DLV: Vô Kỵ Giữa Chúng Ta II
Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu:
Kỳ
2
Đỗ Long Vân
VÔ KỴ GIỮA CHÚNG
TA
hay là
HIỆN TƯỢNG KIM
DUNG
6. Trở về nguyên lý
"Huyền hoặc thay, sở hữu thế gian không bắt đầu từ Sáng Thế Ký, mà là khi tư hữu bắt đầu, tức là từ Đại Hồng Thủy, khi con người bắt buộc phải đặt tên cho từng chủng loại, lo nơi ăn chốn ở cho chúng, tức là tách chúng ra khỏi những chủng loại khác."
(Roland Barthes: "Không độ của cách viết").
"Với những nhà thông thái, rạng đông và hoàng hôn chỉ là một hiện tượng, và những người Hy Lạp cũng nghĩ như vậy, bởi vì họ dùng một từ để xác định…."
"Rạng đông chỉ là khởi đầu một ngày, đêm xuống mới là lập lại của nó."
(Claude Lévi-Strauss: "Nhiệt Đới Buồn")
Muốn thống nhất võ lâm thì
phải là một cao thủ vô địch. Nhưng khi chẳng võ
công nào vô địch cã thì làm sao? Tưởng chỉ có
một cách duy nhất là nghiên cứu tất cả những võ
công của thiên hạ. Ấy là tham vọng của Mộ Dung.
Nhưng ai có thể thực hiện được? Khi ngay võ công
của môn phái mình cũng chẳng mấy người luyện
hết. Hơn thế nữa những võ công phức tạp đòi hỏi
một nội lực thâm hậu. Nội lực thâm hậu thì không
những võ công nào cũng luyện được mà, như người
ta biết, có thể lấy những miếng võ thuật là thô
thiển để thắng những võ công ảo diệu hơn. Như
thế thì điều trọng yếu của võ học không cứ ở võ
công, mà tới một độ nào người ta chỉ coi là
những khoa chân múa tay, mà thật ra ở nội lực.
Nội lực mới là căn bản của võ học. Nhưng người
ta hiểu rằng có sự trở về nguồn ấy là tại võ học
không còn thống nhất nữa. Và nếu sau này Vô Kỵ
có thể thu võ lâm vào một mối thì cũng tại chàng
đã tìm lại được nguyên bản của Cửu chương Chân
kinh và luyện một cách chu toàn môn thần công
chép trong kinh ấy. Sự thâm hậu của nội lực, tuy
nhiên, mới là một điều kiện cần nhưng chưa đủ.
Cái may thứ hai của Vô Kỵ là đã vớ được Càn khôn
Đại nã Di Tâm pháp mà, nhờ một nội lực siêu
phàm, chàng có thể lãnh hội trọn vẹn. Võ công
trong thiên hạ, có nhiều thật, nhưng đều cùng
một gốc và chẳng ra khỏi những quy luật của tự
nhiên. Sao người ta không thể tìm ra những quy
luật chung cho những võ công trên đời? Càn khôn
Đại nã Di Tâm pháp không phải là một võ công ảo
diệu hơn những võ công khác, nó là nguyên lý của
mọi võ công, và người ta có thể coi nó như một
thứ văn phạm đại cương tổng hợp và giải thích
những văn phạm đặc biệt. Cho nên dù gặp những võ
công phức tạp đến mấy thì, nhờ Tâm pháp ấy, Vô
Kỵ cũng có thể định ra cơ thức của nó và phá
giải được. Khi thì chàng dùng ngay võ công của
đối thủ để trả đòn làm cho y ngơ ngác không biết
tên này làm thế nào mà biết được những tuyệt kỹ
bí truyền của môn phái mình, khi thì, ngộ nghĩnh
hơn, chàng chuyển những đòn của đối thủ trở về
đánh lại y và đồng bọn gây ra không biết bao
nhiêu cảnh khôi hài. Ai chẳng còn nhớ trận Huyền
minh nhị lão vây đánh Vô Kỵ bị chàng giở Đại nã
di Tâm pháp, làm cho nhị lão, đòn người này
trúng phải người kia, và sau cùng, giận quá đâm
ra đánh nhau thực sự. Ấy là thuật “lấy gậy ông
đập lưng ông” và chính nó đã cho phép Vô Kỵ
khuất phục chúng anh hùng và thống nhất võ lâm.
7. Giấc mộng bách khoa
"Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt… Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy."
"Tiếc thay võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng."
"Sự tổng hợp ấy, sau Vô Kỵ, không xẩy ra một lần nữa."
"Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung, như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và sự tìm thấy lại."
ĐLV
7. Giấc mộng bách khoa
"Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt… Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy."
"Tiếc thay võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng."
"Sự tổng hợp ấy, sau Vô Kỵ, không xẩy ra một lần nữa."
"Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung, như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và sự tìm thấy lại."
ĐLV
Nhưng đâu có phải ai cũng
biết Càn khôn Đại nã di Tâm pháp? Cái may của Vô
Kỵ chỉ đến một lần. Khi Triệu Minh muốn nghiên
cứu võ học Trung Nguyên thì nàng chẳng biết làm
gì hơn là bắt cóc những cao thủ của chín đại môn
phái buộc họ phải thi triển những tuyệt kỹ của
bản môn cho nàng xem. Những người khác cũng có
thể tìm cách học từng võ công một. Càng nhiều
càng hay. Và trên con đường của tri thức, võ học
từ một phương tiện dần dần trở nên một cứu cánh
tự tại. Khi ấy sinh ra những nhân vật như Vương
Nạn Cô chuyên chế những độc dược càng ngày càng
độc, để hết bỏ cho người này lại bỏ cho người
khác, và sau cùng bỏ ngay cho chính nàng nữa,
trong mục đích duy nhất là để cho chồng nàng là
Thần y Hồ Thanh Ngưu phải xin chịu là thua. Lại
có Châu Bá Thông mê học võ công hơn mê gái,
luyện võ công không để áp chế ai cả, nhưng vì võ
công và như để chơi. Ấy là không kể một Cưu Ma
Trí võ công đầy mình mà cứ hết chạy ngang lại
chạy dọc, suốt đời bôn ba tìm cách học thêm, tuy
chẳng ai biết là để làm gì. Nhưng ai ngờ rằng sự
uyên bác, mai mỉa thay, trong cái thế giới bạo
động và sự công hiệu trực tiếp ấy, lại trở nên
một giá trị? Nó là tất cả uy danh của họ Mộ
Dung, cái nên thơ của Vương Ngọc Yến, và biến
Tàng Kim Các, nơi tích trữ những võ học kỳ thư
trong Thiếu Lâm tự thành một ám ảnh cho những
người luyện võ. Ai chẳng còn nhớ cuộc gặp gỡ mở
đầu truyện Đồ Long Đao giữa Quách Tường và sư Vô
Sắc? Vô Sắc ỷ vào kinh nghiệm và kiến thức của
mình, cuộc rằng sau mười thế võ ông có thể nhận
ra môn phái của Quách Tường. Nhưng Quách Tường
cướp tiên cơ, công một loạt mười thế võ nguồn
gốc khác nhau mà nàng được những cao thủ danh
trấn giang hồ truyền thọ cho, trước khi chấm dứt
bằng một thế của chính Thiếu Lâm tự, làm cho,
nếu không xảy ra một chuyện tình cờ, Vô Sắc suýt
nữa đành chịu thua. Hào hứng của câu chuyện là
cuộc đấu võ đã thành ra một cuộc đấu trí. Thắng
Quách Tường thì làm gì Vô Sắc không thắng nổi.
Nhưng ông muốn lấy cái học của mình để khuất
phục người con gái ngỗ ngược ấy. Và người ta
không biết phục gì hơn giữa tác phong của nhà sư
và sự uyên bác của một cô gái mười mấy tuổi đầu.
Cuộc đua võ học ấy, tuy nhiên trong cái phong
thái tài tử của nó, như ngấm ngầm lên án cái võ
lực thuần tuý. Sự thắng trận nà có ý nghĩa khi
tất cả đều bị tương đối hoá? Con người võ hiệp
của Kim Dung trong một thế giới đã mất nguyên
lý, trước khi, như Đoàn Dự, nguyền rủa võ học để
tôn thờ nhan sắc, bắt đầu quên sứ mạng nhập thế
của mình để lạc vào một giấc mộng bách khoa.
Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi thì dựa trên kinh dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo; y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người; dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp; nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích; thi ca có: ấy là Đồ long công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và cây kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ v.v… Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cảnh cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung, ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những tận đồ của Hoàng Dược sư? Vừa là một kỹ sư con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gẩy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình, Trương Thuý Sơn vẫn đam mê thư pháp, Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa, Hàn Tố Tố vẫn bình văn Trang Tử, Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp, Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thọ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A chu nữa, thoắt cái nàng biến thành bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.
Con người võ học càng ngày càng muốn kiêm bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tinh Hà. Không môn học nào là ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các những võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng dầy. Ai là người đã thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến những cơ thức và khả năng của một võ công của môn phái một cách tường tận hơn là ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫm chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả diễn biến của trận đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý. Tiếc sao võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy cũng như Đoàn Dư, ngoài thình yêu, chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau: một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu Cáp thần công có sức hút công lực của người khác, mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy, sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết khi một Vô Kỵ, vừa có Cửu dương Chân công, vừa có Càn Khôn Đại Mã Di Tâm pháp, thâu tóm trong một cái tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.
Nhưng trong Thiếu Lâm Tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay! Thí mạng để độc chiếm một võ công như ông và trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết, mà cứ giữ khư khư ôm lấy con dao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con dao ấy có giữ một võ học kì thư, vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả, mà vẫn chưa biết chán võ học bao giờ, vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một cũng như trong Tàng Kinh Các cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kì thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ khác thường. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ đóng thành tổng hợp. Ngay Càn Khôn Đại Nã Di Tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bảy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa và chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra Tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay là tại Kim Dung vẫn muốn dành một phần cho thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn sau một đời khổ luyện tưởng đã đạt tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bậc của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ bị tẩu hoả nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy tuy nhiên mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và của sự tìm thấy lại.
Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi thì dựa trên kinh dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo; y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người; dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp; nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích; thi ca có: ấy là Đồ long công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và cây kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ v.v… Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cảnh cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung, ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những tận đồ của Hoàng Dược sư? Vừa là một kỹ sư con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gẩy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình, Trương Thuý Sơn vẫn đam mê thư pháp, Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa, Hàn Tố Tố vẫn bình văn Trang Tử, Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp, Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thọ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A chu nữa, thoắt cái nàng biến thành bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.
Con người võ học càng ngày càng muốn kiêm bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tinh Hà. Không môn học nào là ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các những võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng dầy. Ai là người đã thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến những cơ thức và khả năng của một võ công của môn phái một cách tường tận hơn là ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫm chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả diễn biến của trận đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý. Tiếc sao võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy cũng như Đoàn Dư, ngoài thình yêu, chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau: một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu Cáp thần công có sức hút công lực của người khác, mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy, sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết khi một Vô Kỵ, vừa có Cửu dương Chân công, vừa có Càn Khôn Đại Mã Di Tâm pháp, thâu tóm trong một cái tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.
Nhưng trong Thiếu Lâm Tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay! Thí mạng để độc chiếm một võ công như ông và trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết, mà cứ giữ khư khư ôm lấy con dao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con dao ấy có giữ một võ học kì thư, vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả, mà vẫn chưa biết chán võ học bao giờ, vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một cũng như trong Tàng Kinh Các cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kì thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ khác thường. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ đóng thành tổng hợp. Ngay Càn Khôn Đại Nã Di Tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bảy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa và chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra Tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay là tại Kim Dung vẫn muốn dành một phần cho thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn sau một đời khổ luyện tưởng đã đạt tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bậc của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ bị tẩu hoả nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy tuy nhiên mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và của sự tìm thấy lại.
Đỗ Long Vân
___________________________
Ghi chú:
Sự ra
đời của Cửu Dương thần công.
Cửu Dương thần công được viết bên lề một cuốn kinh. Bộ Thần Điêu đại hiệp chấm dứt khi Dương Qua, trước khi tuyệt tích giang hồ cùng người yêu mà cũng là thầy, là Tiểu Long Nữ, đã giúp nhà sư Thiếu Lâm bắt hai tên trộm kinh sách trong có võ công, nhưng không kiếm thấy tang vật.
Bộ Ỷ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao bắt đầu từ nghi án đó: sự mất tích của một nguyên lý.
Nguyên lý mất tích, nhưng dấu vết của nó vẫn còn, qua Giác Viễn và đệ tử của ông, và "trở thành hiện thực", qua cuộc tỉ võ giữa Côn Luân Tam Thánh với Trương Quân Bảo.
Và qua những lời lẩm bẩm trước khi chết của Giác Viễn. Ba người được nghe. Một hiểu hết, là nhà sư Vô Sắc, nhưng ông cũng tuyệt tích giang hồ sau đó. Một nghe, nhưng không hiểu hết, là Trương Quân Bảo, do còn nhỏ chưa từng học võ công. Một nghe, nhưng cũng không hiểu hết, là Quách Tường, chỉ vì sở học trước đó của nàng khác hẳn những gì nàng nghe được, từ miệng nhà sư.
Đây là tư tưởng cơ bản của Roland Barthes: vấn đề ý nghĩa (le problème de la signification), và con người, như là kẻ tạo ra những ký hiệu (Homo significans). Quách Tường khăng khăng không tin những gì mình nghe được – những ý nghĩa mới về võ học, từ miệng nhà sư, trong cơn hấp hối, đọc tứ lung tung, đâu là trang Kinh, đâu là võ công viết bên lề- là do sở học của nàng trước đó: muốn thắng địch là phải ra đòn trước, để cướp tiên cơ. Cửu Dương thần công nói ngược lại. Vô Kỵ, khi xả thân cho Minh Giáo, chịu đòn của Diệt Tuyệt, phải tới chưởng thứ ba, mới nhận ra nguyên lý này: địch mạnh mặc kệ nó…. Một cách nào đó, Cửu Dương thần công là một nguyên lý đảo ngược quan niệm võ công có trước nó. Người ta đã chẳng coi Marx lật ngược luận lý của Hegel và sáng tạo ra duy vật biện chứng pháp? Và từ những mảnh vụn của Cửu Dương thần công, võ lâm Trung nguyên đã có thêm một số môn phái, mỗi môn phái lại đem đến cho võ học những võ công mới, những quan niệm mới về võ học: nào là một lạng đấu ngàn cân, Thái cực quyền, Thái cực kiếm mà nguyên lý của nó là phải quên hết những chiêu thức…
Và đó là một trong những hạnh phúc được làm người: được tự do ban ý nghĩa cho sự vật.
Cho nên, hãy cùng than với Đỗ quân: Cảnh tượng mới tuyệt vọng làm sao! Sự mất tích nguyên lý [Cửu Dương thần công] dẫn tới tham vọng vượt bực... và cuối cùng khám phá ra rằng nghi án mất kinh phật nằm ngay trong sự lãng quên của con người…
***
Nội lực mới là căn bản của võ học.
Nhưng nội lực cũng mang trong nó mầm thiện, hoặc ác. Du Thản Chi, công lực thượng thừa do luyện thành Dịch Cân Kinh, trong người lại đầy chất kịch độc, đòn đánh trúng Bao Bất Đồng, độc như thế, lạnh như thế (do chất hàn độc của băng tầm), nhưng kẻ bị đòn vẫn khăng khăng, đây là võ công của Phật môn. Càn khôn đại nã di, oai lực là như thế, nhưng khi Vô Kỵ sử dụng để đấu với ba nhà sư vai vế chữ Độ, cùng với Chu Chỉ Nhược, nhằm cứu Tạ Tốn, chàng chẳng cần bị đánh trúng, nhưng suýt nữa trở nên khùng, nếu không có những lời tụng kinh của Tạ Tốn từ dưới hầm sâu vọng lên hoá giải hết ác niệm trong người Vô Kỵ. Xem thế, "nguyên lý của mọi võ công", hay cái thực hành (praxis) không phải là "nguyên lý của mọi nội công" (lý thuyết). Chính vì vậy, khi Cưu Ma Trí tự khoe thành thạo đủ 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, chỉ có Hư Trúc biết là nhà sư Thổ Phồn này nói láo, và đã sử dụng nội công của Đạo gia ra đòn Niêm hoa vi tiếu (?) đánh thủng ngực vị cao tăng Thiếu Lâm. Bị Hư Trúc tố cáo, "đó không phải là võ công của Thiếu Lâm", Cưu Ma Trí, vì không biết Hư Trức là đệ tử của Thiên Sơn Đồng Mỗ, tức là cũng biết môn nội công tiểu vô tướng công (?), nên đã cho rằng, bởi vì đòn của mình quá "bá đạo" nên mới lộ tẩy: điều này chứng tỏ, muốn sử dụng võ công Thiếu Lâm phải có nội công Thiếu Lâm. Nói rõ hơn, phải có Phật pháp ở trong lòng: Cao tăng Thiếu Lâm, và chúng anh hùng chẳng đã "lắc đầu chiêm ngưỡng"cuộc đấu giữa Hư Trúc và Đinh Xuân Thu, hai đại cao thủ Đạo gia: như hai vị thần tiên nhẩy múa, nhưng đòn nào cũng chí mạng. Cũng chính vì tập luyện võ công Phật môn (thực hành), mà lại không có Phật tính (lý thuyết), nên Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn mới bị trọng thương, sau nhờ nhà sư già dùng qui tức công cứu chữa, và sau đó qui y cửa Phật; còn Cưu Ma Trí, do cũng là người cửa Phật, cho nên đại họa chỉ xẩy tới khi tham lam học thêm môn Dịch Cân Kinh…
Vương Ngọc Yến thuộc lòng võ công trong thiên hạ, chỉ trừ Lục Mạch Thần Kiếm, Dịch Cân Kinh. Liệu có thể coi hai môn võ công này là độc nhất trong thiên hạ? Dịch Cân Kinh đã có người học được, là Du Thản Chi, nhưng khi xuất thủ nó lại trở thành tối độc, do chất độc của con băng tầm. Lục Mạch Thần Kiếm, xuất thủ khi được, khi không. Điều này chứng tỏ: Cái đẹp nhất, cái tuyệt hảo, là cái bất toàn, và chúng ta có thể nói theo George Steiner: "chưa hoàn tất" là mật khẩu đi vào thế giới võ học của Kim Dung.
***
"Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung, như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà là của sự trở về và sự tìm thấy lại".
Theo Đỗ Long Vân, Vô Kỵ đã có được cả hai, Cửu Dương (nội công thượng thừa của Thiếu Lâm) và Càn khôn (nguyên lý của mọi võ công), thâu tóm trong một cá nhân tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy, sau Vô Kỵ, không xẩy ra một lần nữa.
Nhưng Vô Kỵ, cho dù đã được "tổng hợp", chỉ trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ, khi trở về Võ Đang học được Thái Cực Kiếm, và được Trương Tam Phong dậy bảo thêm về võ học. Nhờ vậy, Vô Kỵ đã đã bại Huyền Minh nhị lão tại ngôi chùa, nơi Triệu Minh giam giữ quần hào võ lâm. Chứng kiến trận đấu, Minh Giáo hữu sứ Dương Tiêu đã phải thốt lên: Trương Tam Phong là "người nhà trời" là vậy.
Tuy võ công của Trương Tam Phong là từ một mẩu vụn của Cửu Dương chân kinh mà ra, nhưng Thái Cực Quyền Kiếm, Miên chưởng… là hoàn toàn do Trương Tam Phong sáng tạo. Giả sử không có Trương Tam Phong, Cửu Dương chân kinh không thể nào đạt được đến mức tuyệt hảo của nó, qua đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, là Vô Kỵ. Điều này chứng tỏ: không thể chỉ có "sự trở về, tìm thấy lại". Sáng tạo chỉ là lập lại, nhưng một sự lập lại không giống như trước nữa.
Và cái cảnh trở về tìm thấy lại, phải chăng nó giống như một anh chàng gặp tiên gặp hồ, khi tỉnh giấc, thấy chung quanh không còn lâu đài, mà là mồ mả, mở đôi hài của người đẹp ra mân mê, thì đôi hài biến thành sương thành khói, hoặc tựa chiếc lá vàng nhẹ nhàng bay lên thinh không…?
**
Giấc mộng bách khoa: Vai trò của Triết học, Thi ca… trong truyện võ học.
Roland Barthes nhận xét "văn chương của chúng ta" đã mất khá thời gian mới khám phá ra "vai trò phụ", của những gì ở bên ngoài con người và ở bên trong một cuốn tiểu thuyết: Phải đợi tới Balzac tiểu thuyết mới không còn chỉ là chuyện giữa người và người, mà cũng còn của đồ dùng, vật liệu. Chúng được gọi ra để chơi vai trò của chúng trong tiểu thuyết. Làm sao Grandet biển lận, theo nghĩa đen của từ này, nếu thiếu những mẩu nến, những miếng đường, cái thập tự bằng vàng?
Cũng thế, vai trò của những triết, thi, họa… ở trong tiểu thuyết của Kim Dung. Thiếu tài hóa trang của A Chu, làm sao thảm kịch Người Đại Ác đạt tới mức bi thương đến như vậy? Cái chết của A Châu, là do nàng tự nguyện, cho nên không thể nói là thảm khốc, nhưng "Tuyệt Bi" bắt đầu, khi A Châu giả dạng một vị sư vào Thiếu Lâm ăn trộm Dịch Cân Kinh… Đây là nghi án thứ nhì, sau nghi án thứ nhất xoay quanh cuốn kinh "ở trong dầu", tức Cửu Dương chân kinh.
Ôi! Thông minh như Kiều Phong, cẩn trọng như Kiều Phong, tại sao lại không nhận ra những dáng dấp quen thuộc của A Châu, khi hóa trang làm Kẻ Đại Ác?
Hay là tại hận thù làm mờ lý trí? Nhưng nếu không có sự lầm lẫn đánh chết người yêu, làm sao nhận ra, là người yêu vì mình mà chịu chết?
Bi kịch đẻ ra bi kịch: Chứng kiến Kiều Phong đánh chết chị, và những giọt nước mắt đổ xuống hoà với máu, A Tỉ nhận ra người yêu đích thực của mình là Kiều Phong… Tình Yêu ở trong Kim Dung là "đệ nhất cái đẹp"!
Nhân đây, xin giới thiệu bài viết của một nữ độc giả, hay là một hồng nhan tri kỷ của ông:
"Còn mãi Kim Dung."
Phương Hồng Diễm (Trung Quốc).
"Nào biết đó là nỗi bi ai cho tôi hay nỗi bi ai của cuộc sống đây?"
Khoảng mười năm trước, khi Kim Dung một thân, một kiếm đi khắp Thần Châu, tôi mới 18 tuổi, đang còn đi học.
Các bạn học sinh nam chuyền tay nhau đọc như điên, thành hẳn một phe đối lập với Quỳnh Dao của phe nữ. Chỉ trong một lúc mà thế giới chia hẳn thành hai cực nam, bắc; một bên bóng đao ánh kiếm, một bên người đẹp như tranh.
Mười năm trước đây, hầu hết học sinh đều rất nghèo, nhưng đám Kim Dung lại dương dương đắc ý, chỗ nào ống tay áo phất tới là kết giao bạn bè. Do túi rỗng không xu, các bạn trai bèn phân công nhau mua, hẹn ngày chuyền tay nhau đọc. Cứ đến cuối tuần thì trong lớp học hay trên bãi cỏ thế nào cũng có các hiệp sĩ võ lâm họp mặt nhau lại để ấn chứng võ nghệ, vui quên cả mệt mà rèn luyện công lực nội thân. Có điều họ giao lưu võ công không cần dùng đến tay chân mà chỉ dùng mồm: nào Đông Tà, Tây Độc, nào Nam Đế, Bắc Cái, nào Tuyết Sơn Phi Hồ, nào Thần Điêu hiệp lữ… mười tám ban võ nghệ đều khảng khái từ miệng phát ra, thỉnh thoảng lại thêm một số ca từ, thơ phú điểm xuyết giữa chừng để tăng thêm vị bi tráng sâu xa. Tất nhiên cũng có khi động thủ, ấy là lúc đôi bên bất chợt đấu khẩu, đấu đến mức lục tung cả Kim Dung đến cùng cực mà vẫn không phân biệt được sắc thu, cũng là đến lúc cưỡi hổ khó xuống, chỉ còn cách dùng chưởng, đúng như Kim Dung nói, là đã đến lúc tỉ thí nội lực rồi. Nếu đúng lúc này không may có mấy nàng Quỳnh Dao đứng cạnh, đưa mắt xinh như mộng thẫn thờ xem trận đấu thì sự việc lớn bậc nhất đồn ầm lên trong làng võ lâm ngày hôm sau ắt là tin "một chết một bị thương" giữa hai cao thủ nội lực ngày hôm trước.
Bây giờ nghĩ lại tình hình lúc ấy, bất giác không tránh khỏi mỉm cười, nhưng câu chuyện hồi ấy, nơi kết quả khiến ai nấy đều cảm động. Các bạn nam trong lúc văn tài rờ rỡ, để hết tâm trí vào một kiếm cho xong ân oán, quyết chí giang hồ và những ánh mắt si ngây nhìn theo quả thực ai cũng phải thổn thức.
Trong một buổi hoàng hôn se lạnh, lá vàng lác đác rơi trước gió thu, tôi gặp một bạn nam để mượn Kim Dung; tôi nhớ lúc ấy dường như bên sân bóng, khá lạnh. Trong lúc vui mừng tột độ, bạn nam xúc động đến nỗi hai mắt sáng lên. Ánh mắt ấy, xuyên qua cặp kính dầy cộm phản chiếu lại ráng chiều tĩnh mịch, thật là sảng khoái lâm ly chẳng khác gì đi giữa chốn giang hồ hiểm ác, cuối cùng gặp được tri âm, nhất là tri âm ấy lại là hồng nhan.
Anh bạn trước hết khen Thiên Long Bát Bộ với tôi, đồng thời say sưa đọc thuộc lòng những tiêu đề mỗi hồi trong sách. Giới thiệu nhiệt tình đến thế, tất nhiên tôi không thể không có gì đáp lại, thế là nhận sách xong, tôi mỉm nụ cười rồi mới quay gót bước đi. Anh chàng kinh ngạc lần nữa rồi cất tiếng thở dài xa xa vọng lại: "Mĩ mục miện hề, xảo tiểu thuyến hề!" [Chữ trong sách Luận Ngữ, dẫn lại từ bài Thạc nhân trong Kinh Thi, nghĩa là: Má lúm cười xinh sao, mắt long lanh đẹp sao! Chú thích của nhà xuất bản].
Đọc rồi mới thấm thía với cảm giác "túy lúy biết rượu ngon", thì ra Kim Dung uyên bác tinh thâm nhường ấy. Đọc vào tình tiết thì không còn làm chủ được mình nữa. Anh hùng mĩ nữ, chí cương chí nhu, bàn về kiếm ở Hoa Sơn, máu chảy tràn trên sa mạc, dưới bút bậc đại sư, giang hồ tuy gian hiểm ác độc song lại cũng vô hạn phong quang. Đọc đến chương "Hứa hẹn suông chăn bò dê nơi biên tái", trong đêm mưa gió não nề, trên lầu nơi cầu nhỏ, Kiều Phong vung một chưởng ra, A Châu hồn lìa theo gió. Chưởng đó chẳng những làm vỡ vụn tuyết bay nơi biên ải, làm lỡ lời thề cùng nhau chăn bò dê, mà còn khiến nước mắt tôi bỗng chốc thành trận mưa rào. Lúc ấy trái tim thiếu nữ cho rằng đó chính là tình yêu vĩ đại bậc nhất. Nếu đem so, Quỳnh Dao nào đáng kể gì? Gương chuốc sầu làm bài thơ mới, không bệnh mà rên, có vậy mà thôi, từ ấy bèn giã biệt Quỳnh Dao.
Đọc hết cả bộ truyện xong tỉnh giấc, thấy thế giới vẫn y nguyên, cái gì đẹp vẫn đẹp, cái gì xấu vẫn xấu, tự mình không thể trừ lũ bạo ngược, cũng không thể yên dân lương thiện. Đêm dài dằng dặc, nào đâu cao thủ thiếu niên tự trời xuống bảo vệ quanh mình? Tuyết bay tơi tả, nào đâu hiệp sĩ áo trắng bầu bạn cùng ta nơi góc biển chân mây? Thôi cho rồi, không xem cũng vậy.
Nhưng không bao lâu sau, chẳng cưỡng nổi sức lôi cuốn của rất nhiều chàng kính cận lêu đêu như sào trong giới võ lâm, cuối cùng một lần nữa tôi lại tìm đến người bạn trai hồi nào.
Với thần sắc như dự liệu, chàng thở dài một hơi bảo tôi:
-Người chốn giang hồ, thân không làm chủ mà! Bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ này tôi mới mua xong, bạn xem trước vậy!
Vẻ mặt anh chàng như cứu người khỏi nước sôi lửa bỏng, tôi nhìn thấy mà thương!
Bây giờ tốt nghiệp rời trường đã mươí năm, tôi không còn đọc tiểu thuyết võ hiệp nữa, chỉ nghe loáng thoáng trong giới võ lâm đã có thêm Cổ Long, Ôn Thụy An cùng nhiều danh gia khác, song tôi đã là vợ, là mẹ, dù ở chỗ sâu kín nhất trong lòng, vẫn thủy chung dành một phần hướng về cảnh tượng giang hồ vô cùng đẹp thú, thì, theo tầm vóc con trai [của tôi] ngày một cao, phần hứng thú đó cũng ngày một giảm cho tới lúc hóa thành số không.
Cuộc sống cứ thế trôi qua từng ngày, tẻ nhạt và mệt mỏi, cảnh tượng xiêu lòng xa trông giang hồ giữa lúc chiều tà nhuộm máu, trăng sáng gió thu, đăm đăm nhìn thế giới, đã như ở một nơi nào xa lắc, còn bầu bạn bên tôi chỉ có đứa con trai chưa hiểu biết gì về thế giới này mà lại muốn nhảy ra thử sức, không hề biết sợ là gì. Mặc dù cháu còn quá nhỏ, quá nhỏ nhưng đôi mắt trong xanh của cháu ít nhiều cũng khiến tôi nhớ lại khoảng trời sáng sủa, thuần nhất, chân chất ngày nào.
Trong những đêm ẩm ướt và quạnh quẽ, tôi cũng có đọc sách. Nào "Dương Xuân bạch tuyết", nào "Hạ Lí ba nhân" ["Dương Xuân bạch tuyết" là một khúc hát cao nhã của nước Sở thời Chiến quốc, đối lập với "Hạ lí ba nhân", tên một khúc hát dân gian. Sau này dùng để chỉ tác phẩm cao nhã và tác phẩm đại chúng. CTNXB], song thực lòng mà nói, đọc thì có đọc đấy nhưng không sao cảm động nổi. Sách vừa rời tay, ngày hôm sau đã không còn mảy may vương lại.
Một hôm tôi về nhà mẹ, ngẫu nhiên bắt gặp hai tập "Ỷ Thiên đồ long kí" dầy cộm trên đầu giường em trai, hai chữ "Kim Dung" đập ngay vào mắt. Sau một thoáng ngẩn người, tôi đưa tay cầm lên. Cái văn quen thuộc của đại sư phả vào mặt mũi khiến người đọc cảm động mãi không thôi. Cầm lòng không đậu, khoé mắt tôi dường như cũng hơi ươn ướt.
Mười năm nay, chưa từng có cuốn tiểu thuyết nào khiến lòng tôi thổn thức nhường ấy. Nào biết đó là nỗi bi ai cho tôi hay nỗi bi ai của cuộc sống đây?
Phạm Tú Châu dịch (Theo báo Tân hoa văn, số 7 năm 1995).
***
Tiểu thuyết như là tổng số những tri thức của mọi thời đại, giấc mộng bách khoa này cũng là của Kim Dung, và chúng ta có thể áp dụng câu sau đây cho chính ông: Sau Kim Dung, không còn xẩy ra nữa. Nói rõ hơn, tiểu thuyết võ hiệp của ông vẫn thuộc dòng chính thống, với một nhân vật như là hiện thân của cuộc xung đột giữa chính và tà. Sau Kim Dung, muốn viết, là phải đổi khác, Tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long là một thí dụ.
Tô Tinh Hà sự thực không có tham vọng bách khoa, mà chỉ mê có tới… ba bốn cái đẹp: Cầm Kỳ Họa và Võ. Một cách nào đó, ông đã đạt được cả ba. Họa: Bức vẽ Vương Ngọc Yến. Đàn: Qua nhân vật A Kiếm. (Độc giả còn nhớ cuộc thi đấu nội lực giữa nhà sư Thổ Phồn và A Kiếm qua tiếng đàn của A Kiếm, và Đoàn Dự xuất thủ Lục Mạch Thần Kiếm đánh bị thương nhà sư Cưu Ma Trí)… Kỳ: ván cờ Hư Trúc… Toàn những đệ nhất kỳ quan trong thiên hạ!
Cửu Dương thần công được viết bên lề một cuốn kinh. Bộ Thần Điêu đại hiệp chấm dứt khi Dương Qua, trước khi tuyệt tích giang hồ cùng người yêu mà cũng là thầy, là Tiểu Long Nữ, đã giúp nhà sư Thiếu Lâm bắt hai tên trộm kinh sách trong có võ công, nhưng không kiếm thấy tang vật.
Bộ Ỷ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao bắt đầu từ nghi án đó: sự mất tích của một nguyên lý.
Nguyên lý mất tích, nhưng dấu vết của nó vẫn còn, qua Giác Viễn và đệ tử của ông, và "trở thành hiện thực", qua cuộc tỉ võ giữa Côn Luân Tam Thánh với Trương Quân Bảo.
Và qua những lời lẩm bẩm trước khi chết của Giác Viễn. Ba người được nghe. Một hiểu hết, là nhà sư Vô Sắc, nhưng ông cũng tuyệt tích giang hồ sau đó. Một nghe, nhưng không hiểu hết, là Trương Quân Bảo, do còn nhỏ chưa từng học võ công. Một nghe, nhưng cũng không hiểu hết, là Quách Tường, chỉ vì sở học trước đó của nàng khác hẳn những gì nàng nghe được, từ miệng nhà sư.
Đây là tư tưởng cơ bản của Roland Barthes: vấn đề ý nghĩa (le problème de la signification), và con người, như là kẻ tạo ra những ký hiệu (Homo significans). Quách Tường khăng khăng không tin những gì mình nghe được – những ý nghĩa mới về võ học, từ miệng nhà sư, trong cơn hấp hối, đọc tứ lung tung, đâu là trang Kinh, đâu là võ công viết bên lề- là do sở học của nàng trước đó: muốn thắng địch là phải ra đòn trước, để cướp tiên cơ. Cửu Dương thần công nói ngược lại. Vô Kỵ, khi xả thân cho Minh Giáo, chịu đòn của Diệt Tuyệt, phải tới chưởng thứ ba, mới nhận ra nguyên lý này: địch mạnh mặc kệ nó…. Một cách nào đó, Cửu Dương thần công là một nguyên lý đảo ngược quan niệm võ công có trước nó. Người ta đã chẳng coi Marx lật ngược luận lý của Hegel và sáng tạo ra duy vật biện chứng pháp? Và từ những mảnh vụn của Cửu Dương thần công, võ lâm Trung nguyên đã có thêm một số môn phái, mỗi môn phái lại đem đến cho võ học những võ công mới, những quan niệm mới về võ học: nào là một lạng đấu ngàn cân, Thái cực quyền, Thái cực kiếm mà nguyên lý của nó là phải quên hết những chiêu thức…
Và đó là một trong những hạnh phúc được làm người: được tự do ban ý nghĩa cho sự vật.
Cho nên, hãy cùng than với Đỗ quân: Cảnh tượng mới tuyệt vọng làm sao! Sự mất tích nguyên lý [Cửu Dương thần công] dẫn tới tham vọng vượt bực... và cuối cùng khám phá ra rằng nghi án mất kinh phật nằm ngay trong sự lãng quên của con người…
***
Nội lực mới là căn bản của võ học.
Nhưng nội lực cũng mang trong nó mầm thiện, hoặc ác. Du Thản Chi, công lực thượng thừa do luyện thành Dịch Cân Kinh, trong người lại đầy chất kịch độc, đòn đánh trúng Bao Bất Đồng, độc như thế, lạnh như thế (do chất hàn độc của băng tầm), nhưng kẻ bị đòn vẫn khăng khăng, đây là võ công của Phật môn. Càn khôn đại nã di, oai lực là như thế, nhưng khi Vô Kỵ sử dụng để đấu với ba nhà sư vai vế chữ Độ, cùng với Chu Chỉ Nhược, nhằm cứu Tạ Tốn, chàng chẳng cần bị đánh trúng, nhưng suýt nữa trở nên khùng, nếu không có những lời tụng kinh của Tạ Tốn từ dưới hầm sâu vọng lên hoá giải hết ác niệm trong người Vô Kỵ. Xem thế, "nguyên lý của mọi võ công", hay cái thực hành (praxis) không phải là "nguyên lý của mọi nội công" (lý thuyết). Chính vì vậy, khi Cưu Ma Trí tự khoe thành thạo đủ 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, chỉ có Hư Trúc biết là nhà sư Thổ Phồn này nói láo, và đã sử dụng nội công của Đạo gia ra đòn Niêm hoa vi tiếu (?) đánh thủng ngực vị cao tăng Thiếu Lâm. Bị Hư Trúc tố cáo, "đó không phải là võ công của Thiếu Lâm", Cưu Ma Trí, vì không biết Hư Trức là đệ tử của Thiên Sơn Đồng Mỗ, tức là cũng biết môn nội công tiểu vô tướng công (?), nên đã cho rằng, bởi vì đòn của mình quá "bá đạo" nên mới lộ tẩy: điều này chứng tỏ, muốn sử dụng võ công Thiếu Lâm phải có nội công Thiếu Lâm. Nói rõ hơn, phải có Phật pháp ở trong lòng: Cao tăng Thiếu Lâm, và chúng anh hùng chẳng đã "lắc đầu chiêm ngưỡng"cuộc đấu giữa Hư Trúc và Đinh Xuân Thu, hai đại cao thủ Đạo gia: như hai vị thần tiên nhẩy múa, nhưng đòn nào cũng chí mạng. Cũng chính vì tập luyện võ công Phật môn (thực hành), mà lại không có Phật tính (lý thuyết), nên Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn mới bị trọng thương, sau nhờ nhà sư già dùng qui tức công cứu chữa, và sau đó qui y cửa Phật; còn Cưu Ma Trí, do cũng là người cửa Phật, cho nên đại họa chỉ xẩy tới khi tham lam học thêm môn Dịch Cân Kinh…
Vương Ngọc Yến thuộc lòng võ công trong thiên hạ, chỉ trừ Lục Mạch Thần Kiếm, Dịch Cân Kinh. Liệu có thể coi hai môn võ công này là độc nhất trong thiên hạ? Dịch Cân Kinh đã có người học được, là Du Thản Chi, nhưng khi xuất thủ nó lại trở thành tối độc, do chất độc của con băng tầm. Lục Mạch Thần Kiếm, xuất thủ khi được, khi không. Điều này chứng tỏ: Cái đẹp nhất, cái tuyệt hảo, là cái bất toàn, và chúng ta có thể nói theo George Steiner: "chưa hoàn tất" là mật khẩu đi vào thế giới võ học của Kim Dung.
***
"Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung, như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà là của sự trở về và sự tìm thấy lại".
Theo Đỗ Long Vân, Vô Kỵ đã có được cả hai, Cửu Dương (nội công thượng thừa của Thiếu Lâm) và Càn khôn (nguyên lý của mọi võ công), thâu tóm trong một cá nhân tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy, sau Vô Kỵ, không xẩy ra một lần nữa.
Nhưng Vô Kỵ, cho dù đã được "tổng hợp", chỉ trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ, khi trở về Võ Đang học được Thái Cực Kiếm, và được Trương Tam Phong dậy bảo thêm về võ học. Nhờ vậy, Vô Kỵ đã đã bại Huyền Minh nhị lão tại ngôi chùa, nơi Triệu Minh giam giữ quần hào võ lâm. Chứng kiến trận đấu, Minh Giáo hữu sứ Dương Tiêu đã phải thốt lên: Trương Tam Phong là "người nhà trời" là vậy.
Tuy võ công của Trương Tam Phong là từ một mẩu vụn của Cửu Dương chân kinh mà ra, nhưng Thái Cực Quyền Kiếm, Miên chưởng… là hoàn toàn do Trương Tam Phong sáng tạo. Giả sử không có Trương Tam Phong, Cửu Dương chân kinh không thể nào đạt được đến mức tuyệt hảo của nó, qua đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, là Vô Kỵ. Điều này chứng tỏ: không thể chỉ có "sự trở về, tìm thấy lại". Sáng tạo chỉ là lập lại, nhưng một sự lập lại không giống như trước nữa.
Và cái cảnh trở về tìm thấy lại, phải chăng nó giống như một anh chàng gặp tiên gặp hồ, khi tỉnh giấc, thấy chung quanh không còn lâu đài, mà là mồ mả, mở đôi hài của người đẹp ra mân mê, thì đôi hài biến thành sương thành khói, hoặc tựa chiếc lá vàng nhẹ nhàng bay lên thinh không…?
**
Giấc mộng bách khoa: Vai trò của Triết học, Thi ca… trong truyện võ học.
Roland Barthes nhận xét "văn chương của chúng ta" đã mất khá thời gian mới khám phá ra "vai trò phụ", của những gì ở bên ngoài con người và ở bên trong một cuốn tiểu thuyết: Phải đợi tới Balzac tiểu thuyết mới không còn chỉ là chuyện giữa người và người, mà cũng còn của đồ dùng, vật liệu. Chúng được gọi ra để chơi vai trò của chúng trong tiểu thuyết. Làm sao Grandet biển lận, theo nghĩa đen của từ này, nếu thiếu những mẩu nến, những miếng đường, cái thập tự bằng vàng?
Cũng thế, vai trò của những triết, thi, họa… ở trong tiểu thuyết của Kim Dung. Thiếu tài hóa trang của A Chu, làm sao thảm kịch Người Đại Ác đạt tới mức bi thương đến như vậy? Cái chết của A Châu, là do nàng tự nguyện, cho nên không thể nói là thảm khốc, nhưng "Tuyệt Bi" bắt đầu, khi A Châu giả dạng một vị sư vào Thiếu Lâm ăn trộm Dịch Cân Kinh… Đây là nghi án thứ nhì, sau nghi án thứ nhất xoay quanh cuốn kinh "ở trong dầu", tức Cửu Dương chân kinh.
Ôi! Thông minh như Kiều Phong, cẩn trọng như Kiều Phong, tại sao lại không nhận ra những dáng dấp quen thuộc của A Châu, khi hóa trang làm Kẻ Đại Ác?
Hay là tại hận thù làm mờ lý trí? Nhưng nếu không có sự lầm lẫn đánh chết người yêu, làm sao nhận ra, là người yêu vì mình mà chịu chết?
Bi kịch đẻ ra bi kịch: Chứng kiến Kiều Phong đánh chết chị, và những giọt nước mắt đổ xuống hoà với máu, A Tỉ nhận ra người yêu đích thực của mình là Kiều Phong… Tình Yêu ở trong Kim Dung là "đệ nhất cái đẹp"!
Nhân đây, xin giới thiệu bài viết của một nữ độc giả, hay là một hồng nhan tri kỷ của ông:
"Còn mãi Kim Dung."
Phương Hồng Diễm (Trung Quốc).
"Nào biết đó là nỗi bi ai cho tôi hay nỗi bi ai của cuộc sống đây?"
Khoảng mười năm trước, khi Kim Dung một thân, một kiếm đi khắp Thần Châu, tôi mới 18 tuổi, đang còn đi học.
Các bạn học sinh nam chuyền tay nhau đọc như điên, thành hẳn một phe đối lập với Quỳnh Dao của phe nữ. Chỉ trong một lúc mà thế giới chia hẳn thành hai cực nam, bắc; một bên bóng đao ánh kiếm, một bên người đẹp như tranh.
Mười năm trước đây, hầu hết học sinh đều rất nghèo, nhưng đám Kim Dung lại dương dương đắc ý, chỗ nào ống tay áo phất tới là kết giao bạn bè. Do túi rỗng không xu, các bạn trai bèn phân công nhau mua, hẹn ngày chuyền tay nhau đọc. Cứ đến cuối tuần thì trong lớp học hay trên bãi cỏ thế nào cũng có các hiệp sĩ võ lâm họp mặt nhau lại để ấn chứng võ nghệ, vui quên cả mệt mà rèn luyện công lực nội thân. Có điều họ giao lưu võ công không cần dùng đến tay chân mà chỉ dùng mồm: nào Đông Tà, Tây Độc, nào Nam Đế, Bắc Cái, nào Tuyết Sơn Phi Hồ, nào Thần Điêu hiệp lữ… mười tám ban võ nghệ đều khảng khái từ miệng phát ra, thỉnh thoảng lại thêm một số ca từ, thơ phú điểm xuyết giữa chừng để tăng thêm vị bi tráng sâu xa. Tất nhiên cũng có khi động thủ, ấy là lúc đôi bên bất chợt đấu khẩu, đấu đến mức lục tung cả Kim Dung đến cùng cực mà vẫn không phân biệt được sắc thu, cũng là đến lúc cưỡi hổ khó xuống, chỉ còn cách dùng chưởng, đúng như Kim Dung nói, là đã đến lúc tỉ thí nội lực rồi. Nếu đúng lúc này không may có mấy nàng Quỳnh Dao đứng cạnh, đưa mắt xinh như mộng thẫn thờ xem trận đấu thì sự việc lớn bậc nhất đồn ầm lên trong làng võ lâm ngày hôm sau ắt là tin "một chết một bị thương" giữa hai cao thủ nội lực ngày hôm trước.
Bây giờ nghĩ lại tình hình lúc ấy, bất giác không tránh khỏi mỉm cười, nhưng câu chuyện hồi ấy, nơi kết quả khiến ai nấy đều cảm động. Các bạn nam trong lúc văn tài rờ rỡ, để hết tâm trí vào một kiếm cho xong ân oán, quyết chí giang hồ và những ánh mắt si ngây nhìn theo quả thực ai cũng phải thổn thức.
Trong một buổi hoàng hôn se lạnh, lá vàng lác đác rơi trước gió thu, tôi gặp một bạn nam để mượn Kim Dung; tôi nhớ lúc ấy dường như bên sân bóng, khá lạnh. Trong lúc vui mừng tột độ, bạn nam xúc động đến nỗi hai mắt sáng lên. Ánh mắt ấy, xuyên qua cặp kính dầy cộm phản chiếu lại ráng chiều tĩnh mịch, thật là sảng khoái lâm ly chẳng khác gì đi giữa chốn giang hồ hiểm ác, cuối cùng gặp được tri âm, nhất là tri âm ấy lại là hồng nhan.
Anh bạn trước hết khen Thiên Long Bát Bộ với tôi, đồng thời say sưa đọc thuộc lòng những tiêu đề mỗi hồi trong sách. Giới thiệu nhiệt tình đến thế, tất nhiên tôi không thể không có gì đáp lại, thế là nhận sách xong, tôi mỉm nụ cười rồi mới quay gót bước đi. Anh chàng kinh ngạc lần nữa rồi cất tiếng thở dài xa xa vọng lại: "Mĩ mục miện hề, xảo tiểu thuyến hề!" [Chữ trong sách Luận Ngữ, dẫn lại từ bài Thạc nhân trong Kinh Thi, nghĩa là: Má lúm cười xinh sao, mắt long lanh đẹp sao! Chú thích của nhà xuất bản].
Đọc rồi mới thấm thía với cảm giác "túy lúy biết rượu ngon", thì ra Kim Dung uyên bác tinh thâm nhường ấy. Đọc vào tình tiết thì không còn làm chủ được mình nữa. Anh hùng mĩ nữ, chí cương chí nhu, bàn về kiếm ở Hoa Sơn, máu chảy tràn trên sa mạc, dưới bút bậc đại sư, giang hồ tuy gian hiểm ác độc song lại cũng vô hạn phong quang. Đọc đến chương "Hứa hẹn suông chăn bò dê nơi biên tái", trong đêm mưa gió não nề, trên lầu nơi cầu nhỏ, Kiều Phong vung một chưởng ra, A Châu hồn lìa theo gió. Chưởng đó chẳng những làm vỡ vụn tuyết bay nơi biên ải, làm lỡ lời thề cùng nhau chăn bò dê, mà còn khiến nước mắt tôi bỗng chốc thành trận mưa rào. Lúc ấy trái tim thiếu nữ cho rằng đó chính là tình yêu vĩ đại bậc nhất. Nếu đem so, Quỳnh Dao nào đáng kể gì? Gương chuốc sầu làm bài thơ mới, không bệnh mà rên, có vậy mà thôi, từ ấy bèn giã biệt Quỳnh Dao.
Đọc hết cả bộ truyện xong tỉnh giấc, thấy thế giới vẫn y nguyên, cái gì đẹp vẫn đẹp, cái gì xấu vẫn xấu, tự mình không thể trừ lũ bạo ngược, cũng không thể yên dân lương thiện. Đêm dài dằng dặc, nào đâu cao thủ thiếu niên tự trời xuống bảo vệ quanh mình? Tuyết bay tơi tả, nào đâu hiệp sĩ áo trắng bầu bạn cùng ta nơi góc biển chân mây? Thôi cho rồi, không xem cũng vậy.
Nhưng không bao lâu sau, chẳng cưỡng nổi sức lôi cuốn của rất nhiều chàng kính cận lêu đêu như sào trong giới võ lâm, cuối cùng một lần nữa tôi lại tìm đến người bạn trai hồi nào.
Với thần sắc như dự liệu, chàng thở dài một hơi bảo tôi:
-Người chốn giang hồ, thân không làm chủ mà! Bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ này tôi mới mua xong, bạn xem trước vậy!
Vẻ mặt anh chàng như cứu người khỏi nước sôi lửa bỏng, tôi nhìn thấy mà thương!
Bây giờ tốt nghiệp rời trường đã mươí năm, tôi không còn đọc tiểu thuyết võ hiệp nữa, chỉ nghe loáng thoáng trong giới võ lâm đã có thêm Cổ Long, Ôn Thụy An cùng nhiều danh gia khác, song tôi đã là vợ, là mẹ, dù ở chỗ sâu kín nhất trong lòng, vẫn thủy chung dành một phần hướng về cảnh tượng giang hồ vô cùng đẹp thú, thì, theo tầm vóc con trai [của tôi] ngày một cao, phần hứng thú đó cũng ngày một giảm cho tới lúc hóa thành số không.
Cuộc sống cứ thế trôi qua từng ngày, tẻ nhạt và mệt mỏi, cảnh tượng xiêu lòng xa trông giang hồ giữa lúc chiều tà nhuộm máu, trăng sáng gió thu, đăm đăm nhìn thế giới, đã như ở một nơi nào xa lắc, còn bầu bạn bên tôi chỉ có đứa con trai chưa hiểu biết gì về thế giới này mà lại muốn nhảy ra thử sức, không hề biết sợ là gì. Mặc dù cháu còn quá nhỏ, quá nhỏ nhưng đôi mắt trong xanh của cháu ít nhiều cũng khiến tôi nhớ lại khoảng trời sáng sủa, thuần nhất, chân chất ngày nào.
Trong những đêm ẩm ướt và quạnh quẽ, tôi cũng có đọc sách. Nào "Dương Xuân bạch tuyết", nào "Hạ Lí ba nhân" ["Dương Xuân bạch tuyết" là một khúc hát cao nhã của nước Sở thời Chiến quốc, đối lập với "Hạ lí ba nhân", tên một khúc hát dân gian. Sau này dùng để chỉ tác phẩm cao nhã và tác phẩm đại chúng. CTNXB], song thực lòng mà nói, đọc thì có đọc đấy nhưng không sao cảm động nổi. Sách vừa rời tay, ngày hôm sau đã không còn mảy may vương lại.
Một hôm tôi về nhà mẹ, ngẫu nhiên bắt gặp hai tập "Ỷ Thiên đồ long kí" dầy cộm trên đầu giường em trai, hai chữ "Kim Dung" đập ngay vào mắt. Sau một thoáng ngẩn người, tôi đưa tay cầm lên. Cái văn quen thuộc của đại sư phả vào mặt mũi khiến người đọc cảm động mãi không thôi. Cầm lòng không đậu, khoé mắt tôi dường như cũng hơi ươn ướt.
Mười năm nay, chưa từng có cuốn tiểu thuyết nào khiến lòng tôi thổn thức nhường ấy. Nào biết đó là nỗi bi ai cho tôi hay nỗi bi ai của cuộc sống đây?
Phạm Tú Châu dịch (Theo báo Tân hoa văn, số 7 năm 1995).
***
Tiểu thuyết như là tổng số những tri thức của mọi thời đại, giấc mộng bách khoa này cũng là của Kim Dung, và chúng ta có thể áp dụng câu sau đây cho chính ông: Sau Kim Dung, không còn xẩy ra nữa. Nói rõ hơn, tiểu thuyết võ hiệp của ông vẫn thuộc dòng chính thống, với một nhân vật như là hiện thân của cuộc xung đột giữa chính và tà. Sau Kim Dung, muốn viết, là phải đổi khác, Tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long là một thí dụ.
Tô Tinh Hà sự thực không có tham vọng bách khoa, mà chỉ mê có tới… ba bốn cái đẹp: Cầm Kỳ Họa và Võ. Một cách nào đó, ông đã đạt được cả ba. Họa: Bức vẽ Vương Ngọc Yến. Đàn: Qua nhân vật A Kiếm. (Độc giả còn nhớ cuộc thi đấu nội lực giữa nhà sư Thổ Phồn và A Kiếm qua tiếng đàn của A Kiếm, và Đoàn Dự xuất thủ Lục Mạch Thần Kiếm đánh bị thương nhà sư Cưu Ma Trí)… Kỳ: ván cờ Hư Trúc… Toàn những đệ nhất kỳ quan trong thiên hạ!
( xem tiếp Kỳ 3 )
Những câu trích từ bài viết làm đề từ, là do
người giới thiệu bầy đặt ra, như một cách hiểu,
hoàn toàn mang tính cá nhân, tức chủ quan, bài
viết của Đỗ quân, và những vấn đề mà bài viết
đặt ra.
(Nguồn : Tin Văn
Comments
Post a Comment