DLV: Vô Kỵ Giữa Chúng Ta III b



Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu:
 
Kỳ 3 (tiếp)
 
Đỗ Long Vân
 
VÔ KỴ GIỮA CHÚNG TA hay là HIỆN TƯỢNG KIM DUNG
 

III. Truyện võ hiệp cổ điển
 
"Sự khác nhau trong bản chất giữa họ, tuy nhiên, là của đêm và ngày."
ĐLV

"Rạng đông chỉ là khởi đầu một ngày; đêm xuống mới là lập lại."
Claude Lévi-Strauss

"Nhân loại tầm thường làm sao tham dự được vào cuộc xung đột ấy giữa những lý tưởng? Họ chỉ có thể chiêm ngưỡng".
ĐLV
 
Như trên đã nói thì võ công, trong truyện võ hiệp cổ điển, có cái vô danh của một phương tiện. Không ai phân biệt Tà và Chính giữa những võ công. Nhưng giữa các môn phái thì sự phân biệt ấy càng minh bạch. Các môn phái đều dùng một thứ võ. Sự khác nhau trong bản chất giữa họ, tuy nhiên, là của đêm và ngày: Tà môn tượng trưng cho tội ác cũng như chính phái tượng trưng cho công lý và cái thế chia đôi ấy của võ lâm không để thừa chỗ cho một nghi vấn nào.

Người anh hùng là người của Công lý. Ấy thường là một thanh nhiên cha mẹ mất sớm bị hại và may được một võ lâm dị khách lượm về nuôi và truyền thụ võ công. Truyện bắt đầu khi, đã thành tài, chàng từ biệt ân sư xuống núi để phục thù. Nhưng trước khi công thành thì chàng đã bao lần sa vào ổ giặc, đã bao lần chàng phải đương đầu với cường quyền và bạo lực, đã bao lần chàng can thiệp trong những chuyện vong luân. Thù nhân của chàng lẽ dĩ nhiên cũng là một nhân vật trọng yếu của cái xã hội phức tạp ấy. Và người ta hiểu rằng trong công việc của chàng Công lý và tư thù chỉ là một. Con đường tầm cừu cũng là con đường nghĩa hiệp và khi thù nhân đã đền tội dưới tay chàng thì người anh hùng cũng biết rằng tất cả chỉ mới bắt đầu, và mối thâm thù của chàng chẳng qua là một cớ để mở màn và chấm dứt một cách dễ coi một giai đoạn trong cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa.

Chính nghĩa không thể nào thua. Cho nên khi người anh hùng xuống núi là người đầy những võ công cái thế. Không ai địch nổi, từ hắc điếm đến ác tù, đả lôi đài xong lại phá sơn trang, cướp pháp trường, giết tham quan, diệt thảo khấu, chàng theo đuổi một hành trình vạn thắng và không bao giờ trong đầu chàng một nghi ngờ có thể thoáng qua về cái sứ mệnh thiêng liêng của chàng. Truyện cũng diễn ra theo một đường thẳng như cuộc hành trình ấy. Lẽ dĩ nhiên cũng có lúc người anh hùng lâm nguy và tính mạng bị đe doạ. Ngay khi ấy người ta vẫn yên tâm, tại người ta biết rằng, dù chàng có chết thì ấy là một cái chết vinh quang cho sự thực hiện của công lý ở trên đời và người thắng trận rốt cuộc cũng là chàng. Sự hồi hộp không thể có trong truyện võ hiệp cổ điển. Người ta theo người anh hùng từ chiến công này đến chiến công khác. Ấy là ngần ấy giai đoạn của một con đường chỉ có một chiều và chúng tiếp theo nhau thành tràng hạt, nghĩa là giữa chúng không có tương quan nào khác sự tiếp theo nhau. Từ chiến công này đến chiến công khác, ý nghĩa của truyện cũng như tâm lý nhân vật không hề thay đổi. Chiến công nào cũng chỉ ca tụng một lần nữa cái anh hùng của ngưới anh hùng và sự thắng trận muôn đời của chính nghĩa trên Tà đạo.

Nhân loại tầm thường làm sao tham dự vào cuộc xung đột ấy giữa những ý tưởng? Họ chỉ có thể chiêm ngưỡng. Và tương quan duy nhất giữa họ và thế giới của truyện là một tương quan ngoại tại. Những nhân vật vốn là những Ý tưởng nhập thế không thể có tâm sự nào để họ chia xẻ. Kẻ được người thua lại định sẵn từ trước. Cho nên diễn biến của truyện không dành cho người ta một bất ngờ nào và người ta cũng không có dịp để tự hỏi và trông chờ những gì sẽ xảy ra. Tất cả đều sẵn có một ý nghĩa cố định và trong thế giới minh bạch ấy, người ta thừa đoán là không có chỗ nào cho bóng tối, cho nghi vấn, cho sự tò mò. Người đọc đã biến thành một khán giả để xem, nhìn, ngắm sự tái diễn của một vở tuồng mà người ta đã thuộc kỹ từng giai đoạn.

Vẫn những vai trò và một trò ấy. Khác duy ở diễn viên và cảnh trí nghĩa là ở những thay đổi ngoại tại. Nghệ thuật kể chuyện trở nên một nghệ thuật dàn cảnh. Và cái ngoạn mục trong nghệ thuật ấy là giá trị đầu tiên. Sự mô tả trong truyện võ hiệp cổ điển chiếm một phần quan trọng. Có gì mô tả được mà không được mô tả tỉ mỉ? Ấy là cái dị hình của những khí giới, cái hiểm hóc của những cơ quan, cái hùng vĩ của những sơn trại, cái uy nghi của những thao trường, cái náo nhiệt của những phồn hoa, cái sặc sỡ của áo gấm và quần mầu, cái nhịp nhàng của những võ công như vũ điệu… Tất cả đều đập vào mắt người ta, tất cả đều phô trương sự tinh xảo của những kỹ thuật nhân văn, tất cả đều biểu diễn một trật tự minh bạch và không thể nghi ngờ. Ý nghĩa của tất cả đều có thể đọc ngay lập tức nghĩa là đều xuất hiện ra ngoài mặt. Ngay những tình cảm cũng được diễn tả một cách trực tiếp. Khi tức giận thì thét ầm ĩ, khi thích chí thì cười um lên như phá, khi đau khổ thì rống như dã thú bị thương và đáng tiếc thay! Khi e lệ, những trang nữ hiệp cũng “mân mê tà áo” như một cô gái tầm thường. Nhưng người ta hiểu rằng trong cái thế giới để chiêm ngưỡng ấy, cũng như trên sân khấu, thực tình của những cử chỉ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng, và trước khi làm người ta cảm động, thì công việc là cho người ta thấy đã. Càng ước lệ thì sự diễn tả lại càng công hiệu.

Tâm lý nhân vật được giản lược một cách tối đa. Lẽ dĩ nhiên nhân vật nào cũng được gán cho một cá tính. Nhưng cá tính ấy không có gì giống cái phức tạp của một tâm hồn mà, nếu có thể nói như thế, chỉ có thể tính cách ngoại tại của một con số để phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, như có kẻ trung thì có người gian, có người nóng nẩy thì có kẻ ôn hoà, có kẻ mưu cơ thì có người chất phác. Cho nên không những tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật đều diễn tả một cách rõ ràng các cái cá tính người ta gán cho y mà cá tính ấy còn có thể trông thấy trên y phục, võ khí và diện mạo của y nữa. Nhất là trong các nhân vật phụ, thì người ta thấy rằng các dị điểm, từ cái răng vẩu đến một con mắt lồi, đều được tô đậm và thổi phồng lên, như những nghịch hoạ, để ai cũng có thể nhận ra cách dễ dàng. Người anh hùng tuy nhiên được miễn cái nạn tả chân thô thiển ấy. Ấy là tại con người chàng vốn là kết tinh của Chân, Thiện, Mỹ, trong sự tuyệt hảo của nó, chỉ có thể ở ngoài tầm những tĩnh từ. Uy vĩ, khôi ngô, tuấn tú v.v… chữ nào có thể xứng với cái bản chất siêu tục của người anh hùng? Cái mặt nạ người ta thấy chàng thường đeo khi hành hiệp lẽ dĩ nhiên không để làm tăng trưởng một bí mật vốn đã trong suốt như ban ngày, nhưng để xoá bỏ cái phần nhân loại cuối cùng trong con người chàng và đưa chàng tới cái vô danh của ý niệm. Con người sau cái mặt nạ ấy không còn là một cá nhân với những dị điểm và một đời sống riêng tư nữa. Hắn là thần công lý. Khi thì như ma quỷ, khi thì như thuiên thần, nhân vật võ hiệp cổ điển là những nhân vật quá độ. Không có gì giống nhau giữa họ và anh và tôi. Nhưng tất cả cố gắng của người kể truyện là để tách họ ra khỏi cái nhân loại thường ngày để thấy họ, là người ta biết ngay rằng các chuyện đang xảy ra không phải là một chuyện giữa người và người và những nhân vật ấy chỉ là những diễn viên của một vở tuồng kể lại cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa. Tất cả đều xảy ra trên bình diện của những ý tưởng.
 
Đỗ Long Vân

________________

Ghi chú:

Tất cả đều xẩy ra trên bình diện ý tưởng…

"Với những nhà bác học, sáng và chiều, là chỉ một hiện tượng, và người Hy Lạp cũng nghĩ như vậy, khi dùng cùng một từ để chỉ…", C. Lévi-Strauss trong thiên bút ký Nhiệt Đới Buồn, cho rằng, sự nhập nhằng trên, là do nỗi âu lo "trên bình diện lý tưởng", nói rõ hơn, coi trọng cái ý tưởng mà vờ đi cái cụ thể. Thực tế cho thấy, vẫn theo Lévi-Strauss, qua những trang "hành ký" (feuilles de route) viết trên tầu (écrit en bateau) của ông, chiều và sáng rất đỗi khác biệt. Mặt trời mọc là một dạo đầu (un prélude), mặt trời lặn, một mở ra (une ouverture) đưa đến kết thúc, thay vì một bắt đầu (commencement) như trong những opéras cổ. Rạng đông chỉ báo hiệu những giờ giấc đầu tiên của một ngày, bộ mặt của "ông mặt trời" âm u và tái nhợt hứa hẹn buổi sáng mưa, hồng hồng, nhẹ nhõm, một ngày sáng sủa, vậy thôi, ngày sau đó tiếp tục và rạng đông chẳng cho biết gì hết. Mặt trời lặn là một chuyện khác hẳn: đây là một trình diễn đầy đủ, với một khởi đầu (début), một khúc giữa (milieu), và một đoạn chót (une fin)…. Rạng đông là một khởi đầu của một ngày; hoàng hôn mới là lập lại của nó. (L’aube n’est que le début du jour; le crépuscule en est une répétition).

Nhưng những điều trên liên can gì tới đen và trắng, tà và chính, tới "Thần Công Lý", như là một nhân vật "quá độ", trong tiểu thuyết võ hiệp cổ điển?

Quá độ, một từ nghe quen quen… Liệu "Thần Công Lý" có họ hàng gì với một "Thép Đã Tôi Thế Đấy"? Và khi Đỗ Long Vân viết, "Không có gì giống nhau giữa họ và anh và tôi", ông đã không chấp nhận một sự tương đồng giữa "họ và anh và tôi", hoặc đã nhận ra bộ mặt thực của Thần Công Lý, hoặc của một chủ nghĩa "bị kết án phải quá độ", như là số phần của nó?

***

Sức nặng của Bóng Đen.

"Trong cơn tận, mọi ánh sáng cùng một lúc được thu gom để tắt ngấm. Như trong một viên ngọc của một mầu đen, huyền, tuyệt, tuyệt."
George Steiner (Tuyệt Bi).

"When relationships with divinity fail, human relationships must save"
Ruth Padel (Đọc G. Steiner)
(Tạm dịch: Khi mất tương giao với thần, phải cứu tương giao với người).

Hình ảnh của bi kịch là bóng đen, theo G. Steiner. Khi Titus và Bérrénice nói lời thiên thu giã biệt, "Trong cơn tận mọi ánh sáng được thâu gom để rồi tắt ngấm…" ("all light is momentarily gathered and put out. As in a pearl, flawlessly black"). Đen tuyền, tuyệt, tuyệt, hay là "đen trên đen" (black on black), là hình ảnh của tuyệt bi (bi kịch tuyệt đối).

Nếu văn học Tây phương bắt đầu bằng "Iliade hay là Bài thơ của Sức mạnh" (Simone Weil: L’Iliade ou le poème de la force), nó còn bắt đầu bằng Bóng Đen. Ánh sáng tượng trưng cho hy vọng, đời sống, và ý nghĩa (meaning). Bóng Đen là triệt tiêu mọi thứ đó.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng: Mực đen, đèn sáng, chúng ta như nhìn thấy hình ảnh một người đọc sách dưới ánh đèn ở đây. Đọc là hành động tối hậu của sự cô đơn. Một cuốn sách là một "bùa chú" chống lại cái chết; hay bóng đen, như một hình ảnh cổ xưa của người Hy Lạp về cái chết. (G. Steiner).

Loạn đọc thư (Khổng Tử): Chúng ta như hình dung ra hình ảnh Đỗ Long Vân ngồi đọc Kim Dung, dưới ánh đèn, và chung quanh ông là bóng đen của một nỗi chết không rời…

Và hình ảnh một Vô Kỵ ở giữa chúng ta, cũng bắt đầu xuất hiện, theo nghĩa: viết là sống bên trong một tác phẩm, và bên ngoài một nỗi chết không rời.

Nếu đọc là bùa chú chống lại cái chết, thì viết là một toan tính vượt lên trên cái chết.

***

Những người lính chuyên nghiệp kể cho người viết một kinh nghiệm như thế này: sau khi ăn một quả pháo mà không chết, nói rõ hơn, ngay sau khi một quả pháo nổ kế cận bên họ, là nhẩy vào cái hố vừa mở ra, biết chắc chắn một điều, quả pháo kế tiếp không thể nào nhè chỗ đó mà nổ.

Những cư dân của một thành phố Sài Gòn thời kỳ chiến tranh chắc còn nhớ kinh nghiệm này: khi nghe tiếng hoả tiễn réo xèo xèo ngang đầu, là biết rõ một điều, trái hoả tiễn đó không dành cho mình.

Một cư dân của Sài Gòn lúc đó (một nhà thơ), khi phải so sánh AK47 với M16, sức tác hại, hiệu năng… đã trả lời: AK47 khủng khiếp hơn nhiều! Cái tiếng ùng ục đó, bạn không thể phỏng đoán, nó ở hướng nào. Kỹ thuật âm thanh "surrounded" chắc là được "gợi hứng" từ tiếng súng AK47 ?

… Một thành phố tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó.


 
 
Những câu trích từ bài viết làm đề từ, là do người giới thiệu bầy đặt ra, như một cách hiểu, hoàn toàn mang tính cá nhân, tức chủ quan, bài viết của Đỗ quân, và những vấn đề mà bài viết đặt ra.

 
(Nguồn : Tin Văn
 

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư