SN 2014


7.9.2014



*


Note: GCC vô net, kiếm ra cái jacket của cuốn mới mua, xb 2011

*
Here, Greene receives the Catholic Book Award for the novel, The End of the Affair.
Bạt
Đọc Graham Greene trong thế kỷ 21
Đầu năm nay, trong khi dậy khóa MFA ở Đại Học Columnia, tôi có 1 cuộc bàn luận sôi nổi với một nhóm sinh viên về Người Mỹ Trầm Lặng. Với một số, ở giữa tuổi đôi mươi thì đây là lần đầu gặp GG, qua sách. Hầu hết thì coi phim, ấn bản mới, làm lại, với Brendan Fraser là diễn viên. Ai cĩng có nhiều điều để nói, đặc biệt là về tính cách của nhân vật chính Alden Pyle, và anh ta là cái gì đối với xã hội văn hoá, và chính trị Mẽo. Điều thú vị của buổi nói chuyện, là, nếu có ai tình cờ ghé qua, và trong đầu chẳng có gì về cuốn sách, hay là có tí ti, thì cũng đều tỏ ra ngỡ ngàng, tại làm sao mà 1 cuốn tiểu thuyết được xb cách cả nữa thế kỷ, mà lại "hot" đến như thế

Trong số độc giả TV, có 1 vị, cũng dân Canada, rất quí Gấu Cà Chớn, Vị này có lần viết, tính chúc mừng SN liền tù tì, nhưng cố nán lại, để cho mi đọc mấy cái mail đang ngóng cổ chờ, rồi chúc mừng sau, cũng đặng!
Ui chao, vị này cũng giống như "Chị So", chắc là đã nhiều lần buồn cười vì tật mê gái của Gấu!
Tất cả những mối tình của Gấu, đa phần - hầu hết - là dởm, nhưng do dởm, nên thực hơn nhiều, cảm động hơn nhiều, so với đời thực.
Lạ, là hình như chỉ có 1 và cứ thế lập đi lập lại.
Và quái làm sao, nó như từ 1 phim ảnh, hay tiểu thuyết... tìm cách bò vô đời thực!
Gấu đã kể nhiều lần về chuyện này rồi. Nhất là về cái lần bỏ chạy quê hương, vượt sông Mê Kông, trên chiếc xe đò từ 1 tỉnh ven biên Thái & Lào, về Bangkok, chạy suốt đêm, chủ xe cho coi 1 cuốn DVD, câu chuyện 1 tay hiệp sĩ Nhựt được giao phó nhiệm vụ bảo vệ vợ vua, thầm yêu bà này, và trong 1 lần bà tắm, sau khi cởi... nội y - thì cứ viết thẳng ra là xú chiêng, xịp - trước khi bước vô bồn tắm, bèn thẩy đôi dép đang đi dưới chân cho tên vệ sĩ.
Cuộc tình thầm kín, tưởng tượng, vỡ lở, anh vệ sĩ bị nhà vua ra lệnh chôn sống, bằng cách đắp bùn lên người, và cứ đứng gác như thế, không biết bao nhiều đời, cùng với cái hình ảnh dôi dép, quăng vào không gian, thời gian, đời này qua đời nọ, cho đến 1 lúc nào đó, anh vệ sĩ giật mình tỉnh dậy, lắc lắc vài phát, lớp bùn vỡ ra... Trong cuộc đời mới, thuộc thời kỳ “hạ vệ, hạ bộ” cái con khỉ gì đó, anh vệ sĩ lại gặp lại người xưa, nhưng đã trải qua không biết bao nhiêu là “kiếp khác”, và cái hình ảnh đôi dép lại xuất hiện…
Đây chính là đề tài 1 bài viết thần sầu của Borges, “A History of the Echoes of a Name”: Câu chuyện về những tiếng vang của 1 cái tên.
Một cái tên, tên nào, thì các bạn biết rồi.
Isolated in time and space, a god, a dream, and a man who is insane and aware of the fact repeat an obscure statement. Those words, and their two echoes, are the subject of these pages.
    The first example is well known. It is recorded in the third chapter of the second book of Moses, called Exodus. We read there that Moses, pastor of sheep, author and protagonist of the book, asks God what His name is, and God replies: "I Am That I Am." Before examining these mysterious words, it is perhaps worth recalling that in primitive or magical thought, names are not arbitrary symbols but a vital part of what they define.' Thus, the Australian aborigines receive secret names that the members of the neighboring tribe are not allowed to hear. Among the ancient Egyptians, a similar custom prevailed: each person received two names, the "little" name that was known to all and the true or "great" name that was kept hidden. According to the funerary literature, the soul runs many risks after death, and forgetting one's name (losing one's personal identity) is perhaps the greatest. It is also important to know the true names of the gods, demons, and gates to the other world. Jacques Vandier writes: "It is enough to know the name of a god or of a divine creature in order to have it in one's power" (La Religion egyptienne, 1949). Similarly, De Quincey reminds us that the true name of Rome was also secret: in the last days of the Republic, Quintus Valerius Sorano committed the sacrilege of revealing it, and was executed....

De Quincey reminds us that the true name of Rome was also secret: in the last days of the Republic, Quintus Valerius Sorano committed the sacrilege of revealing it, and was executed....
Tên thực của BHD là 1 bí mật. Vào những ngày cuối cùng của một Miền Nam CH, thằng cù lần GCC lỡ thốt ra, thế là bị VC cho đi tù cải tạo mút mùa lệ thuỷ!


 Thơ Mỗi Ngày
Late Call
A message for you,
Piece of shit:
You double-crossed us.
You were supposed to
Get yourself crucified
For the sake of the Truth ...
Who? Me?
The smallest bread crumb
Thankfully overlooked on the dinner table.
A born coward.
A perfect nobody.
And now this!
In the windowpane,
My mouth gutted open.
Aghast.
My judges all wearing black hoods.
It must be a joke.
A big misunderstanding, fellows.
A wrong number, surely?
Someone else's dark night of the soul.
Charles Simic
Cú gọi muộn
Một “mét-xì” cho mi,
Thằng chó chết:
Mi phản bội, chơi trò hai mang với chúng ông
Mi xứng đáng bị đóng đinh thập tự
Nhân danh Sự Thực…
Ai? Gấu Cà Chớn?
Mẩu bánh mì
Trên mặt bàn bữa tối
Đếch ai thèm để ý
Một kẻ hèn nhát, ngay từ lúc bò ra khỏi… lòng mẹ
Một tên hoàn toàn vô tích sự
Và bây giờ, cú này!
Trên khung cửa sổ,
Miệng Gấu toang hoác
Khiếp quá
Mấy ông tòa của Gấu thì đều mặc áo đen chùm đầu.
Đúng là thằng nào chơi Gấu đây
Tụi mi hiểu lầm Gấu rồi, bồ tèo, bạn quí!
Gọi nhầm số, hẳn là vậy rồi?
Đêm đen linh hồn của thằng chó nào, đếch phải GCC
Madame Thebes
That awful deceit of appearances.
Some days
Everything looks unfamiliar
On my street.
It's somebody else's life I'm living.
An immaculate silent order
Of white buildings and dark clouds,
And then the open door
In a house with lowered voices.
Someone left in a hurry,
And they're waiting for me to come in
With a lit match.
There's a rustle of a long skirt,
But when I enter
It's only the evening papers
Sliding off the table
Birdlike
In a large and drafty
And now altogether empty room.
Charles Simic
Bà Thebes
Sự lừa đảo trắng trợn của những vẻ bề ngoài
Một vài ngày
Mọi thứ thấy như lạ
Trên con phố của tớ
Đúng là cuộc đời của ai đó, tớ đang sống 
Một trật tự im ắng tinh khiết
Của những tòa nhà màu trắng và những đám mây u ám 
Và rồi cửa mở
Vô căn nhà với những tiếng nói khe khẽ
Một người nào đó vội vã bỏ đi
Và họ đợi tớ, vô
Với lửa quẹt
Có tiếng sột soạt của áo dài
Nhưng khi tớ vô nhà
Chỉ là những tờ báo buổi chiều
Trượt khỏi mặt bàn
Như chim
Trong căn phòng rộng, kín gió, 
Và bây giờ nói chung, trống rỗng.                                                   

Ivan V. Lalíc : Death sentences ( Nguyễn Quốc Trụ dịch)
Ivan V. Lalíc : Love in July ( Nguyễn Quốc Trụ dịch)
Kẻ biến mất
Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.
Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một. 
2

By Charles Simic
Now that it’s warm to sit on the porch at night
Someone happened to remember a neighbor,
Though it had been more than thirty years

Since she went for a little walk after dinner

And never came back to her husband and children.


No one present could recall much about her,

Except how she’d smile and grow thoughtful

All of a sudden and would not say what about,

When asked, as if she already carried a secret,

Or was heartbroken that she didn’t have one.


Người mà biến mất
Lúc này, trời ấm, khi ngồi ở cổng vào ban đêm
Một người nào đó dưng không bỗng nhớ tới một bà hàng xóm
Chuyện xẩy ra thì cũng đã hơn ba chục năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà đi 1 đường tản bộ
Và đếch thèm trở về với chồng và mấy đứa con.
Hơn ba mươi năm rồi, chẳng ai nhớ nhiều về bà ta
Ngoại trừ điều này, cách bà cười, nụ cười của bà,
Và cái dáng vẻ trầm tư bất thình lình nở ra trên khuôn mặt
Và lắc đầu, nếu có ai cắc cớ hỏi, liệu có ôm trong lòng một điều bí ẩn
Hay là quá đau lòng, vì chẳng có một
Quái đản thay là trí tưởng tượng, sự liên tưởng: Đọc bài thơ thì Gấu lại nhớ đến 1 câu chuyện thực ở ngoài đời, về 1 bà vợ sĩ quan, chồng đi cải tạo, có người yêu – không biết là từ lúc nào, từ hồi còn con gái cũng có thể - bèn mang mấy đứa nhỏ đến gửi 1 cặp vợ chồng bạn, để cùng người yêu vượt biển.
Chuyện nọ xọ chuyện kia: Trong tất cả những gì được đám nhà văn Bắc Kít - VC tất nhiên - viết ra, về Ngụy, và số phận của chúng, sau 1975, thì gần như là con số không, có 1, Gấu đọc trên blog của nhà văn NT.
Ông kể là có 1 người quen, chức sắc, được 1 bà vợ sĩ quan Ngụy nhờ vả, để có được phương tiện, đi thăm nuôi chồng, ở đâu mãi tít 1 trại tù cận biên giới Tẫu. 
Bà vợ hẳn là chẳng hoan hỉ gì trong cái vụ nhờ này, nhưng không còn cách nào khác.
Cả 1 nền văn học khốn nạn của VC chỉ có nhắc tới 1 bà vợ sĩ quan Ngụy, mỗi cas đó!
Vậy mà chúng ra rả “thoát Trung”, ông Thầy của chúng, chúng đã từng dâng vợ, dâng con, để lấy cho được Miền Nam.
Gần đây, ngoài các cây bút đã thành tên tuổi như Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thuận,… tôi thấy xuất hiện tiểu thuyết của một số tác giả trẻ rất đáng chú ý như Trần Nhã Thụy, Vũ Phương Nghi, Phan Việt, Đặng Thiều Quang, Nguyễn Đình Tú... (1)
Hình như đếch thấy 1 tên nhà văn nào của miền đất được VC giải phóng.
Toàn 1 lũ Bắc Kít?
Thế còn Cô Tư, thí dụ?
Nhất Bảo Ninh, Bắc Kít, nhì Thuận, Bắc Kít bỏ chạy sang Tây, ba, tư, năm, sáu, bẩy, Bắc Kít
Đúng là kít không à! 
GCC có cảm tưởng em này chưa từng biết đến văn chương Miền Nam, trước 1975, và ngay cả sau 1975.
Trong bài viết về Kafka, trong Văn Chương và Cái Ác, Georges Bataille nhắc tới vụ tờ Action, một tờ báo CS của Tẩy, ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt, đưa ra câu hỏi, “Liệu có nên đốt bỏ Kafka, Should Kafka be burnt?” 
Bataille viết, trong tất cả những sự kiện liên quan tới cái vụ đốt này, thì, đối với những người CS, có 1 lô gíc bật ra: 
Những ngọn lửa tưởng tượng cũng góp phần vào việc hiểu những cuốn sách của K. Chúng là những cuốn sách bị trù ẻo, phải bị phần thư! (1)
Ui chao đúng là cái tình cảnh của văn chương Miền Nam trước 1975, đối với nữ phê bình gia Mít viết bằng tiếng Tẩy! 
Dưới mắt em, làm gì có thứ văn chương đó?
Y chang anh nhà văn ăn cắp cái tít của Koestler: Có cái thứ văn học Mít hải ngoại ư?
(1)
In all events the idea of burning Kafka, even it if was no more than a provocation, had a certain logic for the Communists. Those imaginary flames contribute to the understanding of his books. They are books doomed to the flames: they are there, but they are there in order to disappear, as though they have already been annihilated.
“Nỗi buồn chiến tranh” có thể coi là đỉnh cao nhất của văn học Việt Nam hậu chiến. Lần đầu tiên, cuộc chiến hiện lên một cách vô cùng bạo liệt, đau thương. Nhưng “Nỗi buồn chiến tranh” cuốn hút người đọc trên hết vì hoài bão của nó.
Viết về chiến tranh, nhưng tác phẩm của Bảo Ninh chạm đến những phạm trù rộng lớn khác: tình yêu, thời gian, ký ức, sáng tạo văn học. Tất cả hòa quyện vào nhau để tạo nên một tiểu thuyết cực kỳ phức tạp, nhiều tầng lớp, đa âm thanh.
Thời gian là một trong những sáng tạo lớn nhất của Bảo Ninh. Nó liên tục đổi chiều. Chiều thuận là chiều của sáng tạo: Người đọc chứng kiến tiến độ bản thảo của Kiên, nhân vật nhà văn.
Chiều nghịch là chiều của kỷ niệm: Chiến tranh luôn ám ảnh, quấy phá tâm trí Kiên, khiến anh vĩnh viễn sống cùng lúc giữa hai điểm của thời gian, quá khứ và hiện tại. Nhưng có lẽ dĩ vãng mang sức mạnh ghê gớm hơn cả: Ngay khi Kiên tiếp tục sống “những ngày tháng phía trước”, cuộc đời anh cho ta cảm giác như đang bị đẩy lùi, qua hình ảnh tuyệt đẹp về một “con thuyền bơi ngược dòng sông”.
Dường như một nghịch lý, Kiên ao ước là «nhà tiên tri những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ». Bấp chấp mọi qui luật, các đoạn đời đan xen pha trộn để cuối cùng biến thành những «vùng không gian mới», những «vùng quá khứ chưa từng có»: «Có vẻ như giờ đây anh lại một lần nữa bắt đầu yêu, một tình yêu mới một tình yêu khác nữa với Phương nhưng lẫn trong những trang chưa từng được giở ra của dĩ vãng. Và một cuộc chiến tranh khác.
Một thời buổi bão táp khác. Dưới một bầu trời khác của quá khứ». Tác phẩm của Bảo Ninh vì vậy là một thử nghiệm phi thường về ký ức cá nhân.
Bà này phán loạn cào cào về BN, trong khi với 1 người rành văn học Mít, tác phẩm NBCT của BN, không thể viết được, nếu ông không đọc VHMN trước 1975. 
Đoạn cuối NBCT rất giống kết thúc bỏ lửng của Tiếng Động của TTT. Giọng văn độc thoại, ở trong NBCT, là cũng từ giọng văn độc thoại TTT, thí dụ Cát Lầy, Cuối Đường 
Không phải là BN thuổng TTT, nhưng chính cú đụng độ giữa ông, như 1 tên lính Bắc Kít, và 1 nhà văn Bắc Kít, với 1 miền đất, khí hậu của nó, trong có khí hậu văn chương, khiến ông viết nổi NBCT.
**

Bảo Ninh, trên tờ Match du Monde [mẩu tiếng Tây: kể câu chuyện về nhân vật phản diện và những kinh hoàng của cuộc chiến được sống bởi những người bộ đội nổi tiếng], và tại nhà, do Gấu chụp, Hanoi cc 2002.
It was a soldier's story, set in battlefields of rotted corpses and the tortured soul of a young teenager who went off to serve his country, and when the novel was published in 1991 it brought Bao Ninh the closest thing in Vietnam to instant literary celebrity.
Ninh never published again - although he is believed to have finished another novel about the war, called Steppe, that he has hesitated to submit for publication.

Tại sao nhà văn nổi tiếng của Việt Nam im tiếng sau cuốn đầu tay?

Đây là câu chuyện của một người lính được đặt để trong khung cảnh của những trận đánh, và chiến trường thì đầy những xác chết đã thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn bị tra tấn đến rách bươm ra, của một chàng trai trẻ, lên đường phục vụ xứ sở của mình, và khi nó ra lò vào năm 1991, lập tức tác giả nổi lên như cồn tại Việt Nam.
Tác giả không hề in gì nữa, mặc dù người ta tin rằng, ông đã hoàn tất một cuốn tiếp theo về chiến tranh mà ông đặt tên là Steppe, và ông ngần ngại chưa đưa in.
'I stopped myself. I kept holding myself back,' Ninh told The Observer in a rare interview at his home in a section of central Hanoi favoured by middle-ranking officials. 'I compared everything I wrote to everything I wrote in the past, and it's not natural like it was before.'
"Tôi tự kìm tôi lại, tôi tự kìm tôi lui về phía sau", Bảo Ninh nói với phóng viên tờ Người Quan Sát, trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi tại nhà của ông, trong một khu trung tâm Hà Nội, nơi được đám nhân viên nhà nước bậc trung ưa thích. "Tôi so sánh mọi chuyện tôi viết với mọi chuyện tôi viết trong quá khứ, và nó không có vẻ tự nhiên như trước."
*
**

Về kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là một sáng tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.

Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu thuyết gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường tượng ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”.
Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có tên “Thân phận tình yêu”. 
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất. 
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư