Chân Dung Nga
Chân Dung Nga
Chân Dung Nga: Gorki_Kharms_
Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
Isaac Babel and his Daughter
I was filled
with regret when I first discovered Isaac Babel's stories in 1975 or
thereabouts. I had already written four books as well as stories of my
own.
Babel's stories were overwhelming. The regret I felt was that I had not
read
them earlier and been influenced by him.
It was Robert Phelps, a writer whose
judgment of literature was unerring, who introduced me to Babel, even
prescribing the stories I should read before making up my mind, My First Goose,
Dante Street, Guy de Maupassant and The King.
I read them in a small,
book-lined study that Phelps kept, separate from his apartment, on East
Twelfth
Street, and immediately fell under the spell of a writer I liked as
much as any
I had ever known.
Babel's reputation was originally based on Red Cavalry-
stories drawn closely from his experience as a correspondent attached
to
Budenny's forces during the bloody civil conflict that followed the
revolution
of 1917-1918. The writing is brilliant, original and utterly
unsentimental,
marked by that telltale sign of greatness, keen observation. Every
sentence is
like an arrow thudding into the target, and Babel is stunningly
succinct. His
famous dictum states that no iron can pierce the human heart so
chillingly as a
period put in exactly the right place.
I have reread the stories, some
published long after his death in The
Atlantic, Commentary and The
New Yorker,
many times. They are of an unquenchable freshness and somehow have -
this is
Babel's genius - despite their barbarity, an immense kindness of heart.
Beyond
the harshness they are filled with a perverse human nobility. They have
the
power to console. It is a quality one finds in Turgenev, Chekhov and
Tolstoy.
Born
in 1894, the son of a tractor salesman, Babel was raised in Odessa and
later
lived in Moscow and for brief periods in the 1920s and 1930s in Paris.
He had
two daughters, Nathalie and Lidya, by different wives. The photograph
is of
Babel and Nathalie, his oldest child, who was raised in France by her
Russian
mother and came to America where she taught and later edited her
father's work.
In Babel's kind face and high forehead, his wire-rimmed glasses, one
can sense
his personality: cheerful, shrewd and somewhat mischievous. There is a
hint of
his great wisdom. We cannot hear his voice, which was high-pitched and
with a
slight lisp, but from his letters and the recollections of his friends,
IIya
Ehrenburg and Konstantin Paustovsky among others, one gains the picture
of a
wonderful man. I think of him agonizing over his work, "composing" as
he liked to say, writing and rewriting. Half a page a day was a huge
amount for
him. I think of him living in Paris on a street called Villa Chauvelot,
along
the sea in the mountains section of Odessa, and in meager lodgings in
Moscow.
Like
Pasternak, Mandelstam, Shalom Aleichem and it's not far-fetched to
include
Isaac Singer, Babel was Jewish. Strangely, he seems the least known
though he
may be the greatest of them. Fame is a vapor. Babel's compatriot,
Bunin, a
generation older, won the Nobel Prize but is little read today.
Babel was
perhaps forty-six when he died. His exact fate remains unknown. Crushed
by
censorship and official disapproval, he was arrested in May 1939,
towards the
end of the terror, and disappeared into the prison camps. His trunk,
which
contained countless pages of unpublished work - he was famously long in
revising and slow to submit stories- disappeared with him and has never
been
found. It, too, vanished in the pyre.
Stalin, who was responsible for the
imprisonment or death of tens of millions of his countrymen, sometimes
made
unexpected telephone calls from his Kremlin office at night, to
Pasternak and
Ilya Ehrenburg among others. Ehrenburg received such a call after Babel
had
been arrested. Was Babel a good writer, Stalin asked him?
“A wonderful
writer," Ehrenburg said.
Stalin's
reply was a single word,
"Zhalko,"
he said-pity-and hung up. That was the death knell.
James Salter
Note: Bài viết
này, Gấu hăm he giới thiệu với độc giả TV mà quên hoài. Nó chửi
bố đám nhà
văn Mít. Tác giả bài viết, thú nhận, ông xb vài cuốn sách, thì mới khám
phá ra
Isaac Babel.
Giả như biết sớm thì đã thờ làm sư phụ, và viết bảnh hơn
nhiều rồi!
Đó là về phần đệ tử… hụt.
Về phần sư phụ… hụt, cũng có điều dậy
lũ... Mít chúng ta, về cái sự viết,
“chỉ 1 câu văn”:
Cái dấu chấm câu, thì đúng như 1 cái dùi lửa, chọc thủng tim bạn,
nếu đặt đúng chỗ!
Cuối thế kỷ,
chúng ta hãy thử tưởng tượng một chuyến tháp tùng Thánh Peter, giả dụ
như ông
thánh này kiếm được chiếc chìa khóa nhà tù Lubyanka, và thả hết những
nhà văn bị
giết hại ở đây: bóng dáng oan hồn độc nhất vẫn còn giữ được nụ cười ở
trên môi,
hẳn là Isaac Emmanuilovich Babel.
Như bà vợ thứ nhì của ông, Antonina
Piozhkova, cho chúng ta biết, tiếng cười rất quan trọng đối với Babel.
Biết cười,
chịu được sự bỡn cợt là một đòi hỏi, khi đọc văn chương Nga, nhưng nó
còn một sắc
thái văn hóa vốn nín lại những dấu hiệu mở ra niềm hoan lạc. Có tất cả,
thần
thái nghiêm nghị, niềm âu lo, nỗi đau khổ chịu đựng, nhưng thiếu hẳn sự
rạng rỡ.
Ngay Gogol cũng gạt mọi nét hoan hỉ, trong những bức chân dung. Nabokov
hình
như chỉ được hưởng "tiếng cười vui", khi đã vượt biên giới tới
Berlin, Paris, và Ithaca.
Đàn anh Tolstoy phán:
Nè, Chekhov, mi viết truyện ngắn bảnh lắm đó. Nhưng mà mi viết kịch, ẹ quá.
Mi viết kịch còn ẹ hơn cả Shakespeare!
Russian Portraits
The portraits that follow are from a large number of photographs recently recovered from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the bottom of an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with dog), Nabokov, Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a volume entitled The Russian Century, published early last year by Random House. Seven photographs from that research, which were not incorporated in The Russian Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin, Eisenstein (in a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov (with mother and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of Andreyev, Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on them. The photograph of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who were thought to have an especial affinity with particular Russian authors were asked to provide the accompanying texts. We are immensely in their debt for their cooperation.
The Paris Review Winter 1995
Chân Dung Nga
Những bức hình sau đây là từ một lố mới kiếm thấy, từ những hồ sơ có đóng mộc ở Moscow, một vài bức có giai thoại riêng, thí dụ, đã được giấu kỹ trong ống thông hơi ở tận đáy thang máy! Năm trong số, Akhmatova, Chekhov [với con chó], Nabokov, Pasternak (với sách), và Tolstoy (cưỡi ngựa), từ một cuốn có tên là Thế Kỷ Nga, xb cuối năm ngoái [1997], bởi Random House. Bẩy trong cuộc tìm kiếm đó không được đưa vô cuốn Thế Kỷ Nga, và được in ở đây, lần thứ nhất: Bulgakov, Bunin, Eisenstein (trong một nhóm với Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov (với mẹ và chị/em) Tolstoy (với Chekhov), and Yesenin. Hình Andreyev, Babel, và Kharms, do những nhà văn kiếm ra cung cấp, kèm bài viết của họ về chúng. Hình Dostoyevsky, từ hồ sơ Bettmann. Những nhà văn nghe nói có giai thoại, hay mối thân quen kỳ tuyệt về những tác giả Nga, thì bèn được chúng tôi yêu cầu, viết đi, viết đi, và chúng tôi thực sự cám ơn họ về mối thịnh tình, và món nợ lớn này.
Và đây là 1
giai thoại, và cũng là 1 mối thân quen kỳ tuyệt:
-Ta đếch phải
là con gái của Mayakovski!
-Có thể passport giả?
-Ở Mẽo người ta không làm
passport giả!
Chekhov và Tolstoy.
Như tất cả mọi người, Chekhov đã làm một chuyến hành hương tới Iasnaia Poliana. Đó là ngày 8 tháng Tám 1895. Nhà văn của chúng ta đi lang thang trên những đại lộ, hai bên đường có những hàng cây bu-lô [một loại cây hàn đới, lá nhỏ]. Và trước mặt ông, là ai kia?
Con người vĩ đại. Đầu đội nón, mặc áo choàng trắng, khăn vắt vai, Tolstoy đi tắm sông, và kéo Chekhov cùng đi tới "khúc nước lười biếng", của con sông nhỏ Voronka. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai nhà văn là như sau: cả hai đều khoả thân, giấu mình ở dưới nước, chỉ thò đầu lên khỏi mặt sông. Sau đó, họ về nhà, tại một nơi được chủ nhân gọi là "một góc nhỏ êm ái dành cho những câu chuyện nghiêm túc".
Chekhov ở Iasnaia Poliana hai ngày. Bạn bè của Tolstoy đọc cho ông nghe đoạn mở đầu tác phẩm "Phục Sinh", đang đương thời vào lúc đó. Chekhov, vốn chuẩn xác, khui ra liền một hạt sạn. Nhân vật nữ ở trong truyện bị kết án hai năm lao động khổ sai tại Sibérie. Với một tội như trong trường hợp này, ít lắm cũng phải bốn niên. Để đáp lễ, Tolstoy vớ ngay cuốn viết về đảo tù Sakhaline. Ông bạn viết về, nào là cuộc sống của những tù khổ sai, đưa ra hàng loạt những thống kê… nhưng còn thiên nhiên? Chẳng có một miêu tả nào về thiên nhiên cả. Chekhov lắc đầu, tôi có tới đó để vui thú điền viên đâu, đây là một cuộc điều tra, và nó phải [làm cho người đọc] nhức nhối. Vẫn không lọt tai Tolstoy.
Nhưng Chekhov tới Iasnaia Poliana để làm gì?
Vào thời kỳ đó, Chekhov hết còn mê Tolstoy. Nói rõ hơn, cái thái độ, "ai vả má phải đưa má trái cho người ta vả tiếp", tức chủ trương "không-chống trả" (non-résistance) của Tolstoy đã hết còn quyến rũ ông. Trước đó, đã có thời, sách Tolstoy thuộc loại gối đầu giường, rảnh chút nào là lôi ra ghi ghi chép chép. Ông mê lý tưởng khắc kỷ thanh tịnh của Tolstoy. Nhưng cứ ra khỏi ngõ là đụng đầu với nỗi đau khổ của con người, ông bắt đầu nổi loạn chống lại chủ nghĩa Tolstoy, nếu không muốn nói là chống lại Tolstoy. Bởi vì, dù thế nào, ông vẫn tiếp tục coi đây là một nhà văn hàng đầu.
-Khi Tolstoy mất đi, mọi chuyện đều phó thác cho quỉ sứ, ông nói với Ivan Bounine.
-Kể cả văn chương?
-Ờ, kể cả văn chương!
Ông tuyên bố trước Lazarevski:
-Có những người sợ, không dám làm những hành động xấu xa, chỉ bởi vì, Tolstoy vẫn còn đang sống.
Vào năm 1897, ông viết thư cho Souvorine, "Đúng rồi, chúng ta là những tài năng lớn, chúng ta đại diện cho nhân loại, chúng ta luôn luôn có một điều gì để mà nói, nhưng nói phỉ phui, Tolstoy vừa nằm xuống, là chẳng ai viết nổi, dù chỉ một bài viết nho nhỏ."
Hay là đoạn này, vào năm 1900, cho Menchikov, "Tôi lo ngại cái chết của Tolstoy. Nếu ông mất đi, là có một khoảng trống lớn ở trong đời tôi. Thứ nhất, tôi chưa hề quí một người nào nhiều như quí ông ta; tôi là một kẻ vô thần, nhưng trong tất cả những kẻ hữu thần, chỉ có ông ta là gần gụi với tôi. Thứ nữa, trong đám nhà văn, nếu có một Tolstoy, như vậy ai không cảm thấy áy náy, rằng mình "cũng là nhà văn"!
Vả chăng, làm sao mà không biết tới Tolstoy cho được? Rozanov, tác giả cuốn "Bộ mặt u tối của đấng Christ", vốn là một trong những cộng sự viên và bạn của Souvorine, có nói, "Là người Nga mà không biết Tolstoy thì cũng buồn như là người Âu châu mà không biết dẫy núi Alpes."
Với Chekhov, nếu ông yêu con người nhưng chống lại những tư tưởng của Tolstoy, bởi vì đã từ lâu ông quá chán "sự thôi miên của tay phù thuỷ già". Điều này thật rõ ràng, trong một số tác phẩm của ông. "Một câu chuyện tầm thường" ("Une banale histoire", còn được dịch ra tiếng Pháp là "Une morne histoire"), chống Tolstoy, ngay cả trong sự mô phỏng "Cái chết của Ivan Ilitch". Bởi vì, nếu Ilitch, sau khi biết những nỗi khủng khiếp của cái chết, đã nhìn ra ánh sáng, nhân vật Nicolai Stépanovitch cũng sa xuống tận đáy cuộc đời, nhưng chẳng hề có một ảo tưởng về một cứu rỗi, cứ thế lạc lối trong cõi âm u, như Katia, người yêu bé nhỏ mà anh ta đã để mặc cho lang thang lưu lạc cùng với đám bụi đời. Tolstoy, trong chuyện kể "Con người cần bao nhiêu đất" ("Combien de terre l’homme a-t-il besoin"), đã đưa ra câu trả lời: ba tấc là đủ; Chekhov đáp lại, trong truyện vừa (nouvelle), "Những cây lý chua" ("Les Groseilliers"): "Ba tấc là dành cho một xác chết, không phải dành cho một con người".
Tolstoy, khi quay mình về với tông giáo, đã cho rằng Chekhov thiếu chất "tâm linh" (spiritualité). Ông than thở, "Làm cho Gorky vào đạo, còn có thể, với Chekhov, thật vô phương." Đối lại, Chekhov tuyên bố, "Tất cả những nhà hiền giả lớn lao đều đáng tởm như những viên đại tướng, và cũng vô lễ, vô ơn như là họ, bởi vì họ tin chắc, chẳng ai dám đụng tới họ. Diogène dám nhổ vào mặt người khác, bởi vì biết sẽ chẳng xẩy ra chuyện gì cho ông ta. Tolstoy thì cũng là một Diogène. Đâu có ai dám xách cổ ông ta tới đồn cảnh sát, hay tấn công ông ta trên báo chí."
Tolstoy tỏ ra ngạc nhiên, khi thố lộ với Lydia Avilova:
-Tôi quí ông ấy, nhưng tôi không hiểu tại sao ông ấy lại viết kịch.
Có lần, Chekhov đến thăm Tolstoy tại Gaspra, vùng Crimée, trong toà lâu đài mà nữ bá tước Panine nhường cho ông. Ông nhà văn già còn nằm trên giường. Khi Chekhov cáo lui, ông già nói: "Hãy ôm hôn tôi". Chekhov cúi xuống, Tolstoy ôm hôn, và thừa dịp, thì thầm vào tai Chekhov: "Bạn biết đấy, tôi không chịu nổi Shakespeare, nhưng những kịch của bạn còn tồi tệ hơn nhiều."
Một lần, vào tháng Tư năm 1887, khi Chekhov đau nặng, phải vô bệnh viện, Tolstoy đến ngồi ngay bên giường. Ông nói gì với bệnh nhân? Tương lai.
"Nhiều khi trong cái rủi có cái may: L.N. Tolstoy đã đến thăm tôi ở bệnh viện. Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi thật thú vị. Cực kỳ thú vị, đối với tôi, bởi vì tôi lắng nghe nhiều hơn là nói. Chúng tôi nói về bất tử."
Bất tử, bất diệt: khi cá nhân tan hoà vào với đám đông, một đám đông to tổ bố. Chekhov không thể hiểu được [điều này], có thể là do, một bất tử bất diệt như thế chẳng nói lên được một điều gì đối với ông, và Tolstoy hoàn toàn ngạc nhiên [về thái độ của Chekhov].
Phải mãi sau đó, thật quá trễ, bởi vì phải tới khi "Chekhov từ giã cõi đời’, vào tháng Chín 1904, Tolstoy mới đưa ra lời tuyên bố, với phóng viên đặc biệt của tờ Rous, tới tận Iasnaia Poliana để phỏng vấn ông, "Những hình thức mới mẻ đã được Chekhov sáng tạo ra, và, hãy vứt bỏ mọi thói khiêm nhường giả tạo, tôi xác định ở đây, điều này: về phương diện kỹ thuật, ông ta hơn hẳn tôi."
Và sau đó, "Hai ngày nay, tôi đọc Chekhov, và sướng điên lên." ("Je lis Chekhov depuis deux jours, et je suis en extase". Nhật Ký, 29 tháng Ba, 1907).
Theo Tolstoy, "Douchetchka" là số một, vượt hẳn mọi truyện ngắn khác, cũng của Chekhov. (Tatiana Tolstoy cho biết, ông đã đọc đi đọc lại bốn lần, đọc lớn giọng, cùng trong một ngày, và khẳng định, nó làm cho ông sáng mắt sáng lòng – intelligent - thêm ra!)
"[Truyện đó] giống như một dải lụa, dệt bởi một cô gái trong trắng. Ngày xưa, có những cô gái cứ mãi mãi là những cô gái trong trắng, suốt cả cuộc đời của họ. Tất cả những giấc mơ, họ chuyển vào trong những tấm lụa mà họ dệt. Những giấc mơ về những gì thật quí giá, thật trong trắng, và cũng thật mơ hồ…"
Đây là câu chuyện một người đàn bà không thể sống mà không yêu. Bà tiếp nhận một cách thật ngây ngô, lố bịch những tư tưởng, những thói này tật nọ của những người đàn ông mà bà yêu. Chúng thật nhiều, mà cũng chẳng thể nào giống nhau. Cuối cùng, trơ trọi, bà hết còn tỏ ra tức cười nữa, và kể như tiêu luôn, và mọi người muốn cùng khóc với bà.
Jennifer Tran
CƯỜI VỠ ĐÊM ĐEN
Style, Isaak Babel claimed, is "an army of words, an army in which all types of weapon are on the move. No iron spike can pierce the human heart as icily as a full stop deployed at the right moment".
Cuối thế kỷ, chúng ta hãy thử tưởng tượng một chuyến tháp tùng Thánh Peter, giả dụ như ông thánh này kiếm được chiếc chìa khóa nhà tù Lubyanka, và thả hết những nhà văn bị giết hại ở đây: bóng dáng oan hồn độc nhất vẫn còn giữ được nụ cười ở trên môi, hẳn là Isaac Emmanuilovich Babel. Như bà vợ thứ nhì của ông, Antonina Piozhkova, cho chúng ta biết, tiếng cười rất quan trọng đối với Babel.
Biết cười, chịu được sự bỡn cợt là một đòi hỏi, khi đọc văn chương Nga, nhưng nó còn một sắc thái văn hóa vốn nín lại những dấu hiệu mở ra niềm hoan lạc. Có tất cả, thần thái nghiêm nghị, niềm âu lo, nỗi đau khổ chịu đựng, nhưng thiếu hẳn sự rạng rỡ. Ngay Gogol cũng gạt mọi nét hoan hỉ, trong những bức chân dung. Nabokov hình như chỉ được hưởng "tiếng cười vui", khi đã vượt biên giới tới Berlin, Paris, và Ithaca.
Piozhkova giấu giếm viết về chồng từ bao thập kỷ trước, nhưng hồi ký chỉ được in ra đầy đủ tại Moscow, vào năm 1989, cao điểm mùa glasnost. Bản tiếng Anh, At His Side: The Last Years of Isaac Babel, (nhà xb Steerforth Press, 1997), cho thấy một Babel với tiếng cười vui, ngay những ngày đen tối. Một trong những bức hình, chụp vào năm 1938: một ông Phật Do-thái dưới cặp mắt kính. Giấu kín đằng sau nụ cười, chúng ta hãy thử tưởng tượng, biết bao trò khôi hài, bỡn cợt, và định mệnh cay đắng.
Tháng Năm 1939, Babel bị bắt, theo lệnh của trùm mật vụ Beria. Ông có biết, và nghĩ, sau cùng chuyện phải tới. Bạn bè thường bình phẩm thái độ ngây thơ về chính trị của ông. Không phải vậy. Ngay đầu những năm 1920, là một phóng viên chiến tranh bên cạnh Bolshevik, trong cuộc nội chiến, trong nhật ký, ông đã minh bạch, về một điều: cuộc cách mạng đã bị chà đạp, do những tội ác được thực hiện, nhân danh nó: "Họ đều nói, họ chiến đấu vì công lý, nhưng toàn một lũ ăn cướp, giết người", Babel viết, trong khi rong ruổi cùng đội kỵ binh của Semyon Budyonny qua những thành phố hoang tàn, những làng mạc Do-thái vùng đông Ba-lan, tây Ukraine - Dubno, Chelm, Belz, Zamosc - cảnh làm cỏ người Do-thái, và hai mươi năm sau, cảnh nhổ sạch cỏ Do-thái. Ít nhà văn thời kỳ đầu Xô-viết được tận mắt chứng kiến sự độc ác đó. Đằng sau nụ cười của ông Phật Do-thái là nỗi đau không đáy, cùng khả năng thấu thị: nhìn, rồi tiên đoán. (Phải chăng đây là thế kỷ của chúng ta, thế kỷ người Do- thái bị huỷ diệt, ông tự hỏi, trong nhật ký, năm 1920). Bởi vậy, không có chuyện ngây thơ. Vào năm 1936, khi Gorky, bạn, và cũng là người che chở, chết, Babel nói với vợ: Bây giờ, tụi nó sẽ không cho tôi sống đâu.
Babel sở trường về đoản văn, viết với một nỗi ám ảnh nóng bỏng, đến
nỗi, khi câu chuyện được hoàn thành, nó đã trải qua, chừng trên chục
lần, viết đi viết lại. Có khi cả trăm, những lần ông cố gắng đẩy câu
chuyện vào hồi ức. "Viết thật khó khăn đối với tôi", có lần ông nói
với bạn, Konstantin Paustovsky. "Đâu đó, hình như có lần tôi viết
rằng, nhờ căn bệnh suyễn mà tôi đã nhanh chóng già dặn, nhưng không
giản dị như vậy. Khi viết một cái truyện ngắn nhất, tôi vẫn phải làm
việc như thể phải đào lên ngọn núi Everest, chỉ một mình tôi thôi,
với cây cuốc và cái xẻng... Tim tôi như bị thắt nghẹn, mỗi lần không
thể viết xong một câu văn". Thời gian hoàn thành Những câu chuyện
về Odessa và tác phẩm lớn lao nhất của ông, Kỵ binh Đỏ,
vào đầu thập niên 1920, hàng tuần, hàng tháng, ông đã phải "đánh vật"
với năm trăm hoặc một ngàn từ, cho mỗi câu chuyện. Babel nghĩ, nó
phải chính xác như một thông báo hành quân, hay tờ ngân phiếu, "chính
xác như thước đo loga, và tự nhiên như mùi rau thìa là". Phản ứng
của giới phê bình văn học Nga đối với Kỵ binh Đỏ - hình ảnh
sống động, ngôn từ chính xác - sôi nổi chẳng kém chi đối với những
truyện ngắn đầu tay của Hemingway, ở Mỹ. Sau khi đọc những bản dịch
đầu tiên qua Anh ngữ, vào cuối những năm 20, Hemingway đã nói với
Ilya Ehrenburg, "Tôi nhận thấy văn phong của Babel súc tích hơn của
tôi. Nó chỉ cho thấy, điều có thể làm được, đã được làm. Ngay cả khi
bạn đã vắt hết nước, vẫn còn những cục đặc quánh ở trong đó." Để thư
giãn, Babel tự chiều mình, bằng "tiếng cười vui", và những lần tụ
tập bạn bè. Không gì làm ông hạnh phúc hơn, những lần thăm viếng bạn,
nhà làm phim nổi tiếng, Sergei Eisenstein.
Babel sinh năm 1894 tại cảng Odessa, trên bờ Hắc hải. Không chỉ là
một trung tâm trường ốc, thương mại, và còn của băng đảng Do-thái.
Điều sau cùng làm Babel thích thú, và nó không có nghĩa là những con
người của Babel tránh khỏi chủ nghĩa bài Do-thái. Họ đã là nạn nhân,
vào cuối thế kỷ 19, và Babel không thể nào quên được những vụ giết
hại cư dân Do-thái tại Odessa, vào năm 1905.
Khi còn là một đứa trẻ, Babel học tiếng Talmud, Yddish, Hebrew, và
Pháp ngữ. Cậu chỉ thất bại, khi muốn trở thành một tay vĩ cầm; và
đành nhường âm nhạc cho những tài năng đương thời như Jascha
Heifetz. Bởi vì quota của Nga hoàng, vốn hạn chế sinh viên Do- thái,
Babel không thể len chân vào nổi đại học Odessa, và học tại Kev
Institude of Financial and Business Studies, từ 1911 tới 1915. Sau
đó ông dời tới St. Petersburg, và sống một cuộc đời "nửa dưới hầm".
Do Thái không được phép sống bên ngoài khu Pale of Settlement, nếu
không có giấy tờ cư trú, Babel phải ngủ basements hoặc nhà bạn bè,
để tránh cảnh sát. Hai mươi tuổi vào năm 1916, ông in những truyện
ngắn đầu tay, trên tờ báo của Gorky, Letopis, và viết cho báo chống-Bolshevik,
cũng của Gorky, Novaya Zhizn (Đời Mới), nhưng báo này sau bị Lênin
ra lệnh đóng cửa.
Như hầu hết người Do-thái, Babel thoạt kỳ thuỷ hân hoan đón nhận
cuộc cách mạng, tin tưởng rằng những người Bolshevik sẽ "cải thiện"
số phần của họ, vốn đã bị đối xử tàn tệ bởi Nga hoàng. Tuy nhiên,
trong những bài viết trên tờ Đời Mới, ông đã thường xuyên chỉ trích
họ, và những tổn thất do cách mạng gây ra. Khi Đời Mới bị đóng cửa
tiệm vào năm 1918, Gorky khuyên đệ tử hãy làm dơ tay của mình, bằng
cuộc sống, hãy "đi thực tế", ở những vùng tỉnh nhỏ, thâu lượm kinh
nghiệm làm chất liệu cho sáng tác. Babel làm theo. Trước tiên, ông
phục vụ tại tiền phương Romania, theo đoàn thu gom lúa mì chống đói
tại những thành phố dọc sông Volga, và rồi, năm 1920, ông nhập vào
đoàn quân Cô-zắc theo-Bolshevik của Budyonny, với tư cách là phóng
viên chiến trường, viết bài cho ROSTA, thông tấn xã nhà nước, và cho
nhật báo quân đội, Kỵ binh Đỏ. Cuộc xung đột Xô viết-Ba lan ba năm
đầu là cuộc nội chiến mở rộng, và sau đó, là do những thái độ thù
nghịch giữa hai quốc gia, vốn bắt rễ từ năm 1772, khi Ba-lan bị xâu
xé, giữa Nga, Phổ, và đế quốc Hung-Áo. Sau Đệ Nhất Thế Chiến, và
cùng với sự vươn lên của một nước Ba-lan độc lập, chính quyền quốc
gia Warsaw, cầm đầu bởi Jozef Pilsudski, đã tìm cách mở rộng bờ cõi
về phía đông tới Ukraine, toan tính chuyện cứu vớt nhân loại khỏi
chủ nghĩa CS. Lênin, vốn tin tưởng vào việc xuất cảng cách mạng vô
sản tới Âu châu, đã biến vùng tây Ukraine, và đông Ba-lan thành
chiến trường đầu tiên, hy vọng tạo nên một cuộc nổi dậy tại Ba-lan,
và sau cùng là ở Đức.
Hầu hết dân Cô-zắc theo Bạch vệ, nhưng Budyonni, dưới quyền chỉ huy
của chính uỷ mặt trận phía nam, Josef Stalin, là một Bolshevik chính
cống. Ý tưởng làm một phóng viên Do-thái cưỡi ngựa rong ruổi cùng
quân Cô-zắc cũng là một trong những tiếng cười vui của Babel. Ngày
đầu tiên ông trèo lên lưng ngựa là ngày thứ nhất cùng với đơn vị Đệ
nhất Kỵ binh. Chẳng bao lâu, ông nhận ra, nếu Budyonni là một
Bolshevik, lính của ông ta thì không. Nói chung, họ đều thất học, và
chẳng thèm để ý đến ý thức hệ, hay cách mạng CS. Họ hãm hiếp, cướp
phá, giết tù binh, và trên hết, họ chỉ khoái ăn trộm. Cho dù Babel,
trong bài viết hay trong nhật ký đã tỏ ra xúc động về cảnh "hoang sơ"
của một đoàn quân Cô-zắc cưỡi ngựa suốt vùng Galicia, cuối cùng ông
phải phán đoán: đây là một đám người vô đạo đức, tàn nhẫn, và chống
Do-thái đến cùng cực. "Quân đội của chúng ta xuất quân là để nhét
đầy túi, đây không phải là một cuộc cách mạng, chỉ là sự nổi loạn
của những người Cô-zắc hung bạo."
Kinh nghiệm phóng viên chiến trường của Babel chấm dứt khi đội Đệ
nhất Kỵ binh phải rút lui khỏi Ba-lan. Nga và Ba-lan đi đến một thỏa
ước về đất đai, được duy trì đến khi Hitler lên cầm quyền. Cuối năm
1920, Babel trở lại Odessa, làm xuất bản một thời gian rồi sống tại
vùng Caucasus với vợ là Yevgenia Gronfein, con một chủ xưởng giầu có
tại Odessa đã mất hết tài sản vì cách mạng. Thời gian 1921-1925, ông
bắt đầu xuất bản bốn truyện ngắn, về thời thơ ấu tại Odessa, và 35
truyện, sau gom thành Kỵ Binh Đỏ. "Tưởng tượng của tôi kể như không
có", ông nói với Paustovsky. "Tôi rất nghiêm trang về chuyện này.
Tôi không biết bịa đặt. Tôi phải biết mọi chuyện đến tận đáy của nó,
nếu không tôi không thể viết bất cứ điều gì. Chân thực,
authenticity, là phương châm của tôi...". Chuyện của ông là những gì
được thu nhỏ lại, những mẩu giai thoại, những chân dung; dòng kể
luôn luôn tận cùng bằng một pha hoặc ghê rợn, hoặc khôi hài. Một anh
nhà quê viết thư cho mẹ; không một chút xúc động, ông con tả cảnh
mấy anh em đã thịt ông bố như thế nào. Một anh chàng trí thức Do-thái,
vì muốn được sự kính nể giữa đám đồng chí Cô-zắc, đã ăn trộm một con
ngỗng của dân, và giết nó, sau cùng ngủ lăn lộn với 6 tên bạn, chân
gác lên nhau, dưới mái nhà thủng lỗ để cho những ngôi sao lọt vào;
nằm mơ, thấy những người đàn bà trong giấc mơ, và chỉ trái tim, một
khối đỏ vốn đã thành sẹo với những vụ sát nhân, chỉ có nó bật ra
niềm hân hoan tràn đầy". Trong một chuyện khác, anh ta trải qua lễ
Shabat với một gia đình Hasidic, rồi trở về viết truyền đơn CS.
Babel, qua nhân vật kể trong truyện, luôn mâu thuẫn về bản thân,
chẳng bao giờ chắc chắn, anh ta bà con với người Do-thái, hay với
những đồng chí trên lưng ngựa.
Bà vợ thứ nhất rời bỏ Babel, rời bỏ Nga khi ông vừa kết thúc
Kỵ binh
Đỏ. Bà tuyên bố, như một nghệ sĩ, bà bị nghẹt thở dưới chế độ mới.
Nhưng bà cũng quá suy sụp, vì chồng bà có một người đàn bà khác, một
nữ nghệ sĩ đẹp. Không phải một mà nhiều người, tuy nhiên, Babel có
thể vì cách xa nên mới hiểu được lòng vợ, và đã ba lần đến Brussels,
kết quả là họ có được một cô con gái, Nathalie. Cô sống nhiều năm
gần Washington. Trong bài giới thiệu những lá thư mà cô còn giữ được,
in thành tập mang tựa đề Những năm cô đơn, cô viết: "Tôi lớn lên với
niềm mong ước, một ngày nào, một nơi chốn nào, cửa bỗng mở, và cha
tôi bước vô... Cha con nhận ra nhau, và hình như cũng không có sự
ngạc nhiên. Chẳng để cha tôi có dịp thở, tôi sẽ nói, nào, cuối cùng
cha con ta cũng gặp nhau. Gia đình đã quá lâu chẳng biết gì về cha.
Cha để lại phía sau quá nhiều yêu thương và tận tuỵ, nhưng cũng quá
ít ỏi, những sự kiện. Cha hãy ngồi xuống và kể hết cho gia đình nghe."
Những băn khoăn của cô con gái cũng là của những người ái mộ ông, và
của giới phê bình: Ông là một Do-thái tốt, hay xấu? Một người CS tự
trái tim hay giản dị là một dân chủ tự bản chất? Ông có chút cảm
tình cá nhân nào dành cho Stalin, như một thứ quỷ mê hoặc, hay ông
sau cùng đã bị cuốn hút bởi sự tò mò tai hại của người nghệ sĩ?
Nhưng có một điều chắc chắn, ông không chịu rời bỏ Nga. Ông muốn
nhìn cuộc sống cho đến phút chót, dù với tư cách là một nhà văn có
đặc quyền, ông có thể bỏ đi nước ngoài; dù ông biết rõ tình trạng
văn học tại xứ sở của ông. Ông tin tưởng rằng, một nhà văn sẽ tự băm
vằm chính anh ta cũng như những gì anh ta viết ra được, một khi rời
bỏ quê hương. Nhưng trên hết, những điều làm người khác kinh tởm, sợ
sệt lại dấy lên ở nơi ông ý thức về bổn phận, và một điều gì giống
như định mệnh, với một chút mùi vị anh hùng. Điều ông lo nhất, không
phải chuyện bị bắt, bị tra tấn và sau đó, bị xử tử, mà là số phận
tác phẩm của ông. Một lần ở Paris, khi một người bạn hỏi: "Anh có
nghĩ rằng, ở Nga, rất nhiều tác phẩm có giá trị không được xuất bản
vì điều kiện chính trị?" Chắc chắn như vậy. Những tác phẩm đó hiện ở
trong tay mật vụ GPU. "Ông nói sao?" Bất cứ một người có ăn học bị
bắt là anh ta được trao cho mẩu giấy và cây viết. "Hãy viết đi".
Những điều ngạc nhiên về nhà tù Loubianka: những khám phá mới mẻ từ
những hồ sơ văn học của KGB, tác giả Vitaly Shentalinsky, (bản tiếng
Pháp của nhà xb Laffont, 1997), cho thấy một câu chuyện "thú vị":
Vào đêm Giáng sinh 1918, trong lúc Lênin đang ngồi xe Rolls-Royce,
chạy trong vùng ngoại vi Moscow, ông bị bốn kẻ lạ mặt kéo ra khỏi xe,
dí súng vào đầu, và lục soát tiền bạc. "Tụi mi có biết ta là ai
không?" "Tao đếch cần biết", tên cầm đầu, Jacov Kochelko, còn có
biệt danh là The Wallet (Cái Bóp), trả lời. "Tao là ông vua của
Moscow". Lấy hết giấy tờ, cây súng lục browning của Lênin, ông vua
và đồng bọn nhẩy lên xe phóng đi, vị lãnh tụ cách mạng, cận vệ và
viên tài xế đành lặn lội giữa trời tuyết đến trung tâm đảng bộ, kiếm
xe về Kremlin. Phải mất 6 tháng mật vụ Xô-viết mới hạ được The
Wallet. Trong túi ông vua có một lá thư tình, mớ giấy bạc lủng lỗ
đạn, và khẩu súng của Lênin. Tay mật vụ hạ sát The Wallet tính xào
nấu thành quả của mình thành một câu chuyện trinh thám cho một tờ
báo địa phương, nhưng lại không hài lòng với kết quả, và cuối cùng
đã giao hết cho Babel, để ông viết lại. Trao đúng thầy, bởi vì Babel
vốn có tài trong vụ sử dụng tiếng lóng của dân tội phạm. Bọn cướp,
The Bandits, được hoàn thành, nhưng số phận cũng như tác giả của nó,
nằm trong hồ sơ nhà tù Lubyanka, cho đến khi được Shentalinsky lôi
ra ánh sáng. Tác giả cũng cho thấy, vài ông nhà văn-nạn nhân lại
thích chơi với trùm mật vụ-đao phủ. Babel quen hai ông trùm dưới
thời Stalin, ngoài ra nghe nói, còn "có liên hệ mật thiết" với vợ
của một ông, Genrikh Yagoda, khách thường xuyên tại villa của Gorky.
Babel bị bắt ngày 15 tháng Năm, 1939. Mật vụ lục soát và khui ra một
đống bản thảo khổng lồ đói với một nhà văn nổi tiếng vì sự im lặng:
15 tập bản thảo, 18 sổ ghi và phụ đính, 517 lá thư... Babel biết rõ
số phận của ông, nhưng cố cứu mớ bản thảo, trong có nhiều cuốn đã
được hoàn tất, và đã từng năn nỉ đám mật vụ, trao cho ông để ông "sắp
xếp lại", và "hứa hẹn" sẽ viết một cuốn tiểu thuyết ghi lại con
đường "sa đọa" vào những tội ác chống lại Xô-viết. "Cuốn sách đang
nóng bỏng trong đầu tôi. Tôi cảm thấy đầy hứng khởi và sức mạnh, để
viết nó ra...". Mấy ông chủ ngục làm sao tin nổi chuyện đó, Babel
thì khỏi nói. Mớ bản thảo mất tiêu luôn, Shentalinsky tin rằng chúng
đã bị tiêu huỷ.
Cuộc hỏi cung thứ nhất kéo dài ba ngày, đúng "tinh thần Kafka". Mọi
tội đều có sẵn, cấm hỏi. Anh bị bắt vì những hành động chống Xô-viết.
Nhận tội hay không? Không, tôi không nhận. Làm sao anh vô tội, một
khi bị bắt? Mấy năm gần đây, tôi không viết được gì hết. Như vậy có
thể bị coi là phá hoại, không muốn viết dưới điều kiện do Xô-viết ấn
định. Anh muốn nói, anh bị bắt vì anh là nhà văn? Các ông nói đúng,
lẽ dĩ nhiên. Tác giả không thể bị bắt, vì không còn viết được. Vậy
thì lý do thực sự của việc bắt anh là gì? Tôi thường ra nước ngoài,
và thường giao du với những phần tử Trotskists... Hãy giải thích tại
sao một nhà văn Xô-viết như anh lại để kẻ thù ở hải ngoại lôi cuốn...
Anh phải thú nhận tội ác, hành động phản quốc... Đừng đợi chúng tôi
bắt buộc anh. Hãy thú tội đi.
Cuối cùng, Babel thừa nhận đủ những thứ tội, dù vô lý cỡ nào. Ông
nói với họ, ông là điệp viên Pháp, và ông đã từng chuyển cho A.
Malraux những tài liệu về trại tập trung và mật vụ. Ông đã từng nhỏ
to với đám nghệ sĩ, và đã từng cắt nghĩa nguyên nhân tự tử của
Maiakovsky là do không thể nào viết, dưới điều kiện Xô-viết; đã từng
liên can tới âm mưu ám sát Staline, Chính Uỷ Quốc Phòng. Thê thảm
nhất, nhục nhã nhất, ông đã tố cáo một số bạn bè như Eisenstein,
Mikhoels, Yuri Olesha...
Vsevolod Meyerhold, đạo diễn sân khấu, bạn của Babel, đã từng viết
thư cho bạn, nhà ngoại giao Molotov: "Nếu anh không viết, họ sẽ đánh
đập anh, sao cho mỗi thứ rời một nơi, trừ cái đầu và hai tay là họ
không đụng tới".
Phiên tòa Babel diễn ra tại một trong những văn phòng của Beria. Chỉ
kéo dài 20 phút. Những lời nói chót của ông: Tôi vô tội. Tôi không
hề là một điệp viên. Không bao giờ cho phép mình chống lại Xô-viết.
Tôi tự buộc tôi một cách sai lạc. Bị bắt buộc phải tố cáo bậy bạ
chống lại chính tôi và bạn bè... Tôi chỉ xin một điều: hãy cho tôi
hoàn thành tác phẩm của tôi...".
Ông bị bắn vào lúc một giờ rưỡi, sáng hôm sau. Bà vợ chỉ biết vào
năm 1954. Trong bao năm trời, bà đã năn nỉ xin được biết tin tức về
chồng, và chỉ nhận được những lời hứa hẹn. Bà vẫn nuôi hy vọng chồng
ở một nhà tù nào đó, tại Siberia, hay Kolyma, và sẽ có một ngày, ông
trở về. Năm 1947, bà còn nhận được điện tín của nhà nước Xô-viết,
chồng bà vẫn còn sống, khoẻ mạnh, và sẽ được tha vào năm 1948. Để
tiện bề lo lắng cho thân nhân người bị bắt, nhà nước cho một mật vụ
đến ở luôn trong nhà bà. Năm 1996, bà di cư qua Hoa-kỳ, hiện sống
với Lida, cô con gái của họ, và đứa cháu trai, tại Maryland.
Hồ sơ KGB cho biết, xác của Babel được thiêu tro, gom chung thành
Ngôi Mộ Tập Thể Số Một, và được đánh dấu, hình như vào năm 1991 bởi
những dòng chữ: "Nơi đây an nghỉ, tro cốt của những con người vô tội,
nạn nhân bị tra tấn, hành quyết do những vụ đàn áp chính trị. Hãy
cầu xin chẳng bao giờ nhân loại quên họ".
Và đây là một trong những tiếng cười vui của ông, sau khi từ biệt vợ,
trên đường tới nhà tù Lubyanka, Babel quay qua một mật vụ: "Hình như
tối qua đồng chí không ngủ được nhiều?"
Trên tờ Điểm Sách Paris, số Mùa Đông 1995, có loạt bài Chân Dung
Nga (Russian Portraits); từng tác giả đặc biệt, viết về một bức
hình đặc biệt. Có bức hình được lôi ra từ hồ sơ mật, hoặc từ ống
thông hơi cầu thang.
Hình Dostoevski, là từ hồ sơ Bettmann; với bài viết của Thom Jones:
Chúng ta muốn Thượng Đế, nhưng có Thực mới vực được Đạo (we want
God, but we also crave power, love, meat: Chúng ta muốn Thượng Đế,
nhưng chúng ta cũng khao khát quyền lực, tình yêu, thịt.)
Bài viết về chân dung nhà thơ cách mạng Mayakovski, là của một nữ
văn sĩ Francine du Plessix, vốn "bị gán cho" là con gái của nhà thơ.
Có hình Babel, đang bế cô con gái. Bài viết của James Salter có
những dòng thật chân tình: Tôi thật ân hận vì đã đọc Babel trễ quá.
Giá mà đọc sớm, giá mà được hưởng chút hơi hớm của ông. (The regret
I felt was that I had not read them earlier and been influenced by
him). Tác giả cũng kể, một giai thoại thật tuyệt vời (thật bi thảm,
đúng hơn), về Babel:
Stalin, người đã tống vào tù và làm chết hàng triệu đồng bào của ông
ta, đôi khi làm những cú điện thoại thật bất ngờ, vào ban đêm, từ
văn phòng của ông ở điện Cẩm Linh. Thường là gọi cho một vài nhà văn,
trong số đó có Pasternak, Ilya Ehrenburg. Ehrenburg đã nhận được một
cú gọi như vậy, sau khi Babel bị bắt. "Babel có phải là một nhà văn
tốt không?" Stalin hỏi.
-Một nhà văn tuyệt vời, Ehrenburg nói.
Câu nói tiếp của ông Trùm Đỏ, là một từ cụt ngủn:
-Zhalko (Đáng tiếc,đáng thương).
Và Người gác máy.
Đó là death knell (tiếng chuông báo tử).
Jennifer Tran.
____
a2a: Jennifer Tran là một bút hiệu khác của nhà văn Nguyễn Quốc Trụ .
Isaac Babel and his Daughter
I was filled with regret when I first discovered Isaac Babel's stories in 1975 or thereabouts. I had already written four books as well as stories of my own. Babel's stories were overwhelming. The regret I felt was that I had not read them earlier and been influenced by him.
It was Robert Phelps, a writer whose judgment of literature was unerring, who introduced me to Babel, even prescribing the stories I should read before making up my mind, My First Goose, Dante Street, Guy de Maupassant and The King.
I read them in a small, book-lined study that Phelps kept, separate from his apartment, on East Twelfth Street, and immediately fell under the spell of a writer I liked as much as any I had ever known.
Babel's reputation was originally based on Red Cavalry- stories drawn closely from his experience as a correspondent attached to Budenny's forces during the bloody civil conflict that followed the revolution of 1917-1918. The writing is brilliant, original and utterly unsentimental, marked by that telltale sign of greatness, keen observation. Every sentence is like an arrow thudding into the target, and Babel is stunningly succinct. His famous dictum states that no iron can pierce the human heart so chillingly as a period put in exactly the right place.
I have reread the stories, some published long after his death in The Atlantic, Commentary and The New Yorker, many times. They are of an unquenchable freshness and somehow have - this is Babel's genius - despite their barbarity, an immense kindness of heart. Beyond the harshness they are filled with a perverse human nobility. They have the power to console. It is a quality one finds in Turgenev, Chekhov and Tolstoy.
Born in 1894, the son of a tractor salesman, Babel was raised in Odessa and later lived in Moscow and for brief periods in the 1920s and 1930s in Paris. He had two daughters, Nathalie and Lidya, by different wives. The photograph is of Babel and Nathalie, his oldest child, who was raised in France by her Russian mother and came to America where she taught and later edited her father's work. In Babel's kind face and high forehead, his wire-rimmed glasses, one can sense his personality: cheerful, shrewd and somewhat mischievous. There is a hint of his great wisdom. We cannot hear his voice, which was high-pitched and with a slight lisp, but from his letters and the recollections of his friends, IIya Ehrenburg and Konstantin Paustovsky among others, one gains the picture of a wonderful man. I think of him agonizing over his work, "composing" as he liked to say, writing and rewriting. Half a page a day was a huge amount for him. I think of him living in Paris on a street called Villa Chauvelot, along the sea in the mountains section of Odessa, and in meager lodgings in Moscow.
Like Pasternak, Mandelstam, Shalom Aleichem and it's not far-fetched to include Isaac Singer, Babel was Jewish. Strangely, he seems the least known though he may be the greatest of them. Fame is a vapor. Babel's compatriot, Bunin, a generation older, won the Nobel Prize but is little read today.
Babel was perhaps forty-six when he died. His exact fate remains unknown. Crushed by censorship and official disapproval, he was arrested in May 1939, towards the end of the terror, and disappeared into the prison camps. His trunk, which contained countless pages of unpublished work - he was famously long in revising and slow to submit stories- disappeared with him and has never been found. It, too, vanished in the pyre.
Stalin, who was responsible for the imprisonment or death of tens of millions of his countrymen, sometimes made unexpected telephone calls from his Kremlin office at night, to Pasternak and Ilya Ehrenburg among others. Ehrenburg received such a call after Babel had been arrested. Was Babel a good writer, Stalin asked him?
“A wonderful writer," Ehrenburg said.
Stalin's reply was a single word,
"Zhalko," he said-pity-and hung up. That was the death knell.
James Salter
Comments
Post a Comment