J.L. Borges
Luke XXIII
Không phải
Do Thái, hay Do Thái, hay giản dị một người đàn ông
Mặt, thời gian bào mòn
Chúng ta cũng không thể nào
Giành lại được từ quên lãng
Những con chữ câm lặng
Là cái tên của anh ta
Mặt, thời gian bào mòn
Chúng ta cũng không thể nào
Giành lại được từ quên lãng
Những con chữ câm lặng
Là cái tên của anh ta
Anh ta biết
gì về tha thứ
Tên trộm từ Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú cuối cùng của anh ta
Tên trộm từ Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú cuối cùng của anh ta
Chết bằng
đóng đinh thập tự
Anh ta biết, từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang chết kế bên anh ta,
Là Chúa. Và mù lòa, anh nói:
Anh ta biết, từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang chết kế bên anh ta,
Là Chúa. Và mù lòa, anh nói:
Xin hãy nhớ
đến tôi khi Người vô
Nước Thiên Đường
Và từ cây thập tự khủng khiếp
Một giọng nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào sẽ phán xét tất cả chúng ta
Nước Thiên Đường
Và từ cây thập tự khủng khiếp
Một giọng nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào sẽ phán xét tất cả chúng ta
Hãy hứa với
anh ta Thiên Đàng.
Chẳng lời nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ không để cho hồi ức của buổi chiều cuối cùng này chết.
Chẳng lời nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ không để cho hồi ức của buổi chiều cuối cùng này chết.
Ôi bạn bè, sự
ngây thơ vô tội của người bạn của Giê Su.
Khiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn cầu
Và được ban cho Thiên Đàng
Cho anh
ta thời gianKhiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn cầu
Và được ban cho Thiên Đàng
Và nữa, nữa, tội lỗi, và tội ác
Note: Bài thơ này, GCC lôi ra, tính dịch, hoá ra là dịch rồi.
Nhưng có lẽ, bạn nên đọc thêm, những dòng thơ này, trong bài viết của G. Greene:
THE LOST CHILDHOOD
In ancient shadows and twilights
Where childhood had strayed,
The world's great sorrows were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of Judas
Christ was betrayed.
TLS Mar 6 2015
Mẩu Đoạn
Bóng nắng
chạy
ngoằn ngoèo theo con bãi, vô tới đám cây anh túcNhư sau cùng được con gió buông tha
Những điều em nói, Gấu chỉ nhớ ba chớp ba nháng
Nhưng đếch thèm ghi notes
Who cares?
Gấu thú thật cũng có tí ham muốn ghi lại
Cái gì gì, lời nào em không nói,
Tình nào không gian dối
Nhưng lúc này, đến lượt Gấu nhăn mặt với cái bãi.
Em sẽ ngồi ở cái ghế bành
Và ngắm Gấu nhăn mặt
With the
help of people and the other elements
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.
When someone
living dies that way
blood flows at every blow.
blood flows at every blow.
But marble
statues die white
and not always completely.
and not always completely.
From the one
under discussion only the torso lingers
and it's like a breath held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.
and it's like a breath held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.
And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.
Wislawa
Szymborska: Here
Tượng
Hy Lạp
Với sự giúp
đỡ của con người và những yếu tố khác
Thời gian đã làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên, nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái, phải
Vai, hông, đầu, mông đít,
Và bất cứ cái gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.
Thời gian đã làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên, nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái, phải
Vai, hông, đầu, mông đít,
Và bất cứ cái gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.
Khi một người
nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra từ mọi cú liếm.
Máu tuôn ra từ mọi cú liếm.
Nhưng tượng đá
chết trắng
Và không phải luôn luôn trọn vẹn
Và không phải luôn luôn trọn vẹn
Từ cái chết đang
được bàn tới ở đây,
Còn một nửa,
Còn bức tượng bán thân
Cứ như thể, mọi hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ bây giờ
Nó phải níu vào chính nó
tất cả ân sủng và trọng lực (1)
cái phần đã bị liếm mất
Còn một nửa,
Còn bức tượng bán thân
Cứ như thể, mọi hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ bây giờ
Nó phải níu vào chính nó
tất cả ân sủng và trọng lực (1)
cái phần đã bị liếm mất
Và nó làm được
Kể từ giờ này nó làm được
Và nó chói lòa,
Nó chói loà, và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian, như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.
Kể từ giờ này nó làm được
Và nó chói lòa,
Nó chói loà, và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian, như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.
(1)
Chắc là thuổng
hai từ này của Simone Weil.
Bà này, “bạn quí” của
Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm sao mà nói lên được cái ý "ân sủng và trọng lực"!
NQTBài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm sao mà nói lên được cái ý "ân sủng và trọng lực"!
ROMANTIC
LANDSCAPE
To grieve,
always to suffer
At the thought of time passing.
The outside world shadowy
As your deepest self.
Melancholy meadows, trees so still,
They seem afraid of themselves.
At the thought of time passing.
The outside world shadowy
As your deepest self.
Melancholy meadows, trees so still,
They seem afraid of themselves.
The sunset
sky for one brief moment
Radiant with some supreme insight,
And then it's over. Tragic theater:
Blood and mourning at which
Even the birds fall silent.
Radiant with some supreme insight,
And then it's over. Tragic theater:
Blood and mourning at which
Even the birds fall silent.
Spirit, you
who are everywhere and nowhere,
Watch over the lost lamb
Now that the mouth of the Infinite
Opens over us
And its dumb tongue begins to move darkly.
Watch over the lost lamb
Now that the mouth of the Infinite
Opens over us
And its dumb tongue begins to move darkly.
Charles Simic
Phong cảnh lãng
mạn
Đau buồn, luôn
luôn đau buồn, đau thương
Khi nghĩ thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài kia mới u ám làm sao
Y chang nơi sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính chúng.
Khi nghĩ thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài kia mới u ám làm sao
Y chang nơi sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính chúng.
Bầu trời hoàng
hôn, trong một thoáng
Bỗng long lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết. Kịch bi đát:
Máu me, tang tóc
Ngay cả lũ chim cũng đành chết sững.
Bỗng long lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết. Kịch bi đát:
Máu me, tang tóc
Ngay cả lũ chim cũng đành chết sững.
Tinh thần, mi,
ở mọi nơi và ở không đâu,
Trông chừng con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng ta
Và cái lưỡi đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động
Trông chừng con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng ta
Và cái lưỡi đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động
https://www.the-tls.co.uk/articles/public/poem-week-may-24th-1980/
‘May 24th, 1980’
‘I’ve admitted the sentries’ third eye into my wet and foul / dreams. Munched the bread of exile: it’s stale and warty’ – by Joseph Brodsky
Just
before quitting “the country that bore and nursed” him, the poet Joseph
Brodsky (1940–1996) managed to smuggle the transcript of his trial of
1964 – in which he was charged with “social parasitism” and idleness –
out of the Soviet Union:
Soviet authorities declared Brodsky “a pseudo-poet” who failed to fulfil his “constitutional duty to work honestly for the good of the motherland”. Having “carved [his] term and nickname on bunks and rafters” at Soviet prison camps and a psychiatric facility, Brodsky was involuntarily expelled from the USSR in 1972 and continued his life in Britain and the US. Initially, he longed to be at home on native soil, to eat the bread born from that soil, reaping the “planted rye” that joined him to his native land and compatriots instead of consuming “the bread of exile” which is “stale and warty” (in 1922, his mentor the poet Anna Akhmatova wrote: “I pity the exile’s lot . . . wormwood infects your foreign bread”). In the end Brodsky rejected an invitation to return to Russia after the fall of the Soviet Union. He died in New York at the age of fifty-five but he considered his life “long”. As his good friend and fellow poet, Stephen Spender wrote: “Brodsky is someone who has tasted extremely bitter bread”.
‘May 24th, 1980’
I have braved, for want of wild beasts, steel cages,
carved my term and nickname on bunks and rafters,
lived by the sea, flashed aces in an oasis,
dined with the-devil-knows-whom, in tails, on truffles.
From the height of a glacier I beheld half a world, the earthly
width. Twice have drowned, thrice let knives rake my nitty-gritty.
Quit the country that bore and nursed me.
Those who forgot me would make a city.
I have waded the steppes that saw yelling Huns in saddles,
worn the clothes nowadays back in fashion in every quarter,
planted rye, tarred the roofs of pigsties and stables,
guzzled everything save dry water.
I’ve admitted the sentries’ third eye into my wet and foul
dreams. Munched the bread of exile: it’s stale and warty.
Granted my lungs all sounds except the howl;
switched to a whisper. Now I am forty.
What should I say about life? That it’s long and abhors transparence.
Broken eggs make me grieve; the omelette, though, makes me vomit.
Yet until brown clay has been crammed down my larynx,
only gratitude will be gushing from it.
JOSEPH BRODSKY (1987)
Judge: And what is your profession in general?For Brodsky, exile was not a political condition but an existential one, through which he contemplated the condition of humanity. The occupation of poet becomes a means to occupy and endure exile. The poem “May 24th, 1980” (first published in the TLS in 1987, the same year he was awarded the Nobel Prize in Literature) dated on his birthday was self-translated by Brodsky. Critics have accused the translation of being self-heroizing, whereas the original is not. However, the charm of Brodsky’s rendition of his poem is that it is a self-portrait painted without false modesty or bitterness. In it, he reflects on his life up until that moment, insisting on the right not to belong (“by education I’m nothing. By affiliation I’m nothing” said Brodsky in an interview for the Washington Post in 1987).
Brodsky: Poet-translator.
Judge: Who recognized you as a poet? Who listed you in the ranks of poets?
Brodsky: No one. Who listed me in the ranks of humanity?
Soviet authorities declared Brodsky “a pseudo-poet” who failed to fulfil his “constitutional duty to work honestly for the good of the motherland”. Having “carved [his] term and nickname on bunks and rafters” at Soviet prison camps and a psychiatric facility, Brodsky was involuntarily expelled from the USSR in 1972 and continued his life in Britain and the US. Initially, he longed to be at home on native soil, to eat the bread born from that soil, reaping the “planted rye” that joined him to his native land and compatriots instead of consuming “the bread of exile” which is “stale and warty” (in 1922, his mentor the poet Anna Akhmatova wrote: “I pity the exile’s lot . . . wormwood infects your foreign bread”). In the end Brodsky rejected an invitation to return to Russia after the fall of the Soviet Union. He died in New York at the age of fifty-five but he considered his life “long”. As his good friend and fellow poet, Stephen Spender wrote: “Brodsky is someone who has tasted extremely bitter bread”.
‘May 24th, 1980’
I have braved, for want of wild beasts, steel cages,
carved my term and nickname on bunks and rafters,
lived by the sea, flashed aces in an oasis,
dined with the-devil-knows-whom, in tails, on truffles.
From the height of a glacier I beheld half a world, the earthly
width. Twice have drowned, thrice let knives rake my nitty-gritty.
Quit the country that bore and nursed me.
Those who forgot me would make a city.
I have waded the steppes that saw yelling Huns in saddles,
worn the clothes nowadays back in fashion in every quarter,
planted rye, tarred the roofs of pigsties and stables,
guzzled everything save dry water.
I’ve admitted the sentries’ third eye into my wet and foul
dreams. Munched the bread of exile: it’s stale and warty.
Granted my lungs all sounds except the howl;
switched to a whisper. Now I am forty.
What should I say about life? That it’s long and abhors transparence.
Broken eggs make me grieve; the omelette, though, makes me vomit.
Yet until brown clay has been crammed down my larynx,
only gratitude will be gushing from it.
JOSEPH BRODSKY (1987)
Cho tớ 1 đời khác, và tớ sẽ hát
Joseph Brodsky (1940-1996) làm 1 bài thơ nhức nhối, cho lần sinh nhật bốn bó của ông, và nó cứ ở với tôi, kể từ lần đầu đọc nó, trong cuốn thơ "Gửi Urania" (1988) của ông. Một “chân dung tự họa, tóm tắt, và “thôi thế thì thôi, cũng đành như thế” với đời mình - a summing up and coming to terms - hay, 1 bản cương lĩnh khí chất – an idiosyncratic credo - của một nhà thơ Nga, thích nói về mình như là 1 Calvinist, “một người rất ư nghiêm ngặt với chính mình, với lương tâm, với ý thức của mình. Một Calvinist, như Brodsky định nghĩa theo kiểu diễu cợt, tự biên tự diễn của ông, là “1 kẻ coi bất cứ ngày nào cũng là Ngày Phán Xét, đối với chính mình – như thể Chúa lúc nào thì cũng vắng mặt, hay, lúc nào thì anh ta cũng bực bội, hết còn kiên nhẫn đối với Người. (1)
(1)
Trong “Trò chuyện với Brodsky”, của Solomon Volkov, có 1 chương dành cho Marina Tsvetaeva.
Brodsky coi Tsvetaeva là “nhà thơ thứ nhất của thế kỷ 20”, nhà thơ của thời trẻ tuổi của ông, và thơ của bà, có tính Calvinistic, và ông giải thích, Calvinism thì cũng đơn giản thôi: đó là 1 người bám chặt vào chính mình, với ý thức và lương tâm của mình. Theo nghĩa này, thì Dos là 1 Calvinist. Nói ngắn gọn, Calvinist là 1 kẻ lúc nào cũng phán Ngày Tận Thế, chống lại anh ta.
Bằng cách thẩm định này, Dos cũng được coi là 1 Calvinist, và cũng thế, là Marina Tvetstaeva, một trong những nhà thơ “favorite” - nữ sư phụ - của Brodsky, người mà ông gọi là “ the falsetto of time” - một giọng thơ the thé, chối tai của thời gian, và một “Job trong chiếc váy”, a “Job in a skirt”.
Brosdy tự mình dịch bài thơ SN của mình, từ đó, là cái thứ âm nhạc dẫn đạo và trò chơi chữ ép buộc của nó. Tôi có thể, vẫn nhắm mắt và nghe ông đọc lớn bài thơ trong 1 thánh ca hớp hồn đặc biệt, một thứ “rabbinical keening, a soaring singsong” - sầu muộn mang tính giáo sĩ Do Thái, một bài singsong rổn rảng rất ư là của riêng ông. “Đây không phải là 1 người đàn ông”, Nadezhda Mandelstam – bà vợ goá của Osip Mandelstam - có lần thốt lên, mà là, “1 dàn nhạc gió”. Hình thức, cách ngôn, tiểu sử, vo tròn như 1 con nhộng, được bắn đi bằng 1 thứ gia tốc trữ tình - có vẻ như rất hợp với tính khí đặc dị của Brodsky, thông minh sắc bén, trí khôn tếu táo, 1 thái độ trầm tĩnh, quyết tâm của tay khắc kỷ cổ điển khi đối diện với đau khổ đe dọa nhấn chìm ông
Bài thơ tóm tắt đời mình của Brodsky được viết, khi ông ở quá xa đất Nga của ông, từ mãi tít cuối lưu vong. Ông cũng chẳng thể có 1 cách viết nào khác, tuy nhiên, có vẻ như ông cảm thấy có tí tội lỗi khi phải bỏ xứ mà đi (Ông đâu muốn đi, mà bị nhà nước của ông bắt buộc lưu vong vào năm 1972, sau khi bị kết án là 1 tên ăn bám, và không bao giờ trở về Nga xô). “Nhai tóm tép mẩu bánh mì lưu vong, thay vì tọng cơm vào miệng, nó thì thiu, và lạo xạo như có cát ở trong - tạm dịch câu “munched the bread of exile, it’s stale and swarty”, ông tuyên bố, lấy ý từ câu thơ hãnh diện, tự hào, của Anna Akhmatova, viết năm 1922: “Hãy thương hại lũ khốn Ngụy bị Vẹm đá đít ra khỏi quê hương, ta thương hại lũ lưu vong này lắm lắm, giun, gián, bọ Mẽo tẩm độc bánh mì hải ngoại của chúng”. Brodsky chẳng bao giờ coi ông là 1 thứ nạn nhân – ông dị ứng với cái trò thương thân, da vàng nhược tiểu, nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang cái con mẹ gì đó, nhưng, dù muốn dù không, ông vẫn phải nhai thứ bánh mì khô cứng lưu vong, và điều này củng cố thêm tình liên đới đoàn kết đặc biệt của ông, với khổ đau.
Ông là 1 người thân quen với mất mát, và hiểu, điều mà ông hy sinh.
Tuy nhiên, như những bậc tiền nhiệm/tiền thân lớn lao của ông, như Anna Akhmatova, Mandelstam, và Tvetaeva, Brodsky cũng sở hữu cái tài năng thiên bẩm Orphic (từ Orpheus), biến sầu bi thành bài ca. Ông chuyển hóa những thử thách trong đời sống thành chiến thắng trong thơ. Tinh thần ở đâu cũng là nhà, cosmopolitan spirit, cư ngụ trong thơ ông. Trên hết, tôi nghe ra giọng nói của ông, thật đặc biệt, không thể lầm lẫn với bất cứ giọng khác, mang tính liên quốc gia, và hiểu ra rằng, tiếng thơ của ông “át” cái chết – cái này thuổng Vẹm - tiếng hát át tiếng bom!
MAY 24, 1980
I have braved, for want of wild beasts, steel cages,
carved my term and nickname on bunks and rafters,
lived by the sea, flashed aces in an oasis,
dined with the-devil-knows-whom, in tails, on truffles,
From the height of a glacier I beheld half a world, the earthly
width. Twice have drowned, thrice let knives rake my nitty-gritty.
Quit the country that bore and nursed me.
Those who forgot me would make a city.
I have waded the steppes that saw yelling Huns in saddles,
worn the clothes nowadays back in fashion in every quarter,
planted rye, tarred the roofs' of pigsties and stables,
guzzled everything save dry water.
I've admitted the sentries' third eye into my wet and foul
dreams. Munched the bread of exile: it's stale and warty.
Granted my lungs all sounds except the howl;
switched to a whisper. Now I am forty.
What should I say about life? That it's long and abhors transparence.
Broken eggs make me grieve; the omelette, though, makes me vomit.
Yet until brown clay has been crammed down my larynx,
only gratitude will be gushing from it.
Joseph Brodsky (1940-1996) làm 1 bài thơ nhức nhối, cho lần sinh nhật bốn bó của ông, và nó cứ ở với tôi, kể từ lần đầu đọc nó, trong cuốn thơ "Gửi Urania" (1988) của ông. Một “chân dung tự họa, tóm tắt, và “thôi thế thì thôi, cũng đành như thế” với đời mình - a summing up and coming to terms - hay, 1 bản cương lĩnh khí chất – an idiosyncratic credo - của một nhà thơ Nga, thích nói về mình như là 1 Calvinist, “một người rất ư nghiêm ngặt với chính mình, với lương tâm, với ý thức của mình. Một Calvinist, như Brodsky định nghĩa theo kiểu diễu cợt, tự biên tự diễn của ông, là “1 kẻ coi bất cứ ngày nào cũng là Ngày Phán Xét, đối với chính mình – như thể Chúa lúc nào thì cũng vắng mặt, hay, lúc nào thì anh ta cũng bực bội, hết còn kiên nhẫn đối với Người. (1)
(1)
Trong “Trò chuyện với Brodsky”, của Solomon Volkov, có 1 chương dành cho Marina Tsvetaeva.
Brodsky coi Tsvetaeva là “nhà thơ thứ nhất của thế kỷ 20”, nhà thơ của thời trẻ tuổi của ông, và thơ của bà, có tính Calvinistic, và ông giải thích, Calvinism thì cũng đơn giản thôi: đó là 1 người bám chặt vào chính mình, với ý thức và lương tâm của mình. Theo nghĩa này, thì Dos là 1 Calvinist. Nói ngắn gọn, Calvinist là 1 kẻ lúc nào cũng phán Ngày Tận Thế, chống lại anh ta.
Bằng cách thẩm định này, Dos cũng được coi là 1 Calvinist, và cũng thế, là Marina Tvetstaeva, một trong những nhà thơ “favorite” - nữ sư phụ - của Brodsky, người mà ông gọi là “ the falsetto of time” - một giọng thơ the thé, chối tai của thời gian, và một “Job trong chiếc váy”, a “Job in a skirt”.
