For A Young Turkish Violinist



FOR A YOUNG TURKISH VIOLINIST,

DROWNED ON THE AEGEAN CROSSING
(APRIL 24, 2017)


i.m. Baris Yazgi


Reports said you were found
Clutching the case
Containing your instrument as well
As music of your own composition.

You knew what it was to place
Faith in a hollow wooden vessel,
Carried on waves, lilting in harmonic motion,
Scales like water running through your fingers.

I think of Arion of Lesbos, and his harp,
Saved by a dolphin in the legend;
Of accidentals, flat and sharp,

Of pitch, and yaw. I think of the deep sound,
Of the bow rolling across arpeggios,
No bridge but the violin's bridge.

-A. E. Stallings

NYRB Oct 11, 2018



Cho 1 tay vĩ cầm Turkish trẻ, chết đuối, khi vượt biển,

ở cái khúc Aegean Crossing, Tháng Tư 24, 2017.


Tin tức nói là, người ta kiếm thấy anh ta
Tay ôm chặt cái hộp
Trong là cây đàn và âm nhạc do chính anh ta viết ra

Anh biết chuyện gì sẽ xẩy ra
Khi đặt niềm tin của mình
Vào cái lòng thuyền gỗ rỗng tuếch
Được sóng biển bồng bềnh đưa đẩy
Như nước biển chảy trôi qua những ngón tay của mình

[Gấu nghĩ đến anh chàng Trương Chi của xứ Mít,
Và tiếng hát của chàng
Khác 1 tí, là anh ta tự trầm mình]

Tôi nghĩ tới Arion of Lesbos, và cây đàn harp của anh ta
Được cá voi cứu, trong giai thoại
Tới những câu chuyện ngẫu nhiên, hay tình cờ, bằng phẳng và nhọn hoắt.

Tới đỉnh cao, và lệch hướng.
Nghĩ đến 1 tiếng động thật sâu
Của cây vĩ cầm
Lồng lộng xuyên qua những dải âm thanh
Chẳng phải cây cầu
Không có cây cầu
Ngoại trừ cây cầu vĩ cầm



  đoạn này hình như dịch như vậy sát hơn :



.....

Of accidentals, flat and sharp, ( Tới những dấu hóa, dấu giáng, dấu thăng )

Of pitch, and yaw. I think of the deep sound, ( Tới âm thanh bổng, trầm. Tới tiếng nhạc vang vọng )
Of the bow rolling across arpeggios, ( Tới cây vĩ lướt băng qua những hợp âm )
No bridge but the violin's bridge... ( không qua chuyển đoạn nào ngoại trừ cái ngựa đàn của cây vĩ cầm )



Thay vì :

Tới những câu chuyện ngẫu nhiên, hay tình cờ, bằng phẳng và nhọn hoắt.

 Tới đỉnh cao, và lệch hướng.
 Nghĩ đến 1 tiếng động thật sâu
 Của cây vĩ cầm
 Lồng lộng xuyên qua những dải âm thanh
 Chẳng phải cây cầu
 Không có cây cầu
 Ngoại trừ cây cầu vĩ cầm
___

Accidentals : dấu hóa / dấu biến / nốt bất thường trong âm nhạc  
Flat : dấu giáng
Sharp : dấu thăng 
pitch : cao độ âm thanh
yaw (?) 
( chữ yaw K không tìm thấy trong âm nhạc, nhưng khi dùng pitch and yaw chung với nhau thì K nghĩ nó nói về độ bổng trầm của âm thanh ) ( trong camera, pitch là đưa ống kính lên xuống, yaw là quay ngang, và roll là quay nghiêng )

bow: cây vĩ của đàn violon
arpeggios : hợp âm 
Bridge :
1. Phần chuyển tiếp giữa hai đoạn verse và chorus trong một ca khúc (chuyển đoạn ?)
2. Ngựa đàn của cây vĩ cầm

Tks.
Take care.
NQT

 

AGNIESZKA TWOREK
Grief Runs Untamed

In one hand the exiles hold a bundle
with a blanket, medicine, and a comb;
in the other, a door handle.
They attach it to every mountain and wall,
hoping the handle will conjure the door
that will open and let them in.

Through the swamps, down the dirt roads,
through the frigid water the exiles go,
knowing they shall never return.
In their former homes, if there are still homes,
the wind wails. Spiders weave
their shrouds over the cupboards and beds.

Cats, left behind, wait to be scratched under their chins;
a dog smells the scarf a young girl dropped
and barks on the cellar stairs.
N ear the road thousands took to flee,
a carcass of a cow still tied to the olive tree,
abandoned like their tea sets and pots.

A widow with children runs from the Guatemalan gangs.
Newlyweds from Syria huddle in a dinghy
in the Mediterranean, their wedding rings sold
to help them pay the way. A couple from Sudan
limp along on the scorched ground with their epileptic son.
Those who survive and settle in a new place
sometimes dream at night of returning
by foot to their native homes.
When they wake up, they have blisters on their feet. 

from The Sun






AGNIESZKA TWOREK was born in Lublin, Poland, in 1975. She came to the United States with her family when she was eighteen. She received a BA in romance languages and literature from the University of Chicago and a PhD in French from Yale. She lives in Vermont.
Of "Grief Runs Untamed," Tworek writes: "I witnessed tanks and military trucks driving down the street behind my apartment building after martial law was declared in Poland when I was a child. This image has haunted me for years, reminding me that freedom and peace are fragile, and that war may be lurking around every corner.
I have realized that it is important to look out the window of one's own life, to see what is beyond it, to observe what is happening in the larger world, to be a witness. I was fortunate to be accepted as an immigrant in the United States in 1993, yet I am aware that many displaced people around the world today are not welcome anywhere. My poem 'Grief Runs Untamed' attempts to chronicle the plight of such people, who have been brutally uprooted from their lives in so many places because of wars, drought, tyranny, gang violence, and religious and ethnic persecution. I wrote it as an elegy for the countless lives lost, for people who may never reach safety, and for those forced into exile and makeshift existences, who may never feel at home anywhere.
"Initially, I included the phrase 'grief runs untamed' in one of the lines of the poem; grief in that earlier version was confined to the abandoned houses. However, in the present version, the grief is much larger: the refugees and the world are its captives. It is boundless, and so it became the title of my poem." 

Note: Cái tít của bài thơ, nghĩa đen, tạm dịch, như sau: Nỗi đau chạy dài không chịu thuần hóa, và nó làm nhớ tới bức tranh năm nào của Phạm Tăng, cho cho 1 số báo Xuân của tờ nhật báo Tự Do, Chúng ta đi mang theo quê hương, với những trò chơi Xuân của đồng bào Bắc Kỳ di cư, nào là đánh du, nhảy dây, cây nêu, pháo tết… 

Tác giả bài thơ sinh tại Lublin, Ba Lan, đúng năm 1975 đau khổ của lũ Nguỵ! Bà tới Mẽo cùng với gia đình, khi 18 tuổi. Lấy cái bằng BA về ngôn ngữ romance [chẳng biết dịch là gì, tiểu thuyết, lãng mạn, hay ngôn tình?]  (1) và văn chương Đại Học Chicago, và PD tiếng Tẩy, Đại Học Yale. Sống tại Vermont.

Về “Khổ Đau Chạy Không Thuần Hóa”, bà viết: Tôi chứng kiến xe tăng, xe nhà binh chạy dài trên đường phố, nơi tôi ở, khi tuyên bố giới nghiêm, ở Ba Lan, khi tôi là 1 đứa con nít. Hình ảnh này ám ảnh tôi dài dài trog nhiều năm, nhắc nhở tôi, tự do và hòa bình thì thật là mong manh và chiến tranh thì lúc nào cũng rình rập từ bất cứ 1 xó xỉnh. Và tôi nhận ra, thật quan trọng, là nhìn ra từ cửa sổ của cuộc đời của mình, để nhìn quá nó, để nhìn ra chuyện gì xẩy ra trong 1 thế giới rộng lớn hơn, như 1 chứng nhân. Tôi thật may mắn được nước Mỹ chấp nhận, như là 1 di dân, vào năm 1993, tuy nhiên, tôi lúc nào thì cũng ray rứt vì những con người bị đánh bật ra khỏi nhà đất quê hương của họ trên khắp thế giới, vào lúc này, không còn được tiếp đón niềm nở như trước đây. Bài thơ của tôi toan tính nắm bắt số phần của những người như thế đó, họ tàn nhẫn bị đánh bật gốc, vì chiến tranh, khô hạn, độc tài, bạo lực băng đảng, bách hại về tôn giáo, chủng tộc. Tôi viết nó như 1 bi khúc, cho hàng hàng cuộc đời bị mất mát, cho những người chẳng có được may mắn tới được chốn an toàn, cho những người bị bắt buộc phải lưu vong và những cuộc đời, những hiện hữu tạm bợ, cho những con người có thể chưa từng cảm thấy “nhà của mình” ở bất cứ nơi nào.



 Chúng ta đi mang theo quê hương

Trong 1 tay, những kẻ lưu vong cầm 1 nắm nào là,
Chăn mền, thuốc thang, và cái lược
Tay kia, cái núm cửa
Họ đóng nó lên mọi ngọn núi, mọi bức tường
Hy vọng, cái núm cửa, giống như 1 câu thần chú, cái gì gì - hạt vừng mở ra, Sésame, ouvre-toi”
Và cửa sẽ mở cho họ vô

Qua những đầm lầy, những con đường bụi bặm, dơ bẩn
Qua những con nước cứng rắn
Những người lưu vong đi,
Biết, sẽ chẳng bao giờ trở lại
Ở những ngôi nhà cũ của họ, nếu họ vẫn còn nhà ở đó
Gió than van.
Nhện giăng đầy

Mèo, bị bỏ lại, đợi được chủ xoa gãi ở nơi dưới cằm
Một con chó, ngửi mùi khăn một cô gái đánh rớt
Bèn sủa inh ỏi ở cầu thang nơi hầm nhà.
Nơi con lộ hàng ngàn người bỏ chạy,
Bộ xương một con bò cái vưỡn còn được buộc vào 1 thân cây olive
Trở thành hoang phế, như bộ đồ uống trà, nào chén, nào ly, nào ấm đun nước…

Một góa phụ cùng con cái bỏ chạy băng đảng Guatemalan.
Những người mới tới từ Syria lộn nhộn, nháo nhác, trong 1 chiếc xuồng
Ở Địa Trung Hải
Nhẫn cưới thì bèn được đem bán, để trả lộ phí – y chang lũ Ngụy, hà, hà –
Một cặp vợ chồng từ Sudan
Ủ rũ trên mặt đất cháy xém
Với đứa con trai bị bịnh động kinh

Những người sống sót và định cư ở một nơi chốn mới
Đôi khi đêm, nằm mơ trở về lại
Đi bộ trở lại nơi làng xóm quê nhà ngày nào
Khi họ thức giấc
Da bàn chân họ
Vưỡn bỏng, vưỡn rát

(1)

 

--Definition of Romance language 

a language (such as French, Italian, or Spanish) that developed from Latin.



--Romance language - the group of languages derived from Latin
Haitian Creole - a creole language spoken by most Haitians; based on French and variousAfrican languages
Latin - any dialect of the language of ancient Rome
Italian - the Romance language spoken in Italy
French - the Romance language spoken in France and in countries colonized by France
Portuguese - the Romance language spoken in Portugal and Brazil
Galician - a language spoken in Galicia in northwestern Spain; it is between Portuguese andSpanish but closer to Portuguese; sometimes considered a Portuguese or Spanish dialect
Spanish - the Romance language spoken in most of Spain and the countries colonized bySpain
Catalan - the Romance language spoken in Catalonia in eastern Spain (related to Spanish andOccitan)
Rhaeto-RomanceRhaeto-Romanic - Romance dialects spoken in parts of southeasternSwitzerland and northern Italy and the Tyrol
RumanianRomanian - an eastern Romance language spoken in Romania



Tks. NQT




Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư