Thơ Mỗi Ngày





Reciprocity
There are catalogs of catalogs.
There are poems about poems.
There are plays about actors played by actors.
Letters due to letters.
Words used to clarify words.
Brains occupied with studying brains.
There are griefs as infectious as laughter.
Papers emerging from waste papers.
Seen glances.
Conditions conditioned by the conditional.
Large rivers with major contributions from small ones.
Forests grown over and above by forests.
Machines designed to make machines.
Dreams that wake us suddenly from dreams.
Health needed for regaining health.
Stairs leading as much up as down.
Glasses for finding glasses.
Inspiration born of expiration.
And even if only from time to time
hatred of hatred.
All in all,
ignorance of ignorance
and hands employed to wash hands.
Szymborska: Map
Có đi có lại
Có những catalogs của catalogs
Những bài thơ của những bài thơ
Kịch về nghệ sĩ, chơi bởi nghệ sĩ.
Thư trả nợ thư
Từ làm rõ từ.
Não, bận vì “não nghiên cứu”
Có đau thương, gây nhiễm, như tiếng cười
Giấy ló ra từ giấy bửn, thải
Những cú nhìn được chiếu cố, theo kiểu, đài gương soi đến dấu bèo này chăng
Những điều kiện bị điều kiện bởi điều kiện
Những sông lớn với đóng góp lớn lao của sông nhỏ
Rừng lớn chồm lên vượt lên rừng nhỏ
Máy móc, được làm ra để làm ra những máy móc
Những giấc mơ làm chúng ta thức giấc, nghĩa là ra khỏi những giấc mơ.
Sức khoẻ được cần, để lấy lại sức khoẻ
Những cầu thang dẫn chúng ta lên, nhiều, như là xuống
Kính để tìm kính
Hứng khỏi mọc lên từ mãn hứng, nghĩa là, tắt hơi, tắt hứng
[từ “mãn hứng” này là được gợi hứng từ “mãn kinh”!]
Và ngay cả, dù chỉ thi thoảng,
thù hận, từ hận thù
Tất cả trong tất cả
Vô tri từ ngu si
Và những bàn tay để rửa những bàn tay.
Hand
Twenty-seven bones,
thirty-five muscles,
around two thousand nerve cells
in every tip of all five fingers.
It's more than enough
to write Mein Kampf
or Pooh Corner. 
-Wistawa Szymborka
Tay
Hai mươi bảy cái xương
Ba mươi lăm cái bắp thịt
Cỡ chừng hai ngàn tế bào thần kinh
Ở đầu, của mọi đầu, của cả năm ngón tay
Vậy là quá, quá đủ
Để ngồi hang Hắc Búa
Hay Hác Bó cái con mẹ gì đó

Dịch Sử Đảng!

&
EARLY ONE MORNING
Here is Memory walking in the dark
there are no pictures of her as she is
the coming day was never seen before
the stars have gone into another life
the dreams have left with no sound of farewell
insects wake flying up with their feet wet
trying to take the night along with them
Memory alone is awake with me
knowing that this may be the only time
Một sáng sớm
Đây là Hồi Nhớ đang đi một đường tản bộ trong bóng tối
Không có hình ảnh nào về nàng như nàng là
Cái ngày tới thì chưa từng nhìn thấy trước đó
Những vì sao thì bèn bỏ đi, vào một cuộc đời khác
Những giấc mộng thì bèn bị/được bỏ lại, đếch có 1 âm thanh của tạ từ, của vĩnh biệt
Sâu bọ, ruồi muỗi, côn trùng bay thì bèn bay lên, chân ướt nhèm
Cố lôi đêm đi cùng với chúng
Hồi Nhớ, chỉ có nó, bèn thức dậy cùng với GCC
Biết, lần này có thể là lần cuối cùng, đúng là lần này.


People Eating Lunch
And thinking with each mouthful,
Or so it appears, seated as they are
At the coffee shop counter, biting
Into thick sandwiches, chewing
And deliberating carefully before taking
Another small sip of their sodas.
The gray-haired counterman
Taking an order has stopped to think
With a pencil paused over his pad,
The fellow in a blue baseball cap
And the woman wearing dark glasses
Are both thoroughly baffled
As they stir and stir their coffees.
If they should look up, they may see
Socrates himself bending over the grill
In a stained white apron and a hat
Made out of yesterday's newspaper,
Tossing an omelet philosophically,
In a small frying pan blackened with fire.
Charles Simic: New and Selected Poems

Họ ăn trưa
Và suy tư với cái miệng lùng bùng
Hay có vẻ lùng bùng, với thức ăn chưa kịp nuốt
Ngồi, như họ ngồi
Ở quầy tiệm cà phê
Đợp một đợp xăng uých dầy,
Nhai nhai, thận trọng cân nhắc, trước khi
Chiêu ngụm xô đa nhỏ
Tên coi quầy tóc xám
Nhận order, ngừng suy tư
Với cây viết chì gài trên cuốn sổ,
Cái tay đội cái nón baseball màu xanh
Và người đàn bà đeo kính râm
Cả hai đều tỏ ra ngỡ ngàng
Quậy quậy cà phê
Nếu họ ngước nhìn lên
Họ có thể thấy
Socrates, đích thị ông ta
Nghiêng người xuống cái vỉ
Trong cái tạp dề trắng và cái nón
Làm bằng tờ báo ngày hôm qua
Lật lật món trứng omelet rất ư là triết học
Trong cái xoong đen thui vì lửa.


LATE SEPTEMBER
The mail truck goes down the coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.
Last night you thought you heard television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.
This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM 
Tháng Mười Cũ
Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình
Đêm qua bạn nghĩ bạn có nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu
Sáng nay, sao giống như Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có góp phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng râm nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng mình.
IN THE JUNK STORE
A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.
I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.
Charles Simic: The Little Something
Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!
Gấu lật lật 1 cái huy chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn…. 
ETERNITY'S ORPHANS
One night you and I were walking.
The moon was so bright
We could see the path under the trees.
Then the clouds came and hid it
So we had to grope our way
Till we felt the sand under our bare feet,
And heard the pounding waves.
Do you remember telling me,
"Everything outside this moment is a lie"?
We were undressing in the dark
Right at the water's edge
When I slipped the watch off my wrist
And without being seen or saying
Anything in reply, I threw it into the sea.
Charles Simic
Những đứa trẻ mồ côi của vĩnh cửu
Một đêm em và tôi dạo bước
Trăng cao, sáng vằng vặc
Chúng tôi có thể nhìn thấy lối đi dưới cây
Và rồi mây tới và che mất
Thế là chúng tôi phải mò mẫm kiếm lối đi
Cho tới khi cảm thấy cát dưới chân trần
Và nghe tiếng sóng biển đập thình thịch
Em có nhớ là em biểu tôi
"Mọi cái chó gì bên ngoài khoảnh khắc này, thì đều là dối trá"?
Chúng mình lột trần truồng trong bóng tối
Ngay kế bên bờ nước
Trong khi tôi gỡ cái đồng hồ ra khỏi cổ tay
Và chẳng để ý em có nhìn tôi,
Hay nói cái gì để trả lời
Tôi ném cái đồng hồ xuống biển 


Simic: Scribbled in the Dark

ALL THINGS IN PRECIPITOUS
DECLINE

Like a pickup with its wheels gone,
And some rusty and disassembled
Antique stoves and refrigerators
In a front yard choked with weeds,
Outside a shack with a plastic sheet
Draped over one of its windows,
Where a beer bottle went through
One star-studded night in June-
Or was it a shotgun we heard?
The police inquiry, if there is one,
Is proceeding at a snail's pace,
In the meantime, the old recluse
Got himself a bad-tempered mutt
To keep his junk company and bark
At all comers, including the mailman
Leaving a rare letter in the mailbox.
Cứ thế dốc ngược mà thoái

Như cái pickup bốn bánh mỗi cái mỗi nơi
Mấy cái lò, tủ lạnh từ thời ông bành tổ ở sân trước nhà
Tắc nghẹn cỏ
Bên ngoài cái lán với cái khăn trải giường bằng nilông
Phủ lên một cái cửa sổ của nó
Nơi một cái vỏ chai bia bèn đi hoang
Cho hết một mùa hoang vu trên mặt đất -thuổng PCT -
Simic khiêm tốn hơn,
Đi hết 1 đêm tháng Sáu, trời vãi sao –
Nghe có tiếng shotgun?
Ôi dào rách việc, kệ mẹ mấy tên cớm VC!
Chúng vốn chậm như sên, nếu không được bôi trơn mõm
Cùng lúc này, cái anh già sống ẩn dật
Tự sắm cho lão một con chó tính tình khó đăm đăm
Để làm bạn đồng nát
Con chó sủa từ mọi góc gách
Thêm anh bưu tá
Bỏ một cái thư hiếm vào hòm thư.

ANCIENT COMBATANT

Veteran of foreign wars,
Stiff in arm and leg,
His baggy pants billowing in the wind
Salutes a crow in a tree,

And resumes his stroll
Past a small graveyard,
Swerving and waving his arms
As if besieged by ghosts

Lurking among headstones,
Waiting to accost him
And make a clean breast
,Before he slips out of sight.

The tiger lilies bemused.
The curving dirt road in his wake
Deep in silence
And prey to lengthening shadows.

Cựu chiến hữu

Cựu chiến hữu của những cuộc chiến ngoại bang giật dây
Chân tay cứng đơ
Ống quần rộng thùng thình như hai cánh buồm lộng gió
"Chàng" cúi chào một con quạ ở trên cây

Và bèn tiếp tục cuộc dạo
Qua một nghĩa địa nhỏ
Chàng loạng quạng, ve vảy tay
Như bị bủa vây bởi những hồn ma

Lấp ló, rình mò giữa đám bia mộ
Đợi bắt chuyện
Và làm 1 cú thú tội, sám hối, tự vấn...  hay cái con mẹ gì đó
Một điều mà tên già NN và đồng bọn,
Không thể làm được,
Trước khi biến khỏi tầm nhìn.

Những bông hoa kèn bèn sững người.
Con đường đất bụi cong queo bèn tỉnh giấc
Chúi sâu mãi vào im lặng
Và bèn sửa soạn săn mồi
Là những cái bóng dài loằng ngoằng.

Note:

Ôi chao, lâu lắm mới có được 1 "bi khúc" - thuổng NL - dành cho lũ Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước!
NQT



Thơ Mỗi Ngày


http://www.babelmatrix.org/works/es/Borges,_Jorge_Luis-1899/Carnicer%C3%ADa/en/37604-Butcher_shop

Butcher shop

Lower than a lupanar
the butcher shop signs the street insultingly.
On the lintel
a blind cow's head
rules the coven
of final marble and gaudy flesh
with an idol's remote majesty.
[Mulrooney, Christopher]

J.L. Borges

AT THE BUTCHER'S

Meaner than a house of prostitution
the meat market flaunts itself in the street like an
insult.
Above the door
the head of a steer in a blind-eyed stare
watches over the witches' Sabbath
of flayed flesh and marble slabs
with the aloof majesty of an idol.
[Norman Thomas di Giovanmi]

"Lộn(g) dịch":
Ở nhà HPNT

Bần tiện hơn cả nhà thổ
Phiên chợ thịt người
Ánh lên lời nguyền rủa của những nạn nhân Tết năm đó
Ở bên trên cửa
Cái đầu bò mù
Đưa mắt nhìn xuống Ngày Hội Máu của VC
Bằng 1 cái nhìn cao sang, quyền quí
Của những vì vua chúa thời nhà Nguyễn.

Compass

Every single thing becomes a word
in a language that Someone or Something, night and day,
writes down in a never-ending scribble,
which is the history of the world, embracing

Rome, Carthage, you, me, everyone,
my life, which I do not understand, this anguish
of being enigma, accident, and puzzle,
and all the discordant languages of Babel.

Behind each name lies that which has no name.
Today I felt its nameless shadow tremble
in the blue clarity of the compass needle,

whose rule extends as far as the far seas,
something like a clock glimpsed in a dream
or a bird that stirs suddenly in its sleep.
-A.R.

J.L. Borges


UNE BOUSSOLE
A Esther Zemborain de Torres.
Choses sont mots. Quelqu'un - mais qui, mais quoi ? -
Nous écrit : cette incessante graphie
Inextricable et qui ne signifie
Rien, c'est l'histoire humaine. En ce convoi

Passent Carthage et Rome, et moi, lui, toi,
Mon désespoir d'être cryptographie,
Hasard, rébus - mon impensable vie,
Cette Babel qui s'é
cartèle en moi.

Mais par-delà la parole ou le nombre
Un reste attend. Je sens planer son ombre
Sur cet acier léger, lucide et bleu

Qui cherche un point où l'océan fait trêve ;
Presque une montre entr'apercue en rêve,
Presque un oiseau qui dort et tremble un peu.


La bàn
Mọi vật đơn trở thành một từ
Trong một ngôn ngữ mà Ai Đó, hay Điều Đó, ngày đêm
Viết xuống một bản văn chẳng bao giờ chấm dứt
Gọi là lịch sử thế giới, ôm trong nó

La Mã, Carthage, bạn, tôi, mọi người
Đời Gấu, không làm sao hiểu nổi, cơn nhức nhối,
Là niềm bí ẩn, tai nạn, và thai đố
Và tất cả những ngôn ngữ chẳng thứ nào chịu được thứ nào của Babel

Sau mỗi tên, nằm, mỗi
không tên
Bữa nay Gấu cảm thấy cái bóng không tên của nó run rẩy
Trong cái sáng sủa màu xanh của cây kim của cái la bàn

Luật của nó thì vươn xa thật xa như những biển xa
Một điều gì như cái đồng hồ thấp thoáng trong giấc mơ
Hay một hải âu bất thình lình run run trong giấc ngủ của nàng



My Beloved
after D. Khrams

In the fine print of her face
Her eyes are two loopholes.
No, let me start again.
Her eyes are flies in milk,
Her eyes are baby Draculas.
To hell with her eyes.
Let me tell you about her mouth.
Her mouth's the red cottage
Where the wolf ate grandma.
Ah, forget about her mouth,
Let me talk about her breasts.
I get a peek at them now and then
And even that's more than enough
To make me lose my head,
So I better tell you about her legs.
When she crosses them on the sofa
It's like the jailer unwrapping a parcel
And in that parcel is a Christmas cake
And in that cake a sweet little file
That gasps her name as it files my chains.

Charles Simic

Người êu dấu của Gấu
theo D. Khrams

Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của em,
Cặp mắt là hai lỗ châu mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai con ruồi chết đuối trong ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!
Thôi, kệ cha cặp mắt em mà lũ Mít chuyên mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ của tâm hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng là căn lều
Nơi chó sói làm thịt bà nội của cô bé quàng khăn đỏ, cháu ngoan Bác Hồ
A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp dzú của em
Lúc này, lúc nọ, con mắt lé của Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế, mà Gấu xém điên cái đầu!
Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp cẳng của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái xô pha,
Thì chẳng khác gì tên quản giáo mở gói quà
Trong gói quà có cái bánh ngọt
Trong cái bánh ngọt, cái giũa xinh xinh
Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh cổ Gấu Cà Chớn

Hà, hà!

Paradise

In a neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the city burned in midsummer heat;
Where a lady barber who called herself Cleopatra
Wielded the scissors of fate over my head
Threatening to cut off my ears and nose;
Where a man and a woman went walking naked
In one of the dark side streets at dawn.
I must be dreaming, I told myself.
It was like meeting a couple of sphinxes.
I expected them to have wings, bodies of lions:
Him with his wildly tattooed chest;
Her with her huge, dangling breasts.
It happened so quickly, and so long ago!
You know that time just before the day breaks
When one yearns to lie down on cool sheets
In a room with shades drawn?
The hour when the beautiful suicides
Lying side by side in the morgue
Get up and walk out into the first light.
The curtains of cheap hotels flying out of windows
Like seagulls, but everything else quiet….
Steam rising out of the subway gratings….
Bodies glistening with sweat ...
Madness, and you might even say, paradise!

Charles Simic

Thiên Đàng

Trong 1 khu xóm có thời được gọi bằng cái nick, Nhà Bếp của Địa Ngục
Nơi một người ăn xin, vỗ ngực xưng tên, ta chơi cây vĩ cầm Nero
Nơi thành phố cháy bỏng cái nắng giữa hè;
Nơi bà chủ tiệm làm tóc tự gọi mình là Cleopatra
Khuơ khuơ cây kéo số mệnh trên đầu Gấu
Hăm, ta sẽ thiến tai và mũi, và có thể, 1 cái gì đó nữa, của mi!
Nơi một đấng đàn ông và một cô nường tản bộ, cả hai trần như nhộng
Tại một con phố tôi tối, vào lúc rạng đông.
Mi đúng là đang mớ, Gấu bảo Gấu
Đúng là như gặp một cặp nhân sư
Gấu đã mong, họ có cánh, và có mình, sư tử
Chàng, ngực trạm trổ hoang dại
Nàng, vú cực bự đong đưa
Chuyện xẩy ra thật lẹ, và cũng lâu lắm rồi, từ thuở Diễm Xưa....
Bạn biết, thời gian đó, ngay trước rạng đông
Khi con người thèm ngả lưng xuống những chiếc khăn trải giường mát lạnh
Trong 1 căn phòng, những chiếc mành mành đã được kéo xuống
Đúng thời khắc mà những cái chết đẹp đẽ vì tự vận
Nằm song song bên nhau trong nhà xác,
Bèn thức dậy, bước ra ngoài, nhập vào tia sáng đầu tiên
Những bức rèm của những khách sạn rẻ tiền bay ra khỏi cửa sổ
Như những con hải âu, nhưng mọi thứ, mọi vật khác thì đều êm ả…
Hơi nước bốc lên từ những lưới sắt đường xe điện ngầm …
Những cơ thể lấp lánh mồ hôi…
Khùng điên, vậy mà bạn dám biểu, thiên đàng!
SCRIBBLED IN THE DARK
Sat up   
Like a firecracker     
In bed,                        
Startled                    
By the thought         
Of my death.  
            *         
Hotel of Bad Dreams.            
The night clerk         
Deaf as a shoe brush.
            *         
Body and soul          
Dressed up   
As shadow puppets,   
Playing their farces  
And tragedies        
On the walls of every room.
*                     
Oh, laggard snowflake
Falling and melting
On my dark windowpane,
Eternity, the voiceless,
Wants to hear you
Make a sound tonight.
*
Softly now, the fleas are awake.
Charles Simic: The Lunatic

Quọt quẹt trong bóng tối
Bật dậy
Như cây pháo
Ở trên giuờng
Ngỡ ngàng
Với ý nghĩ
Ơ kìa, mình chết
*
Khách sạn của những giấc mơ tồi
Gã nhân viên ca đêm
Điếc đặc, như cái bàn chải đánh giầy
*
Hồn & xác
Ăn vận như bóng những con rối
Chơi trò hề
Và bi kịch
Trên tường của mọi căn phòng.
*
Ôi, những bông tuyết muộn
Rớt xuống, đông lại trên cửa sổ tối thui của tôi
Vĩnh cửu, câm
Muốn mi làm cái gì
Nghe lục cà lục cục đêm nay
*
Nhè nhẹ, nhè nhẹ
Những con bọ chét thức giấc.


[from The Lunatic]

Tập thơ mới nhất của Simic, 2017. Gần như quá nửa trong đó, đã đăng trên Tin Văn.

Simic: Scribbled in the Dark

SCRIBBLED IN THE DARK
A shout in the street.
Someone locking horns with his demon.
Then, calm returning.
The wind tousling the leaves.
The birds in their nests
Pleased to be rocked back to sleep.
Night turning cool.
Streams of blood in the gutter
Waiting for sunrise. 
Nguệch ngoạc trong đêm
Một tiếng la ngoài phố
Một người nào đó cà khịa với con quỉ của hắn
Rồi thì là im ắng trở lại.
Gió giằng co với những chiếc lá.
Chim ở trong tổ
Làm ơn lúc lắc nhè nhẹ
Ru giấc ngủ trở lại
Đêm trở lạnh
Máu sùng sục ở trong mạch
Đợi mặt trời mọc.

Charles Simic

HISTORY

Our life stories are scary and droll,
Like masks children wear on Halloween
As they go from door to door
Holding the little ones by the hand
In some neighborhood long torn down,

Where people ate their dinners
In angry silence or quarreling loudly,
When there was a knock on the door,
A soft knock a shy boy makes
Dressed in a costume his mother made.

What's this you're wearing, kid?
And where did you get that mask?
That made everyone laugh here
While you stood staring at us,
As if you knew already we were history.

Chuyện
Chuyện đời chúng ta, hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào

Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may

Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là...  chuyện
Cherry Pie
If it’s true that the devil has his finger
In every pie, he must be waiting
For the night to fall, the darkness to
Thicken in the yard, so we won’t see him
Lick the finger he dipped in your pie,
The one you took out of the oven, my love,
And left to cool by the open window.

—Charles Simic

Bánh Anh Đào

Nếu đúng là quỉ có ngón tay của nó
Ở trong mọi cái bánh anh đào
Nó sẽ phải đợi đêm xuống
Ngoài vườn tối thật tối
Như thế bạn sẽ không thể nhìn thấy nó
Thế là nó bèn liếm thật sâu vào cái bánh của bạn
Cái bánh mà bạn lấy ra khỏi lò
Và để ở cửa sổ,
Để cho nó nguội lạnh đi
All Gone into the Dark

Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese? 
Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?

Rồi tất cả cũng đi vào đêm tối

Ông linh mục mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những người chết mới tới?

Charles Simic

LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư