Joseph Roth
Joseph
Roth [1894-1939]: Vị Hoàng Đế
Của Hoài Nhớ
Nghề của tui
không phải là để làm hài
lòng ông Giời.
Bố ai biết tại sao Thằng Chả lại chọn cái nghề đó cho tui.
My profession was not to pleasing God,
but His inscrutable will had selected it for me.
Joseph Roth
Lời thú tội của một tên sát nhân
[The Confession of a murderer]
Bố ai biết tại sao Thằng Chả lại chọn cái nghề đó cho tui.
My profession was not to pleasing God,
but His inscrutable will had selected it for me.
Joseph Roth
Lời thú tội của một tên sát nhân
[The Confession of a murderer]
"Tôi viết nó thẳng một lèo," Roth viết
thư cho bạn
mình, là Stefan Zweig, sau khi hoàn tất cuốn sách vào năm 1936. Trường
hợp
Joseph Roth là cái ngược đời vốn chỉ dành cho những bậc đại trí, đại
nhân, thí
dụ như Kafka. Vốn được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất
của thế
kỷ, nhưng lại được rất ít người đọc. Có vẻ như gần đây, nhân loại bắt
đầu sửa
sai, về những lỗi lầm trọng đại như trên. Nadine Gordimer, nhà văn Nam
Phi,
Nobel văn chương trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, coi toàn bộ tác phẩm của
ông, một
“tragédie humaine”, Bi Kịch của Con
Người, được viết bằng kỹ thuật giả tưởng hiện đại. Ngoài ông ra, không
nhà văn
hiện đại nào, ngay cả Thomas Mann, tới gần được cái toàn thể, một mục
tiêu bất
khả của chúng ta – our impossible aim - theo nhà phê bình Mác xít G.
Lukacs.
Roth, cho tới khi ông mất vào năm
1939, là một trong số
những nhà văn Đức lỗi lạc nhất, lưu vong. Thành thạo môn võ công Song
Thủ Hổ
Bác, tác phẩm của ông vừa là giả tưởng vừa là báo chí với những nối kết
thật
khó mò, giữa lưu vong và thân phận của riêng từng con người [điều mà
chúng ta
gọi là "căn cước", identity], giữa đời tư và đời công, Lời Thú Tội
Của Một Sát Nhân, nằm trong dòng Conrad [với cuốn Tên Mật Vụ, The
Secret
Agent], Dos [với Tội Ác và Hình Phạt]... là một dẫn nhập tuyệt hảo vào
cái thế
giới của những Ông Cố Vấn, Ván Bài Lật Ngửa,Thời Gian Của Người, Người
Mỹ Trầm
Lặng...
Joseph Roth, tên khai sinh là Moses
Joseph Roth, sinh ngày 2
tháng Chín, 1894, trong một gia đình Do Thái, tại Brody, Galicia, vùng
cực đông
của đế quốc Habsburg lúc đó. Mất ngày 27 tháng Năm 1939 tại Paris. Ông
chẳng
bao giờ nhìn thấy bố, biến mất trước khi ông ra đời, và sau đó mất vì
bịnh
điên. Được mẹ và gia đình bên ngoại nuôi nấng. Học Brody, đại học
Lemberg, Lvov
hay Lviv sau chuyển qua Vienna vào năm 1914. Phục vụ một, hoặc hai năm
trong
quân đội Áo Hung tại mặt trận miền đông, như là phóng viên hay censor
[kiểm
duyệt viên]. Sau đó, ông viết, “Kinh nghiệm mạnh nhất của tôi là về
Chiến Tranh
và sự huỷ diệt quê cha [fatherland], thứ độc nhất mà tôi có được, đó là
đế chế
Áo Hung.”
Vào năm
1918, ông trở
lại Vienna, bắt đầu viết cho những tờ báo khuynh tả với cái tên là Roth
Đỏ,
‘der rote Roth’, Roth, một tay xã hội chủ nghĩa với trái tim chảy máu,
‘the
bleeding heart Socialist”. 1920 ông dời tới Berlin, và vào năm 1923 ông
cộng
tác với báo Frankfurter Zeitung. Những năm tiếp theo, ông đi du lịch
suốt Âu
Châu, và từ những nơi đó, viết bài về cho báo trên: miền nam nước Pháp,
Liên
Xô, Albania, Đức, Ba Lan, và Ý. Ông là một trong những phóng viên số
một, và
được trả tiền hậu hĩ nhất - một thứ tiền
nhuận bút như trong mơ, the dream rate - vào
thời đó: một Đức mác/một dòng!
Một số bài sau được in trong The
Panopticum on Sunday
(1928), và trong Wandering Jews [Do Thái Lang Thang, 1927]: một cái
nhìn khô
khan về vị trí của những cộng đồng Do Thái tại Đông và Trung Âu.
Roth, trong thời gian là phóng viên
tại Vienna, là một trong
những nhà văn đầu tiên ngửi ra những thảm hoạ sắp tới, sẽ do Hitler gây
ra. Ông
cũng là người đầu tiên chống lại những người Cộng Sản, nhận ra bản chất
ma quỉ
của sự cai trị của Stalin [recognizing the evil nature of Stalin’s
rule].
Khi Nazi lên nắm quyền vào năm 1933,
Roth sống tại Paris,
nhưng còn ở Amsterdam, Ostende, miền nam nước Pháp, viết cho những tờ
báo lưu
vong.
Như Walter Benjamin - người đồng thời,
đã từng viết cho tờ
Frankfurt, đã từng đi Liên Xô và vỡ mộng - nhận xét về Roth, rằng Roth
đã tới
Liên Bang Xô Viết như là một tay Cộng Sản tin tưởng ở chủ nghĩa này,
nhưng khi
rời nơi đây, như một tay Royalist: Quan điểm chính trị royalist, bảo
hoàng,
thực ta chỉ là cái mặt nạ che giấu niềm bi quan chán chường của Roth.
Bài viết
cuối cùng của ông có nhan đề là “Goethe’s Oak [Cây Sồi của Goethe tại]
at
Buchenwald”. Buchenwald sau đó là một trong những trại tù và lò thiêu
người của
Nazi.
Những năm cuối đời của ông thật là vất
vả. Rời khách sạn này
tới khách sạn khác, uống như hũ chìm, khốn khổ vì tiền bạc và tương lai
thì
thật là mù mịt. Ông hoàn toàn suy sụp khi nghe tin nhà soạn kịch Erns
Toller
treo cổ tự tử tại Nữu Ước. Trong những giấy tờ để lại của ông, có một
thiệp mời
của Pen Club [cơ quan này đã đưa Thomas Mann và nhiều người viết khác
tới Mỹ].
Thật khó mà tưởng tượng nổi, một nhà
văn Roth, trên một
chiếc thuyền trực chỉ Thế Giới Mới, và sau đó, tiếp tục sống, và viết ở
đó, và
tuyên bố: không đi đâu nữa!
Thế giới của ông là một thế giới cũ,
và ông sống, đến nát
bấy, không chỉ một, mà cả hai, cái thế giới đó, và chính ông.
Trong lời
dẫn khi
dịch Tập Truyện Ngắn của Roth, Michael Hofmann viết:
Hình như có hai loại tiểu thuyết gia.
Một, hãy nghĩ tới
Kafka, hay Lawrence, hay Hemingway, hay Scott Fitzgerald, hay Thomas
Mann, hay
Jean Rhys, hay Paul Bowles, là những người có chút chú ý đặc biệt về
cái gọi là
truyện ngắn, [short fiction], ban cho nó một tí quan tâm, lại cũng đặc
biệt, về
kỹ thuật, và sau cùng, "bèn" viết chúng. Và những người khác - Dickens, Flaubert, Turgenev, Woolf, ngay cả
Joyce - là những người cũng viết truyện ngắn, nhưng thường 'viết là
viết',
thoải mái, vô tư mà viết, giống như một thứ phó sản phẩm, hay là một
phần của
cái gọi là chuyện nghề của họ, 'đã đem nghiệp ấy vào thân', thì đành
cũng thử
xoay vần với cái gọi là truyện ngắn [với Nguyễn Du, cái gọi là lục
bát], xem
sao!
Với nhóm trên, người đọc, khi đọc
những truyện ngắn của họ, là
tìm cái mẫn cảm, cái có giá trị, của cái gọi là văn chương. Với nhóm
dưới, đọc
họ thấy kỳ kỳ [peculiar], cứ như là bị ép phải đọc! Không phải là họ
viết dở,
không có chi là đặc biệt ở trong đó, nhưng có lẽ, là do cảm giác này:
những
truyện ngắn của họ viết ra đó không hẳn là những truyện ngắn, không
phải thứ
tuyệt tác, theo đúng như cách mà người ta thường định nghĩa truyện ngắn
là phải
như vậy, nhưng thuộc vào cái khối đồ sộ là toàn bộ tác phẩm của họ,
toàn thể
cuộc đời của họ.
Joseph Roth thuộc nhóm này.
Sau đây, là bài viết của J. M.
Coetzee, điểm Tập Truyện Ngắn
của Joseph Roth, The Collected Stories, [dịch từ tiếng Đức với lời giới
thiệu
của dịch giả Michael Hofmann], trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB, số đề ngày 28 tháng Hai, 2002. Dịch giả đã
từng được giải thưởng the PEN/Book-of-the-Month Club Prize, cho bản
dịch Câu
Chuyện của Đêm thứ 1 ngàn lẻ 2 [The Tale of the 1,002nd Night], của
Joseph
Roth.
Từ 1848 tới 1916, vào lúc biên cương
rộng rãi nhất, thần dân
của Franz Joseph, Đại đế Áo và Hoàng đế Hung, có cỡ chừng trên năm chục
triệu.
Chưa đầy1/4 trong số đó, với họ, tiếng Đức là ngôn ngữ thứ nhất. Ở mẫu
quốc,
tức Áo quốc, đám thứ dân đều là một tên Slav, theo một kiểu nào đó,
nghĩa là
hoặc dân Czech, Slovak, Pole, Ukrainian, Serb, Croat, Slovene. Bất cứ
một cộng
đồng sắc dân trên đều hoài bão sẽ trở thành một quốc gia, với quyền
hạn, sắc
thái văn hóa, phong tục của riêng nó, bao gồm luôn, một thứ tiếng nói
quốc gia,
một thứ văn học quốc gia, của giống nòi nhà mình.
Lỗi lầm của đế quốc, là đã coi nhẹ
những hoài bão như thế,
khi cho rằng, một cuộc sống hiền hòa, đa văn hóa, giầu có, ngày thêm
tươi sáng
sẽ nhận chìm những tiếc nuối quá khứ, truyền thống, những hão huyền về
một quốc
gia riêng biệt, đẩy lùi chủ trương tách biệt [separatism], hoặc tình
cảm bài
Đức. Và khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1914, được hỗ trợ thêm bởi
những hành
động khủng bố sắc tộc, đế quốc Áo Hung đã trở nên quá yếu, không làm
sao chống
lại nổi quân đội Nga, Serbia, và Ý, tại những biên cương của nó, và
cuối cùng
vỡ ra từng mảnh.
“Áo Hung không còn nữa”, Sigmund Freud
viết cho chính mình,
vào Ngày Đình Chiến, năm 1918: “Tôi không muốn sống ở bất cứ một nơi
nào khác…
Tôi sẽ sống trong què cụt như vậy, và tưởng tượng mình vẫn còn đầy đủ
tứ chi.”
Ông nói không chỉ cho chính ông mà còn
cho rất nhiều người Do Thái của văn hóa Áo-Đức. Sự chia năm sẻ bẩy cựu
đế quốc,
và cùng với nó, việc vẽ lại bản đồ Đông Âu tạo nên những quê hương mới
dựa trên
sắc dân, chủng tộc - làm bật ra một sự kiện thê thảm: Người Do Thái
không làm
sao chỉ ra, chỗ này, chỗ kia, vốn xưa kia là nhà của tổ tiên họ. Họ
không có
nhà riêng trong một Đông Âu mới mẻ đó. Trước đó, họ vẫn coi cái đế quốc
Áo
Hung, như là nhà của họ, hay nói rõ hơn, cái nhà nước đế quốc siêu quốc
gia cũ
đó hợp với họ. Sự tái sắp xếp thời hậu chiến là một tai ương với người
Do Thái.
Và những năm đầu tiên của nhà nước Áo mới mẻ, ốm yếu bịnh hoạn, với sự
thiếu
hụt thực phẩm, nạn lạm phát là mất tiêu bao chắt chiu dành dụm của tầng
lớp
trung lưu, bạo lực trên đường phố giữa những lực lượng địa phương, phe
nhóm… chỉ làm tăng thêm nỗi khốn khó của
họ. Một số đã nhìn về Palestine như là một nhà nước [a national home];
những
người khác quay qua cầu cứu chủ nghĩa siêu quốc gia cộng sản.
Hoài nhớ quá khứ đã mất, và nỗi nhức
nhối về một tương lai
không nhà, là ở ngay tâm của mọi tác phẩm viết vào lúc đương độ [mature work], của tiểu thuyết gia Áo gốc Do
Thái, Joseph Roth. “Kỷ niệm không làm sao, không thể nào quên được của
tôi,
là chiến tranh và sự chấm dứt quê cha,
‘quê hương độc nhất’ mà tôi đã từng có: vương quốc Áo Hung”, ông viết
vào năm
1932. “Tôi yêu quê cha đó”, ông tiếp tục viết về nó, trong lời mở tác
phẩm The
Radetzky March. “Nó cho phép tôi là một kẻ ái quốc, và là một công dân
trong số
tất cả những con người Áo, và cũng là người Đức. Tôi yêu những đức tính
và
những phẩm hạnh của cái quê cha đó, và giờ đây, khi nó đã chết, và đã
rời bỏ,
tôi yêu luôn cả những cái dởm dáng, những cái yếu
đuối của nó.” The Radetzky March đúng là một bài
thơ lớn, một ai
điếu cho một xứ sở có tên là Hadsburg Austria, được viết ở một miền ven
biên
của xứ sở vương giả này; một cuốn tiểu thuyết lớn lao của một kẻ chỉ có
một tí
dấu chân của mình, ở trong cái cộng đồng văn chương Đức.
Moses Joseph Roth sinh năm 1894 tại
Brody, một thành phố
thuộc loại vừa vừa, cách biên giới Nga xô vài dặm, thuộc vùng Galicia
nghèo khổ
đa số là người Ukrainians, Poles, và Do Thái. Vào thập niên 1980, hai
phần ba
trong số này là Do Thái.
Trong những vùng nói tiếng Đức thuộc
đế quốc Áo Hung, dân Do
Thái không được coi trọng. Là một chàng trai đến từ phía Đông, tìm
đường tiến
thân tại Vienna, Roth giấu nhẹm nguồn gốc của mình, bịa ra một nơi
sinh,
Schwabendorf, một thành phố Đức, và thành phố giả tưởng này đã có tên
trên
những giấy tờ tuỳ thân của ông. Ông bịa ra một ông thân sinh, lúc thì
là chủ
xưởng, lúc sĩ quan, khi viên chức cao cấp của nhà nước, khi họa sĩ, nhà
trưởng
giả Ba Lan. Sự thực, Nachum Rothm, cha ông, là nhân viên hãng buôn ngũ
cốc của
người Đức tại Brody. Ông con Moses không hề biết ông bố Nachum: vào năm
1893,
ngay ít lâu sau hôn nhân, trên một chuyến đi bằng xe lửa tới Hamburg,
ông bố
phát chứng thiên đầu thống [a brainstorm of some kind], và được đưa tới
nhà
bịnh, chẳng bao giờ hồi phục để trở lại Brody.
Moses được nuôi nấng bởi bên mẹ, một
gia đình khá giả Do
Thái đã hội nhập. Học trường cộng đồng Do Thái, nơi tiếng Đức là chính,
sau tại
gymnasium [trường trung học] nói tiếng Đức tại Brody. Nửa số bạn học
của Roth ở
đây là Do Thái. Với những chàng thanh niên Do Thái tới từ phía Đông,
học vấn
Đức sẽ mở cho họ cánh cửa vào thương mại, vào văn hóa thống trị.
Vào năm 1941, Roth ghi danh Đại học
Vienna, vào lúc này có
cộng đồng Do Thái đông đảo nhất tại Trung Âu, chừng 200 ngàn mạng, sống
trong
một ghetto tự tâm tự nguyện của họ, thì cứ nói như vậy cho tiện. “Chua
lắm đấy,
là số phận một tên Ostjude” - một người Do Thái đến từ phía Đông – Roth
nhận
xét, và nói thêm, “Nhưng chua hơn nhiều, là số phận một tên Ostjuden ở
bên
ngoài cộng đồng Do Thái, ở Vienna.” Đó là số phận trên đe, dưới búa,
một cổ hai
tròng, không những bị người Đức ghét mà còn bị người Do Thái ở phía Tây
tẩy
chay.
Roth học cừ, nhất là môn văn chương
Đức, mặc dù, gần như
suốt buổi học, anh nhìn đám thầy dậy của mình, và nhận ra rằng, họ
thuộc loại
bảo sao nghe vậy, và mô phạm. Sự khinh khi này xuất hiện trong những
bản viết
đầu tay của ông, qua đó, ông cho rằng cái kiểu học vấn như vậy của nhà
nước chỉ
tạo ra những con người nhút nhát, không dám có những phát kiến, thiếu
hứng
khởi. Ông làm part time, là phụ giáo cho đám con một nữ bá tước, và học
ngay
được thói dởm dáng của lớp người quyền quí, nghĩa là cũng biết “liếm”
[kissing]
tay mấy cô nường, tay cầm cây can vung vẩy, và đeo kiếng một mắt!
Và chàng bắt đầu in thơ!
Học vấn của chàng, vốn nhắm một nghề
khoa bảng, kể như tiêu
do chiến tranh xẩy ra. Vượt lên khỏi những cảm tính hiếu hoà, chàng lao
vào
nghề lính, vào năm 1916, và bỏ luôn cái tên Moses [gốc rễ Do Thái].
Trong quân
đội của nhà vua, sự căng thẳng về mầu da thật căng, và thế là chàng bị
tống ra
khỏi những đơn vị nói tiếng Đức. Roth trải qua những năm 1917-1918
trong những
đơn vị nói tiếng Ba Lan, tại vùng Galicia. Kinh nghiệm đoạn đời này là
đề tài
cho một số tác phẩm sau đó, đặc biệt, ông đã từng là một sĩ quan và là
tù binh
chiến tranh tại Nga Xô. Những năm sau đó, ông vẫn tiếp tục sử dụng
những tiếng
lóng của đám sĩ quan quân đội.
Sau chiến tranh, Roth bắt đầu viết cho
những nhật báo, và
dần dà nổi tiếng trong số những cư dân của Vienna, trước chiến tranh là
thủ đô
của một đế quốc lớn lao, sau, chỉ còn là một thành phố nghèo khổ với
hai triệu
thị dân của một xứ sở bẩy triệu người. Hy vọng khấm khá hơn, Roth và bà
vợ mới,
Friederike, dời tới Berlin. Ở đây ông viết cho một số nhật báo có
khuynh hướng
cởi mở [liberal], nhưng còn viết cho báo thiên tả Vorwarts, ký bút hiệu
là Der
rote Joseph, Joseph Đỏ [Joseph the Red]. Cuốn tiểu thuyết fơi-dơ-tông
thứ nhất
của ông ra đời, gọi là fơi-dơ-tông, là bởi vì viết từng kỳ cho nhật
báo, có
tính nhật báo, và còn do ông bẻ chúng ra thành những phần ngắn. Cuốn
Mạng Nhện
[tên tiếng Anh The Spider’s Web, 1923] chủ yếu đề cập tới đe dọa về mặt
đạo đức
và tinh thần trước “cao trào” của chủ nghĩa phát xít cánh hữu. Cuốn
sách xuất
hiện ba ngày trước cú đảo chánh đầu tiên của Hitler.
Vào năm 1925, Roth được tờ Frankfurter
Zeitung cử làm phóng
viên tại Paris. Đây là một tờ báo dẫn đầu có khuynh hướng cởi mở, và tờ
báo
biến ông thành một trong những ký giả đuợc trả tiền bảnh nhất tại Đức
vào lúc
bấy giờ. Ông tới Berlin, với ý nghĩ, mình sẽ là một nhà văn Đức, nhưng
ở Paris,
ông khám phá ra rằng ở trong tim của mình, là “một ông Tây đến từ phía
Đông” [a
Frenchman from the East]. Ông sa vào mê hồn trận của cái mà ông gọi là
“dáng
liễu mượt mà của Đầm” [the silkiness of French Women], nhứt là những bà
đầm
vùng Provence.
Ngay từ khi còn trẻ, Roth đã tạo cho
ông một thứ tiếng Đức
trong sáng, uyển chuyển. Ở Tây, sử dụng Stendhal, Flaubert - nhất là
Flaubert
của cuốn Một Trái Tim Đơn Giản, Un Coeur Simple – như là những khuôn
mẫu, ông
hoàn thiện cho mình một văn phong già dặn, lão luyện, và có thể tự hào
về tuyệt
tác của ông, The Radetzky March, như Flaubert đã từng tự hào, “Bà
Bovary, đó là
tôi” [Madame Bovary, c’est moi]. Chẳng ngưng ở đó, ông còn ve vuốt giấc
mơ,
rằng tại sao mình không chọn khung trời Tây, để mà sống đẹp quãng đời
tiếp
theo, và, tiện thể, viết văn bằng tiếng Tây?
Tuy nhiên, chỉ một năm sau, tờ báo
thay người tại văn phòng
Paris. Bất mãn, ông bèn làm một chuyến đi Nga. Ông “cẩn trọng” văn
phòng chính
của tờ báo, rằng, “tính tôi vậy, vốn vẫn thường hài hước, châm biếm về
những
định chế, những thói đạo đức và phong tục của thế giới trưởng giả,
nhưng đừng nên
dựa vào đó mà xem nhẹ những bài viết của tôi về nuớc Nga và “những hậu
quả đáng
ngờ” của Cuộc Cách Mạng Nga."
Quả đúng như vậy, loạt bài viết của ông là một thành công lớn; những bài viết từ Albania, Poland, và Ý tiếp theo thành công đó.
Quả đúng như vậy, loạt bài viết của ông là một thành công lớn; những bài viết từ Albania, Poland, và Ý tiếp theo thành công đó.
Ông tiếp tục viết giả tưởng [tiểu
thuyết, truyện ngắn], cảm
thấy đau khi tự tách mình ra khỏi đám ký giả. “Tôi không viết cái thứ
bình luận
dí dỏm. Tôi ký họa những nét của thời đại… Tôi là một nhà báo
[journalist],
không phải thông tín viên [reporter], tôi là nhà văn, không phải cái
thứ người
tạo mẫu cho loạt bài chỉ đạo.”
Vào năm 1930, ông in cuốn tiểu thuyết
thứ chin, Job: The
Story of a Simple Man. Cuốn Sách trở thành một thành công
tầm mức quốc tế, mặc dù – hay là nhờ ở cái
kết thúc thần tiên, tràn trề tình cảm, qua đó, người cha già nua [the
aging
Mendel Singer], bị số phận đẩy mãi xuống đáy sâu của sự nghèo khổ trong
những
khu nhà ổ chuột ở thành phố New York, cuối cùng lại được cứu vớt bởi
thằng con
ngu đần mà ông ta bỏ rơi ở Cựu Thế Giới [the Old World].
Roth thú nhận ông không thể nào viết nổi một cái kết thúc hạnh phúc tràn trề như vậy nếu không có sự trợ giúp của… ma men. Hollywood biến Job thành phim mang tựa đề Đàn Ông Tội Lỗi [Sins of Man: Những Tội Lỗi của Người Đàn Ông], trong đó, cái gọi là Do Thái tính đã được thanh tẩy [purged]. Tiếp theo Job, hai năm sau đó, là cuốn đầy tham vọng của Roth, The Radetzky March. Khi còn sống, Roth cho xuất bản thêm sáu cuốn nữa, cộng một số truyện ngắn.
Roth thú nhận ông không thể nào viết nổi một cái kết thúc hạnh phúc tràn trề như vậy nếu không có sự trợ giúp của… ma men. Hollywood biến Job thành phim mang tựa đề Đàn Ông Tội Lỗi [Sins of Man: Những Tội Lỗi của Người Đàn Ông], trong đó, cái gọi là Do Thái tính đã được thanh tẩy [purged]. Tiếp theo Job, hai năm sau đó, là cuốn đầy tham vọng của Roth, The Radetzky March. Khi còn sống, Roth cho xuất bản thêm sáu cuốn nữa, cộng một số truyện ngắn.
Giới thiệu
nhà văn Áo, Joseph Roth (2)
Hành
Khúc Radetzky,
Đường Ra
Trận Mùa Này Đẹp Lắm!
The Radetzky March, cuốn tiểu thuyết
vĩ đại nhất, và cũng là
tác phẩm độc nhất Roth viết mà không bị thôi thúc [1], là câu chuyện
liên tiếp
ba đời của dòng họ Trotta, cả ba đời đều hầu nhà vua: đời thứ nhất, là
anh lính
quèn cố kiếm được tí phẩm giá nhờ một hành động anh hùng; đời thứ nhì,
viên
chức hành chánh cao cấp, cấp quận huyện; thứ ba, sĩ quan cao cấp mà
cuộc đời
biến thành vô tích sự, khi sự bí ẩn vương quyền Habsburg buông ông ra
[nghĩa là
hết còn chú ý tới ông], và rồi cứ thế tàn lụi, không con cái nối dõi, ở
trong
cuộc chiến.
Lớp lang hoạn lộ, con
đường công danh ba đời dòng họ Trotta
phản ánh con đường của đế quốc. Lý tưởng phục vụ hết mình cho vương
quyền ở đời
Trotta thứ nhì không truyền được tới đời thứ ba, không phải vì đế quốc
đi trật
đường rầy, không đạt được mục tiêu mà nó đề ra, nhưng mà là, có một cái
gì đó
thay đổi trong không gian, và chính thay đổi này làm cho chủ nghĩa lý
tưởng
“vua biểu chết là… chết”. [“Đảng biểu, sinh bắc tử nam”!] không còn
thích hợp
nữa. [Sự thay đổi ở trong không khí này là khởi điểm cho cuộc phân rã
Cựu Đế quốc
Áo, ở trong tác phẩm Người Không Phẩm Chất (bản tiếng Anh, The Man
Without
Qualities) của Robert Musil]. Anh chàng Trotta trẻ, sinh vào thập niên
1890 có
thể đại diện cho Roth và Musil [“Der Leutnant Trotta, der bin ich”:
"Đại
Uý Trotta, chính là tôi"!]. Nhưng chính cha của anh, cuối đời không chỉ
nuốt những thất bại của con, nhưng – nhờ nuốt nhục nhã – mà khám phá ra
một
điều là, những nghĩa cả cả đời ông ta theo đuổi đã trở nên lỗi thời
[độc giả
người Việt cứ như gặp một ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp ở đây:
người ta
chẳng đã hơn một lần được nghe những ông vi-xi của thời hậu-đại thắng
mùa xuân
than thở, tại sao cái đám cha ông của chúng mình… ngu đến như thế!].
“Đường ra
trận mùa này đẹp lắm,” đẹp bao nhiêu ngu bấy nhiêu, có thể nói như vậy
chăng,
và cái hậu quả là, ông bố của đại uý Trotta - độc giả người Việt chúng
ta cứ
ban cho ông ta cái tên “tướng về hưu”- đã trở thành nhân vật bi thương
nhất
[the most tragic figure, chữ của Coetzee], trong khúc quân hành “Đường
ra trận
mùa này đẹp lắm” [The Radetzky March]. Điều này còn cho thấy, tác giả
của nó,
Roth, là một nghệ sĩ, chứ không phải là người lên tiếng xin lỗi cho
cuộc chiến
vừa qua – ấy chết - xin lỗi cho đế chế Habsburg, như sau này Roth tự
nhận.
Trong vũ trụ của
Roth, chính những con người ở bờ rìa đế
chế, lại là những con người tin tưởng nhất vào nó, [thì cũng vẫn theo
kiểu ăn
cơm Sài Gòn, mà cổ thì vươn ra tới tận… Hà Nội!]. Dòng họ Trotta, những
con
người Áo Hung đó, không phải là người Đức, mà gốc gác Slovania. Một
trong những
người da đỏ “Mohican” cuối cùng của bộ
lạc này, sống sót, và xuất hiện ở trong Die Kapuzinergruft (1938, đuợc
dịch
sang tiếng Anh là “The Emperor’s Tomb: Mộ Đại Vương], một
tiếp nối mờ nhạt của hành khúc Đường Ra Trận
Mùa Này Đẹp Lắm. Đây là cái kết cục bi đát của đế chế, rơi vào thói vô
liêm xỉ
(xì níc), thoái hóa, của một thành phố Vienna sau chiến tranh.
Trong thời gian đó,
bà vợ Friederike Roth bị bịnh tâm thần
và phải nhập viện. Bà trải qua thập niên 1930 ở dưỡng trí viện tại Đức
và Áo.
Khi Nazi nắm quyền, bà là một trong số những người được lọc ra để “chết
một cái
chết không đau đớn” [euthanized].
Sau cùng, vào năm
1933, Roth rời Đức, và sau khi ngao du
loanh quanh Âu Châu, ông dừng bước giang hồ tại Paris. Tác phẩm của ông
được
dịch ra chừng trên một chục ngôn ngữ ngoại; có thể nói, ông là một tác
giả
thành công. Tuy nhiên, tình trạng tài chánh của ông thì thật là ngao
ngán. Hơn
nữa, ông còn là một bợm nhậu hạng nặng, kinh niên, và vào khoảng giữa
thập niên
1930, ông đành phó thác cả linh hồn lẫn thể xác của mình cho ma men
quản lý.
Tại Paris, ông đặt căn cứ địa của mình tại một bar rượu, ở ngay trong
khách
sạn, ở đó, ông uống, viết, và vui chơi với bè bạn.
Thù nghịch, với cả
hai, phát xít và cộng sản, ông tự cho
mình là một tay Cà-Tô-Lích [Catholic], và tự mình liên luỵ vào những
trò chính
trị bảo hoàng, nhất là đã cố gắng tìm cách đưa Otto von Habsburg, vị
cháu chit
của vì vua cuối cùng, lên ngôi. Vào năm 1938, trước đe dọa bị sáp nhập
vào Đức,
ông tới Áo, như là người đại diện của phe bảo hoàng, để dụ khị nhà cầm
quyền
trao chức thủ tướng cho Otto. Chẳng ai thèm nghe, ông trở về Paris kêu
gào
thành lập lực lượng Austrian Legion, nhằm giải phóng Áo bằng vũ lực.
Cơ hội đi Mẽo đã tới
với Roth, nhưng ông bỏ qua cho chúng đi
luôn. “Tại sao bạn nốc dữ như vậy?”, một ông bạn lo lắng giùm ông.
“Không nốc
thì làm gì bi giờ cơ chứ? Chẳng lẽ bạn cho rằng, có thể thoát. Ngay cả
bạn, nốc
hay không nốc, rồi cũng đi tàu suốt mà thôi!”, ông trả lời.
Với những độc giả
Việt Nam thường quan tâm tới văn học Việt
Nam, và số phận hẩm hiu của những nhà văn An Nam khổ như chó, nhất là
của những
người thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt là Văn Cao: họ đều mang
bóng dáng
những nhân vật của Roth, đều cưu mang những đề tài của Roth. Chúng ta
cứ tự
hỏi, tại sao ông [Roth] không thể đi Mẽo: hãy giả dụ một ông Văn Cao di
cư vào
Nam, và sau đó vượt biên rồi nhập tịch Mẽo, là thấy ngay sự tiếu lâm
của nó! Đề
tài cuốn Vị Khách Mời Của Trái Đất [Tarbaras, The Guest on Earth], của
Roth,
thật hợp với Văn Cao, nhưng với rất nhiều khác biệt. Đây là câu chuyện,
một ông
giết người sau đó trở thành thánh, và vì ông giết người, sau thú tội,
và là
người độc nhất thú tội, nên mới trở thành thánh! Như lời giới thiệu
trên trang
bìa [ấn bản bìa mỏng xuất bản lần thứ nhất, năm 2002, nhà xb The
Overlook
Press, New York]: Đây là một truyền thuyết xẩy vào những năm đầu Cách
Mạng Nga,
câu chuyện một người nông dân Nga, ngay từ nhỏ được một bà thầy bói
tiên đoán
số mệnh: sẽ trở thành một kẻ sát nhân, và một vị thánh. Dưới bàn tay
phù thuỷ
của Roth, cả một giai đoạn hung bạo của lịch sử đã được nhét vào một
“lỗ đen”,
là số phận của một con người. Hay như nhân vật trong cuốn Nhà Tiên Tri
Thầm
Lặng, The Silent Prophet, dựa vào cuộc đời một nhân vật có thực ở ngoài
đời là
Trotsky, qua đó, Roth khẳng định, cuộc đời [của nhân vật chính] Kargan
chỉ có
một tí dây mơ rễ má với sự kiện lịch sử, như bất cứ một cuộc đời thực
nào khác.
Nhất quyết, nó không được đưa ra nhằm để chứng minh một quan điểm chính
trị,
nhưng mà là một chân lý muôn đời, cổ xưa, là, một cá nhân luôn thất bại, vào lúc sau cùng [... at most, it
demonstrates the old and eternal truth that the individual is always
defeated
in the end].
Is Friedrick Kargan
destined finally to sink into oblivion?
Chẳng lẽ số mệnh của Friedrick Kargan
là sau cùng chìm vào
quên lãng?
Theo nghĩa đó, Nadine
Gordimer, nhà văn Nam Phi, Nobel văn
chương, trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, coi toàn bộ tác phẩm của ông, một
“tragédie
humaine”, Bi Kịch của Con Người, được
viết bằng kỹ thuật giả tưởng hiện đại. Và ngoài Roth ra, không nhà văn
hiện đại
nào, ngay cả Thomas Mann, tới gần được cái toàn thể, mục tiêu bất khả
của chúng
ta – our impossible aim - theo nhà phê bình Mác xít G. Lukacs.
Jennifer Tran
Chú thích: [1]. Ngoài
The Radetzky March, còn Huyền Thoại về
Ông Thánh Say, The Legend of the Holy Drinker, được coi như là cuốn sau
cùng
của Roth, đã được viết một cách nhẩn nha, [chừng trên 200 trang, chữ
khổ lớn,
viết trong vòng 4 tháng đầu năm 1939, tức là năm Roth mất], với thú vị
và hãnh
diện, như ghi chú của Michael Hofmann, khi dịch Huyền Thoại Ông Thánh
Say, và
dịch giả nhận xét thêm về Roth: Đôi khi,
rõ ràng là Roth không còn có lý do gì nữa để mà tiếp tục còn sống [to
remain alive].
Là một nhà văn mà phải lưu vong, chỉ là phụ, nhưng quá nữa, ông là một
người
chẳng còn một tí viễn tượng, chẳng còn trông mong gì nữa, về chính con
người là
mình. Thường xuyên bị đe dọa, về chính trị, kinh tế, cảm xúc, và thể
chất. Ma
men tàn phá sức khỏe của ông. Vào năm 1938 ông bị tim quật [heart
attack], và
chỉ lê lết chừng vài bước. Ông đưa ra luận cứ, rằng, rượu làm ngắn đời
ông,
nhưng cũng thật may, là nhờ nó mà ông vẫn còn sống, trong điều kiện
ngắn hạn.
Và để chứng minh luận cứ này, ông làm việc cật lực. Sau khi khách sạn
mà ông
yêu quí, Hôtel Foyot, trong vòng 12 năm đã là “nhà” của ông, bị ủi sập,
vào năm
1937, ông dời tới khách sạn Hôtel de la Poste, trong một căn phòng nhỏ
hẹp đến
nỗi, té xuống giường, là đã thấy ở hành lang, té thêm cái nữa, là đã
thấy ở
quầy rượu, tức là nơi ông qua nốt thời gian còn lại của một ngày, và
của đêm,
không ngừng làm cả hai việc: vừa uống vừa viết. Bạn bè, văn hữu của ông
thưòng
là chết trong những trường hợp thật là “nhảm” [grotesque: kỳ quái, kệch
cỡm…].
Trong lần đi đám tang Horvath, ông bảo bạn bè, nhớ đừng quên đọc điếu
văn cho
ông, trong lần tới. Chính cái chết của một người bạn khác, nhà soạn
kịch Ernst
Toller [tự tử] đã quật ngã Roth.
Thật là một phép lạ, trong những hoàn
cảnh như thế đó, mà
Roth vẫn có thể viết, mà không phải viết dở, viết tệ: Huyền Thoại Thánh
Say lấp
lánh, duyên dáng, tuyệt vời… Từ ‘huyền thoại’ [legend], theo định nghĩa
đầu
tiên của nó, nghĩa là “cuộc sống của một vị thánh’, thực khó mà coi ma
men
Andreas, nhân vật chính trong The Legend of the Holy Drinker, là một vị
thánh.
Nhưng có nhiều thứ thánh ở trên đời, những ông thánh mà không phải là
thánh…
Comments
Post a Comment