Jean Amery
Jean
Améry
… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt [Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt [Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt,
le vrai mal du pays, le Hauptwehe,
“nỗi nhức nhối số 1 “la douleur capitale”, nếu tôi được
phép mượn từ của Thomas Mann, thì khác, cực
khác về bản chất, so với những gì tôi viết ở
trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn
bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát
hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì nữa, cũng chẳng có
gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất, và bạn cũng
không vãi ra những giọt nước mắt đồng lõa. Sầu
Xa Xứ không phải là tự an ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
The destruction of someone's
native land is as one with that person's destruction. Séparation
becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new
homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever
has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble
about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’
to which Améry confesses, although he wants no more to do with
that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim,
"In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini"
("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran
commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security.
"Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent.
Même sous la forme du regret, elle prend un caractère
dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement,
protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's
homesickness was of course in line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry:
Chống Bất Phản Hồi: Against
The Irreversible.
[Sự huỷ diệt quê nhà
của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính
ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách
nát, và chẳng thể nào có quê
mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu
và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là
tiêu táng thòng, là ô hô
ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là
'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn
sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng
một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá
đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ
vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán,
là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng
ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không
còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ
cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông
viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay
cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có
cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật
mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống
cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà
của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước
muốn xem xét lại lịch sử].
L'homme a des endroits de son
pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur
entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.
W.G. Sebald trích dẫn,
làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim:
Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter
Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works
of Peter Weis, trong "Lịch sử
tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction",
nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.
… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss
"La catastrophe nazie est désormais la référence absolue et radicale de toute existence juive."
Tai ương Nazi từ nay là điểm qui chiếu tuyệt đối, triệt để, tất cả hiện hữu Do Thái.
Tai ương 30 Tháng Tư 1975, và cùng với nó, Lò Cải Tạo... từ nay là điểm qui chiếu, tuyệt đối, triệt để, mọi hiện hữu Mít.
Il n'est pas bon de ne pas avoir de patrie
Thư tín,
Đừng lèm bèm chuyện về Hà
Nội không còn nhà.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.
Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.
Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.
Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam hết.
Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.
Note:
Cuốn này, cũng 1 cuốn gối đầu của Gấu, được vị bằng hữu O gửi cho. May sao còn, không bị vụ phần thư vừa rồi!
Mỗi lần đọc, là mỗi lần nhớ đến kinh nghiệm của Tam Ích. Ông phán, đại ý, tuổi trẻ của tôi thật là tuyệt vời nếu không vô tình biết đến Lò Thiêu. Biết 1 phát, thế là xong không chỉ tuổi trẻ, mà luôn cả cuộc đời.
Có thể vì lý do như thế mà Ông Giời phải để cho Gấu, về già, mới cho đọc 1 số tác giả, như Jean Améry!
Hay có được những vì bằng hữu như hai vị O & K!
Cuốn này, cũng 1 cuốn gối đầu của Gấu, được vị bằng hữu O gửi cho. May sao còn, không bị vụ phần thư vừa rồi!
Mỗi lần đọc, là mỗi lần nhớ đến kinh nghiệm của Tam Ích. Ông phán, đại ý, tuổi trẻ của tôi thật là tuyệt vời nếu không vô tình biết đến Lò Thiêu. Biết 1 phát, thế là xong không chỉ tuổi trẻ, mà luôn cả cuộc đời.
Có thể vì lý do như thế mà Ông Giời phải để cho Gấu, về già, mới cho đọc 1 số tác giả, như Jean Améry!
Hay có được những vì bằng hữu như hai vị O & K!
Đọc Améry,
cực kỳ thê lương.
Không tốt gì đâu, cái chuyện không đọc Jean Améry!
[Thuổng văn của ông, Il n'est pas bon...].
Trong số những người sống sót Lò Thiêu, khủng nhất là Améry, đúng như Kertesz gọi ông, Ông Thánh Lò Thiêu:
Không tốt gì đâu, cái chuyện không đọc Jean Améry!
[Thuổng văn của ông, Il n'est pas bon...].
Trong số những người sống sót Lò Thiêu, khủng nhất là Améry, đúng như Kertesz gọi ông, Ông Thánh Lò Thiêu:
Ông
thấy ông đứng ở đâu so với các chuyện do Elie Wiesel hay
Primo Levi kể?
I.K.
Chỉ vừa mới gần đây tôi mới được đọc Đêm Đen - La Nuit,
của Elie Wiesel, bởi vì vào năm 1960, quyển sách này
không có ở Hung. Tôi choáng váng khi đọc:
tôi khám phá hóa ra lúc đó chúng
tôi cùng ở Buchenwald. Wiesel để lại trong lòng tôi
rất nhiều ấn tượng. Còn Primo Levi thì khác. Ông
ta chưa tận căn cho đủ. Tôi muốn nói ông không bao
giờ rời tầm nhìn nhân văn của sự việc mà đối với tôi
điều này thật hoàn toàn xa lạ. Với tôi, kiệt nhân
của trại tập trung là văn sĩ người Pháp: Jean Améry.
Ông ta mới là người đi rất xa, nhất là trong quyển Vượt quá tội ác và hình phạt - Par-delà le crime et le châtiment. Tuyệt đối phải đọc các bài trao đổi giữa ông và Primo Levi: Améry nói đến cái thiết yếu. Chưa ai đi xa hơn ông trong cách suy nghĩ về chế độ tập trung chủ nghĩa.
Comments
Post a Comment