En attendant SN
ON THE ROAD This land isn't native to me and still It's given me memories time can't erase, In its sea, water is tenderly chill, Of salt it bears not a single trace. The air intoxicates like wine, Under the sea is sand, chalk-white. And the rosy body of every pine Is denuded as sunset beckons night. And the sunset itself in waves of ether Is such that I can't say with certainty Whether day is ending, or the world, or whether The secret of secrets is again in me. 1964-1965 Anna Akhmatova Trên lộ Đất này không phải là quê hương của tôi Nhưng nó vẫn cho tôi những hồi ức thời gian không thể xóa nhòa Trong biển của nó, nước lành lạnh Không 1 tì vết của muối Khí trời làm say, như rượu vang Biển, cát, trắng như phấn Và mỗi cây thông Thì hồng hồng Như một em cởi truồng, và nắng bèn ngoạm em một vài phát Khi buổi chiều gật gù, nhường chỗ cho màn đêm. Và hoàng hôn, chính nó, thì như những đợt ê te Chính vì thế mà tớ không sao phán chính xác Về ngày đang hết, Hay thế giới, Hay, Niềm bí ẩn của những bí ẩn Lại ngoạm luôn cả tớ Poetry is like an old clock that
stops ticking from time to time and needs to be violently shaken to get
it running again, and if that doesn’t do the trick, opened up and disassembled,
its wheels cleaned, lubricated, and its intricate moving parts made to
run again. Unlike watchmakers, poets repair their poems by leaving parts
behind that after centuries of use have turned out to be unnecessary to
their workings. Hard as it is to believe, lyric poets are still tinkering
with a contraption thousands of years old, mending it and reinventing it
with no desire to call it quits. As they do that, poetry keeps changing
while remaining the same.
If that weren’t so, how could we still understand and enjoy the old Greek, Roman, and Chinese poems and recognize ourselves in them while knowing next to nothing about the world those poets lived in? http://www.lrb.co.uk/v38/n14/john-banville/what-do-clocks-have-to-do-with-it
What do clocks have to do with it? Đồng hồ thì mắc mớ gì đến nó? John Banville The Physicist and the Philosopher: Einstein, Bergson and the Debate That Changed Our Understanding of Time by Jimena Canales Princeton, 429 pp, £24.95, May 2015, ISBN 978 0 691 16534 9 Fama is a fickle goddess. In the
early decades of the 20th century the French philosopher Henri Bergson
was a worldwide celebrity, ranked as a thinker alongside Plato, Socrates,
Descartes and Kant. William James thought Bergson’s work had wrought a
Copernican revolution in philosophy. Lord Balfour read him with great care
and attention; Teddy Roosevelt went so far as to write an article on his
work. People climbed ladders merely to catch a glimpse of the great Frenchman
through the windows of university halls, and Parisian society figures
sent their servants ahead to secure seats at his lectures. When he gave
a talk at City College in New York in 1913, so many people turned up in
the hope of hearing him that the Manhattan traffic was brought to a standstill.
Trên tờ LRB, Điểm Sách London, 14 July, John Banville, điểm cuốn Nhà Vật Lý và Triết Gia. Bài này cực tuyệt. Nó giải thích 1 điều, tại sao mà lũ Văn Khoa Mít dốt đến như thế: Do mù tịt về khoa học, ngay cả thứ khoa học thường thức. Einstein phạng Bergson: Đếch có 1 thời gian của triết gia: "Il n'y a donc pas un temps des philosophes". Ui chao, đúng như thế với lũ Văn Khoa Mít. Do cố đậu cái bằng Triết Mít, để trốn lính, để bỏ chạy qua Tẩy, để làm tuỳ viên văn hóa Tòa Đại Sứ Ngụy, để làm Cớm VC hải ngoại, như tên đệ tử PXA.... thế là chúng "không hiện hữu", trong thời gian có cuộc chiến Mít! The time of the philosophers don't exist! Thời gian không có, thì làm sao có con người! Bài này không cho đọc free. Tin Văn sẽ scan. Và, có thể sẽ dịch. Trên net, thấy có cái còm của 1 độc giả LRB TTT 10 years Tribute
Hãy nói cho tôi Tại sao nỗi cô đơn của tôi Bài hát của tôi Giấc mơ của tôi Trì hoãn Lâu như thế? Khuyên Nè bồ tèo, nghe nè Sinh dữ Tử lành Hãy có tí ti tình yêu Ở giữa Harlem Chuyện gì xẩy ra cho giấc mơ bị trì hoãn? Liệu nó khô queo dưới nắng gắt như lửa? Hay mưng mủ như nỗi đau Rồi bỏ chạy? Hay thối rữa như đồ ăn thiu Hay tráng tí đường Như cục kẹo? Có khi nào nó trũng xuống Như chở nặng quá? Mà, có khi nào Nó nổ cái đùng? Vưỡn như ngày nào.
Cái cổng sắt khi đó chưa có WALKING
I never run into anyone from
the old days. The trees in the park-were they
always so big? And that schoolhouse with the
red fence? All I can do is make another
tour of the neighborhood, Charles Simic Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ nào
quen thuộc ngày nào Cây trong công viên
– Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư? Rồi cái ngôi trường
giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ? Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều. Note: Đúng là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà. Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân.... Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được nhỉ! Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, nhưng thay vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân đất… We have time
to grow old. Nhà cụ Chất khi
đó, và bây giờ, vẫn nằm trong con hẻm Đỗ Thành
Nhân, ngay sau Tòa Thị Chính Gia Định. Căn nhà
là của bà Kh, bà cụ Chất thuê, tầng
dưới. Sau cụ dành dụm đủ tiền mua căn nhà. Trên
lầu có hai phòng. Phòng anh Tâm ở phía
trước, có lối đi riêng là cầu thang ở bên
ngoài. Tôi đã viết về lần đầu tới, thấy anh Tâm
ngồi ở một cái bàn góc phòng khách,
co cả hai chân lên ghế, cặm cụi viết… và tôi
nhận ra một điều, và tôi tự nhủ chính mình:
hãy cố sống như anh, ở ngoài đời, cũng như ở trong… văn
chương!
Ngọc Dũng khi đó còn sống độc thân, nghèo. Và thường tới cụ Chất để xin tiếp tế gạo. Anh có chiếc ruột tượng, mỗi lần tới, cụ Chất đổ gạo vô, rồi anh đeo quanh người, phủ chiếc áo lên, ra về. Hai cuốn tiểu thuyết của ông,
quả đúng là chúng đóng dấu ấn của chúng
lên lịch sử Mít.
Bếp Lửa, 1954, phát sinh cùng chủng loại Mít có tên là Bắc Kít Di Cư, trong nó, có thứ chủng loại nhà văn - như là con hoang của 1 miền đất. MCCN tưởng tượng ra 1 tên bỏ chạy cuộc chiến, tới lúc nó sắp sửa chấm dứt, sợ quá, bèn vội vàng trở về để… kịp chết! Gấu học trước Thầy Đạo ít nhất 1 năm, nếu ông học cùng ông anh BHD. Nhờ đậu đạt nhanh, ba năm làm ba cái bằng. Trung Học Đệ Nhất Cấp, cc 1955, đậu kỳ 2. Kỳ 1, rớt, vì tông tông Diệm, như đã kể. Giáo dục Ngụy cấm dính dáng tới chính trị. Không chỉ ở Tiểu Học, mà luôn cả ở Đại Học. Nghe lời xúi bẩy của đám bạn bè như Ngô Khánh Lãng - đậu kỳ 1, ba tháng hè học Đệ Tam, vô năm học - cũng theo lên luôn Đệ Nhị. Lúc này hết còn ăn chực ông anh rể Nguyễn Hoạt, mà qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ bà cô từ Tây tháng tháng gửi tiền về, tiền ăn, tiền học. Cuối năm, mình Gấu thi đậu Tú Tài I. Cả đám rớt. Trường tư lúc đó, chưa có Đệ Nhất, thế là được vô học Đệ Nhất Chu Văn An, nhờ thế quen bạn Chất. Cuối năm, thi kỳ 1, cả đám rớt, thi kỳ 2, cả đám rớt, trừ Gấu đậu. Ba năm chơi ba cái bằng, là thế! Lần đầu gặp ông anh BHD, chắc là nghe bạn bè kể, thằng đó giỏi toán, ông bèn nhờ giải 1 bài toán, chương trình Đệ Tam, vẫn còn nhớ. Thế là Gấu lôi cours ra, đánh vật với nó, giải được, bèn mang tới nhà, không gặp ông anh BHD, bèn đưa cho bà cụ. đang đứng bán hàng, một cửa tiệm tạp hóa, nhớ đại khái. Nhớ là, bà ngạc nhiên ra mặt, chắc là bà không tin thằng bé lùn lé này giỏi hơn con của bà. Đúng lúc đó, BHD ở đâu chạy về. Thế là đến lượt cô bé ngạc nhiên ra mặt. Có thể là cái nhìn lé xệch của Gấu làm cô nhận ra [nhận ra…. cái gì?], và cô ngạc nhiên, tại sao mi nhìn ta như thế, không lẽ mi…. yêu ta, ư, mà mi là ai…. ? Thì cú sét đánh, mặc khải, ngộ, bị cái rìu phá băng bổ trúng đầu, kẻ mộng du đang lang thang bất ngờ vớ được chân lý.... “cái con mẹ gì”, chắc là như thế! Phải đến già, Gấu mới hiểu ra 1 điều, về mặc khải: Bạn phải ở trong tư thế, sửa soạn, và quá nữa, sẵn sàng, ready, để đón nhận. Cái học, cái đọc, cái đời của Gấu, trước kia, trước khi ra hải ngoại, với bao nhiêu khổ đau… chỉ là 1 cái test, để nhận cái họa mà Thượng Đế, thì vừa cười, vừa xoa đầu Gấu, vừa trao gói quà. Cái cú gặp TTT, đang ngồi viết văn, mà nhận ra, ngộ ra, sau này, Gấu sẽ y chang, sở dĩ xẩy ra, là nhờ cú đọc cọp Bếp Lửa trên lề đường Xề Gòn, trước đó. Ngô Khánh Lãng
& Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà
Trụ ơi !
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của tớ từ nhà anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường Thành Công của Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức Long, Mai Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!) Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó. Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không gặp và hẹn Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân nữa....nhưng Lãng có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy. Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này, phải không ? Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng mình sẽ gặp lại nhau sau 40 năm đó. Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé Thân, Tuyến Như vậy, Gấu đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1956. Kỳ 2. Kỳ 1, rớt vì bài Luận văn, vì ông Diệm, đúng hơn Tôi mê Ngô Đình Diệm đến nỗi… thi rớt trung học đệ nhất cấp, kỳ một! Chân Dung Cynthia Ozick Khiem Do liked this.Coi chừng chúng ta ...sẽ tệ hơn dân tộc này vì họa diệt chủng cao hơn Cách đây 7, 8 năm tôi đọc và chia sẻ với tựa " Hãy cầu nguyện vì chúng ta còn may mắn hơn dân tộc này…" Bây giờ tôi đổi tựa lại ... mong hồn thiêng sông núi giúp dân tộc sớm tỉnh ngộ... ...Continue ReadingNote: Sự thực này, nhiều người đã nhận ra từ khuya. Trong bài Tựa cho cuốn "Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị" Hannah Arendt phán, giả như không có lũ thực dân đế quốc da trắng, không biết bộ mặt thế giới sẽ ra sao. Tuy nhiên, cái chết của xứ Mít, còn thê thảm hơn nhiều, không phải do da trắng mà do Tẫu. Phạm Quỳnh khi bị Vẹm đập nát đầu, vì tiếc 1 viên đạn, vẫn phán, không có thằng Tẩy, là Mít chết. Vẹm lợi dụng chủ nghĩa giải phóng dân tộc để ăn cướp cả nước, chỉ cho chúng, và khi làm như thế, chúng rước thằng Tẫu vô thay. Mít chết vì da vàng, không phải vì da trắng. Cái Ác Bắc Kít gây họa. Cả hai cuộc chiến đều do nó gây ra, với thằng Tẫu ở đằng sau nó. Lịch sử Mít bây giờ rõ như ban ngày. Cầu cái con khỉ gì nữa! Âu Châu thoát CS, là nhờ Lò Thiêu. Trúng cú Lò Thiêu, sống sót nó, và nhờ thế, thoát Họa Đỏ. Đơn giản chỉ có thế! Những con người như Primo Levi, Elie Wiesel..... đã cứu thoát Âu Châu khỏi Họa Đỏ. Cùng với họ, là hai cuốn Trại Loài Vật, và Bóng Đen Giữa Ban Ngày. Đi tìm phê
bình gia Mít
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2666&rb=0301 Cũng cần nhắc lại chuyện hồi đó
Mai Thảo có đi một bài của Nguyễn Văn Trung trên Sáng
Tạo, bài Trường Hợp Francoise Sagan, nhưng sau đó độc giả
và anh em trí thức cho Mai Thảo biết đó là một
bài trên một tạp chí văn chương của Pháp, Nguyễn
Văn Trung đã dịch nguyên con nhưng lại ký tên mình
là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó Mai Thảo
rất “sợ” những bài viết của những nhà “nghiên cứu”
triết lý hiện sinh.
DTD Cái vụ này, như Gấu còn nhớ mài mại, NVT dịch 1 bài trên báo Tẩy, về Sagan, không ký tên NVT, mà là 1 nick khác, Hoàng Trúc Linh hay gì gì đó. Gấu thực sự không tin ông tính đạo đạo cái con mẹ gì. Dịch, không coi mình là tác giả, thì ký 1 cái tên khác, chuyện đó thường xẩy ra. Đạo, là ký tên NVT. Vào thời gian Thầy Đạo học Văn Khoa, chắc chắc NVT đang dậy Văn Khoa, như thế, ông ta là Thầy của Thầy Đạo. Gấu học trước Thầy Đạo. Gấu cũng ghi tên học chứng chỉ Triết Tây, do NVT phụ trách, nhưng do học bằng cours Sorbonne, không hề biết đến cours của NVT, nên bị đánh rớt. Lúc đó Gấu đã đi làm, đã viết lách, có tí tên tuổi, mà nửa chữ cũng là Thầy, đi đâu Thầy cũng nói thằng đó học tao, chịu sao thấu. Thế là bye Văn Khoa. Mai Thảo sợ.... MT biết gì về hiện sinh, sao không sợ? Một tên viết lách Miền Nam, chỉ cần 1 chút tự trọng, là không thể viết 1 bài viết, tố cáo những người viết trước 1975, chưa nói người đó là Thầy của hắn. Bản thân Thầy Đạo, cả 1 đời quanh quẩn với mớ chữ, trước 1975, không có 1 tác phẩm, rồi sau 1975, ra hải ngoại sớm hơn Gấu rất nhiều, cũng chẳng có lấy 1 tác phẩm. Giả như không có diễn đàn của Bà Huệ, rồi Thầy Đạo Thầy Quân... viết ở đâu? Hỏi cũng là trả lời. Vào thời diễn đàn free, hà cớ gì mà không mở ra cho riêng mình 1 cái blog, rồi tha hồ mà viết, núp bóng quần hồng, đâu có gì bảnh? Chẳng cần đến diễn đàn free, Gấu, ra hải ngoại trễ nhất, thấy quá cần, là tự mình làm trang Tin Văn, gần 20 năm rồi, nếu kể cả thời gian tá túc nơi VHNT của PCL. Trước đó, nghĩ, phải làm sao kết thành 1 mối, diễn đàn nào Gấu cũng viết, không cần được mời, và viết với 1 thái độ thật khiêm cung, chỉ đến khi thấy không thể nào kết với bất cứ ai, thế là đành lui cui làm 1 mình. Và tới lúc đó, chẳng tha tên nào! Cái tên Lang Băm, nếu có chút đạo hạnh, thì đã không bịa ra 1 cái nick, rồi núp váy đàn bà, bôi bẩn gần như hầu hết những nhà văn tên tuổi của Miền Nam, sống có, chết có, trong có hai vị nữ lưu. Làm sao 1 nhà văn nữ, chủ 1 blog, lại cho phép 1 tên khốn kiếp như thế, làm nhục hai người này, điều này không thể hiểu nổi. Nó sẽ như 1 vết châm, không làm sao viết được nữa, theo GCC. Walter Benjamin, le flâneur
et le conteur
Vừa đi đường vừa kể chuyện [Thuổng Trần Dân Tiên “aka” Bác Hồ. Liệu Bác H đã từng đọc Walter Benjamin, như VTH, đã từng thuổng Koestler?] Bài viết này, dịch ra tiếng Mít, thì cũng là 1 cách, Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông [Xề Gòn] Mà lòng mình phơi trên kè đá! Hà, hà! Raconter une longue histoire interrompue par des rêveries: Kể 1 câu chuyện dài, bị quậy phá, làm đứt đoạn, bởi những cơn mộng On pense à Borges, bien sûr, et à Kafka Người ta nghĩ tới Borges, tới Kafka, chắc chắn rồi Tại sao nghệ thuật kể chuyện lại tiêu táng thòng? Tên triết gia Đức, tên Mạc Xịt bi quan, tên thù nghịch…. Văn Khoa Mít, tên du lịch không ngừng nghỉ, tên dịch giả Baudelaire và Proust…. Le vendredi 10 juin 2016
Tandis que des inédits de Walter Benjamin sont publiés aux éditions de L'Herne, Frédéric Pajak rend hommage au philosophe allemand dans une biographie illustrée. Hambourg, avril 1932, Walter Benjamin sur le Catania reprend son long périple européen qui l'a conduit en France, au Danemark et sur les côtes espagnoles et italiennes. Sur le pont, il projette de « raconter une longue histoire interrompue par des rêveries ». Les quarante-sept récits inédits rassemblés sous le titre N'oublie pas le meilleur composent une trame singulière d'espace, de temps et de rêve. Un jeune homme souhaite rendre visite à sa grand-mère morte depuis longtemps, c'est une jeune femme dans une robe bleue défraîchie qu'il rencontre ; un touriste à Paris boit un café crème et se demande si, enfant, il avait été assis à cette table, « combien de navires auraient traversé cette banquise de marbre ». Un bourgeois éreinté s'installe dans une osteria de Rome, antre d'une masse laborieuse, et avale goulûment des morceaux de morues séchées dans l'indifférence générale ; ce n'est pas dans les rues de la Rome fasciste, mais dans l'espace de la modernité que cet homme déambule. À l'instar de tous les personnages de Walter Benjamin, il s'apparente au flâneur baudelairien : se cherchant un asile dans la foule et restant au seuil du monde, ni bourgeois ni prolétaire, mais au coeur de la masse. Ces récits au style pictural entraînent les lecteurs dans un univers onirique atemporel. Loin du monde où la passion suprême de tout public est « un centre, un führer, une solution ». Le philosophe allemand, marxiste sceptique, hostile aux institutions universitaires, voyageur insatiable, traducteur de Baudelaire et de Proust, n'écrit ni en théoricien ni en révolutionnaire, et exhume une matière littéraire des replis sédimentés depuis des millénaires : les contes. Des contes sans explications, sans psychologie, le lecteur glissant du présent au passé, du réel au rêve. L'atmosphère, la concision, l'art de la chute... on pense à Borges, bien sûr, et à Kafka. Mais c'est surtout au Benjamin philosophe qu'on devrait penser, lui qui, dans son travail sur le « Narrateur », révèle la place particulière et oubliée du conte, balayé par le roman et l'information : « Chaque matin, on nous informe des derniers événements survenus à la surface du globe. Et pourtant nous sommes pauvres en histoires remarquables. » N'oublie pas le meilleur reste fidèle à son esthétique, qui chercha sans cesse à restaurer la puissance de l'origine. L'aura des oeuvres d'art et l'art de conter subissent le même déclin. Pourquoi l'art de raconter des histoires est-il en train de se perdre ? « N'a-t-on pas constaté que les gens revenaient muets du champ de bataille ? Non pas plus riches, mais plus pauvres en expérience communicable », demande le Benjamin de Frédéric Pajak dans Manifeste incertain (éd. Noir sur blanc), variation biographique et illustrée. Le dessinateur retrace la vie en miettes du philosophe : Benjamin en suspens dans la foule, Benjamin à Ibiza, dans son refuge solitaire pour intellectuel désargenté, et Benjamin sur le pont du Catania, en avril 1932, qui médite le projet de « raconter une longue histoire interrompue par des rêveries ». Enrica Sartori Illustration : Walter Benjamin par Pajak ©Noir sur Blanc |
|