Brosdy tự mình dịch bài thơ SN của mình, từ đó, là cái thứ âm nhạc dẫn đạo và trò chơi chữ ép buộc của nó. Tôi có thể, vẫn nhắm mắt và nghe ông đọc lớn bài thơ trong 1 thánh ca hớp hồn đặc biệt, một thứ “rabbinical keening, a soaring singsong” - sầu muộn mang tính giáo sĩ Do Thái, một bài singsong rổn rảng rất ư là của riêng ông. “Đây không phải là 1 người đàn ông”, Nadezhda Mandelstam – bà vợ goá của Osip Mandelstam - có lần thốt lên, mà là, “1 dàn nhạc gió”. Hình thức, cách ngôn, tiểu sử, vo tròn như 1 con nhộng, được bắn đi bằng 1 thứ gia tốc trữ tình - có vẻ như rất hợp với tính khí đặc dị của Brodsky, thông minh sắc bén, trí khôn tếu táo, 1 thái độ trầm tĩnh, quyết tâm của tay khắc kỷ cổ điển khi đối diện với đau khổ đe dọa nhấn chìm ông
Bài thơ tóm tắt đời mình của Brodsky được viết, khi ông ở quá xa đất Nga của ông, từ mãi tít cuối lưu vong. Ông cũng chẳng thể có 1 cách viết nào khác, tuy nhiên, có vẻ như ông cảm thấy có tí tội lỗi khi phải bỏ xứ mà đi (Ông đâu muốn đi, mà bị nhà nước của ông bắt buộc lưu vong vào năm 1972, sau khi bị kết án là 1 tên ăn bám, và không bao giờ trở về Nga xô). “Nhai tóm tép mẩu bánh mì lưu vong, thay vì tọng cơm vào miệng, nó thì thiu, và lạo xạo như có cát ở trong - tạm dịch câu “munched the bread of exile, it’s stale and swarty”, ông tuyên bố, lấy ý từ câu thơ hãnh diện, tự hào, của Anna Akhmatova, viết năm 1922: “Hãy thương hại lũ khốn Ngụy bị Vẹm đá đít ra khỏi quê hương, ta thương hại lũ lưu vong này lắm lắm, giun, gián, bọ Mẽo tẩm độc bánh mì hải ngoại của chúng”. Brodsky chẳng bao giờ coi ông là 1 thứ nạn nhân – ông dị ứng với cái trò thương thân, da vàng nhược tiểu, nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang cái con mẹ gì đó, nhưng, dù muốn dù không, ông vẫn phải nhai thứ bánh mì khô cứng lưu vong, và điều này củng cố thêm tình liên đới đoàn kết đặc biệt của ông, với khổ đau.
Ông là 1 người thân quen với mất mát, và hiểu, điều mà ông hy sinh.
Tuy nhiên, như những bậc tiền nhiệm/tiền thân lớn lao của ông, như Anna Akhmatova, Mandelstam, và Tvetaeva, Brodsky cũng sở hữu cái tài năng thiên bẩm Orphic (từ Orpheus), biến sầu bi thành bài ca. Ông chuyển hóa những thử thách trong đời sống thành chiến thắng trong thơ. Tinh thần ở đâu cũng là nhà, cosmopolitan spirit, cư ngụ trong thơ ông. Trên hết, tôi nghe ra giọng nói của ông, thật đặc biệt, không thể lầm lẫn với bất cứ giọng khác, mang tính liên quốc gia, và hiểu ra rằng, tiếng thơ của ông “át” cái chết – cái này thuổng Vẹm - tiếng hát át tiếng bom!
MAY 24, 1980
I have braved, for want of wild beasts, steel cages,
carved my term and nickname on bunks and rafters,
lived by the sea, flashed aces in an oasis,
dined with the-devil-knows-whom, in tails, on truffles,
From the height of a glacier I beheld half a world, the earthly
width. Twice have drowned, thrice let knives rake my nitty-gritty.
Quit the country that bore and nursed me.
Those who forgot me would make a city.
I have waded the steppes that saw yelling Huns in saddles,
worn the clothes nowadays back in fashion in every quarter,
planted rye, tarred the roofs' of pigsties and stables,
guzzled everything save dry water.
I've admitted the sentries' third eye into my wet and foul
dreams. Munched the bread of exile: it's stale and warty.
Granted my lungs all sounds except the howl;
switched to a whisper. Now I am forty.
What should I say about life? That it's long and abhors transparence.
Broken eggs make me grieve; the omelette, though, makes me vomit.
Yet until brown clay has been crammed down my larynx,
only gratitude will be gushing from it.
Note: Hirsch
quá mê bài thơ này. Nhưng bài trên TLS, về nó, mà không thú sao?
Comments
Post a Comment