Chúc Mừng Năm Mới 2014
Tôi đã về Việt Nam hai lần.
Lần
đầu, khi vừa đặt chân xuống phi trường Tân Sơn
Nhất, sau hơn mười năm xa cách, tôi, sau gần 24 tiếng đồng hồ ngồi trên
phi cơ,
nhích nhác, ngơ ngác, quýnh quáng, và thểu não, lạc mất một va ly hành
lý. Một
thanh niên thật trẻ, quần áo chỉnh tề chạy đến, hỏi han ân cần, cho
biết anh
làm việc ở đây, và nói sẽ tìm ra chiếc va ly thất lạc. Nó nằm chình ình
ngay
trước mắt, vậy mà tôi không nhìn thấy. Như một kẻ mộng du, tôi sực tỉnh
khi
nghe tiếng nói nhẹ nhàng, êm ái, ở bên tai, "Cô cho cháu xin chút tiền
uống
cà phê". Mở xắc tay, tôi đưa anh tờ 20 đô, in hình nữ hoàng Elizabeth
đang
mỉm cười với cả hai. Vội bỏ tờ giấy bạc vào túi quần, anh bỏ hai cái
valy lên
xe đẩy, rồi chỉ tôi tới quầy hải quan.
Hạnh
phúc hay đau khổ đều có nước mắt: Tôi không bao
giờ nghĩ rằng có ngày mình còn được trở lại nơi này. Con lộ từ ngã tư
Cai Lậy về
Hưng Long, từ quê nội về quê ngoại, trước trải đá nay tráng nhựa, không
còn ghồ
ghề lởm chởm, và tôi không nhận ra Bờ Su Đũa của tôi, không nhận ra con
đường dẫn
vô nhà ngoại. Những hàng dừa cao lả ngọn cũng không còn, sự thiếu vắng
của
chúng làm tăng cơn thèm mong, được uống một trái dừa tươi khi về đến
quê ngoại,
thèm nhìn lại những cây cầu chỉ là những thân dừa, thân tre, thèm lập
lại những
buổi chiều ngồi bờ sông Trà Tân, nước sông vẫn đục ngầu phù sa, mấy dề
lục bình
vẫn trôi dật dờ, chở theo những cánh hoa màu tím, bên kia bờ cát vẫn
bồi và
dòng sông đã uốn cong chảy về hướng Thục Đẹp, nên sóng càng vỗ mạnh vào
bờ bên
lở. Cậu tôi bảo, nó lở vô nhanh lắm, mới đó mà đã thấy gần tới nền nhà
cũ của
ngoại rồi. Con sông rồi sẽ đổi hướng và đứng ở đây, có thể nhìn tới
ngoài Vàm
Ngũ Hiệp, nơi cha tôi bị Tây bắn chết rồi thả trôi sông. Cậu tôi nói có
lẽ phải
100 năm nữa thì đất bờ bên này sẽ được bồi trở lại...
Bữa
cơm trưa ngày hôm sau là bữa cơm cúng ông bà.
Quây quần quanh, ngoài cậu mợ tôi, là mấy đứa em, con của mấy cậu tôi,
đứa nào
cũng có chồng có con lớn, sắp làm xui hết rồi, hình như tôi có gần ba
chục đứa
cháu. Tôi không ăn, nỗi mừng vui, tíu tít đã làm tôi no. Bữa cơm trưa
ngày hôm
sau thì thật là hợp khẩu. Mấy đứa em nấu cho tôi một nồi canh khoai mỡ
với tôm
bằm vò viên, nêm chút nước mắm, rắc chút tiêu bỏ chút rau ôm, và một
con cá trê
vàng chiên dầm nước mắm gừng. Tụi nó nói cá trê bây giờ không còn cá
lớn như hồi
xưa, người ta săn bắt nhiều quá, mà cá lớn thì không ngon vì là cá
nuôi.
Mọi người nhìn tôi ăn, và tôi thực tình muốn là một thượng khách được săn sóc chiều chuộng, tại quê hương của mình, giữa những người bà con ruột thịt như thế này. Dì Út tôi, ngày nào bò qua cây cầu dừa trước cửa nhà ngoại kêu khóc, khi tôi bỏ dì dể về nội ở, hai dì cháu xấp xỉ tuổi nhau, chơi với nhau như bạn bè, bây giờ tóc đã bạc, vẫn gầy gò còm cõi như hồi xưa, dì vỗ vỗ lưng tôi, nói không ra lời, "Dì tưởng không bao giờ có được ngày hôm nay, dì nghe nói con đã chết" rồi dì bật lên khóc nức nở, tiếng khóc của dì khiến mợ Ba tôi khóc theo, rồi cậu Ba, cậu Tư cũng rưng rưng nước mắt, còn tôi để mặc cho những giọt nước mắt của mình tự do chảy dài. Như tôi đã nói, hạnh phúc hay khổ đau đều cần tới chúng.
gởi Cậu Ba Cậu Tư
Tết
này con sẽ không về được
Cậu đốt dùm con mấy nén hương
Lên mồ của ngoại sau vườn nhãn
Và khấn dùm con nỗi nhớ thương
Cậu
hái sau vườn mấy nhánh bông
Đặt lên mồ ngoại ba mươi tết
Và khấn cho con một chút lòng
Bên
đó giờ đây chắc nắng hồng
Cậu
còn trải đệm ra phơi lúa
Chờ đón xuân về ngoài bến sông
Hay
là bên đó nắng hanh vàng
Cậu ra sân trước ngồi hong nắng
Tỉa mấy nhành mai đón xuân sang
Tết
này con chắc chưa về được
Bên trời lưu lạc bước gian nan
Hồn thiêng ước muốn về cố quận
Quê người gửi lại nắm xương tàn.
tháng 12 năm 2004
Thảo Trần
2014.
Hai ông cậu thì đều đã mất. Cậu Tư, Tư Long,
người đã cứu Gấu ra khỏi Trại Tù VC, lần vượt biển tại Bãi Vàm Láng,
1985, 10
năm Đại Thắng Mùa Xuân. Đúng 23 Tháng Chạp, ngày Ông Táo về Trời với lá
sớ. Ăn
Tết ở nhà tù Mỹ Tho, sau Tết nhận án cải tạo tập thể hai niên tại Bà
Bèo. Hai
tháng sau, Hải, CA, con Cậu Tư, đi honda vô Trại đưa thẳng về nhà ở số
29/8D
Nguyễn Huỳnh Đức, nhà của Gấu, do Bưu Điện cấp.
TT có 1 bài viết về Tết Miền Nam, đúng hơn, dư vị của nó, trong món “xà bần”, tức thức ăn dư thừa, sau Tết, được đổ vô 1 nồi, nấu lửa thứ nhì. Bài viết "Xà Bần", có post trên TV, nhưng tìm hoài không ra. Dân ghiền mộc tồn có nhận xét, thịt chó hai lửa mới ngon, cái ngon của xà bần có lẽ cũng như vậy chăng?
Ở Bắc, như Gấu còn nhớ được, dư vị Tết của nó, là ở món bánh chưng dán/chiên.
Nhưng,
phải đến khi đi tù VC, thì, như 1 đền bù cái
đói Bắc Kít, nhờ giải phóng, nhờ đi tù, sống lại,
thì là khám phá cái ngon của món ăn miền nam lần đầu được thưởng
thức, như mắm cá linh, ba khía, còng rang muối, nhưng tuyệt vời nhất,
là món thịt
chuột, nhất là lần đầu được thưởng thức, cũng đúng lần đầu được nghe
bản nhạc
Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.
Bỗng nhớ câu của Raymond Carver:
“Hồi
ức đếch cần để ý đến nơi chốn mà nó sống” (1)
Hồi ức tuyệt vời nhất của GCC, về Miền Nam Sâu Thẳm, có được, là nhờ
VC, và đó là hồi ức tù.
*
Raymond
Carver's 'Fat' is simple but deadly, says
Anne Enright
Giản dị, nhưng chết người, đó là truyện ngắn Fat,
của RC.
Carver
coi câu của Pound như là 1 thứ kinh nhật tụng:
“Thơ, ít ra thì cũng phải cố viết cho thật bảnh như
là văn xuôi”!
Văn, thơ của Gấu Cái, hình như cũng có tí chết người giản dị đó!
Hà,
hà!
Enright on Carver
I often ask students to read "Fat" because it also seems to talk about what a story is. A story is something told – as the waitress tells her friend Rita about the fat man – it is something that really needs to be said. But though we feel its force and resonance, it is often hard to say what a story means. The most we can say, perhaps, is that a short story is about a moment in life; and that, after this moment, we realize something has changed.
Tôi [Enright], thường biểu sinh viên của tôi đọc “Fat” [Phì Lũ], vì có gì đó ở trong đó, về, một câu chuyện là gì. Một câu chuyện là một điều gì đó được kể ra – như cô bồi bàn kể cho cô bạn Rita, về ông khách mập – đó là một điều thực sự cần nói ra, kể ra. Nhưng, mặc dù chúng ta cảm thấy, sức mạnh của nó, sự rộn ràng, âm hưởng tràn trề của nó, nhưng thường ra, thật khó mà nói, một câu chuyện nghĩa là gì. Bảnh nhất mà chúng ta có thể nói, một truyện ngắn là về một khoảnh khắc trong cuộc sống; và, sau khoảnh khắc đó, chúng ta nhận ra, một điều gì đã thay đổi.
Carver được coi như là cha đẻ của thứ truyện ngắn mini.
Truyện ngắn của ông, như Fat, được Enright diễn tả thật tuyệt vời như sau đây:
Fat là 1 thí dụ lớn về làm thế nào mà 1 truyện ngắn được “cắm vào đời” [dùng những từ của bà Huệ, Gió-O, khi "xoa đầu" NTHL, áp dụng vô đây thì thật là tuyệt: Cái gì của Linh là do Linh nẩy bật ra. Tuổi đôi mươi sắc như một nhát dao. Linh cứa vào đời sống bằng tinh hoa và nội lực một ông cụ non lẫn một đứa trẻ già]: cái đầu vô của vết thương thì như là của 1 mũi dao, nhưng cái hệ quả thì lại chết người!
Enright viết:
Như tất cả những truyện ngắn của RC, Fat có vẻ đơn giản. Một cô bồi bàn không được nêu tên, kể với cô bạn, Rita, về chuyện phục vụ 1 ông khách mập. Cô thích thằng chả, dù phì lũ. Cô thích phục vụ ông ta. Cuộc quen của họ mặc dù bình thường, ngắn ngủi, và chỉ có tính giao tiếp, hình thức, nhưng thật là dịu dàng - và, như một truyện tình, nó xuất hiện là để chửi bố cái thế giới loài người còn lại vây quanh nó!
Ui chao, đọc 1 phát, là Gấu nghĩ ngay đến truyện ngắn của... Gấu Cái!
Cái thứ truyện ngắn “viết như không viết”, về cái mảnh đất thần tiên Tara không còn nữa, hóa ra y hệt thứ truyện ngắn của RC: đầu vào thì nhỏ xíu như vết muỗi chích, như cái xước da, nhưng đầu ra, là hậu quả của cả 1 cuộc chiến tàn nhẫn, dã man...
Thảo nào H/A phán, hay hơn cả Cô Tư, vì nó rất tự nhiên.
Cái gọi là tự nhiên, là cái viết mà như không viết, nhưng, để có được như vậy, là nhờ cái nền của nó, là cái xã hội Ngụy, bị VC kết án tử.
Một tí tỉ tì ti tình mà cô bồi bàn cảm thấy – cái khoảnh khắc mà cô gật gù, thằng chả mập này cũng đường được - mới nhức nhối làm sao, khi, sau đó, vào buổi tối, khi cô ở trên giường với Rudy, bạn trai của cô: Đúng là cái cảm tưởng, lén chồng, lên sân thượng “ngắm trăng sao", của người đàn bà ngoại tình của Camus: giá mà có tí ti thay đổi, nhỉ?
Có cả một quyển sách mới in của Edward Said “Culture and Imperialism,” (Văn Hóa và Chế Độ Phong Kiến).
KC
Văn
Hóa và Chủ nghĩa Đế quốc.
NQT
TV
đã từng giới thiệu Said.
Và có nhắc tới cuốn “Văn Hóa và
Chủ Nghĩa Đế Quốc”, trong bài viết về Võ Phiến, Nhà văn Bình Định [mới được bạn DN làm mới lại,
trên blog DMDV của anh].
Tuy nhiên, không phải cái lỗi dịch sai, chắc do sơ ý [vì chủ nghĩa đế quốc là đề tài ruột của Said], mà cái từ ”mới in”, trong đoạn làm GCC ngạc nhiên, vì cuốn này xb năm 1993, và Said thì cũng ngỏm thì đời nào rồi.
Note:
Đã thấy sửa & cám ơn
NQT
Làm thế nào để gìn giữ linh hồn sâu thẳm... qua "Võ Phiến" của Nguyễn Hưng Quốc, phần tiểu sử, chúng ta được biết, từ những người thầy như Chế Lan Viên và Đào Duy Anh, Võ Phiến đã làm quen rất sớm với văn chương Pháp, đặc biệt là Proust và Alain.
Là thuộc địa, văn minh "mẫu quốc" cho tới nay vẫn sâu đậm tại Việt Nam, nhưng không qua những nhà văn như Proust, hoặc Alain. Họ không thuộc hệ chính thống, với nhiệm vụ khai hóa "mission civilisatrice".
Ta là Kim, nhưng Kim là gì?, nhân vật của Kipling đã từng tự hỏi (2). Kim, Lord Jim, và Kurtz là những con người, hiện thân của ước mơ tuyệt vời, về những cuộc phiêu lưu đế quốc vượt ra ngoài Âu-châu (adventure-imperialism); những tiền thân của những T. E. Lawrence, người hùng sa mạc, hay Perken (nhân vật chính trong Con Đường Vương Giả của Malraux). Cái cảm giác ở nhà của Kim, (... slowly Kim begins to feel at one with himself and with the world: Dần dần Kim cảm thấy mình là mình, và mình là thế giới. Said) cho thấy ý nghĩa đích thực của chủ nghĩa đế quốc đối với những đất đai ngoài Âu-châu: những Âu-châu thứ nhì, thứ ba. Kim là "thiên sứ", tại mảnh đất "thổ dân đã được thuần hóa" (Native Under Control, chữ của Said).
Mọi nhân vật tiểu thuyết đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote. Cùng với họ, là nỗi âu lo về căn cước. Nhân vật tiểu thuyết đều là những kẻ truy tìm không ngừng nghỉ, những kẻ suốt đời lang thang. Như Don Quixote, họ cố làm bật ra, từ thế giới tiểu thuyết, điều được gọi là "sự siêu việt đã mất" của nó, its "lost transcendence" (G. Lukács, Lý Thuyết Về Tiểu Thuyết). Mọi nhân vật tiểu thuyết đều toan tính tái tạo dựng cái thế giới tưởng tượng đã mất. Và nếu tiểu thuyết là sản phẩm của Âu-châu (Kundera), như vậy cái thế giới tưởng tượng đã mất đó, họ tìm lại được, là nhờ thuộc địa, nhờ chủ nghĩa đế quốc. Họ đều là những con người bị Âu-châu từ bỏ, và "lại" tìm thấy quê hương, ở... thuộc địa. (Kinh nghiệm chỉ tìm thấy quê hương khi xa nó của dòng văn chương di dân viết bằng tiếng Anh hiện nay biết đâu là một lật ngược kinh nghiệm này? Trong cuốn Chuyến Đi Khác Thường của Rudyard Kipling, Angus Wilson đưa ra một chi tiết: ngay từ khi chưa tới tuổi 16, trong một cuộc thảo luận tại nhà trường, cậu bé Kipling đã từng tuyên bố: Cuộc tiến tới của Russia tại Trung Á, là thù nghịch đối với Quyền Uy Anh, British Power).
Vĩnh hằng, là sự thần phục của giống không-trắng. (Said).
Đừng đụng tới người Anh, họ sẽ biến bạn thành thuộc địa ngay tức khắc (Alain).
(2)
Edward
W. Said trích dẫn, trong Văn Hóa và
Chủ
Nghĩa Đế Quốc. (Nhà xb Knopf, 1993).
Bài
viết "VP, nhà văn Bình Định", GCC chôm ý, từ tờ Le Magazine Littéraire, số đặc biệt
về Zweig [“Zweig, Nhà văn Âu Châu”],
như 1 tribute cả hai, và cùng lúc, “nói lên” điều, có 1 sự
tương đồng,
cùng 1 môn phái, giữa hai ông, giữa hai nơi chốn, một Âu Châu, một Bình
Định,
giữa hai vụ…. ăn cắp: Bác Hồ thuổng Mác
Xít khi ở Paris, và áp dụng nó vô xứ Mít, VP đọc Zweig, và trở thành
nhà văn Mít…
Cùng ăn cắp, một xấu, một tốt, và đó là cái “viễn ảnh” bài viết của GCC
về ông
tiên chỉ, hà, hà!
Nhưng chi đến khi đọc Susan Sontag, nghe bà Mẽo này phán, địa lý là số
phần, thì
viễn
ảnh mới đi đến cực điểm của nó, và chúng ta gặp cái ý thiên tài của nơi
chốn,
cái gì gì địa linh nhân kiệt: Phải 1 con người như VP mới đẩy cái thứ
truyện ngắn, với những nhân vật quái dị trở thành biểu tượng cho cả 1
Miền
Trung, cả 1 thời, thời tao loạn Quốc Cộng và hận thù!
Nhiều
người khen
VP, Tạp Bút Tuỳ Bút… số 1, có người còn khen, hơn cả Nguyễn Tuân, và
đám này,
thường là nhà văn VC, mới lạ. Gấu phải nghĩ đến bạc cả đầu ra thì mới
hiểu ra
cái lý do: Chúng đếch làm sao viết được như NT nên mới chê ông - cả
1 nền
văn học chui ra từ cái bóng của cây ba tong của NT - trong
khi rõ ràng, NT không làm sao viết được
thứ truyện ngắn của VP, và VP lại càng không làm sao viết nổi cái thứ
tuỳ bút
thượng thừa của NT. Điều này là còn do tạng người. VP là người không
thể nào
lang chạ ở những nơi tàn đèn dầu lạc, ở xóm ăn chơi, nơi lương tâm con
người
lúc nào cũng bị thử thách, còn NT lại coi nơi đó là chốn dụng võ của
ông. Bài Gấu
viết về đệ tử của NT, là Trúc Chi, trong băng
Văn
Học
NMG, tuy vinh danh TC, nhưng thực sự
là vinh
danh NT. Sad Seagull nhận ra điều này, gật gù đi 1 đường mail, được,
được.
Nguyễn
Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn
Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những người viết sau
này,
không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải
thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở
Paris,
có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn
Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng
"may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc
như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này,
theo
tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu
là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị
văng ra khỏi
vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn này: Cảnh Huấn Cao
phán, những
con người như ông, những chữ như thế này, phải tìm đất khác để mà tụ
lại, chẳng
thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ
chưa
khô mực.
Sẽ
có người bực mình, đã đọc Chữ Người
Tử Tù, đâu có
thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ, đọc là mô phỏng, là tưởng
tượng,
là thêm thắt... Nếu như bạn muốn trung thành với văn bản, xin thưa đây:
Chiếc
Lư Đồng Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ Nguyễn đắc ý nhất,
đắc địa chỉ có
mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay người bên giáo?"
Ôi chao, phải
đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao nhiêu lần tiếng cười ở
nơi cổ họng
cái chết (6) phải tàn bao nhiêu ngọn đèn dầu lạc, phải tu tận hoan (7)
bao
nhiêu lần, bỉnh chúc (8) bao nhiêu phen, phải để cho nhân vật của mình
ngã ngửa
ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình, rồi cứng đơ người, rồi á khẩu,
sau khi
"lụy" một nước cờ, mới có thể phán một câu nhẹ nhàng như vậy:
"Xuyến người bên lương hay là bên giáo?"
Cô Sáu cười khẽ nói, "Người khinh bạc như y làm sao gần gũi được?"
Bài
viết về VP,
là khi qua Cali nhân dịp xb cuốn Lần
Cuối Sài Gòn, 1998, và khi ra về, NMG order
bài viết cho số báo đặc biệt về Võ Phiến. Còn mang theo mấy bài dịch
Steiner, trình
chủ báo, đề nghị đăng trên VH. Không chỉ NMG lắc đầu, mà còn 1 đấng
trong bang phán,
thứ này, tôi học, khi học trường Mẽo, cao quá so với trình độ độc giả
Mít.
Cái ý
định, 1 mình, 1 đỉnh Tản Viên, nhân đó mà có.
Bài Một chuyến đi, là để kết
thúc hai
niên làm tên viết mướn cho tờ VH, dành thì giờ cho tro than… Lò Thiêu!
Nobel văn chương 2013
Một trong những
cuốn tiểu thuyết của ông có tên là Những kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces.
Liệu bây giờ còn những người tìm dấu vết, so, comparable, với
những
nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn chứ, chắc chắn [Il y en a, sans doute]
Ông khuyên họ, sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn
tiểu thuyết mà nữ tác giả sống ở
Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà chính trị được nhiều người biết, connu.
Trong
bốn chục năm, bà ta không biết gốc mình là Do Thái, tuy ngửi ra có 1
cái gì đó bị
giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose clochait]. Thế
rồi 1 bữa
có người bất thình lình hỏi bà, "Thế nào sống sót có cực không?"
[Et
comment vous
avez survécu?: Bà sống sót như thế nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ
cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ lời trách móc, tại sao
giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc
đầu, nói, bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì
đó, liên quan tới cái vụ Bắc Kít rất thèm
được là… Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người
như vậy, và đã từng viết ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại,
trình
cho bà con cùng đọc.
Hà, hà!
Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
V/v Lần Cuối Sài Gòn.
Đây là cái
truyện ngắn đầu tay, của đời thứ nhì, viết ở Trại Tị Nạn Thái Lan, cùng
với Bụi.
Đời thứ nhì, là từ cái message, trong cuốn video, một cái movie của Nhựt, đúng hơn, khi đi trên xe đò từ thành phố biên giới Thái Lan, sau khi vượt sông Mekong, lên Bangkok, GCC đã từng lèm bèm rồi.
Câu chuyện 1
vệ sĩ, của 1 hoàng hậu hay công chúa, yêu "Người Đẹp", mà đâu dám nói
ra. Một lần
nàng tắm,
đứng hầu từ xa, nàng cởi đôi hài, ném về phía anh vệ sĩ, trước khi bước
vô bồn tắm.
Thế là nhớ hoài, nhớ hoài.
Sau vỡ lở, tuy chẳng được
sơ múi gì, thế là bị chét
bùn đầy người, thành 1 pho tượng, đứng gác nơi vườn vua.
Vưỡn sống nhăn, dưới lớp bùn!
Thế rồi qua kiếp thứ nhì, lớp bùn vỡ ra, thành quái nhân, sống giữa thành phố Tokyo, thời hiện đại, và trong kiếp mới này, gặp lại 1 em, là công chúa ngày nào, đầu thai vào kiếp khác, và cuộc tình chấm dứt đúng lúc cô gái cầm đôi hài, hàng hiệu Vulton, ném về phía quái nhân.
Cũng chẳng
sơ múi gì, chẳng biết "hàng có gân" mùi vị ra sao!
Đời
Gấu y
chang!
"Tiền
kiếp của Gấu" thì cũng thê thảm chẳng khác gì Gấu!
Tiêu Thất
Cô Sáu cười khẽ nói, "Người khinh bạc như y làm sao gần gũi được?"
Đây
là "tiền kiếp" của Gấu, mê một em nhà giầu, đài gương chẳng thèm soi
đến dấu bèo, bèn bịnh đến đi tầu suốt, trước khi đi, chỉ xin được hửi
tay người đẹp, đến mãi mãi kiếp sau sau, đúng vào khi xẩy ra cuộc chiến
Việt Nam, trước khi lừng lững khốc liệt đi vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ
Nhập Ngũ, thì được toại nguyện.
Borges Tám Bó
Ra đường, đi
được vài bước, người đàn ông chợt đứng sững, tự hỏi chính mình, đi ư,
giang hồ
vặt ư? Quận Cam ư, San Diego ư?
Đi xa làm
quái gì cơ chứ? Có ai thèm gặp ta nữa đâu?
Hà, hà!
Gấu học tiếng Tây, là để có thể viết 1 lá thư bằng tiếng Tây, cám ơn 1 anh Tẩy già, chồng Cô Dung, me Tây, bà cô của Gấu. Khác hẳn lũ tinh anh Miền Nam học tiếng Tẩy, để có cơ hội thoát chết. Chúng bợ đít VC vì tin rằng, VC sẽ thắng cuộc chiến, và chúng sẽ trở về, kiếm 1 chỗ béo bở. Có tên nào thực sự yêu nước đâu? VC đâu phải là nước… Mít?
Làm cho Mẽo, nhưng đếch học tiếng Mẽo, vì nghĩ, khi nào tụi bay cút, ta học tiếng Mẽo, để đọc sách Mẽo, vưỡn còn kịp.
Cũng thế, Gấu đọc triết, thứ triết cắt nghĩa tại sao chúng ta sống, tại sao chúng ta chết, tại sao cuộc chiến Mít. Đâu có phải thứ triết trốn lính của mấy Thầy học Đại học văn khoa Sài Gòn, như Thầy Đạo, Thầy Quân, hay mấy đấng bạn quí học ban C, sau vô Đại học sư phạm, ra làm Thầy dậy triết? Mấy bạn quí của Gấu đâu đọc G. Lukacs, Henri Lefebvre, và, ngay cả Roland Barthes cũng đếch đọc nổi, vì không thuộc dòng hư vô, hiện sinh!
Chính là cái cách đọc, như trên, đã cứu Gấu, cho Gấu tiếp tục sống tiếp, đọc tiếp, nhập vô được dòng văn chương thế giới. Đừng nghĩ là Gấu tự thổi: Tâm địa như thế nào, khi bạn đến với văn chương, cho cái hệ quả như thế đó. Không lẽ 1 tên học tiếng Tây để được Ngụy cho đi du học, thoát chết trong cuộc chiến, sẽ đẻ ra thứ tác phẩm nói lên sự sống còn của cõi văn Mít, con người Mít ư? Cõi văn Mít ngày càng lụn bại, vì đếch có nhà văn Mít, như 1 thứ thực sự sống sót cuộc chiến, theo 1 nghĩa nào đó có tính “viễn ảnh, ẩn dụ”. Mấy em Bắc Kít, chạy qua Paris, viết văn bằng tiếng Tẩy, sẽ cứu vớt cõi văn Mít?
Không
lẽ trong
văn của chúng không có mùi chiến lợi phẩm?
Trong tâm thức chúng, khi ngồi xuống bàn, và viết, "có" nỗi nhục,
nỗi đau... chiến thắng?
Sến
Cô Nương, chạy thoát qua Đức, nhờ học sinh tiên
tiến, đã từng cắm cờ chiến thắng lên đỉnh Cổ Thành, sẽ viết ra đại tác
phẩm nối
lại được Sài Gòn và Hà Nội?
Note: Nhắc tới Sến, và nhân ghé Blog "Ủy ou Nông", xin giới thiệu 1 bài viết thần sầu của SCN, về Dos
Câu chuyện của anh em nhà họ Dương có vài tình tiết khiến tôi phải liên tưởng đến bộ tiểu thuyết cuối cùng của Dos, Anh em nhà Karamazov.
Nhân vật người cha, Fyodor Karamazov, hoàn toàn có thể được thay thế bằng một biểu tượng khác trong bối cảnh Việt Nam đương đại, một uy quyền thối nát nhưng vẫn thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Sa đọa, bỉ ổi, tự đắc và to mồm, cái uy quyền trưởng thượng đó đồng thời là nguồn phát sinh và nguồn xung đột với những đứa con của chính nó. Dmitri giết cha hay Dương Chí Dũng sát hại cái uy quyền đó – bằng cách chôn vùi uy tín của nó, thiết lập một tình trạng “không có vua” – trong tâm tưởng hay trong thực tế không phải vì khao khát kết liễu cái Ác mà vì sự cạnh tranh của cùng những động cơ đê tiện. Tiền, tình, tham vọng và dục vọng, mưu mô, tị hiềm, lường gạt, quyền lực và bạo lực, sự ngông cuồng của bản năng, sự hiếu thắng của một lí trí đã cực kì cùn mòn và sự lải nhải của luân lí trộn cứng vào nhau trong tấn bi kịch ở nước Nga cuối thế kỉ 19 và trong câu chuyện hình sự ở nước Việt đầu thế kỉ 21.
Dmitri hát. Dương Chí Dũng ngâm thơ. Cả hai đều vướng vào đàn bà, dù chúng ta không biết nàng Grushenka Hà Nội có ma lực nào khiến đàn ông mất ví, mất trí và mất mạng. Còn có một tình tiết tương đồng khác, nhất định không phải là ngẫu nhiên: người em, Ivan, cũng lập kế giúp anh chạy trốn án lưu đày Siberia như Dương Tự Trọng giúp anh tẩu thoát án tử hình đang đợi. Và lạ chưa, điểm đến trong kế hoạch thoát thân của cả hai đều là nước Mỹ. Nhưng trong khi Dmitri hình dung cụ thể phải lao động cật lực, phải học ngữ pháp, phải nói tiếng Anh thật chuẩn trong vòng ba năm rồi sẽ thay hình đổi dạng, thậm chí nếu cần thì chọc mù một mắt, để trở về sống trong lòng nước Nga yêu dấu, thì Dương Chí Dũng không hề nghĩ đến chuyện phải rửa chén chạy bàn ở vùng đất hứa: ông chọn nước Mỹ vì kết quả bấm quẻ. Như để bù cho sự thiếu vắng của tôn giáo, chiều kích quan trọng nhất của tấn bi kịch Nga, mê tín xuất hiện trong câu chuyện Việt dưới hình hài một anh hề không biết công chúng ôm bụng cười vì điều gì.
Sự khác nhau còn nằm sâu hơn.
Người anh, Dmitri, vò xé trong đau khổ vì tin rằng mình có tội, đã sẵn sàng chuộc tội bằng bản án lưu đày. Dương Chí Dũng thì không, ông hoàn toàn bất ngờ khi nghe tin mình sẽ bị bắt và khẳng định mình vô tội cho đến tận bây giờ. Người em, Ivan, nhàu nát trong tự truy vấn về tội lỗi của bản thân nên bỏ tiền ra giúp anh chạy trốn, như để chuộc cái tội mà pháp luật không truy tố của mình. Dương Tự Trọng thì không, ông hành động vì tình nghĩa ruột thịt như dư luận được biết và thậm chí có phần cảm phục. Ở anh em nhà Karamazov, một uy quyền xứng đáng bị kết liễu đã bị sát hại và tất cả đều sám hối, dù người đọc đã biết rõ thủ phạm. Tất cả đều tham gia tội ác. Ở anh em nhà họ Dương, một uy quyền xứng đáng bị kết liễu đã bị tổn thương và tất cả đều đổ tội hoặc cho hoàn cảnh – cái đang được gọi một cách mịt mù là thể chế -, hoặc cho kẻ khác, và dư luận thì nóng lòng chờ điểm danh kẻ thủ phạm tiếp theo. Tất cả đều có thể rũ tội cho phần mình.
Anh em nhà Karamazov cuốn người theo dõi số phận họ vào vòng xoay nghẹt thở của những luận đề nặng trĩu về giới hạn của đạo đức và trách nhiệm, về tội ác và sự trừng phạt, về tội lỗi thực tế và tội lỗi siêu hình, và trùm lên tất cả là câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế và ý nghĩa của kiếp người. Anh em nhà họ Dương cuốn người theo dõi số phận họ vào vòng xoáy đứng tim của những tiết mục trinh thám giật gân và những pha mùi mẫn. Với biết bao là nợ tình: tình cách mạng, tình đồng chí, tình huynh đệ, tình chiến hữu, tình nghệ sĩ, tình giang hồ hảo hớn, đó là chưa kể tình ngoại tình. Gỡ mỗi cái nợ ấy là hết ít nhất một thế hệ.
Tấn bi kịch Nga chỉ mượn cốt truyện hình sự. Câu chuyện Việt tự kiềm chế trong khuôn khổ một vụ án hình sự đơn thuần. Nó không cần đến người em thứ ba, Alexey, nhân vật thánh thiện, để rọi ánh sáng vào mạch chuyện. Truyền thông Việt Nam, lắc lư ngoạn mục bằng một chân chính thống, một chân lá cải và chiếc đuôi tự do liên tục bị cắt và liên tục tìm cách mọc lại, đảm nhiệm vai dẫn chuyện. Cũng không cần đến Smerdyakov, người em vô thừa nhận, kẻ cùng quẫn tăm tối, dùng tốt cho việc thừa hành những tội ác trong tâm tưởng người khác. Những Smerdyakov trong xã hội Việt Nam nhiều và đương nhiên đến mức chúng ta không nhìn ra nữa.
Một tác giả tôi không còn nhớ tên đã nhận xét rằng trong nước Nga của anh em nhà Karamazov, cứ vài ba phút người ta lại đấm ngực khóc rống lên và quỳ xuống hôn chân Chúa xin tha tội, để ngay sau đó với vodka trong máu và lời cầu nguyện trên môi cho nhau một nhát rìu vào sọ. Trong nước Việt của anh em nhà họ Dương, với một quốc giáo vô thần và một Đấng Toàn năng là Đảng Cộng sản, người ta cũng hành xử không khác. “Nguyên lí Karamazov”, được đặt vào miệng kẻ vô thần Smerdyakov, phát biểu rằng mọi thứ đều được phép, rằng cái Ác là chính danh, nếu Thượng đế không tồn tại, hay nói cách khác: Thượng đế phải tồn tại để cái Thiện lên ngôi. Song sự hiện hữu không thể phủ nhận của Đấng Toàn năng ở Việt Nam đã phủ nhận nguyên lí đó. Lật ngược lại nguyên lí Karamazov, câu chuyện của anh em nhà họ Dương trong hiện thực Việt Nam hôm nay hoàn toàn có cơ hội vươn lên tầm hư cấu của nhà văn Nga vĩ đại hơn 130 năm trước.
©
2014 pro&contra
Tấn bi kịch Nga chỉ mượn cốt truyện hình sự. Câu chuyện Việt tự kiềm chế trong khuôn khổ một vụ án hình sự đơn thuần. Nó không cần đến người em thứ ba, Alexey, nhân vật thánh thiện, để rọi ánh sáng vào mạch chuyện. Truyền thông Việt Nam, lắc lư ngoạn mục bằng một chân chính thống, một chân lá cải và chiếc đuôi tự do liên tục bị cắt và liên tục tìm cách mọc lại, đảm nhiệm vai dẫn chuyện. Cũng không cần đến Smerdyakov, người em vô thừa nhận, kẻ cùng quẫn tăm tối, dùng tốt cho việc thừa hành những tội ác trong tâm tưởng người khác. Những Smerdyakov trong xã hội Việt Nam nhiều và đương nhiên đến mức chúng ta không nhìn ra nữa.
SCN
Nhận xét "Alexey, nhân vật thánh thiện, để rọi ánh sáng vào mạch chuyện", theo Gấu, không đúng. Và vì thế, những cắt nghĩa sau đó, về xã hội Bắc Kít hiện nay, không tới, và còn có vẻ hơi bị nhảm. SCN nhiều khi cường điệu, trong khi phán phiếc như thế này. Cũng ưa nổ như ông em [thí dụ thì nhiều lắm, nào ngửi khói hàng xóm đủ no, nào, rũ hết bụi tôi cũng không làm quen... ]. Giải thích của Natalie Sarraute, thú hơn nhiều, về hai tuyến nhân vật, 1, sinh ra là cứ thế vô tư đi theo con đường thánh thiện, tới với Chúa, còn 1, chọn con đường lầy lội.
GCC đã đi 1 đường về vụ này, khi đọc “Hồi Ký Viết Dưới Hầm”, bản dịch của Thạch Chương.
Nguyễn Quốc Trụ
ĐỌC HỒI KÝ VIẾT DƯỚI HẦM
Hồi ký viết dưới hầm, nguyên tác Nga Văn của văn hào Fyodor Dostoyevsky. Bản dịch của Thạch Chương, tập san Văn xuất bản, tháng 11-1966. Loại sách phổ thông, dầy 192 trang, chữ nhỏ, in kỹ, trình bày sáng sủa, giá bán 30 đồng.
Dostoyevsky viết về tập hồi ký: " Tập Hồi ký này, và cả tác giả của nó nữa, cố nhiên chỉ là tưởng tượng. Tuy nhiên, nếu quan sát những hoàn cảnh mà trong đó xã hội ta được hình thành thì những mẫu người tương tự như tác giả tập Hồi ký này chẳng những có thể có mà nhất định còn phải có trong xã hội ta. Tôi muốn vạch cho công chúng thấy hơi khá tỉ mỉ hơn lệ thường một trong những nhân vật của thời đại vừa mới qua, một trong những người đại diện cho cái thế hệ hiện giờ không còn nữa... "
Cái nhân vật chẳng những có mà nhất định còn phải có đó là một gã bị lũ bè bạn sợ sệt, khinh bỉ, và từ chối không cho nhập bọn chỉ vì gã kiêu căng, thông minh quá mức. Dưới mắt họ, những gã công chức tầm thường thiển cận, gã sĩ quan Zverkov, tiếng Nga đồng nghĩa với một con vật, (animal, bête), thì hắn xuất hiện như một con vật gớm ghiếc, một giống sâu bọ kỳ lạ, ghê tởm, họ luôn luôn quan sát hắn một cách yên lặng, dè bỉu, kinh tởm và ngược lại chính hắn cũng cảm thấy hắn khác hẳn bọn bè bạn " Tôi là một người riêng biệt, còn họ, họ là tất cả mọi người. " Chính hắn, hắn cũng ý thức một cách rõ ràng hắn chẳng khác gì một con ruồi, một con ruồi xấu xa (une vilaine mouche). Hắn ném về phía bọn họ những lời tục tĩu, thô bỉ, hắn khinh bỉ bọn họ, đồng thời lại ao ước được là bọn họ, đồng thời lại sợ bọn họ.
" Tôi là một con người độc ác, tôi là một người xấu tính... ", tập hồi ký mở đầu bằng những lời tự thú như vậy, và suốt hai trăm trang sách, tất cả chỉ là những tự thú, những phát giác khủng khiếp về một phận người, về một ý thức quá sáng suốt đến trở thành bệnh hoạn..
Nhưng duyên cớ nào đã xui khiến hắn, thuở nhỏ là một học sinh xuất sắc, lớn lên là một gã công chức giỏi giang, lại trở nên độc ác, xấu tính, tự mình chui xuống hầm để tự sỉ nhục và sỉ nhục những người khác, sỉ nhục cái xã hội đã nuôi dưỡng, sinh sản ra hắn ? Và đâu là ý nghĩa của hai chữ " dưới hầm" ?
Độc giả nào đã có dịp đọc những tác phẩm khác của Dostoyevsky, đọc Les Frères Karamazov chẳng hạn, có thể còn nhớ đoạn anh em cha con nhà Karamazov họp nhau trong sà lim của cha Zossime. Ông già Karamazov bước vào sà lim và tự giới thiệu : " Các bạn trông thấy trước mặt các bạn một tên hề, hề... ", và sau đó ông già tiếp tục đóng vai hề, tiếp tục vừa nói dối, vừa tự thú tội, vừa sỉ vả người khác vừa tự sỉ vả, giống như một bệnh nhân - luôn luôn bận rộn quan sát những triệu chứng của cơn bệnh của mình, ... " Chính vì muốn trở nên dễ thương hơn mà tôi cau mặt, nhức mày, và chính tôi, tôi cũng chẳng hiểu tại sao... " " có một tư tưởng ma quái lẩn quất ở trong tôi " .... " Hình như đối với tôi, bởi vì tất cả mọi người đều coi tôi là một tên hề, nên tôi tự bảo : Hãy làm hề đi. " ... " Bởi vì tất cả các người đều tồi tệ hơn tôi, cho nên, tôi là một tên hề..." Tiếp theo sau đó, ông già quỳ xuống, và chính ông, ông cũng không hiểu ông đang đùa, hay ông đang xúc động thực: " Thưa cha, làm sao để có được cuộc đời bất tử ?" Và ông cha đã khuyên: " Nhất là đừng nói dối với chính mình. Kẻ tự dối mình là kẻ đầu tiên tự khinh mình... Hắn tự khinh mình đến nỗi khám phá trong sự tủi hổ đó cả một niềm vui...". Ông già Karamazov thú nhận nhiều lúc cảm thấy sung sướng khi bị khinh bỉ, bị xúc phạm. Ông già nhảy lên, quay tít người, nói : " Cha tưởng con luôn luôn dối trá và luôn luôn làm hề sao? Đó chỉ là để đóng trò. Con dò xét Cha... Có chỗ nào dành riêng cho sự tủi hổ của con bên cạnh sự kiêu ngạo của Cha không ?..."
Tất cả những cử động kỳ quái, thái quá của ông già Karamazov chỉ để làm lộ ra những cử động nhỏ nhặt, tinh tế, khó nhận ra được, đôi khi lại chứa đầy những mâu thuẫn, những rung động mơ hồ, những lời kêu gọi, mời chào rụt rè, những lẩn trốn, tránh né mọi chạm trán, đối mặt với người khác ; tất cả những cử động giả, hề, của ông già Karamazov, tất cả những hành động những ý nghĩ và những lời lẽ thô bỉ của gã tác giả Hồi ký, trong đó, lòng kiêu ngạo lẫn lộn với sự tủi hổ, thù hằn với dịu dàng thân ái, sự phẫn nộ, nổi loạn lẩn lộn với sự ngoan ngoãn dễ bảo của trẻ thơ ; tất cả những cái gì " hơi quá tỉ mỉ hơn lệ thường " đó chỉ để cắt nghĩa, đưa ra ánh sáng cái tâm trạng " dưới hầm" , tâm trạng cô đơn đến cùng cực của mỗi cá nhân trước người khác, trước mọi hoàn cảnh sống.
Bởi vậy cho nên, đối với những nhân vật của Dos, tự sỉ nhục hay sỉ nhục người khác, được sỉ phục hay bị sỉ nhục, đê tiện và hào hùng, kiêu ngạo và tủi hổ, đó là tất cả những thái cực của phận người, đó là những thảm kịch xâu xé những nhân vật của Dos, đó là thảm kịch về một ý thức quá sáng suốt trở nên bệnh hoạn, thảm kịch: " Tôi là một người riêng biệt còn họ là tất cả mọi người." (Hồi ký viết dưới hầm, bản dịch, trang 80)
Cái " ý thức sáng suốt là một bệnh hoạn" , cái " ý thức khốn khổ " này của tác giả Hồi Ký, của Dos, sau này đã đè nặng lên toàn thể khí hậu văn chương, triết học Âu-châu, nhất là ở những tác giả thuộc chu kỳ hiện sinh như Sartre, Camus. Chúng ta có thể thấy rõ ràng cuốn tiểu thuyết La Chute, Sa đọa, đang được dịch trên Văn, của Camus, như một cuốn Hồi Ký được viết lại bằng giọng văn của thế kỷ thứ hai mươi, và gã Clemence, nhân vật chính trong La Chute, trốn chui trốn nhũi đến một góc tận cùng của trái đất, rồi cứ thế mà tự sỉ vả mình, sỉ vả thế giới, chỉ là hậu thân của gã tác giả thiên Hồi Ký Viết Dưới Hầm. Hơn nữa cái tâm trạng tôi là một người riêng biệt, còn họ là tất cả mọi người, của gã đã trở nên một cas chung, một phénomène cho tất cả những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết thuộc loại lớn, những tác phẩm đặt nặng vấn đề ý thức hệ, thời đại tính, ý thức thời đại, lịch sử v.v... G. Lukacs gọi đó là những héros problématiques, theo nghĩa những nhân vật này bị đưa đẩy đến những cảnh ngộ khốn khổ, bị du vào cái thế kẹt " trên đe dưới búa" (chữ của ông Vũ Khắc Khoan trong Thần Tháp Rùa), bị đặt trước những vấn đề tả phái - hữu phái, cá nhân - tập thể, thiên tài - thường nhân... và không thể tìm được một giải thích thỏa đáng, một ý thức sáng suốt giúp họ biện minh cho chính sự hiện hữu của họ. Đặc điểm sau cùng này làm rõ tính chất tragique của những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết gần đây, những cuốn tiểu thuyết, kịch bản thuộc trào lưu văn chương dấn thân của Camus, của Sartre, với những nhân vật tự đặt lên vai họ tất cả gánh nặng của lịch sử, tự cho mình là những chứng nhân của thời đại - và ở Việt-nam với những nhân vật của Vũ Khắc Khoan trong Thần Tháp Rùa, của Thanh Tâm Tuyền trong Ung Thư. Một nhân vật của Thanh Tâm Tuyền đã nói : " Tại sao tôi không thể yêu cái mà chúng nó yêu... Nếu chúng chiếm được cuộc đời, tôi sẽ trở thành hư vô... " (Ung Thư, xem Văn số...). Câu nói đó cũng tương tự như câu nói của gã dưới hầm: " Tôi là một người riêng biệt còn họ là tất cả mọi người." G. Lukacs gọi những nhân vật tiểu thuyết là những tên điên hoặc những gã sát nhân ( thật đúng đối với những nhân vật của Dos.) bởi vì theo Lukacs, đó là những kẻ không tưởng, luôn luôn tìm kiếm những giá trị tuyệt đối trong khi không biết, trong khi không thể đến gần được).
Andre Gide viết về những nhân vật của Dostoyevsky như sau:
" Tất cả những nhân vật đó đều được nuôi dưỡng bằng cùng những thực phẩm như nhau. Sự kiêu ngạo và là những nguyên do thầm kín của tất cả những hành động của họ." Theo Nathalie Sarraute, trong một bài viết nhan đề “ Từ Dostoyevsky đến Kafka ", thì sự kiêu ngạo và tủi hổ chỉ là những hình thái (modalités). Và phía sau những hình thái đó, còn một nguyên nhân sâu xa khác, một hành vận khác mà kiêu ngạo và tự hạ chỉ là những phản sạ. Chính cái hành vận uyên nguyên này đã tạo ra tất cả những cử động, những phản ứng trên. Dos đã nhắc tới cái fond đó ( "mon éternel fond") và quả quyết đó là chất liệu của từng tác phẩm của ông, dù hình thức các tác phẩm đó khác nhau.
Cái matière chung cho tất cả những tác phẩm của Dos đó chính là một nhu cầu khẩn thiết và hoài hoài về một contact, một va chạm, le besoin continuel et presque maniaque de contact, mà Thạch Chương đã viết lại trong bài thay cho lời tựa bản dịch Hồi Ký, đó chính là " this terrible desire to establish contact " mà Katherine Mansfield đã nhắc tới một cách sợ hãi pha lẫn ghê tởm.
Chính cái nhu cầu khẩn thiết đến trở nên mê hoảng này đã làm cho những nhân vật của Dos quay cuồng chóng mặt, xô đẩy, thúc bách họ tìm con đường đi đến tha nhân. Cách thức để cho những nhân vật sử sự thái quá, làm hề, giả điên khùng v.v... của Dos chính là những méthodes (tương tự như những méthodes của những nhà phân tâm học bây giờ) để tạo nên sự tò mò nơi người khác và thúc đẩy họ tiến tới gần mình. Sự hạ mình do đó cũng chỉ là những lời kêu gọi rụt rè, một cách thức tự cởi bỏ tất cả những gì được gọi là khí giới, là bức tường ngăn cách từng cá nhân; một thái độ hoàn toàn cởi mở để dẫn tới cảm thông. Và như thế, một lời kêu gọi cảm thông được ném ra, câu trả lời, hoặc là một sự trìu mến, một tha lỗi hay một dè bỉu khinh khi đều như nhau. Một vài nhân vật đặc biệt như Aliocha, như ông cha Zossime trong Les Frères Karamazov, như gã Idiot, đã dùng con đường trực tiếp, rộng rãi và bằng phẳng, con đường của sự tha lỗi, sự dịu dàng, thân ái, để đến với người khác. Những nhân vật còn lại của Dos, như gã sinh viên Raskolnikov trong Crime et Chatiment, như gã tác giả tập Hồi Ký, đã phải dùng con đường của sự chịu nhục, lầy lội, nhơ bẩn.
" Hoặc là Thượng đế có, tất cả mọi người đều phải vâng theo ý Người. Hoặc là Thượng đế không có, và tất cả đều được phép. " Đó là lập luận hữu thần - vô thần của một nhân vật của Dos. Sartre sau này đã coi câu nói của Dos : " Nếu Thượng Đế không có thì tất cả đều được phép" như khởi điểm của triết học hiện sinh của ông, (trong L'existentialisme est un humanisme). Còn Camus thì suốt đời lo lắng, băn khoăn đến sự khổ sở của những đứa trẻ thơ, băn khoăn đến vấn đề tội lỗi, " la culpabilité de chacun envers tous et pour tout ", những đề tài lớn mà Camus đã bị ám ảnh khi đọc Dos. Cả cái huyền thoại homos absurdus kia cũng đã do Dos đầu tiên phát hiện vậy.
Trên bình diện tư tưởng, cuốn Hồi Ký đã mở ra tất cả những vấn đề siêu hình của thời đại chúng ta. Trên bình điện văn chương Hồi Ký, với thể văn độc thoại nội tâm, đã gây nên hẳn một dòng văn chương lớn, dẫn theo Joyce, Virginia Woolf, Faulkner, Hemingway, và hầu như trở nên một dòng văn chương độc nhất đầy đủ khả năng diễn đạt tất cả những chiều sâu thăm thẳm của con người.
NGUYỄN QUỐC TRỤ
(Tạp chí Văn, Năm Thứ Nhất, 1967, Số 1, trang 120 - 125 )
~~oOo~~
Cái “ý thức sáng suốt là một bệnh hoạn”, cái “ý thức khốn khổ” của tác giả Hồi Ký, của Dos sau này đã đè nặng lên toàn thể khí hậu văn chương, triết học Âu châu, nhất là ở những tác giả thuộc chu kỳ hiện sinh như Sartre, Camus. Chúng ta có thể thấy rõ ràng, cuốn tiểu thuyết La Chute, Sa đọa, đang được dịch trên Văn, của Camus, như một cuốn Hồi Ký được viết lại bằng giọng văn của thế kỷ hai mươi, và gã Clémence, nhân vật chính trong La Chute, trốn chui trốn nhũi đến một góc tận cùng trái đất, rồi cứ thế mà tự sỉ vả mình, sỉ vả thế giới, chỉ là hậu thân của tác giả thiên Hồi Ký viết dưới hầm. Hơn nữa, cái tâm trạng tôi là một người riêng biệt, còn họ là “tất cả mọi người”, của gã đã trở nên một cas chung, một phénomène cho tất cả những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết thuộc loại lớn, những tác phẩm đặt nặng vấn đề ý thức hệ, thời đại tính, ý thức, thời đại, lịch sử…. G. Lukacs gọi đó là những “héros poblématiques”, theo nghĩa, những nhân vật này bị đẩy đến những cảnh ngộ khốn khổ, bị du vào cái thế “trên đe dưới búa” (chữ của ông Vũ Khắc Khoan trong “Thần Tháp Rùa”]…
Comments
Post a Comment