Mandelstam




Gấu có 1 cuốn thơ Mandelstam, do dọn nhà, bị nước ẩm dưới hầm nhà mới mua, quá cũ, làm thịt sạch toàn thể mớ sách còn sót lại sau cú “làm từ thiện” của Cô Út – ý của cô là, bố đừng đọc sách nữa, được không – nhưng Ông Trời Già quả là thương Gấu, bèn ban cho cuốn khác, bảnh hơn nhiều, so với cũ, bảnh nhất, là bài intro của Brodsky. 

Bài khá dài. Một cách nào đó, bài viết của Brodsky là để trả lời Robert Hass, nhà thơ Mẽo, khi đấng này chê thơ Mandelstam: Chúng ta bị mà con mắt vì hành động tuẫn nạn của ông, chứ không phải vì thơ của ông hay, nhớ đại khái 

(1)


(1)



ROBERT HASS
Robert Hass, like Jeffers, is a California poet. In this poem, an object (clay figurine) and a typical California landscape are given simultaneously.
Robert Hass, như Jeffers, là một nhà thơ Cali. Trong bài thơ dưới đây, pho tượng vì phu nhân, và phong cảnh Cali, thì cùng lúc, được trình ra, với độc giả Tin Văn.
Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things
[Note: To U, the figure of the lady, an California image, in this poem. GNV]
THE IMAGE
The child brought blue clay from the creek
and the woman made two figures: a lady and a deer.
At that season deer came down from the mountain
and fed quietly in the redwood canyons.
The woman and the child regarded the figure of the lady,
the crude roundnesses, the grace, the coloring like shadow.
They were not sure where she came from,
except the child's fetching and the woman's hands
and the lead-blue clay of the creek
where the deer sometimes showed themselves at sundown.
 
Ảnh Tượng
Đứa bé mang đất sét màu xanh từ thung lũng về
Và người đàn bà nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một con nai.
Vào mùa này, nai thường từ núi xuống
Và kiếm ăn lặng lẽ trong những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ
Người đàn bà và đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân
Cái gì gì, khuôn trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô thiển, ân sủng, màu như bóng…
Họ không chắc, vì phu nhân tới từ đâu,
Ngoại trừ vẻ say mê của đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ
Và đất sét xanh màu chì của thung lũng
Nơi nai cao, “gót lẩn trong mù hoàng hôn”.


Note:
Bài thơ này, được Milosz lôi ra vinh danh, GCC gặp lại nó trong tập The Apple Trees at Olema, New and selected Poems của Robert Hass. Thật là tuyệt. Có cái gọi là thiên tài của nơi chốn, tức Ông Thần Đất, tức Thổ Địa, tức Cali, ở đây, như Milosz chỉ ra.
Và có thể, đó là lý do Robert Hass không chịu nổi 1 nhà thơ Nga , như Osip Mandelstam. Ông viết, chúng ta lòa con mắt vì cái sự tuẫn nạn của ông, chứ không phải thơ của ông.
Theo Gấu, một nhận xét như thế, chứng tỏ sự nghèo nàn trong cảm nhận, ở nơi nhà thơ Bắc Mỹ, như Robert Hass.
Vendler nữ phê bình gia số 1 của Mẽo, cũng nói đại khái như thế; Mẽo đếch đọc những nhà thơ Ba Lan, vì chúng có bao giờ đi tù….  VC đâu! (1)

(1)

Chẳng có bài học trực tiếp nào mà những nhà thơ Mẽo học được từ Milosz. Họ có bao giờ nhìn bằng cặp mắt của chính họ, chiến tranh, trên đất nước, xứ sở của chính họ. Chính vì thế mà họ không làm sao nhập vào được giọng thơ của Milosz.

Cái sự ca ngợi NBS ở những tên bỏ chạy, theo Gấu, có cái gì giống như Hass. Sự kiện Hass chê thơ Osip, chúng khen thơ NBS, có cái giống nhau.

Mới thấy Thầy Kuốc phán về thơ NBS, chỉ được những bài thơ về chiến tranh, còn thì dưới trung bình cả.
Đấng này, khi khen bất cứ ai, là phải thòng cái đuôi, được, nhưng mà hỏng, VP ư, chẻ sợi tóc làm tư, lâu lâu quên chẻ. MT rất bảnh về thơ, nhưng chỉ thơ tiền chiến.
Một khi mà cái đầu đã bị hư, vì 1 lý do nào đó, là hỏng.
Hư, ở lũ viết lách, là thường do đố kỵ.
Hay chưa sống tới mức như thế, như trường hợp Hass.
Hay là do mặc cảm, như ở lũ bỏ chạy.
Cũng mới đọc bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, chê thơ TTT, trên Gió O. Bài thơ “Sợ Cái Cột Đèn” thần sầu như thế, mà ông này chê.
Tếu thế!

V/v Nguyễn Đăng Thường. Ông này, thời còn trẻ, mê thơ Tẩy, Rimbaud, thí dụ. Vào thời gian đó, Gấu đếch biết gì về thơ, tiếng Tẩy thì cũng quá tệ, so với đám của ông, thành ra không quen, chưa từng gặp 1 lần. Nhưng bạn của ông, là Hoàng Ngọc Biên, tức Mít Butor, viết văn y chang Butor, ở cái vỏ, tức văn phong - được coi là thuộc trường phái của cái nhìn - thì do quen biết Huỳnh Phan Anh, nên cũng hay la cà Quán Chùa, và có thời Gấu cũng tin ông là 1 bạn quí của Gấu, như những HPA, NXH. Chỉ đến khi ra được hải ngoại, thì mới vỡ ra, đếch phải bạn quí.

Trở lại với NDT. Ông quả là 1 nhà thơ, theo 1 nghĩa nào đó, nhưng cũng như những người trong nhóm Trình Bày, cuộc chiến, “một cách nào đó”, không liên quan tới họ. Chỉ đến khi ra được hải ngoại, thì NDT mới để ý đến hậu quả của cuộc chiến. Thơ của ông sau này, là nhắm nhà nước VC mà đả kích, nhưng những bài thơ của ông có tính nhại, nhại nhạc TCS, nhại ca dao, nhại thơ người khác. Gấu chưa từng được đọc 1 bài thơ của NDT, theo nghĩa thơ của ông.

Thành ra những lời giới thiệu đao to búa lớn của bà Huệ, Gấu đọc không hiểu được, thí dụ, những dòng này:

Là một người đọc, có khi tôi tìm đọc những tác giả khó. Những tác giả mà khi đọc cái đầu ta phải làm việc theo tác phẩm của họ. Nguyễn Đăng Thường là tác giả thuộc khuynh hướng này. Mới thoạt đọc, thấy ông viết hơi xâm lăng tấn công, và ông va chạm vào đủ các thứ mạch ẩn nấp. Nhưng bên dưới các bản viết ký tên Nguyễn Đăng Thường là các tiêu hóa kiến thức, trí thức, cảm tính, và văn chương, ở mức độ cực kỳ cao. Điều này gây nên sự chú ý của tôi. Tôi xem anh như là một trong những nhà thơ gây ảnh hưởng trên lớp tác giả trí thức cùng thời tôi, vì các vận động viết có tính trí tuệ, đối xoáy, và tấn công thẳng thắn của cõi viết Nguyễn Đăng Thường.


Khen, gì cũng được, nhưng phải có chứng minh, bằng thí dụ, bằng sự kiện.
NDT có cái gì ghê gớm đến như thế?
Ngay cả cái cần nhất, là 1 giọng cho riêng mình, cũng chưa có được. Như tất cả đám Trình Bày, bỏ ra cái phản chiến, chỉ nói cái văn học, và chỉ nói phần dịch thuật của họ, thì cũng hỏng.
Hỏng ở đây, là do quá dốt tiếng Mít.
Chứng cớ rõ ràng nhất, khi NDT trình bản dịch Linda Lê cho Sến, nhờ Sến duyệt, em phán, vứt ngay vô thùng rác cho ta!
Diễm Châu, một ngày có thể làm thịt cỡ chừng một chục nhà thơ ngoại, như không.
Đưa bất cứ nhà thơ mũi lõ, là ông có liền bản dịch!

Gấu nghĩ, NDT không đọc được thơ TTT.
Không chỉ mình ông. Bà Huệ, theo Gấu, cũng không đọc được thơ TTT, khi đòi thứ thơ đời thường [Lê Thị Huệ: "Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi là ngôn ngữ đời thường". Thưa anh, tôi gần với anh ở điểm này đa].
Cùng lúc đó, bà Huệ khen NDT [Là một người đọc, có khi tôi tìm đọc những tác giả khó. Những tác giả mà khi đọc cái đầu ta phải làm việc theo tác phẩm của họ. Nguyễn Đăng Thường là tác giả thuộc khuynh hướng này.]

Theo GCC, ngôn ngữ đời thường không thể “bắt cái đầu phải làm việc”, và, khó mà là ngôn ngữ thơ. Thơ, 1 cách nào đó, là “ngôn ngữ của ngôn ngữ”.
Gấu sợ thứ ngôn ngữ bèo nhèo, nhạo, nhại của NDT không thể nào tới được cõi thơ.

Cái chuyện không đọc được thơ của 1 tác giả nào đó, là chuyện rất thường. Nhưng đâu vì không đọc được, rồi chê thơ họ.
GCC đọc thơ Emily Dickinson, không nổi, nhưng chưa bao giờ dám coi thường thơ của bà. NDT thích thơ Tô Thuỳ Yên hơn thơ TTT. Nhiều người cũng nghĩ như ông, trong khi Gấu nghĩ ngược hẳn lại. Đó là do khiếu thưởng ngoạn khác nhau, chứ không thể vin vào đó, mà nói  thơ TTY hơn thơ TTT.

Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT

Chúa ơi!

*****

V/v Ngôn ngữ đời thường vs Thơ

Bài thơ mới thấy trên net, cho thấy, bằng cách nào, ngôn ngữ đời thường biến thành ngôn ngữ thơ: Bằng tài năng của thi sĩ.
Thí dụ, từ “goá”, trong câu thơ sau đây, là chẳng “thơ” sao? TRẦN MẠNH HẢO XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU VỚI GIA ĐÌNH FB MỘT BÀI THƠ RẤT HAY, RẤT XÚC ĐỘNG, RẤT NAM KỲ CỦA NHÀ THƠ NỮ QUÊ LONG AN : NGUYỄN THỊ ÁNH HUỲNH ;
BÌM BỊP KÊU THƯƠNG
Thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh.

Ai bịp mày chim ơi
mà bìm bịp suốt đời
hay sông Vàm Cỏ bỏ mày
đi lấy vợ
hay Đồng Tháp Mười bỏ mày
đi lấy chồng
bìm bịp
tiếng chim kêu
làm goá cả buổi chiều
Chưa khủng bằng từ, đời thường, "Đúng rồi", trong bài thơ của Szymborska:

Vietnam (Wistawa Szymborska)

Nhưng, có lẽ, chưa khủng bằng từ “Be quiet”, trong truyện khùng sau đây, trong  Kẻ mạo tiếng

NO SOUL

As long as doctors in hospitals are interested only in bodies and not in the soul, of which apparently they know next to nothing, we are bound to call hospitals institutions not only of public law but also of public murder and to call the doctors murderers and their accomplices. After a so-called amateur scholar from Ottnang am Hausruck, who had been admitted to the Vocklabruck hospital because of a so-called curious condition, had been given a thorough physical examination, he had asked-as he states in a letter to the medical journal Der Arzt (The Doctor)-And what about my soul? To which the doctor who had been examining his body replied, Be quiet!

Không linh hồn

Một khi mà những vị y sĩ chỉ quan tâm tới thân xác, không để ý đến linh hồn, mà họ thực sự chẳng biết gì về nó, thì chúng ta đành phải gọi những định chế nhà thương, không chỉ là một thứ “luật công chúng”, mà còn là, “sát nhân công cộng”,  và gọi những y sĩ, những tên giết người và những đồng lõa của họ.
Sau khi một vị được gọi là học giả tài tử, từ Ottnang am Hausruck, được đưa vô nhà thương Vocklabruck hospital, vì điều gọi là “trường hợp kỳ cục”, và khi được kiểm tra bịnh lý, ông ta đã hỏi, "Này, thế còn về linh hồn của tôi, thì sao ?", và vị bác sĩ kiểm tra thể xác của ông ta, đã trả lời, “Hãy im lặng”!

Ui chao, liệu chăng thi sĩ NDT, cũng là 1 cas tương tự, 1 kẻ nhại tiếng, nhại thơ?

Be quiet!

Ôi những người thù ghét thơ của tôi ơi…

TTT, và thơ của ông, ngay từ khi mới xuất hiện, là đã bị chúng chửi tơi bời rồi. Đâu có phải phải đợi đến khi chết, mới có một đấng như NDT. Nhưng, NDT, cũng cùng thời với TTT, đúng ra phải nêu những thắc mắc, thí dụ, “nửa đêm Hà Nội, 1 chút Paris”, khi TTT còn sống.
Chết, làm sao trả lời?
Gấu, mặc dù khiêm tốn, dư sức trả lời NDT, tại sao những hình ảnh trên.
Nhưng “chẳng bõ, chẳng đáng”, mượn lời Oanh, cô học trò của Kiệt, khi em tính bỏ hết để theo hầu "thằng ghiền" - từ của Oanh, khi gặp lại Kiệt, trong MCNK.


&

*


 Feword by Nadezhda Mandelshtam 
I think that the most difficult task in the world is the translation of verses, particularly of a true poet, in whose verses there is no discrepancy between the form and the content (or meaning) - both of them always new and but a bit different (with no great disparity between them) - and where the ego of the poet is always strikingly felt. Marina Tsvetayeva said she could write as Mandelshtam did but that she didn't want to. She was a great poet but she was greatly mistaken. She could be influenced by Mayakovsky and Pasternak and remain Tsvetayeva because they were innovators and therefore easily aped. But Mandelshtam composed verses in tradition, which is far more difficult to imitate.
Mr Robert Lowell's translations are very free; Mr Paul Celan's into German also free. But both are a very far cry from the original text. As far as I know the translations of Mr Greene are the best I ever saw. I can't give my opinion about the Italian translations, as I don’t know Italian as well as English, French and German. As for Elsa Triolet's, they are as naive and vulgar as she was.
Mandelshtam said that the contents are squeezed from the form as water from a sponge. * If the sponge is dry, there would be no moisture at all. So, to render the content - which Mr Greene has succeeded in doing - is to give, in a way, the form or harmony, the harmony which can't be rendered in translation, the harmony which is quite simple and at the same time mysteriously complicated. Poetry is a mystery.
Nadezhda Mandelshtam, 1976 (1)
 
Translator's Preface
 [Mandelshtam] had no poetic forerunners - wouldn't that be something worth thinking about for his biography? In all of world poetry I know of no other such case. We know the sources of Pushkin and Blok, but who will tell us where that new, divine harmony, Mandelshtam's poetry, came from?
Anna Akhmatova
M. không có tiền thân, liệu điều này có tính đếm đến, khi lèm bèm về tiểu sử của ông? Trong trọn thế giới thi ca mà tôi biết, chưa hề có một trường hợp như thế. Chúng ta biết nguồn thơ của Pushkin, của Blok, nhưng ai bảo cho ta biết sự hài hòa mới mẻ, thần thánh, thơ của Mandelstham, đến từ đâu? 
Translation it is that openeth the window, to let in the light; that breaketh the shell, that we may eat the kernel.
King James Bible, 1611: 'The Translators to the Reader'

(1) 

Tôi nghĩ cực trần ai là cái chuyện dịch thơ, nhất là thơ của 1 thi sĩ thứ thực, thứ thơ không làm sao mò ra đâu ra nội dung đâu là hình thức của thơ, cả hai thì đều mới tinh, và lại hơi khác khác, khi phải so với nhau, thành ra mới khó lần đường ranh giữa chúng, và chính tại đây mà cái tôi của nhà thơ được cảm nhận một cách thật dữ dội và đầy kinh ngạc.
Marina Tsvetayeva nói, bà có thể làm thơ như Mandelshtam nhưng không thèm làm, bà nói thế là nói bậy, tuy bà là một nhà thơ vĩ đại. Bà có thể bị ảnh hưởng bởi Mayakovsky và Pasternak và vẫn là Tsvetayeva, bởi vì họ là những nhà thơ canh tân, và do đó, thật dễ chôm chĩa, phỏng theo.
Nhưng Mandelshtam làm thứ thơ theo truyền thống, và như thế, thật khó bắt chước.
Bản dịch của Mr Robert Lowell thì quá phóng túng, Của Mr Paul Celan qua tiếng Đức, cũng phóng túng, Nhưng cả hai thì đều là một tiếng khóc quá xa nguyên bản. Như tôi biết, bản dịch của Mr Greene là bảnh nhất, tôi từng được đọc. Tôi không thể phán về những bản dịch tiếng Ý, vì không biết tiếng Ý, mà chỉ biết có tiếng Anh, tiếng Tây, và tiếng Đức. Về bản dịch của Elsa Triolet, thì nhảm quá, như cô em này thì ngây thơ và dung tục.
Mandelshtam nói, nội dung thì được vắt ra khỏi hình thức, như người ta vắt một miếng bọt biển dùng để lau bảng. Nếu cái miếng bọt biển khô, thì làm sao vắt, dù chỉ được tí ẩm, ướt?
Thành thử, đem đến nội dung, như Mr Greene đã thành công trong khi dịch, là đem đến, một cách nào đó, hình thức, hay hài hòa, một thứ hài hòa không thể nào đem lại được, qua dịch thuật, thứ hài hòa thật đơn giản, và cùng lúc, thật đa đoan một cách rất ư là bí ẩn.
Thơ là một huyền nhiệm.
Nadezhda Mandelshtam, 1976

You took away my seas and running jumps and sky
And propped my foot against the violent earth.
Where could this brilliant calculation get you?
You couldn't take away my muttering lips.
(307) May1935
En me privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne m'avez pas pris mes lèvres qui remuent! 
Mi lấy của ta Biển -Trời - Nhịp Đời
Cùm chân ta vào đất:
Làm sao mi cấm môi ta run?
My country conversed with me,
Spoiled me, scolded, didn't listen.
She only noticed me when,
Grown-up, I became an eye-witness.
Then suddenly, like a lens, she set me on fire
With a beam from the Admiralty spire.

(part 6 of 312) May-June 1935
Xứ sở của ta nói với ta,
Nuông chiều ta, gắt gỏng với ta, không nghe ta nói.
Nó chỉ để ý đến ta khi,
Trưởng thành, ta trở thành một chứng nhân bằng mắt.
Và thế là bất thình lình, như thấu kính hội tụ
Nó chiếu vào ta, và làm bật cháy
Với ngọn lửa từ Ngọn Đỉnh Trời
 
I shall not return my borrowed dust
To the earth,
Like a white floury butterfly.
I will this thinking body
This charred, bony flesh,
Alive to its own span -
To turn into a street, a country.
 (from 320) 21 July 1935
 Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....

Osip Mandelstam: Selected Poems




























Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư