Thư Nhà



Thursday, August 9, 2012 11:12 AM

Bác Gấu ơi ! Có cái phim về tiểu sử Joseph Brodsky khá hay, bác tìm mà xem, A Room and a Half.
Kính bác
Độc giả thường xuyên của Mr. Tinvan
Tks
Tôi có đọc review trên tờ TLS.
TV cũng đã giới thiệu. Bản tiếng Việt, mượn cái tít của nhà văn Võ Phiến.


Khi Gấu dịch cái thư này, tiếng Anh của Gấu tệ lắm [2005, Gấu qua Xứ Lạnh, 2004]
Chắc là đầy sạn, nhưng mê quá, thế là cặm cụi dịch.
Ui chao đọc những đoạn ông thi sĩ viết về nước Nga của ông, sao Gấu nhớ xứ Bắc Kít quá.
Cũng nghèo, và cũng kiêu ngạo vì nghèo như nhau.
Khi Gấu về lại đất Bắc, là để tìm cả hai.
Một cách đó, mất cả hai.
Note: Bản dịch đã được sửa, bỏ đi những đọan phóng tác, cà chớn.
NQT



Nguyễn Quốc Trụ
                                        Gửi L. K.
                                      Joseph Brodsky 
*
"In a Room and a Half" from Less Than One, Selected Essays by Joseph Brodsky

1.
Căn Phòng Rưỡi (không hiểu một đơn vị không gian như vậy có ý nghĩa gì không, ở trong tiếng Anh), trong đó, gia đình chúng tôi gồm ba người sống, có một cái sàn bằng gỗ, và mẹ tôi không chịu cho bất cứ người đàn ông nào trong gia đình, đặc biệt là tôi, đi lại trong phòng mà lại mang vớ ở chân. Bà nhắc nhở chúng tôi, hãy luôn luôn mang giầy, hoặc dép. Nếu khi nào bực quá, bà nhắc tới sự dị đoan của ông bà già người Nga, mang vớ như thế là xui xẻo, trong nhà thế nào cũng sẽ có người chết
Lẽ dĩ nhiên, việc mang vớ đi trong phòng như thế, đối với bà, giản dị chỉ là một thói xấu, thiếu văn hoá. Chân đàn ông vốn có mùi. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự thực là, nếu mang vớ, có thể té ngã, nhất là thứ vớ len, dạ. Và nếu một người già cả, lụm cụm, té như thế có khi mang họa. Sự gần gụi của cái sàn với gỗ, với đất…. trong trí tưởng của tôi cứ thế được mở rộng ra, tới bất cứ nơi nơi mà chân cẳng bà con, gần hoặc xa, sống trong cùng một thành phố, giẫm lên trên. Chẳng cần khoảng cách xa hay gần, vẫn là chung mặt đất. Ngay cả chuyện nếu sống ở phía bên kia con sông, nơi tôi sau này sẽ muớn một căn hộ, hoặc một căn buồng riêng cho mình, cũng không thể  khác đi, bởi vì trong thành phố này có nhiều sông và kênh rạch. Và, mặc dù những con sông, một số khá sâu đủ cho tầu biển đi lại, thần chết, theo tôi nghĩ, vẫn coi là nông, theo cái tiêu chuẩn cõi âm phủ của nó, và sẽ bò qua, ở dưới đáy của chúng.
Bây giờ, bà cụ và ông cụ thân sinh ra tôi đều đã mất. Tôi đứng ở bờ biển Đại Tây Dương: bao la là nước biển chia cách tôi với hai bà cô và anh em cô bác: Sự cách ngăn mới lớn lao, mới thật sự làm sao. Đến thần chết cũng còn lầm không biết ai là kẻ tới số. Bây giờ, tôi có thể thoải mái mang đôi vớ ở chân, đi đi lại lại, bởi vì tôi đâu còn thân nhân ở lục địa bên này. Cái chết độc nhất trong gia đình, là cái chết của chính tôi, chắc hẳn thế, mặc dù giả dụ như thế là lầm lộn máy phát tin với máy nhận tin, theo nghĩa, người mang vớ là tôi, còn người nhận cái xui xẻo phải là người khác. Sự may rủi ở trong trường hợp này thì quá nhỏ, và đây là điều phân biệt giữa máy móc điện tử, với mê tín, dị đoan. Tuy nhiên, nếu tôi không giẫm lên những tấm ván sàn làm bằng gỗ cây phong ở Gia Nã Đại thì điều này không phải vì tin vào khoa học, hay là vì mê tín dị đoan, giống như một thứ bản năng sợ chết, nhưng là do mẹ tôi sẽ không chấp nhận chuyện đó. Tôi nghi là tôi vẫn cố tình giữ làm sao cho mọi chuyện vẫn y nguyên như ngày xưa trong gia đình của chúng tôi, cho dù bây giờ chỉ còn tôi trơ cu lơ ở trên cõi đời này.

2
 Có ba chúng tôi trong căn phòng rưỡi của chúng tôi đó: cha tôi, mẹ tôi, và tôi. Một gia đình, theo đúng kiểu Nga, vào thời kỳ đó. Thời đó, là sau chiến tranh, và rất ít gia đình chịu nổi, ngay chỉ ý nghĩ ngông cuồng này, hay là tụi mình có thêm một đứa con nữa, là hai? Một số gia đình còn không thể chịu nổi, chuyện, ông già của mình còn sống, hoặc sờ sờ ra đó: Khủng Bố Lớn và chiến tranh đã thu gom gần như hết giống đàn ông Nga, ở trong những thành phố lớn, nhứt là thành phố quê hương của tôi. Vì vậy, kể như gia đình tôi là may mắn, nhứt là còn sự kiện này nữa: chúng tôi là dân Do Thái. Tất cả ba chúng tôi sống sót cuộc chiến (tôi nói, cả ba, bởi vì tôi cũng ra đời trước cuộc chiến, vào  năm 1940); cha mẹ tôi, tuy nhiên, còn sống sót những năm 1930.
Tôi nghi, hai ông bà nghĩ rằng họ may mắn, mặc dù cả hai ít nói về chuyện này. Nói chung là, cả hai chẳng để ra sự thất thần, về chính họ, ngoại trừ ngày một thêm tuổi, và ba thứ bệnh lẩm cẩm bắt đầu ảnh hưởng tới họ. Ngay cả khi đó, họ cũng không nói về họ, và về cái chết theo kiểu làm kinh hoàng người nghe, hoặc khiến cho người nghe đâm ra cảm động, hoặc thương hại. Thường thì hai ông bà chỉ ca cẩm tí tí, về chứng đau lưng, nhức đầu, hoặc bàn bạc về ba thứ thuốc men này nọ. Cùng lắm, là bà cụ tôi có thể nói như vầy, khi chỉ bộ chén dĩa kiểng bằng sành, sứ Trung Hoa: Cái đó sẽ là của con, khi có vợ… và tới đó, là bà ngưng. Tôi nhớ, có một lần, bà từ một ca bin điện thoại ở đường phố bước ra, trong khi tôi chờ bà ở bên ngoài, và tôi nhận ra có vẻ gì khác thường trong cái nhìn của bà, trong đôi mắt ẩn đằng sau cặp kính lão gọng đồi mồi của bà. Tôi cúi về phía mẹ, ấy là bởi vì khi đó tôi đã khá lớn, và cao hơn mẹ, và hỏi, bà bạn của mẹ đã nói gì, và mẹ tôi trả lời: “Bà bạn của mẹ biết bà ta sắp sửa chết, và khóc với mẹ trong điện thoại.”
Lẽ dĩ nhiên, ông già bà già của tôi hiểu thật rõ, trời cho chi thì nhận vậy. Và ông trời cho ông bà, hệ thống nhà nước chết tiệt đó, sự bất lực, sự nghèo khổ đó, và đứa con trai độc nhất, nối dõi tông đường đó. Họ chỉ cố, làm sao làm được điều tốt nhất, từ mọi thứ trời cho họ: làm sao có thức  ăn bầy lên bàn - và cho dù là thức ăn chi chi, cũng bầy biện thành những miếng nhỏ, vừa miệng ăn; cố gắng trang trải mọi chuyện, theo kiểu cháo húp quanh, nợ trả dần – và, mặc dù gia đình chỉ trông vào đồng tiền kiếm được từng ngày, cũng cố làm sao dành dụm vài đồng lẻ cho thằng bé đi coi phim, đi coi viện bảo tàng, mua sách vở, dăm ba cái bánh ngọt, hay vài cục kẹo. Đồ đạc, vật dụng trong nhà, bát dĩa, quần áo thay đổi hàng ngày… tất cả là cứ sạch sẽ ngăn nắp, phẳng phiu, bóng loáng. Ba cái tạp dề lúc nào cũng thơm phức, ba cái chụp đèn sạch bụi, ôi, còn cái sàn gỗ thì khỏi nói, lúc nào cũng sạch như li như lai.
Điều ly kỳ nhất, là hai ông bà chẳng bao giờ tỏ ra buồn bực, chán nản. Mệt mỏi có, nhưng chán nản, không bao giờ. Hầu hết thời gian ở trong nhà, ông bà đi đi lại lại, ít khi ngồi: nấu nướng, giặt giũ, hết việc bếp thì đi lên phòng trên, phòng của tôi, phòng của ông bà, thì cũng vẫn trong căn phòng rưỡi đó. Khi họ ngồi, ấy là ở bàn ăn, để dùng bữa, nhưng với bà cụ của tôi, bà ngồi, như tôi còn nhớ được, chủ yếu là ở bàn máy may, cặm cụi với cái máy hiệu Singer, nào là sửa chữa, may vá mấy bộ đồ, lộn cổ áo phía trong thành phía ngoài, nới rộng, hay cắt ngắn ba quần áo cũ. Còn với ông cụ, thời gian độc nhất ngồi trên ghế, là khi ông đọc báo, hay một cái gì đó, ở nơi bàn của ông. Thỉnh thoảng, vào buổi tối, họ ngồi coi phim, hoặc một buổi hòa nhạc, từ chiếc TV đời 1952. Rồi thì, ông bà cũng được an vị, trên ghế, trong căn phòng rưỡi của chúng tôi: một người láng giềng đã thấy ông cụ tôi mất, trong khi ngồi như thế, một năm trước đây.

 3
 Ông cụ tôi thọ hơn bà cụ mười ba tháng. Bà cụ 78 tuổi trời, còn ông cụ tám mươi. Tôi chỉ được sống chung với cả hai, ba mươi hai năm. Tôi gần như chẳng biết một tí gì, về chuyện hai ông bà đã làm quen với nhau trong dịp nào, ra làm sao; tôi còn chẳng biết hai người lấy nhau vào năm nào. Chẳng biết cách họ sống, cách họ xoay xở, trong mười một hoặc mười hai năm sau cùng của cuộc đời của họ, những năm không có tôi. Kể từ khi chẳng hề biết như vậy, tôi đành nhủ thầm, rằng mọi chuyện thì cũng theo thường lệ, và, biết đâu, hai cụ còn cảm thấy dễ xoay sở hơn, khi không có tôi ở kế bên, cả về mặt tiền bạc chi dụng hàng ngày, lẫn việc, hết còn phải thấp thỏm, về chuyện tụi nó bắt bớ giam cầm thằng con.
Ngoại trừ chuyện, tôi đã không được phụng dưỡng bố mẹ khi ông bà đã già yếu, ngoại trừ chuyện, hai cụ mất không có tôi ở kế bên. Tuy nhiên, tôi nói như vậy không hoàn toàn là do mặc cảm tội lỗi. Ao ước làm sao đi đúng con đường của bố mẹ, theo tôi, có thể là một ao ước ích kỷ, bởi vì, mọi đứa trẻ, cách này hay cách khác, đều lập lại thành công của bố mẹ chúng. Tôi chỉ có thể nói như thế này, nói cho cùng, con người muốn học, từ bố mẹ của mình, về tương lai của chính mình, của riêng mình, về tuổi già của riêng mình; con người muốn học, từ bố mẹ của nó, bài học tối hậu này: làm sao chết, chết thế nào. Ngay cả khi chẳng muốn bất cứ một điều gì vừa nêu trên, thì con người vẫn hiểu ra điều này, tuy không cố tình muốn hiểu, rằng, khi mình già, liệu có khác ông via bà via mình chút nào không, hay cũng rứa? Liệu những gì gì, giọt máu đào hơn ao nước lã, là như vậy, liệu cái bệnh đau tim này, là di truyền?”
Như vậy là tôi không, và sẽ chẳng bao giờ biết, ông cụ bà cụ cảm thấy thế nào, những năm cuối cùng của cuộc đời của họ. Họ đã phải sợ hãi bao nhiêu lần? Bao nhiêu lần họ đã cảm thấy đã được sửa soạn, để chết, và sau đó, sau khi đã bình tâm, liệu có khi nào họ mong ước, cả ba chúng tôi sẽ có cơ hội lại đoàn tụ? “Con trai của mẹ,” bà cụ sẽ gọi điện thoại cho tôi, và nói, “điều độc nhất mà mẹ muốn từ cuộc đời này, là, lại được nhìn thấy con. Đó là điều khiến mẹ còn níu kéo cuộc đời này". Và một phút sau, “Con đang làm gì đó, mẹ muốn nói, năm phút, trước khi con gọi cho mẹ?” “Con đang rửa chén dĩa.” “Ô, vậy thì tốt quá. Đó là điều thật tốt để mà làm. Đôi khi nó còn làm cho con khoẻ mạnh, một cách trị bịnh tuyệt vời đấy, con trai của mẹ.”

4
 Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi đó, thuộc dẫy phòng chiếm một phần ba của cả khu phía bắc tòa building sáu tầng lầu, nhìn ra ba con phố, và một quảng trường. Tòa nhà là một trong những phúc lợi kỳ diệu nhất, được xây dựng theo kiến trúc của người Moor, đánh dấu bước ngoặt thế kỷ tại vùng Đông Âu. Được dựng lên vào năm 1903, năm sinh của ông già tôi, nó là một trong những nguồn cảm hứng về kiến trúc, đối với thành phố St. Petersburg vào thời kỳ đó, và Anna Akhmatova có lần đã kể cho tôi nghe, là ông cụ bà cụ của bà đã đẩy một chiếc xe trẻ con, trên có cô con gái của hai cụ, tức là nữ thi sĩ lớn lao của nước Nga sau này, tới viếng thăm kỳ quan kiến trúc, là tòa building nói trên. Về phía Tây, nó nhìn ra một trong những đại lộ nổi tiếng nhất của văn học Nga, đại lộ Liteiny Prospect, nhà thơ lớn Alexander Blok có thời gian có một căn phòng tại đây. Riêng về dẫy nhà của chúng tôi, một trong căn phòng đó đã từng được một cặp văn nhân tài tử cư ngụ. Cặp này đã có thời ngự trị văn đàn thời tiền Cách Mạng Nga, và cả sau này, thời kỳ lưu vong tại Paris, vào thập niên 1920, và 1930, đó là Dmitry Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Và cũng chính từ bao lơn căn phòng rưỡi của chúng tôi mà Zinka, khi còn trứng nước, đã buông lời lăng nhục đám thuỷ thủ cách mạng.
Sau Cách Mạng, với chính sách “cài răng lược” đám trưởng giả, dẫy nhà trên đã được xẻ banh ra, mỗi gia đình một mẩu. Tường cứ thế thi nhau dựng lên, ngăn những phòng lớn ra. Lúc đầu thì còn là tường gỗ lớp, plywood. Rồi thì là, theo năm tháng, đủ thứ loại tường, ván, gạch… cũng góp phần làm nên tiêu chuẩn, mẫu mã kiến trúc. Không gian không triển nở mãi ra, nhưng mà là cứ thế co rúm lại. Do co rúm lại như thế, lạ lùng thay, không gian lại trở nên nhất trí hơn. Cấu trúc hẳn hòi ra, và có nhiều tên gọi: xà lim, buồng kín, một cái mả, cái huyệt. Như những cánh tay, những cái vòi, chúng cứ thế vươn ra, ôm trọn lấy những khoảng trời.
Trong Liên Bang Xô Viết, tiêu chuẩn chỗ ăn chỗ nằm, là 9 mét vuông cho một người. Chúng tôi phải nghĩ là mình là may mắn, bởi vì được chia tới 40 mét. Để được sự may mắn thái quá đó, ông cụ bà cụ đành phải bỏ hai căn phòng rời, ở hai nơi khác nhau, trong thành phố, nơi cả hai đã từng sống, trước khi lấy nhau. Một quan điểm về trao đổi như vậy, phải nói là chia chác, do mục đích sau cùng của nó, người nước ngoài thật khó hình dung nổi. Những luật lệ về tài sản thì bí ẩn, ở đâu thì cũng vậy thôi, nhưng có vài thứ bí ẩn hơn những thứ khác, đặc biệt là, khi chủ nhà của bạn chính là ông nhà nước. Tiền bạc không ăn thua gì ở đây, thí dụ vậy, bởi vì kể từ khi sống dưới chế độ toàn trị, đồng lương cố định, chế độ tem phiếu, mọi người ai cũng nghèo như…  người đứng kế bên. Bạn không mua, [tiền đâu mà mua], phần ăn ở nhà nước đã chia cho bạn, nếu có chăng, là đòi cho được phần mà bạn đã được chia, trước đó. Nếu bạn có hai người, và nếu bạn quyết định sống chung, như vậy là cả hai được chia, phần hai bên trước đó sống riêng rẽ, bây giờ cộng lại. Và mấy anh chị công nhân viên sở nhà đất là người quyết định chuyện này. Đừng mua chuộc họ, bởi là vì đẳng [đảng] cấp giữa đám người này, tới lượt nó, thuộc loại “siêu” bí ẩn, và bản năng đầu tiên của họ, khi vừa nhìn thấy bạn, là, hãy chia cho nó, càng ít càng tốt!
Những cuộc đổi chác cứ thế mà tiến lên, năm này qua năm khác, và đồng minh độc nhất của bạn là sự mệt mỏi, hoặc là bạn chơi trò chai lì, không chịu dọn tới một nơi chốn ẹ hơn, và cứ ở, cho tới khi, không nó, thì bạn, xụm xuống. Không kể sự tính toán số học thuần tuý, điều làm đám công viên sở nhà đất đi đến quyết định, là cả một mạng lưới rộng lớn những giả dụ, những ví thử, những nếu mà chẳng bao giờ thành luật, về tuổi tác, quốc tịch, sắc dân, nghề nghiệp, về tuổi, trai hay gái của mấy đứa con, gốc gác xã hội, quê quán của bạn, ấy là chưa kể ấn tượng đầu tiên về bạn, khi bạn vừa chường mặt ra ở sở nhà đất. Chỉ mấy người công nhân viên ở đó biết xó xỉnh nào còn trống, chỉ họ phán đoán đâu là khinh đâu là trọng, làm sao thiến ở chỗ này một tí, đắp vô chỗ kia một tị, một mẩu vài thước vuông. Ôi chao, sự khác biệt mới lạ lùng làm sao! Với một tí một mẩu như thế, bạn có thể có được một nơi cho cái kệ sách, hay sung sướng thay, một cái bàn để mà ngồi làm việc, hay mơ mộng.

 5
 Ngoài cái chuyện may mắn có thêm được tới mười ba mét vuông, chúng tôi còn may mắn khủng khiếp ở chỗ, cộng đồng nơi chúng tôi dọn tới đó, thật là nhỏ bé, tôi muốn nói, khu vực có căn phòng rưỡi của chúng tôi đó, gồm tất cả sáu phòng, nhờ trời, chỉ có bốn gia đình trú ngụ. Kể cả chúng tôi, chỉ có mười một mạng sống ở đó. Một khi không còn cuộc sống tập thể, cư dân của nó có khi tới con số một trăm mạng. Trung bình ra, thì là từ hai mươi lăm tới năm mươi. Riêng gia đình chúng tôi thì kể như rất ư là khiêm tốn, tôi muốn nói, nhỏ nhoi.
 Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi cùng dùng chung một nhà cầu, một phòng tắm, và một cái bếp. Nhà bếp nói chung cũng rộng rãi, nhà cầu thì rất ư tươm tất, thoải mái. Còn phòng tắm, thói quen của người Nga liên quan tới công việc vệ sinh là, mười một mạng cũng ít khi bị coi là chật chội, không đủ chỗ, khi cả một đống người như thế dùng chung một nhà tắm, hay làm luôn công việc giặt giũ cơ bản [hoặc cái xà lỏn, hoặc cái xú chiêng], cũng ở một nơi bé tí đó. Người đang chờ tới phiên mình thì lăng quăng ở hành lang nối phòng trên với nhà bếp, và người ta thuộc nằm lòng, người hàng xóm của mình có mấy cái xà lỏn, xì líp, hay xú chiêng!
 Hàng xóm, là hàng xóm tốt. Vừa như là những cá nhân tốt, vừa là do, tất cả họ đều đi làm và như thế, vắng mặt gần như suốt ngày. Còn điều này, họ không hề báo cáo công an; đúng là một điểm tốt ngay cả khi còn kiểu sống tập thể. Nhưng, ngay cả bà ta, một người đàn bà lùn tịt, chẳng có eo ếch gì hết, một phẫu thuật viên tại một bệnh viện đa khoa gần đó, cũng sẽ ban cho bạn một lời khuyên về một căn bệnh hay một thứ thuốc nào đó, giữ cho bạn một chỗ đứng, khi phải xếp hàng mua một thứ thực phẩm khan kiếm bằng tem phiếu, hay trông chừng nồi cháo đang sôi có thể trào ra ngoài. Dòng thơ của Frost, trong “The Star-Splitter” hình như là nói về điều này? “Bởi vì sống với xã hội, với người khác, là phải biết tha thứ”? [For to be social is to be forgiving].
 Trong tất cả những khốn khổ khốn nạn của cuộc sống tập thể đó, vẫn có một tí gì mang tính cứu rỗi. Nó đẩy cuộc đời về những cơ bản của nó. Nó xóa sạch mọi ảo tưởng về bản chất của con người. Nghe tiếng rắm ở trong nhà cầu, là bạn biết ngay, ai đang ở trong đó. Bạn còn biết, ông/bà láng giềng đó đã xơi món gì, trong bữa cơm chiều, hoặc bữa điểm tâm. Bạn nghe ra những tiếng động, của người nào nguời nào, khi cọ quậy trên giường, và biết, khi nào những người đàn bà có tháng. Thường xuyên, bạn là người mà người hàng xóm tóm lấy, để mà thở than, ca cẩm, về nỗi đau, nỗi buồn của ông ta hay bà ta. Và cũng chính người đó, sẽ kêu xe cứu thương, nếu chẳng may bạn lên cơn đau tim hay gặp điều gì còn tệ hại hơn. Và cũng chính ông ta, hay bà ta, đã khám phá ra bạn, nằm chết ngay đơ, trên chiếc ghế vẫn ngồi thường ngày, nếu bạn là người sống độc thân, hay là ngược lại.
 Những nhận xét, mách bảo thuốc thang hay cách nấu món này, món nọ, ở cửa hàng nào có món khoai lang, rau muống cọng vừa dài lại vừa xanh, non… những trao đổi như vậy thường là ở nhà bếp, khi mấy bà vợ đang lo bữa ăn chiều. Đây là nơi người ta học những điều thiết yếu, hệ trọng của cuộc sống: bằng một cái nhếch tai, một cái nháy mắt. Bi kịch nào đang diễn ra ở đây, khi một người nào đó đột nhiên đổi giọng, với một người nào khác! Học ở đâu cách ăn nói đó! Xúc động sâu xa tới mức nào đã khiến cho cột sống lưng cứng đờ vì giận dữ, khiến dáng đứng như trời trồng thế kia! Những mùi vị nào, hương thơm nào, uế khí nào bồng bềnh trong không khí, quanh ngọn đèn vàng một trăm oắt lửng lơ như một giọt nước mắt treo trên một sợi dây điện sặc sỡ rối tít mù. Có một cái gì hình như là bộ lạc ở đây, trong căn hầm mờ mờ sáng này, một cái gì nguyên thuỷ, hoặc nếu muốn, bạn có thể gọi nó là tiến hóa; và những nồi niêu xoong chảo treo lơ lửng trên bếp ga, chúng giống như những chiếc trống cơm của một thời tiền sử.

 6
Tôi nhớ lại tất cả những gì vừa kể ra trên, không phải là do hoài hương, nhưng bởi vì đó là nơi mẹ tôi trải qua một phần tư cuộc đời của bà. Người trong gia đình ít khi kéo nhau đi ăn tiệm, thay cho một bữa nấu tại gia; ở Nga, hầu như chẳng bao giờ. Tôi không nhớ hình ảnh bà cụ, hoặc ông cụ, qua một bàn ăn tại nhà hàng, hay tại một tiệm cà phê. Bà mẹ tôi là người nấu ăn số một mà tôi đã từng được biết, trừ một ngoại lệ, có lẽ, là Chester Kallman; nhưng tay này, nói cho cùng, chỉ hơn bà cụ tôi, là có trong tay nhiều gia vị hơn! Tôi nhớ cụ nhất, thường là khi cụ ở nhà bếp, với cái tạp dề, mặt đỏ ửng, và cặp kiếng mắt mờ đi vì hơi nước, cụ xua tôi ra xa khi xán gần bếp, tính nhón món này hay món nọ còn nóng bỏng ở trong lò. Môi trên bà long lanh mồ hôi; mớ tóc ngắn, cắt gọn, khô đỏ nhưng mà là mầu xám, thì rối bù. “Đi chỗ khác!” bà la lên. “Con không đợi được hả?” Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nghe những lời như thế nữa.
Tôi cũng chẳng bao giờ nhìn thấy mẹ mình mở cửa [làm sao bà mở được nhỉ, hai tay bận ôm cái nồi, hoặc hai cái chảo bự, bà chỉ còn có cách hạ chúng xuống đè vào then cửa và phăng phăng tiến vào, mang cho chúng tôi bữa chiều/bữa xúp/bữa trà/bữa điểm tâm. Cha tôi, lúc đó đang đọc báo, còn tôi, sẽ không rời cuốn sách nếu không được ra lệnh, và, mẹ tôi biết rất rõ, chẳng hy vọng gì ở hai người này, bởi vì bất cứ phụ giúp nào của hai cha con chúng tôi, chỉ làm chậm, hoặc có khi lóng ngóng đến làm hỏng bữa ăn! Hai bố con, tức những người đàn ông trong gia đình của bà, đã hiểu rất rõ, thế nào là lịch sự, hơn là chính họ có thể chủ động, ở trong những công việc cần tới lịch sự như thế. Ngay cả khi cả hai đều đang đói. “Mày lại đang đọc Dos Passos của mày hả?”, bà cụ có thể sẽ đưa ra một lời nhận xét, trong khi dọn bàn. “Thế thì ai sẽ đọc Turgenev? "Thế thì mẹ mày hy vọng gì ở thằng cha Turgenev đó?," cha tôi sẽ trả lời, như một tiếng vang đáp lại, trong khi gấp tờ báo. “Hắn ta chỉ là một kẻ ăn không ngồi rồi”.

 7
 Làm sao tôi có thể tưởng tượng, cũng có tôi ở trong một khung cảnh như vậy? Nhưng mà rõ ràng là như vậy đấy, như tôi nhìn rõ cả hai ông bà. Lại một lần nữa, ở đây, không phải là hoài nhớ tuổi trẻ của tôi, quê hương xa xưa của tôi. Không, còn hơn cả thế, bây giờ, khi hai cụ đều đã mất, tôi nhìn thấy cuộc đời của họ, như cuộc đời của hai cụ đã từng như thế; và như thế, cuộc đời của hai cụ ôm, gồm cả tôi. Và cũng thế, họ cũng sẽ nhớ về tôi, ngoại trừ bây giờ, họ có được cái khả năng quí báu là có mặt ở tất cả mọi nơi, và vào lúc này, đang quan sát đứa con trai của họ, ngồi trong phòng bếp của một căn hộ thuê của trường học, viết những dòng này, bằng một thứ chữ mà cả hai đã không hiểu, mặc dù bây giờ cả hai đều không cần tới chúng nữa. Bây giờ cả hai đều thuộc về một thế giới khác. Đó là dịp may độc nhất mà họ có, để được nhìn thấy đứa con trai của hai cụ, ở bên Mỹ. Và đó là cách độc nhất, để tôi nhìn thấy hai cụ, và căn phòng của chúng tôi.

 8
 Căn phòng của chúng tôi, trần cao chừng mười bốn feet, có thể hơn. Cũng vẫn theo kiểu Moor cộng thêm những vết nứt rạn, những loang lổ, do ống nước từ những phòng phía trên dò rỉ xuống, nó biến thành một tấm bản đồ chi tiết thật chi li, thuộc về một siêu cường chưa từng hiện hữu hoặc một quần đảo. Có ba cửa sổ rất cao, hình vòng cung, qua chúng, chúng tôi có thể nhìn, chẳng thấy gì, ngoại trừ, ngôi trường trung học, ở bên kia con phố, nếu không nhìn từ cửa sổ chính, vốn còn được dùng như là lối ra bao lơn. Từ bao lơn, chúng tôi có thể nhìn dọc theo hết con phố, đúng kiểu phố St. Petersburg. Cuối tầm nhìn, là bóng dáng đẹp vô song, của vòm cung nhà thờ St. Panteleimon, hay, nếu nhìn về phía bên phải, là công trường lớn, và ở ngay trung tâm của nó, là Vương Cung Thánh Đường [Cathedral of the Savior of Her Imperial Majesty’s Transfiguration Battalion].
 Vào thời gian chúng tôi dọn tới kỳ quan Moor, tức Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi đó, con phố vẫn còn mang tên Pestel, một trong những thủ lãnh của nhóm Decembrists, đã bị hành hình. Tên khởi thuỷ của nó, là theo tên nhà thờ ở mãi cuối phố: Panteleimonovskaya. Ở đó, khi con phố cùng đường, nó bèn vòng theo ngôi nhà thờ và chạy về phía sông Fontanka River, vượt qua cây cầu Police Bridge, và đem bạn tới Vườn Mùa Hạ, Summer Garden. Pushkin đã từng ở tại khu phố này, và đâu đó, trong thư viết cho vợ, ông nói, là, “sáng nào cũng như sáng nào, trong chiếc áo ngủ, chân mang đôi giầy mềm, tôi băng qua cầu, làm một cuộc đi dạo Vườn Mùa Xuân. Cả Vườn Mùa Xuân là khu vuờn của tôi, my orchard…”
 Nhà của ông, Số 11, tôi nghĩ vậy. Còn của chúng tôi, Số 27, và đó là cuối con phố, khi nó trầm mình vào quảng trường nhà thờ. Còn điều này nữa, vì building chúng tôi nằm ở nơi con phố cắt đại lộ đã đi vào huyền thoại, Liteiny Prospect, thành thử địa chỉ thư tín của chúng tôi là Liteiny Pr. #24, Apt. 28. Đó là nơi chúng tôi nhận thư từ của chúng tôi; đó là nơi tôi viết trên những chiếc phong bì của những lá thư nhà, gửi cho hai cụ. Tôi nhắc tới ở đây không phải bởi vì nó có một chút ý nghĩa gì đặc biệt, nhưng là do, ngòi bút của tôi, có thể thông cảm với chủ nhân của nó, rằng, đây là lần cuối cùng, và rồi ra, nó sẽ chẳng bao giờ phải viết địa chỉ đó nữa.

 9
 Lạ một điều, ba thứ đồ đạc trong căn phòng lại tỏ ra ăn ý với phía bên ngoài cũng như là phía bên trong building. Chúng như quấn quit, bận bịu với nhau, bằng những đường cong, bằng tính hoành tráng toát ra từ cái vẻ mốc meo của vôi, của vữa, ở mặt tiền, hay ở những tấm ván, những cột trụ, từ bên trong tường nhô ra, cuộn trên cột, là những vòng hoa vữa, những trái cây được trang trí theo kiểu hình học. Cách trang trí, cả ngoại lẫn nội thất, làm tỏa ra một cái bóng dáng mầu nâu nhạt trộn mầu sữa cô ca. Tuy nhiên, hai cái tủ lớn của chúng tôi, giống như thứ ở nhà thờ, có ô kéo, thì lại bằng gỗ sồi, đánh véc ni đen, nhưng chúng cũng thuộc về cùng một thời kỳ, tức bước ngoặt của thế kỷ, như tòa building, chính nó. Có thể chính vì thế mà lối xóm tỏ ra dễ chịu với chúng tôi, ngay từ đầu. Có thể chính vì vậy, cũng nên, mới chưa đầy một năm, mà chúng tôi đã có cảm giác, sống ở đây hình như là, tự muôn đời. Cái cảm giác đó lây lan đến cả những đồ đạc, rằng, hai cái tủ lớn của chúng tôi sau cùng đã kiếm ra nhà của chúng, rồi cái cung cách vòng vo này nọ, sao đó, khiến cho chúng tôi nhận ra rằng, chúng tôi, cũng vậy, như vậy là đã an cư, và sẽ chẳng còn dời đổi nữa.
 Hai cái tủ hai tầng, to lớn, cao mười feet của chúng tôi đó [bạn phải tháo mấy cạnh tủ ra khỏi cái đáy chân voi, mỗi lần muốn di chuyển], chúng chứa đựng gần như tất cả những gì gia đình chúng tôi nhặt nhạnh được, dòng dã suốt cuộc đời của chúng. Cái vai trò của gác xép, hay hầm nhà, ở mọi nơi khác, trong trường hợp của chúng tôi, là do hai cái tủ trình diễn. Những máy quay phim, đủ thứ hầm bà lằng của cha tôi, dụng cụ rửa phim, phim ảnh, chính chúng, những dĩa, đồ sứ, vải lanh, khăn trải bàn, hộp đựng giầy với những đôi bây giờ quá nhỏ đối với ông, nhưng vẫn còn rộng đối với tôi, những dụng cụ kìm kéo, tuộc vít, những cục pin, bộ đồ lính thuỷ cũ rích của ông, những chiếc ống nhòm, an-bum gia đình, mũ nón, khăn quàng của mẹ tôi, mấy lưỡi dao cạo râu Solingen bằng bạc, ba thứ đèn chụp hình hết xài, mớ huy chương nhà binh của cha tôi, những bộ kimonos nhiều mầu của mẹ tôi, thư từ trao đổi giữa hai người, kiếng đeo mắt, thứ dùng khi đi coi nhạc hội, hoặc coi diễn kịch, ba cái quạt máy, những món đồ kỷ niệm này nọ - tất cả được nhét vô đáy tủ, và mỗi lần mở ra, là mở ra một mùi quần áo cũ, và một mớ bụi. Phần dưới tủ, ngay phía bên trên, giống như trên mặt lò sưởi, hai cái bình thuỷ tinh, đựng rượu, ngồi chung với hai ngư ông người Tầu, bằng sành, đang kéo câu. Mẹ tôi, cứ hai lần trong một tuần, mở ra, và lau bụi cho mấy món đồ này.
 Ba thứ đồ lẩm cẩm, linh tinh đó, nói gì thì nói, khi phải nhìn ngoái lại, chúng có thể được coi như một thứ tâm tư góp nhặt theo dòng đời của gia đình chúng tôi, nối kết lại với nhau, nhưng vào lúc đương thời của chúng, tôi chẳng hề để ý tới. Ít nhất thì nó là như vầy: tất cả những đồ vật đó, chúng là một phần của ý thức của cha mẹ tôi, những dấu hiệu của hồi nhớ: về những nơi chốn, những thời kỳ trước tôi; về quá khứ chung, và riêng, trước khi gặp nhau, của ông bà, về tuổi trẻ và tuổi thơ của riêng từng người, về một thời đại khác biệt, một thế kỷ khác biệt. Vẫn theo dòng nhìn ngoái lại đó, tôi có thể nói thêm, điều này: về sự tự do của ông bà, bởi vì họ sinh ra tự do, và lớn lên tự do, trước khi có cái mà đám cặn bã ngu đần kia gọi là Cách Mạng, nhưng với họ, và nhiều thế hệ khác, nó có nghĩa là nô lệ.

10
Tôi viết thư nhà này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự do, một chút tự do này, rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những người muốn, hoặc thích đọc thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và Alexander Brodsky, có được thực tại dưới “qui tắc ngoại về lương tâm”  [a “foreign code of conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự chuyển động, diễn tả những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai cụ sống lại, nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là con đường giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so với văn phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách máy móc kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính là xuất phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan này tới cơ quan kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy phép đi ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết, và liên tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một tờ giấy phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”]. Chỉ nội chuyện đó không thôi, sự lập đi  lập lại một “lời phán” khốn nạn như thế, nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga. Ngoài ra, ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng chẳng mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới bầu trời Nga. Ai sẽ đọc chúng? Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã chết, hoặc sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự? Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện này hơn ai hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn mẹ cha của họ, khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo yêu cầu của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân. Và rồi thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc ống nghe điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở nước ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và dù có la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những người đó điều gì? Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ? Chẳng có một xứ sở nào đã luyện được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ diệt linh hồn của dân mình như nước Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm lành lặn linh hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này. Chính là vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt Thời Gian Của Người. Xin cho tiếng Anh làm cái nhà cho những người thân quá cố của tôi. Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy nhiên, với mẹ cha tôi, bà Maria Volpert và ông Alexander Brodsky, tiếng Anh mới chính là thứ ngôn ngữ dâng cho họ một cõi sau xem ra tươm tất hơn và có thể đó là cõi duy nhất mà họ có được ngoài cái trí nhớ của bản thân tôi về họ ra. Còn về bản thân tôi, khi viết bằng tiếng này, thì cũng chỉ như là rửa chén dĩa mà thôi, rất tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con của bà vừa rửa một mớ chén dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!

11
Cha tôi là ký giả - nhiếp ảnh viên nhật báo, chính xác là vậy - mặc dù ông cũng viết báo nữa. Ông viết chủ yếu cho những tờ báo nhỏ, và như thế, chúng chẳng hề được đọc, và hầu hết bắt đầu bằng những dòng “Những đám mây bão nặng nề trên vòm trời biển Baltic…”, ông tin rằng, mở ra bằng một tin tức thời tiết như thế sẽ khiến cho người đọc cho rằng đây là một cái tin đáng đọc, đáng tin cậy. Ông có hai cái bằng, một về địa dư, của Đại học Leningrad, và một, báo chí, của Trường Báo Chí Đỏ [School of Red Journalism]. Ông học môn thứ nhì, sau khi biết rằng, những cơ may đi du lịch, đặc biệt là du lịch nước ngoài, kể như tiêu: là một người Do Thái, con trai một người chủ tiệm in, lại không phải là Đảng viên, thôi đừng mơ những chuyện hão huyền đó nữa nhé, ông đành nói với mình như vậy. 
Báo chí [tới một mức nào đó] và chiến tranh [cơ bản] tạo được sự cân bằng, làm mất đi sự bất công kể trên. Hai chân ông phủ lên một phần sáu bề mặt trái đất [đây là định nghĩa tiêu chuẩn bề mặt lãnh thổ Liên Bang Xô Viết], và không nhỏ, những sông ngòi, biển cả. Mặc dù thuộc Hải Quân, chiến tranh khởi sự đối với ông, là vào năm 1940, ở Phần Lan, và chấm dứt vào năm 1948, tại Trung Hoa, nơi ông được phái tới, cùng với một nhóm cố vấn nhà binh để giúp đỡ me-xừ Mao trong những cuộc tấn công nổi dậy của ông ta, và chính từ đất nước này, mà chúng tôi có được hai ngư ông người Tầu bằng sành, và bộ đồ ăn Trung Hoa mà mẹ tôi muốn chuyển giao cho tôi, khi tôi lấy vợ. Giữa thời gian đó, ông còn hộ tống Allies’ PQ tại biển Barents Sea, chống giữ và sau đó thất thủ Sevastopol tại Biển Đen, gia nhập – sau khi pháo thuyền của ông bị chìm – đơn vị Thuỷ Quân, Marines, như khi đó gọi vậy. Trong thời gian thành phố Leningrad bị vây hãm, ông được phái tới tiền phương mặt trận Leningrad, chụp những tấm hình thật là đẹp, như tôi đã từng được nhìn thấy, khi được in ra, về thành phố bị vây hãm, và sau đó, ông tham dự cuộc giải vây, [phần này của cuộc chiến, theo như tôi tin tưởng, là phần ảnh hưởng sâu đậm nhất tới ông, vì nó quá gần với gia đình của ông, tới nhà của ông. Nhưng, nếu nói về những gì gần gụi ông nhất, thì ông đã mất căn phòng của ông, người chị/em độc nhất của ông: vì bom, và vì chết đói]. Sau đó, ông được phái trở lại vùng Biển Đen, đổ xuống khu vực tệ hại là Malaya Zemlya, chống giữ nó; rồi thì, khi mặt trận chuyển về hướng Tây, đi theo đơn vị pháo thuyền đầu tiên tới Rumania, đổ quân tại đây, và, trong một thời gian ngắn, là vị toàn quyền nhà binh của Constanza. “Chúng tôi đã giải phóng Rumania”, đôi lúc, ông hào sảng về mình như vậy, và có khi còn hảo sảng thêm một chút nữa, nghĩa là nói về những lần gặp gỡ giữa ông với nhà vua King Michael. Đó là ông vua độc nhất mà ông đã từng gặp; còn Mao, Tưởng Giới Thạch, không nói tới Stalin, ông chỉ coi là những tên tiếm ngôi, soán nghịch.

12
Chuyến đi Tầu của cha tôi, cho dù là vì một công chuyện tinh ma quỉ quái gì gì đi chăng nữa, thì chỉ có căn nhà kho nhỏ bé, mấy chiếc tủ, và mấy tường nhà, được hưởng lợi. Những nghệ phẩm lần sau chót được đem ra trình diễn, đều là từ Trung Hoa: mấy bức tranh bần, mầu nước, những cây kiếm của mấy ông samurai, những bức màn nhỏ bằng lụa. Hai ông ngư ông lúc nào cũng như có chút men ở trong người, là những nhân vật cuối cùng xuất hiện trong đám cư dân bằng sành, gốm, những con búp bế, và những con chim cánh cụt đội nón, chúng dần dần biến mất, nạn nhân của những cử chỉ cẩu thả, hơi mạnh tay, hoặc là phải nhường chỗ cho những món quà sinh nhật của bà con chú bác. Cũng biến đi chỗ khác cho được việc, là những cây kiếm, chúng đành phải đầu hàng mấy tay thu gom của nhà nước, lý do là, những khí giới nguy hiểm như thế không phải thứ thường dân có thể nghịch ngợm, táy máy! Chơi dao có ngày đứt tay: Đúng là một lời khuyên bảo hữu lý, nhất là lúc sau này, thằng con trai độc nhất của hai cụ khiến đám công an tới Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi, để hỏi thăm sức khoẻ của hai cụ hơi nhiều! Còn bộ đồ ăn bằng sứ Trung Hoa, cái này thì thật kỳ, tôi muốn nói sự biến mất của chúng, nhưng bà mẹ của tôi không muốn nhìn, không muốn nghe thấy nói tới, dù chỉ một cái dĩa kiểu, ở trên bàn ăn “của chúng tôi”: “Những thứ của quí đó đâu để cho những con người nhếch nhác”. Cụ sẽ nhẫn nại vô cùng, khi giải thích cho chúng tôi. “Mà mấy người thì thật là nhếch nhác. Quá nhếch nhác!”. Vả chăng, những chén dĩa mà chúng tôi đang dùng thì cũng lịch sự chán. Quá lịch sự là đằng khác. Mà lại rất ư là cứng cáp, khoẻ mạnh, không mảnh khảnh, làm dáng như ba thứ đồ Tầu, đồ Sứ!
Tôi còn nhớ, một buổi tối âm u, lạnh lẽo, vào tháng Chạp năm 1948, trong căn phòng nhỏ, mười sáu mét vuông, nơi mẹ tôi và tôi sống, trong và sau khi chiến tranh chấm dứt. Buổi chiều hôm đó, Cha tôi từ Trung Hoa về. Tôi nghe tiếng chuông cửa, mẹ tôi và tôi chạy ra trước cửa, chỗ đèn sáng mờ mờ bỗng như tối hẳn đi với những bộ đồng phục Hải quân: cha tôi, bạn của cha tôi, và đồng ngũ, Đại Uý F.M., và một nhóm quân nhân đi vô hành lang, khiêng ba cái thùng lớn, có móc cài của người Trung Hoa, bốn phiá chung quanh trang trí những chữ Trung Hoa giống như những con bạch tuộc khổng lồ. Và sau đó, Đại Uý F.M. và tôi ngồi ở bàn, trong lúc cha tôi mở mấy chiếc thùng, và mẹ tôi, trong chiếc áo dài bằng nhiễu Trung Hoa mầu vàng hường, vừa vỗ tay vừa la lên, “Ach, oh wunderbar!”, bằng tiếng Đức, thứ tiếng thời thơ ấu của bà tại Latvia, và thứ tiếng hiện bà đang sử dụng, vì bà làm thông ngôn trong một trại tù binh chiến tranh người Đức. Và Đại Uý F.M., một người đàn ông cao, thon, rắn chắc trong bộ đồ quân phục xanh đậm, không cài nút, tự rót cho mình một ly từ cái bình rượu, và nháy mắt với tôi, như với một người lớn. Những chiếc thắt lưng lỉnh kỉnh ba cái móc neo, ba cái bao súng ngắn thì được để trên thành cửa số. Chiến tranh hết rồi, bây giờ là hoà bình. Tôi thì còn nhỏ quá, để mà nháy mắt đáp lại ông Đại Uý.

13
Bây giờ, tuổi ở vào đúng tuổi của cha tôi, buổi chiều tháng Chạp năm đó: Tôi bốn muơi lăm tuổi, và tôi lại nhìn thấy khung cảnh bữa đó, thật là rõ ràng đến không thể tin được, cứ như thể nó đang xẩy ra trước mắt tôi, mặc dù tất cả những người ở trong khung cảnh đó thì đều đã chết, trừ tôi ra. Tôi nhìn thấy cảnh đó quá rõ, quá thật đến nỗi tôi có thể, và bèn nháy mắt lại với Đại Uý F.M…. Nhưng làm như thế, là có nghĩa gì? Giữa hai cái nháy mắt, cách nhau gần bốn chục năm, liệu có một ý nghĩa, và ý nghĩa này, nó chừa tôi ra, nó tránh né tôi? Liệu, đời sống là như vậy đó? Nếu không phải như vậy, thì tại sao có sự rõ ràng đó? Rõ ràng như vậy, là để làm gì? Câu trả lời độc nhất đối với tôi, là: Rằng, cái giây phút đó, khung cảnh đó hiện hữu, rằng, không thể nào quên được, cho dù những diễn viên đã bỏ đi, kể cả chính tôi. Chỉ bằng cách như vậy bạn mới thực sự hiểu ra được điều quí giá biết là chừng nào này: chiến tranh hết rồi, và bây giờ hòa bình tới. Nó tới, và nó lừng lững đi vào trong một gia đình, là gia đình tôi. Cũng cùng một “dấu ấn” như vậy, bạn sẽ hiểu ra được những giây phút, những thời điểm, rằng chúng “có đó”. Hãy kể ra này: Sự trở về, từ chiến trường, của một ông bố, sự mở ra, một cái thùng, mang từ Trung Hoa về. Chính vì thế mà nó rõ ràng, nó hiển hiện, như vừa xẩy ra, như đang xẩy ra. Hay là, biết đâu đấy, có khi chỉ vì bạn là con trai của một ông bố nhiếp ảnh viên, và cái hồi ức của bạn, nó mở ra, giản dị như một cuộn, một thước phim. Chụp với hai con mắt, với tầm nhắm, của chính bạn, hầu như từ bốn chục năm về trước. Chính vì vậy, cho nên bạn mới không thể nháy mắt đáp lại, vào lúc đó.

14
Cha tôi mặc bộ đồ Hải Quân chừng hơn hai năm. Đó là đúng vào lúc mà tuổi thơ của tôi bắt đầu, bằng tất cả sự hồ hởi của nó. Ông là sĩ quan nhiếp ảnh, thuộc bộ nhiếp ảnh Viện Bảo Tàng Hải Quân, tọa lạc tại một tòa building đẹp nhất trong toàn thành phố. Nói rõ hơn, trong toàn đế quốc. Toà building này trước thuộc Viện Hối Đoái, từ thuở xa xưa lắm rồi, và nó cũng thật xa xưa, nghĩa là ở cuối con đảo Basil [Island], ở miệng con sông Neva [River], nơi nó há thật rộng ra.
Vào thật xế chiều, tan học, tôi theo những con phố tới tận con sông, đi qua cây cầu Palace [Bridge], và chạy vô viện bảo tàng để đón cha tôi, và hai cha con cùng đi về nhà. Tuyệt vời nhất, là những lần, ông là sĩ quan trực buổi chiều, khi viện bảo tàng đã đóng cửa. Ông sẽ xuất hiện, đâu đó, từ hành lang dài bằng cẩm thạch, thật là uy nghi, thật là bệ vệ, với tấm băng mầu xanh trắng xanh của vị sĩ quan trực đeo vòng qua cánh tay trái, bao súng phía bên phải, và cùng với nó, là sợi dây lưng; mũ Hải Quân, lưỡi trai bóng loáng và cái “salad” [cái dĩa] mạ vàng ở phía trên che cái đầu hói thường làm ông lúng túng. “Xin chào, Trung Tá,” tôi sẽ nói như vậy, vì đó là cấp bực của ông; ông cười, và, vì còn cả tiếng nữa mới hết giờ trực, ông để mặc tôi thơ thẩn trong viện bảo tàng.
Tôi tin tưởng một cách sâu xa, rằng, ngoài văn học hai thế kỷ vừa qua, và có lẽ, kiến trúc của thủ đô cũ, điều độc nhất còn lại mà người dân Nga tự hào, đó là lịch sử Hải Quân của họ. Không phải bởi vì những chiến công hiển hách, mà cũng chẳng có nhiều, nhưng mà là tinh thần hải quân phong nhã của nó. Coi đây là một phong cách riêng, hay quá nữa, một bệnh tưởng, thì cũng được, nhưng cái đầu óc trẻ con của một tay “viễn mơ” độc nhất, trong số những hoàng đế Nga, Đại Đế Peter đó, có vẻ như với tôi, đúng là của một kẻ vượt qua đường ranh giữa văn chương như đã nói ở trên, và kiến trúc. Mô phỏng Hải Quân Anh, nhưng có tính trình diễn nhiều hơn là để làm việc, trang bị bằng tinh thần khai phá, hơn là tham vọng bành trướng, thú cái thú làm một cử chỉ anh hùng, làm một hành động tự hy sinh, hơn là  sống còn bằng mọi giá, một Hải Quân như thế đó đúng là một viễn ảnh: của một trật tự hoàn hảo, hầu như mang tính trừu tượng, được nẩy sinh từ bên trên những vùng trời nước của những đại dương của thế giới, không thể nào với tới nổi, cho dù đứng ở bất cứ nơi chốn nào, trên mảnh đất Nga.
Một đứa trẻ thì luôn luôn, trong tất cả mọi chuyện, là một tay thẩm mỹ, mê cái đẹp. Nó đáp ứng liền tù tì với những vẻ ngoài, những bề mặt, những hình dáng, những thể loại. Đứa trẻ là tôi hồi đó, mê nhất trên đời, là mấy ông đô đốc, râu ria cạo nhẵn thín, nhìn thẳng, hay nhìn nghiêng, trong những khung mạ vàng, mờ mờ hiện ra giữa một rừng những cột buồm, trên những kiểu mẫu tầu, chúng như đang cố làm sao để trở thành những con tầu thực. Trong đồng phục thế kỷ 18 và 19, với những viền ren, những khăn cổ cao, những đai, gù, tóc giả, băng xanh quàng chéo ngực, chúng giống như những dụng cụ [nhằm phục vụ] cho một lý tưởng tuyệt hảo, trừu tượng, cũng chẳng kém chính xác, nếu so với những astrobales mép viền đồng, dùng để đo độ cao mặt trời, các vì sao, những chiếc la bàn, những hộp phi từ tính, những kính lục phân xác định vị trí tầu. Long lanh,  lấp lánh, chúng có thể tính ra vị trí của một con người, dưới những vì sao, với một sai sót nhỏ hơn, nếu so với chính những sư phụ của chúng! Và người ta chỉ còn mong, có một điều, chúng có thể đã từng cai trị những đợt sóng người, cũng bảnh như vậy, theo nghĩa: những làn sóng nhân sinh này được bầy ra, trước những nghiêm ngặt của môn lượng giác chứ không phải trước cái mặt dầy của những nhà ý thức hệ. Là một tưởng tượng của một viễn tưởng, tức một cái nhìn xa trông rộng, có lẽ, một ảo ảnh, thay vì là một phần của thực tại. Cho tới ngày này, tôi vẫn nghĩ, đất nước sẽ khấm khá hơn nhiều, hoặc sẽ không khốn khổ khốn nạn như vậy, nếu nó không lấy cái mảnh vải khốn kiếp đó làm quốc kỳ: một con gà hoàng gia hai đầu khùng, hay cái búa cái liềm của một hội kín, của đám mafia, và, thay vì lá quốc kỳ khốn kiếp đó, thì là ngọn cờ của Hải Quân Nga: ngọn cờ hiển hách, đẹp không thể có cờ nào đẹp hơn, lá cờ St. Andrew: một chữ thập chéo mầu xanh trên một nền trắng trinh nguyên.

15
Trên đường về nhà, cha con tôi sẽ ghé tiệm, mua đồ ăn, hay vật liệu dùng trong phim ảnh, như phim, thuốc hoá học, giấy in, hay dán mắt vào những khung cửa kính. Vì con đường về nhà đi qua trung tâm thành phố, cha tôi sẽ kể cho tôi nghe lai lịch những cơ ngơi, cửa hàng, cái nào có ở đây, hay ở kia, trước chiến tranh, hoặc trước năm 1917. Ai là nguời kiến trúc, ai là chủ, ai ở đó, và chuyện gì đã xẩy ra cho họ, và theo quan điểm của cha tôi, tại sao. Ông trung tá (commander) Hải Quân cao 6 feet, biết khá nhiều về cuộc sống dân sự, và dần dần, tôi nhìn bộ quân phục của ông giống như một thứ giả trang - hay nói rõ hơn, ý thức phân biệt giữa hình thức và nội dung bắt đầu bén rễ ở trong tôi. Bộ đồng phục của ông phải đối phó với hậu quả này cũng không khác gì cái cơ ngơi mà ông đang giơ tay chỉ, phải ứng phó. Trong cái đầu của một đứa học sinh là tôi, chính cái hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng” này (this parity), lẽ tất nhiên, là một mời gọi, hãy nói láo, nói dối (không phải tôi cần một lời nói dối), nhưng mà ở dưới đáy sâu của vấn đề, tôi nghĩ, nó dậy tôi cái nguyên lý, làm sao giữ cái vẻ bề ngoài, cho dù bất cứ chuyện gì xẩy ra ở bên trong.
Tại nước Nga, lính tráng khó thành dân sự, ngay cả ở nhà của họ. Điều này, một phần, là do cái tủ quần áo, vốn chẳng bao giờ rộng; nhưng chủ yếu, đây là vấn đề liên quan tới quan niệm về quyền thế gắn liền với bộ đồng phục và từ đó, tới vị thế của bạn trong xã hội. Đặc biệt hơn, nếu bạn là sĩ quan. Ngay cả mấy ông giải ngũ, hay về hưu cũng suốt ngày đóng bộ quần áo bộ đội, ở nhà, ở giữa chốn bàn dân thiên hạ: một cái áo chẽn không có cầu vai, giầy bốt cao cổ, cái nón quân đội, 1 cái áo khoác chúng chỉ cho mọi người thấy (hay nhắc nhở chính những người đang mặc) cấp bực của kẻ đang mặc, đang sở hữu chúng: một lần trách nhiệm [là sĩ quan Cụ Hồ, thí dụ] là luôn luôn, suốt đời trách nhiệm. Giống như giới tăng lữ Thệ Phản (Protestan), và trong trường hợp một ông Hải Quân, sự tương tự lại càng rõ nét, do cái cổ áo trắng (white undercollar).
Trong nhà của chúng tôi, có cả đống, bằng plastic hay bằng bông gòn, cotton, ở trong ngăn kéo trên của cái tủ lớn. Những năm sau đó, khi tôi đã lên lớp bẩy, đồng phục được đưa vô trường học, mẹ tôi bèn cầm mớ quần áo của bố, ướm lên thằng con, rồi cắt xén thành bộ đồng phục học sinh. Bởi vì bộ đồng phục đó thì cũng một nửa là lính: áo chẽn, dây lưng có khoá, quần áo đi đôi với nhau, một cái mũ có luỡi che mặt bóng loáng. Mấy anh tưởng bở, nghèo mà ham, đã nghĩ về mình như là một “chiến sĩ”, tốt hơn nữa, là một anh bộ đội, (soldier)! Thì cũng tốt thôi, cho cái hệ thống đó, ngay cả đối với tôi, nhưng có điều, tôi không khoái, cái mầu của bộ đồ, nó giống như của đám bộ binh, hay tệ hơn, của một anh công an, tức một chú bò vàng! Chẳng làm sao bì được với cái áo khoác ngoài của cha tôi, với hai hàng nút vàng, cứ như là một đại lộ về đêm! Và khi ông bố của tôi cởi từng cái nút áo, để lộ ra bộ đồng phục tunic xanh đậm, với cũng hai hàng nút áo y chang: một đại lộ tù mù trong đèn đêm, một thứ ngoại ô đèn vàng đây chăng?
 “Một con phố ở trong một đại lộ”, “A street within an avenue”, đó là ý nghĩ của tôi, về ông bố của mình, khi lé mắt nhìn ông, trên đường từ bảo tàng viện về nhà.

16
Có hai con quạ ở sân sau nhà tôi, ở đây, tại South Hadley. Hai con quạ lớn, loại kên kên, và chúng là những gì đầu tiên mà tôi nhìn thấy, mỗi lần đi, hoặc về nhà. Chúng xuất hiện từng con một: con đầu, cách đây hai năm, khi mẹ tôi mất; con thứ nhì, năm ngoái, ngay sau khi cha tôi mất. Có thể, đây chỉ là cách mà tôi nhận ra sự hiện diện của hai con quạ ở sân sau nhà mình. Bây giờ, thì chúng cùng tới, và cùng vỗ cánh bay đi, và cả hai đều quá lặng lẽ, so với những con quạ khác. Tôi cố không nhìn chúng; ít ra, tôi cố không theo dõi chúng. Tuy nhiên, tôi nhận ra một điều là hai con quạ này thường đậu ở đám rừng thông bắt đầu từ cuối sân nhà tôi và chạy dài chừng một phần tư dặm đường, tới bãi cỏ ở ven thung lũng nhỏ có mấy tảng đá thật lớn ở mãi cuối thung lũng. Tôi không bao giờ đi bộ tới cuối thung lũng nữa, vì sợ rằng là, sẽ nhìn thấy hai con quạ nằm ngủ trên đỉnh hai tảng đá, duới ánh sáng mặt trời. Tôi cũng chẳng bao giờ kiếm cách nhìn thấy chúng, ở trong tổ. Hai con quạ đen, nhưng tôi để ý thấy ở phía bên trong cánh của chúng có chút mầu tro ướt. Thời gian độc nhất mà tôi để ý không thấy chúng, đó là lúc trời mưa.

17
Vào năm 1950, theo tôi, cha tôi được giải ngũ, cùng với nghị quyết của Trung Ương Đảng, theo đó, nhân dân nào gốc Do Thái thì không nên giữ cấp bậc cao trong quân đội. Nghị quyết này, nếu tôi không lầm, do Andrei Zhdanov phát động, khi phụ trách kiểm tra ý thức hệ trong toàn cõi nhà binh. Vào thời gian đó, cha tôi đã bốn muơi bẩy tuổi, và như vậy là, ông lại phải bắt đầu cuộc đời của ông, làm lại nó như mới, nói như vậy cho thật đẹp. Cha tôi bèn quyết định trở lại với cái nghề ký giả, với cái nghề phóng sự bằng hình ảnh. Tuy nhiên, muốn làm vậy, ông cũng phải được tuyển dụng bởi một tạp chí, hay một nhật báo. Việc này hóa ra khó vô cùng: thập niên 1950 quá bết bát cho những người Do Thái. Chiến dịch chống “đám vô tổ quốc không có gốc rễ” [rootless mosmopolites] đang vào lúc cao điểm nhất của nó; rồi thì, vào năm 1953 lại xẩy ra “Trường hợp mấy ông Bác sĩ”, và, nếu vụ này không kết thúc bằng một biển máu như thường lệ phải như thế, ấy là do chính Đồng chí Stalin, người khởi xướng, không hiểu sao, bất thình lình bỗng suy sụp, bèn tung hê tất cả. Nhưng thời gian dài trước đó, và một thời gian sau đó, đã đầy những lời đồn, những rỉ tai, là Bộ Chính Trị đang lên kế hoạch càn quét đám Do Thái, tái định cư đám loài vật thuộc “phần năm” [paragraph five] này vào khu Siberia phía Đông, một vùng có tên là Birobidzhan, gần biên giới Trung Hoa. Còn có cả một lá thư được lưu hành, thư này được ký tên bởi những cá nhân nổi tiếng nhất trong “phần năm” - những kỳ thủ, những nhà soạn nhạc, và những nhà văn – nội dung của nó là một lời thú nhận tội lỗi gửi tới Ban Bí Thư Trung Ương Đảng, và cá nhân Đồng Chí Stalin, xin cho phép chúng tôi, những người Do Thái, được cứu chuộc, bằng lao động khổ sai tại những vùng thật là xa xôi, về những tội ác lớn lao mà chúng tôi đã gây ra đối với nhân dân Nga. Lá thư này sẽ xuất hiện trên nhật báo Sự Thật, trong bất cứ một ngày đẹp trời nào đó, như là cái cớ, the pretext, cho việc tống xuất đám Do Thái chúng tôi.
Ô hô, ai tai, thượng hưởng: Tuy nhiên, điều xuất hiện trên tờ Sự Thật, sau cùng lại là thông báo về cái chết của Stalin, mặc dù vào thời gian đó, chúng tôi đang sửa soạn đi du lịch và đã bán cái piano kiểu đứng của chúng tôi, vì chẳng ai trong gia đình có thể đàn [mặc dù má tôi mời một người bà con xa tới tập cho tôi: Tôi chẳng có một tí tài đàn, ấy là chưa kể, chẳng có một tí kiên nhẫn]. Tuy nhiên, trong tình trạng vào lúc đó, đừng trông mong một tạp chí hay một nhật báo tuyển dụng một tên Do Thái, lại không phải là Đảng viên, thế là, a lê hấp, cha tôi lên đường.
Trong vài năm, ông làm nhiếp ảnh viên tự do trên toàn xứ sở, qua khế ước với cơ quan Triển Lãm Canh Nông Toàn Liên Bang tại Moscow. Nhờ vậy, thỉnh thoảng trên bàn ăn cũng có món trân quí - cà tô mát hộp, loại bốn pound, hay hộp trái cây, táo và đào; nhưng tiền công ngày càng giảm, và cả ba chúng tôi vưỡn còn sống được, chủ yếu là nhờ tiền lương của má tôi, nhân viên hội đồng phát triển khu vực. Đó là những năm mất mùa của chúng tôi, và rồi thì cả hai người bắt đầu bịnh. Nhưng gì thì gì, cha tôi vẫn tỏ ra thích giao du, và thường dẫn tôi xuống phố, gặp bạn bè Hải Quân của ông, lúc đó trông coi một câu lạc bộ thuyền buồm, chăm sóc mấy bến tàu cũ, huấn luyện mấy người trẻ. Ông có khá nhiều bạn, và những người đó luôn luôn tỏ ra rất mừng vì gặp ông (nói chung, tôi chưa hề gặp một ai, đàn ông hay đàn bà, tỏ ra bực bội đối với ông). Một trong số những người đó, trưởng biên tập một nhật báo ngành, thuộc Hải Thương, Merchant Marine, một người Do Thái nhưng có một cái tên đọc lên như người Nga, sau cùng đã muớn cha tôi, và cho tới khi về hưu, ông làm cho cơ sở xuất bản này, tại cảng Leningrad.
Dường như suốt đời ông, là đi bộ, [“Phóng viên, thì cũng như chó sói, sống bằng chân cẳng của chúng”, ông thường nói vậy], giữa những con tầu, những thuỷ thủ, những ông đại uý thuyền trưởng, những cần cẩu, những kiện hàng. Trong cái nền sau, hay nói một cách bóng bẩy, ở nơi hậu trường của đời ông, là một dải nước xám bạc, lăn tăn gợn sóng, những cột buồm, cái đuôi tầu, một khối kim loại kếch xù, với vài con chữ, đầu, hoặc cuối, của một cái tên bến cảng quê nhà của nó. Ngoại trừ mùa đông, cha tôi luôn đội cái nón đen Hải Quân có cái lưỡi trai bóng như sơn mài. Ông thích cận kề nước, ông mê biển. Đó là nơi cận kề nhất với tự do. Chỉ nội nhìn biển không thôi, là đôi khi cũng đủ lãng quên tù đầy rồi. Và thế là ông cứ nhìn biển, chụp hình biển, hầu như suốt cuộc đời của ông.

18
Tới tuổi, tuỳ theo đứa, đứa trẻ nào cũng muốn làm người lớn, đòi ra khỏi nhà, ra khỏi cái tổ giam cầm áp bức nó. Đi ra ngoài! Nhập vô cuộc đời thực! Nhập vào thế giới rộng lớn. Nhập vào đời, với những qui luật của chính mình.
Thì cũng tới một lúc nào đó, thằng bé thỏa được ước muốn. Trong một thời gian, nó loay hoay với những viễn ảnh mới, bận bịu xây tổ riêng, xây thực tại của riêng nó.
Rồi thì một ngày, khi thực tại mới đã vào lề thói, khi những qui luật của riêng nó được ban hành, được thực thi, nó bất thình lình nhận ra, tổ cũ đã mất tiêu, những người đem cho nó cuộc sống, đã chết.
Vào cái ngày đó, nó bất thình lình nhận ra, mình giống như có hậu quả mà không có nguyên nhân. Sự mất mát này lớn lao quá khiến nó không làm sao hiểu được. Cái đầu của nó, do mất mát trở nên rỗng tuếch, và bắt đầu chao đảo, và càng khiến cho sự mất mát tăng thêm mãi.
Nó nhận ra rằng, do đòi hỏi của thời mới lớn, làm sao có “đời thực”, nên bỏ nhà ra đi, và sự kiện rời khỏi tổ của nó, khiến cho cái tổ trở nên yếu ớt, không còn khả năng phòng thủ.
Thế cũng đã quá tệ rồi, nhưng ít ra, nó còn có thể đổ vạ cho thiên nhiên, cho bản chất.
Điều nó không thể ăn vạ thiên nhiên, bản chất, đó là, sự thành tựu của nó, thực tại nó làm ra thì chẳng có giá trị gì, nếu so với thực tại tổ ấm của bị bỏ rơi kia. Và nếu có một điều chi là thực, ở trong đời của nó, thì chính là cái tổ kia, cái tổ áp chế, làm nghẹt thở, mà nó chỉ lăm le bỏ chạy. Bởi vì cái tổ đó được xây nên bởi “những người khác”, những người đã cho nó đời sống, chúng  không phải do nó xây, nó,  kẻ biết rất rõ giá trị thực sự của việc làm của mình, kẻ, sau cùng mới hiểu ra được rằng, hoá ra là mình “sử dụng” cuộc đời được những kẻ khác ban cho.
Nó biết, những thành quả của nó đó, chúng đã được ước mong, tính toán như thế nào. Và sau cùng, tất cả đều chỉ là tạm bợ. Và ngay cả, không tạm bợ mà là  lâu bền, cách tốt nhất mà nó có thể  đưa chúng ra sử dụng, thì cũng hiển nhiên như là tài năng của mình mà nó vẫn thường huênh hoang.
Tuy nhiên, nếu nói về tài năng, làm sao nó có thể tái xây dựng cái tổ hoang sơ, khoẻ khoắn, nơi đã từng nghe tiếng khóc đầu tiên của nó khi vào đời. Nó cũng chẳng thể nào tái xây dựng những người để nó vào đó. Như là một hậu quả, làm sao nó có thể tái xây dựng nguyên nhân của nó?

19
Đồ đạc lớn nhất của chúng tôi – hay nói đúng ra, món đồ chiếm chỗ nhiều nhất – là cái giường của ba mẹ tôi. Cám ơn cái cối cái chầy, cám ơn cái cọc cầu ao, cám ơn cái giường, nhờ có nó mà có tôi, tôi nghĩ vậy. Đây là một cái giường rộng, “thứ của vua nằm” [“king sized”], những đường nét trang trí của nó, lạ sao, lại thật xứng hợp, về một mức độ nào đó, với toàn thể căn phòng còn lại, mặc dù chúng được chạm trổ theo phong cách hiện đại hơn nhiều. Thì cũng vẫn mô- típ hoa lá cành, nhưng sự thực thi, the execution, thì đong đưa, oscillated, ở giữa Nghệ Thuật Mới và ấn bản thương mại của chủ nghĩa Kiến Tạo, Constructivism. Cái giường này là niềm tự hào lớn của mẹ tôi, vì bà mua nó, rất ư là hời, vào năm 1935, trước khi mẹ tôi lấy cha tôi. Bà nhìn ra nó, cùng với cái bàn trang điểm có gắn ba cái gương rất hợp với nó, trong một tiệm bán bàn ghế cũ. Hầu hết cuộc đời chúng tôi là xoay quannh, hoặc bị hút về [gravitated] phía cái giường thấp đó, và những quyết định nhớ đời trong gia đình, thì xẩy ra khi cả ba chúng tôi quây quần, không phải quanh cái bàn, mà trên mặt giường, với thằng con ngồi ngay dưới chân cha mẹ.
Theo tiêu chuẩn Nga, cái giường đó đúng là một thứ xa xỉ phẩm. Tôi thường xuyên ban cho mình, cái ý nghĩ, đúng là do cái giường nó đã dụ được cha tôi lấy má tôi, bởi vì ông mê ngủ nướng, nằm ườn trên đó, hơn bất cứ điều nào khác ở trên đời. Ngay cả khi hai ông bà mạnh miệng, hầu hết những lần “ông nói bà cũng nói này” là liên quan tới vấn đề quản lý ngân sách của chúng tôi, [“Vậy là bà lại cúng hết tiền cho tiệm chạp phô đó rồi, chẳng chừa cho tôi một xu!”, tiếng cha tôi vượt qua bức tường, là những kệ sách ngăn “nửa” của tôi với “căn phòng” của ba má tôi. “Tôi bị đầu độc, đầu độc trong ba mươi năm trời, bởi cái tính hà tiện của ông!”, mẹ tôi đáp lại], ngay cả tới lúc căng thẳng như thế đó, cha tôi cũng rất ngần ngại rời cái giường, nhất là vào buổi sáng. Một vài người đã tỏ ra chẳng eo hẹp, khi dụ khị má tôi nhường cho họ cái giường. Nó thực sự chiếm quá nhiều chỗ, trong căn phòng rưõi. Nhưng gì thì gì, ngay cả khi túng bấn nhất, cha mẹ tôi cũng không tính đến chuyện bán giường. Nó đúng là một cái gì thái quá, một cái thú chơi ngông, mà tôi tin rằng, cha mẹ tôi thì thật thích chơi ngông, và thích cái giường, chính là vì vậy.
Tôi nhớ ông bà ngủ ở trên cái giường đó, thường là quay lưng vào nhau, và ở giữa họ là đống chăn mền. Tôi nhớ ông bà đọc sách báo ở đó, nói chuyện với nhau ở đó, uống thuốc uống thang cũng ở đó, chống cự con bịnh này, cái bệnh kia, cũng ở đó. Cái giường như là nơi ẩn náu an toàn nhất, và cũng là nơi bầy ra nỗi bất lực, không trông mong bất cứ giúp đỡ, từ bất cứ ai, bất cứ đâu, đối với cả hai, theo tôi. Đó đúng là nơi chốn riêng tư nhất của ông bà, hòn đảo tối hậu, nơi bất khả vi phạm bởi bất cứ một ai, trừ thằng con ra, của ông bà trên vũ trụ này. Cho dù nó đứng ở đâu bây giờ, nó đứng như khoảng chân không, một tách rời, a vacuum, ở bên trong trật tự thế giới. Một chân không bề ngang năm, bề dài bẩy feet. Gỗ thông mầu nâu nhạt bóng loáng, và chưa hề bao giờ kêu cót két, cọt kẹt.

20
Nửa của tôi nối với phòng của cha mẹ tôi bằng hai cái vòm cao gần đụng trần nhà, và tôi trường kỳ chất lên đó đủ thứ kệ, thùng, hộp đựng sách, để ngăn đôi, giữa thằng con với cha mẹ, hòng có được một chút tư riêng. Một chút, một tí, một mức độ nào đó, chứ đừng hòng hoàn toàn riêng tư, bởi vì, hai cái vòm, cao như thế, rộng như vậy, lại thêm đường ven trên được trình bầy theo kiểu Moor, thật vô phương tách riêng nửa phòng của tôi với phòng của hai cụ. Ngoại trừ, lẽ dĩ nhiên, nếu bạn lấy gạch xây lấp luôn, hoặc che kín đôi bên bằng một bức tường gỗ! Làm như vậy, là chống lại nhà nước, bởi vì, họ ban cho chúng tôi một nửa phòng, với một phòng. Ngăn riêng hẳn ra như vậy, là thành hai phòng. Chẳng cần kiểm tra viên, ngay lối xóm, dù dễ chịu cách mấy, cũng chẳng thèm đợi dăm bữa nửa tháng, mà báo cáo liền tù tì vi phạm trầm trọng này.
Chỉ có thể làm sao cho được tí nào hay tí đó, và đó là tham vọng mà tôi đã đeo đuổi và cố gắng thực hiện từ cái tuổi mười lăm gấp sách lại đứng nghe đó. Tôi đã thực hiện những sắp xếp, những công trình ngăn đôi bờ cõi gây kinh hoàng, và có lúc, còn tính nghĩ đến chuyện, trám vô đó, nguyên một cái hồ nuôi cá cao 12 feet, ở giữa có một cái cửa nối nửa của tôi với phòng của ông cụ bà cụ. Chẳng cần phải nói, một công trình kiến trúc như thế vượt ra khỏi tài năng của tôi. Và những giải pháp tiếp tục theo nhau ra đời, kệ sách rồi kệ sách - về phía nửa của tôi - và phiá bên kia, những lớp màn vải, ngày càng nhiều thêm, và dầy thêm ra. Cũng chẳng cần phải nói, ông cụ bà cụ không làm sao ưa nổi, bất cứ giải pháp nào, và luôn cả vấn đề nhức nhối đẻ ra những giải  pháp như thế.
Gái, cũng như trai, nếu nói về số lượng, thì tăng chậm hơn, so với sách; ngoài ra, cái món sau thì cứ ỳ ở đó. Chúng tôi có hai cái tủ, cửa tủ là những tấm gương. Chúng khá cao, nhưng cũng chỉ có thể hoàn thành một nửa trách nhiệm chứa sách của chúng. Chung quanh hai cái tủ, và ở trên nóc tủ, tôi bầy ra một chiến tuyến, là những kệ sách, chỉ để lộ ra một lối nho nhỏ, tôi thì quá dễ dàng đi lọt, nhưng ông cụ bà cụ phải nghiêng mình lách, mỗi lần vượt chiến tuyến, qua nửa phòng của thằng con, và sau đó, trở về bên phần đất của mình. Cha tôi không thoải mái, với cái vụ sắp xếp như thế, nhất là, kể từ khi ông làm một phòng tối để rửa phim, ở mãi tít cuối “nửa” của tôi. Phần lớn thu nhập trong gia đình là nhờ vào nó.
Có một cái cửa ở phía cuối nửa của tôi. Khi ông cụ không làm việc ở trong phòng tối, tôi ra vô nửa của mình bằng cửa đó. “Như vậy đỡ làm phiền bố mẹ”, tôi nói với ông cụ bà cụ, nhưng thực ra là để tránh hai ngườì đừng soi mói thằng con, và cũng tránh phải giới thiệu mấy thằng ông mãnh bạn bè của tôi, và ba chuyện lòng vòng khác nữa. Mỗi lần có tụi nó, là tôi bèn mở lớn cái máy hát, và ông cụ dần dần đâm ra ghét thậm tệ J.S. Bach.
Tuy nhiên, khi mà sách và nhu cầu riêng tư ngày một tăng lên một cách đáng sợ, tôi cật lực tái sắp xếp nửa của mình, sao cho mấy cái tủ làm hết chức năng của chúng, để ngăn cách giường và bàn của tôi, với phòng tối của ông cụ. Tôi chơi thêm một cái tủ nữa, vốn để không ở nơi hành lang. Tôi phá bỏ cái lưng đụng tường nhưng để nguyên cánh cửa tủ. Kết quả là, một người khách sẽ vô cái Lebensraum [Không gian, môi trường sống riêng]  của tôi qua hai cái cửa, và một bức màn. Cửa thứ nhất đưa tới hành lang; tới đó, bạn sẽ thấy mình đứng trong căn phòng tối của cha tôi, và đưa tay vén bức màn; việc làm tiếp theo của bạn, là mở cửa tủ. Bên trên đầu mấy cái tủ, tôi chất tất cả những thùng sách mà chúng tôi có. Nhiều lắm, nhưng cũng không làm sao đụng tới trần nhà. Đúng là một hàng rào kẽm gai, một chiến tuyến, có thể nói như vậy; và đằng sau hàng rào kẽm gai, thằng bé cảm thấy mình an toàn, và một nàng Marianne sẽ khoe, không chỉ có bộ ngực, mà còn thêm một vài món hàng khác nữa.

21
Cái nhìn mờ mờ của ông cụ và bà cụ về thằng con, qua hàng rào chướng ngại vật được dựng lên như thế đó, bỗng như sang sáng lên, khi hai cụ nghe tiếng gõ cọc cọc của cái máy đánh chữ, mà những bức rèm, hàng rào chiến lược không làm sao làm bặt đi được. Cái máy đánh chữ Nga, thì cũng là từ chuyến đi Trung Hoa của cha tôi mà có được, có điều ông không ngờ nó lại được thằng con đem ra sử dụng. Tôi để nó trên bàn, bên trong một cái ổ được chế tạo từ cái cửa  trước đây dùng để nối căn phòng rưỡi của tôi với phần còn lại của dẫy nhà. Cái cửa cũ, tưởng là đồ phế thải, không ngờ lại được việc như thế đấy! Kể từ khi nhà hàng xóm có cây đàn dương cầm cho cô con gái, cây đàn này lại đặt ở ngay phía bên kia bức tường, tôi bèn tăng cường, ở phía bên tôi, những chiếc thùng đựng sách, và thế là có cái ổ để máy đánh chữ.
Một bên là hai cái tủ và lối đi ở giữa, một bên cửa sổ cao có bức rèm, bậu cửa cách cái đi văng khá rộng rãi mầu nâu trông thật dị hợm của tôi đúng hai feet; phiá sau là cái vòm, với những thùng sách chất lên tận đường biên kiểu Moor ở phiá trên cùng của nó; một cái tổ bằng những chiếc hộp đựng sách, và cái bàn với cái Royal Underwood ở ngay trước mũi tôi: Đó là cái Lebensraum [Không gian] của tôi. Bà cụ sẽ lau chùi, dọn dẹp cho nó, ông cụ sẽ đi qua đi lại, khi tới căn phòng tối của ông; thỉnh thoảng, sau một trận lời qua tiếng lại nho nhỏ, ông cụ, hoặc bà cụ, sẽ tới ngồi trong chiếc ghế bành đã cũ nát nhưng thật sâu, thật rộng của thằng con, như tìm chút ẩn thân. Ngoài những giây lát như thế, toàn cơ ngơi mười thước vuông đó là của tôi. Và chúng là mười thước vuông tuyệt vời nhất, đẹp đẽ nhất là tôi đã từng có, từng biết tới. Nếu không gian có một tâm hồn của riêng nó, và tự nó có quyền phân chia san sẻ, nếu như vậy, thì có thể có một cơ may, rằng, một vài thước vuông trong số mười thuốc vuông đó, vẫn còn nhớ tới tôi, một cách thật là thân thiết. Nhất là vào lúc này, dưới một cái chân khác.

22
Tôi đã được sửa soạn để tin tưởng rằng, với người Nga, rứt ra khỏi những rằng buộc, hệ luỵ, thì khó khăn hơn nhiều, so với bất cứ một giống dân khác. Nói cho cùng, chúng tôi, một dân tộc được định cư quá kỹ, kỹ hơn cả những giống dân thuộc cựu lục địa (Đức hay Pháp], họ hay đi lòng vòng, không hẳn chỉ vì họ có xe hơi, hoặc không có biên giới. Với chúng tôi, căn phòng, là cho suốt đời; thành phố, cả đời; xứ sở, mọi đời. Những quan niệm về sự trường tồn, về điều hoài hoài, do đó, cũng mạnh hơn nhiều, so với những sắc dân khác. Và, lẽ tất nhiên, nỗi đau mất mát, đau hơn nhiều. Đau hơn hoạn. Tuy nhiên, một quốc gia đã từng mất, trong một nửa thế kỷ, gần sáu chục triệu con người, cho cái nhà nước ăn thịt người đó (gồm cả hai chục triệu bị giết trong chiến tranh), một quốc gia như thế chắc chắn là thừa sức để là “cập nhật hoá” cái cảm quan về sự vững bền của nó. Không chỉ vì, những mất mát như vậy là phải gánh chịu, cốt sao vẫn nguyên trạng. Bởi vậy, nếu một người nào cố bám vào tất cả những chuyện đó, như vậy không nhất thiết có nghĩa, con người muốn tuân theo bản chất tâm lý của “ao nhà”, [thí dụ, nước mưa ở nơi lưu vong này thì… chua ngoét]. Nhưng theo tôi, có lẽ, cơ sự này phải cắt nghĩa ngược lại, nghĩa là, giữa hiện tại và điều được tưởng nhớ, có gì đó không ăn ý vói nhau. Hồi ức, giống như suy nghĩ không tưởng, khi nó phản ánh bản chất thực tại của một con người. Thực tại mà tôi đang đối mặt chẳng mắc mớ gì tới căn phòng rưỡi, và hai người sống ở trong đó, ở bên kia biển cả, và bây giờ chẳng còn hiện hữu. Chọn lựa gì được, nếu ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ? Sự khác biệt, là, giữa hai nửa địa cầu, giữa ngày và đêm, giữa thành phố và nhà quê, giữa người chết và người sống. Những điểm chung độc nhất, là, cái bộ mặt của tôi đây, và cái máy đánh chữ. Tuy khác kiểu. Chữ cũng khác.
Tôi giả dụ, có mình lòng vòng bên cạnh, trong muời hai năm cuối cùng của ông cụ bà cụ, có mình lòng dòng bên cạnh, khi ông cụ bà cụ mất, nếu như vậy, có khi, sự tương phản, giữa ngày và đêm, hay giữa một con phố ở trong một thành phố Nga với một con đường nhỏ ở miền quê Mỹ, nó sẽ bớt sắc nét đi, bớt cay đắng đi; sự dữ dằn của hồi ức sẽ phải đối phó với sự dữ dằn của suy nghĩ không tưởng. Sự mất mát hao mòn hoàn toàn sẽ làm mờ cảm nhận, đủ để con người chấp nhận thảm kịch, coi nó là tự nhiên, và sẽ tự nhiên quên đi, như mọi chuyện ở trên cõi đời này. Tuy nhiên vẫn còn một vài điều tỏ ra có ích, khi  đánh giá con người, khi nó phải nhìn ngoái lại, phải hồi tưởng; cũng tương tự như vậy, điều tốt về một bi kịch giả tạo, nhân tạo, là, nó làm cho con người chú ý tới cái gọi là sự giả tạo, nhân tạo, the artifice.
Cái xấu bạ cái gì cũng vớ lấy. Ở đây, tôi vớ lấy, cái cảm quan của mình, về tội lỗi.

23
Đúng là thứ tình cảm dễ vớ lấy, dễ làm chủ. Nói cho cùng, đứa trẻ nào thì cũng cảm thấy tội lỗi đầy mình đối với bố mẹ, bởi vì, nó biết rằng, bố mẹ sẽ đi trước mình. Bởi vậy, tất cả những gì mà nó cần, để cho nhẹ tội, là cầu mong cha mẹ mình có được một cái chết tự nhiên: chết bịnh, chết già, hay là cả hai. Tuy nhiên, làm sao bạn có thể mong muốn điều này, tôi muốn nói, một cái chết tự nhiên, cho một kẻ nô lệ? Một kẻ mà, khi sinh ra tự do, nhưng sau đó, tự do của người đó bị… ngăn chặn?
Tôi thu hẹp định nghĩa, về một người nô lệ, như ở trên, không bởi vì những lý do hàn lâm, hay vì thiếu rộng lượng. Tôi thực sự muốn nuốt trôi quan điểm này, rằng một người sinh ra trong nô lệ, biết, rằng tự do là một điều hoặc mang tính di truyền - có ở trong máu - hoặc mang tính trí thức - người có học thì mới biết tự do nghĩa là gì: qua sự đọc, hoặc nghe người ta nói như vậy. Vâng, đúng như vậy, nhưng tôi muốn nói thêm một tị về vấn đề tự do có ở trong máu, là, như mọi thứ khắc họa, dù vào trong máu, tới một mức độ nào đó, nó có trục trặc, thí dụ như, bạn cảm thấy tự do ở trong máu, nhưng cái đầu, cái tay của bạn, chúng không cảm thấy như vậy. Do đó mà có sự độc ác, và hung bạo chẳng hề có mục đích, ở rất nhiều cuộc nổi dậy. Cũng do đó mà có những cuộc thất bại của những cuộc nổi dậy như thế, nói một cái khác, có độc tài. Chết, như thế, đối với một nô lệ, hay những bà con, hoá ra lại là một giải thoát, (câu nói nổi danh của Martin Luther King, Jr, “Tự do! Tự do! Tự do, sau cùng!” [Free! Free! Free at last!].
Nhưng, còn về một người nào sinh ra tự do, nhưng chết trong nô lệ, thì sao? Liệu ông, hay bà đó, cảm thấy đó, như là một điều dễ chịu – xin hãy gạt bỏ mọi quan niệm mang tính thiên chúa giáo ở đây. Có thể chứ, tại sao không, nhưng còn hơn thế nữa, ý tôi muốn nói, ông, hay bà đó sẽ cảm thấy đây là một điều sỉ nhục tối hậu, một sự ăn cắp tối hậu, tự do của họ. Đó là điều mà bà con họ hàng, hay con cái của họ, nghĩ, đó là điều mà nó là, đích thị như vậy. Sự ăn cắp sau cùng.
Tôi nhớ một lần, mẹ tôi đi mua vé xe lửa đi xuống miền nam, tới Viện Điều Dưỡng Nước Khoáng. Bà có hai mươi mốt ngày nghỉ sau hai năm làm việc tại cơ quan lo phát triển khu vực, và bà tới viện điều dưỡng đó là vì gan của bà có vấn đề gì đó, [bà không hề biết bà bị ung thư]. Tại văn phòng bán vé, sau khi đứng xếp hàng ba tiếng đồng hồ, bà khám phá ra rằng cái bóp của bà đã bị mất cắp, trong đó có bốn trăm rúp là tiền mua vé xe lửa. Bà không làm sao để tỏ ra là mình được an ủi. Bà đi về nhà và đứng trong căn bếp tập thể đó, và cứ thế khóc, và khóc, và khóc. Tôi đưa bà mẹ tôi về căn phòng rưỡi của chúng tôi; bà nằm trên giường, và tiếp tục khóc. Lý do tôi nhớ chuyện này, đó là, chẳng bao giờ bà khóc, ngoại trừ những lần đưa đám người thân. 

24
 Sau cùng, cha tôi, mẹ tôi, và mẹ tôi, chúng tôi cũng thu xếp xong xuối vấn đề tiển bạc, và bà đi viện điều dưỡng.
Tuy nhiên, không phải vì mất tiền mà bà khóc… Nước mắt là của hiếm, trong gia đình chúng tôi; điều này một cách nào đó, được nâng lên tới mức độ toàn nuớc Nga. “Hãy để dành, khi nào cần”, bà mẹ tôi vẫn thường nói với tôi như vậy, khi tôi còn nhỏ, và tôi sợ rằng, tôi thực hiện điều này, quá cả sự đòi hỏi của mẹ tôi.
Tôi còn nghĩ, bà chẳng muốn tôi viết về chuyện này. Cha tôi, thì cũng vậy. Ông là một người đàn ông kiêu hãnh. Khi đụng chuyện phải khiển trách, hoặc ghê sợ, mặt ông tỏ ra chua chát, cay đắng, nhưng cùng lúc, còn mang vẻ thách đố. Như thể ông muốn nói, “Muốn thử ta hả, thì thử đi!”, như thể, ông đã từng trải qua những điều còn quá thế nữa, thứ này nhằm nhò gì! “Bạn trông mong gì, ở ba thứ đó?”, sẽ là nhận xét của ông trong những tình huống như vậy. Một nhận xét khiến ông nhẫn nại, chịu đựng.
Không phải thứ chủ nghĩa vị kỷ ở đây. Làm gì có chỗ cho một thế cách ở đời, hay một triết học sống, cho dù thu nhỏ tới cỡ nào, trong những ngày tháng đó.  Thời kỳ mà con người đành phải làm hòa với mọi thứ tội, nhân nhượng với mọi thứ phạm, với mọi hình thái, biểu hiện của sự ngần ngại, làm sao cho hoàn toàn khuất phục so với phía đối nghịch. (Chỉ có những người đã không trở về từ những trại tù, chỉ có họ, mới có thể vỗ ngực tự hào, rằng, ta đã ỉa vào mặt chế độ; còn những người từ đó trở về, thì cũng cứt đái như nhau, như cả lũ chúng mình mà thôi). Tuy nhiên đừng nghĩ là tôi giở trò đểu giả, xi níc ở đây. Đó chỉ là một cách, làm sao cho lưng của mình đừng có cụp xuống, trong những trường hợp chẳng còn một chút danh dự, chẳng có một chút gì đáng tự hào, nghĩa là cố làm sao mở mắt ra. Đó là lý do, nước mắt hả, hãy đi chỗ khác chơi.

25
Đàn ông thế hệ đó thì… cũng vẫn là đàn ông. Với con cái của họ - rất rành rọt trong vấn đề hiểu và làm theo ý ông bố [điều này có ích vô cùng] - những ông bố này có vẻ như những hình nộm, những cả quỷnh. Như tôi đã nói, họ không tự ý thức về mình một cách khủng khiếp đâu. Chúng tôi, những con cái của họ, được nuôi nấng – hay đúng hơn, tự lo thân, tự xoay sở lấy mình - để tin tưởng về sự đa dạng của thế giới, về nói một đằng nghĩ một nẻo, dzậy mà không phải dzậy, về chuyện gợi ý, về những vùng xam xám, những sắc thái tâm lý của cái này, hay cái nọ. Bây giờ, tới tuổi họ, vào thời kỳ đó, có bộ dạng như họ, ăn mặc quần áo cùng một số như họ, chúng tôi nhìn sự vật thì cũng vẫn như họ, tức cũng vẫn cùng một nguyên lý dạ không/dạ có [yes/no principle]. Chúng tôi phải mất gần cả cuộc đời để hiểu được cái điều mà họ chỉ cần con ruồi bay qua là đã biết đực hay cái, tức cái kiểu biết ngay từ đầu: rằng thế giới là một nơi chốn rất ư là như thế đấy, cái thế giới trần trụi đó cũng chẳng thể nào xứng đáng hơn, như là nó là. Rằng hai tiếng dạ được/dạ không đủ ôm trọn cả thế giới, chẳng bỏ cái chi, tất cả cái đa dạng của cuộc đời, như chúng ta đã từng và đang từng khám phá, ve vuốt, hít hà, hơn thế nữa, lại còn muốn tái sắp xếp… chúng làm mất tiêu gần như tất cả sức lực của chúng ta

26
Nếu như họ tìm một phương châm để diễn tả cuộc đời của họ, thì có ngay đây, mấy dòng, từ bài thơ “Northern Elegies” [Bi Khúc Bắc Phương], của Akhmatova:
Just like a river,
I was deflected by my stalwart era.
They swapped my life: into a different valley,
Past different landscapes, it went rolling on.
And I don’t know my banks or where they are.
 
[Như một dòng sông,
Tôi bị đổi dòng, bởi cái thời dũng mãnh của tôi.
Chúng xô đời tôi; vô một thung lũng khác,
Qua những cảnh khác, cứ thế trôi đi.
Tôi không biết đâu là bến bờ của tôi, chúng ở đâu.
 
Họ, tôi muốn nói, ông cụ bà cụ của tôi, chẳng bao giờ nói cho thằng con trai của cụ, về tuổi thơ của họ, về gia đình họ, về ông cụ bà cụ, hay ông nội bà nội của họ. Tôi chỉ biết, ông ngoại tôi là một người bán máy may hiệu Singer, tại một tỉnh thuộc vùng Baltic cũng thuộc vào đế quốc [Lithuania, Latvia, Ba Lan] còn ông nội, chủ tiệm photo tại St. Petersburg. Sự kín tiếng không phải là do bịnh lãng trí, nhưng vào thời kỳ đó, người ta thường giấu nhẹm tông tích, lai lịch, như là một mánh lới để sống sót, thì cũng vẫn cái kiểu nín thở qua sông, mà lị. Ông cụ vừa mới tính mở màn, ông già tôi ngày ấy… là bị cặp mắt xám của bà cụ đưa ra một cái nhìn cảnh cáo, thế là ông cụ bèn chuyển hướng và nói về cái hồi còn mài đũng quần tại một trường trung học! Còn bà cụ, bà sẽ chẳng thèm nhỏng cái tai lên, khi nghe một người bộ hành kế bên xổ ra một câu tiếng Tây, trên đường từ nhà một người bạn của tôi trở về, mặc dù, có lần, tôi gặp bà mẹ của mình đang cầm  bản dịch tiếng Tây một trong những tác phẩm của thằng con! Hai mẹ con nhìn nhau, thế rồi thì là bà mẹ tôi để lại bản dịch tiếng Phờ Lăng Xa vào kệ sách và rời “Không gian của thằng con”, My Lebensraum.
Một con sông bị đổi dòng, chảy qua miền xa lạ, rơi vào con nước lớn do con người tạo nên. Liệu có người nào mô tả, gán ghép con nước lớn nhân tạo đó, với một ngọn triều của sông, của biển? Nghĩa là do những nguyên nhân tự nhiên? Và nếu có một người nào đó, làm được điều này, xin hỏi, vậy thì cái dòng sông đó rồi sẽ vận hành ra sao, tiến trình như thế nào? Còn cái tiềm năng của con người, bị giản trừ, bị vận hành sái đi như thế, từ phía bên ngoài, thì nó sẽ ra sao? Liệu có ai ở đó, để mà tính toán cái thua cái được, do bị chuyển đổi dòng như thế đó? Và liệu có một người nào như thế? Và trong khi hỏi những câu hỏi như vậy, tôi không bỏ qua cho cái sự kiện là, cái cuộc đời bị lệch hướng, bị chỉ đạo trật như thế, nó có thể sản xuất ra một cuộc đời khác, như cuộc đời của tôi đây, vào lúc này, chẳng hạn, thế nhưng, liệu nó có thể có mà đếch cần những câu hỏi nhiêu khê cà chớn như trên, đếch thèm để ý gì đến những giản trừ, những hạn chế, những bị ngăn chặn khả năng, khả thể của nó? Không, tôi để ý đến luật xác xuất ở đây. Tôi không mong muốn cha mẹ tôi gặp phải những tình huống như vậy. Tôi đang hỏi những câu hỏi đó, bởi vì tôi là dòng sông bị đẩy ra khỏi dòng của nó. Sau hết, tôi tự nhủ, đây là tôi nói với chính tôi, theo kiểu nói chuyện với đầu gối.
Vậy thì khi nào, và ở đâu, tôi tự hỏi mình, một cuộc di chuyển, từ tự do thành nô nệ, nó có cái gọi là “thân phận của mày là như thế, không thể tránh được”, [the status of inevitability]? Khi nào thì chuyện đang tự do chuyển thành nô lệ có thể chấp nhận được, nhất là, đối với một người qua đường vô tội? Vào cái tuổi nào thì vô hại, nếu bị chuyển đổi, đang từ tự do, trở thành nô lệ? “Còn tuổi nào cho em”, ấy tôi muốn nói, vào tuổi nào, thì ký ức con người không bị ảnh hưởng, bởi cú đánh đó? Năm em mười lăm? Năm cháu lên mười? Lên năm? Hay còn ở trong bụng mẹ? Chỉ là những câu hỏi theo kiểu tu từ, phải vậy không? Chắc không hẳn như vậy. Một tay cách mạng, hay một tay chuyên môn đi chinh phục, chắc là có câu trả lời đúng, cho những câu hỏi như thế. Thành Cát Tư Hãn, thí dụ vậy, biết câu trả lời. Ông ta chỉ việc phạt một cú, đi một đường mã tấu, bất cứ kẻ nào mà đầu nhỉnh hơn cái trục bánh xe. Vậy là năm tuổi, cỡ đó. Nhưng vào ngày 25 tháng Mười 1917, [cuộc cách mạng vĩ đại của giai cấp vô sản bung nổ ra ở Nga], cha tôi khi đó, may quá, đã mười bốn tuổi; má tôi, mười hai. Bà đã võ vẽ vài chữ Phá Lãng Xa; còn ông cụ, một tí tiếng La Tinh. Chính vì vậy mà tôi hỏi những câu hỏi này. Chính vì vậy mà tôi hỏi những câu hỏi đó, cho chính tôi.

27
Vào những buổi chiều mùa hạ, cả ba cửa sổ cao của chúng đều được mở rộng, và những làn gió nhẹ từ mé sông cố len lỏi tới tận mấy bức màn bằng vải tuyn. Sông không xa, từ toà nhà chúng tôi đi bộ chừng mười phút. Chẳng có gì là quá xa: Khu Vườn Mùa Hạ, Nơi Ẩn Dật, Cánh đồng Mars. Ngay từ hồi còn trẻ hơn, so với thời kỳ sau này, cha mẹ tôi cũng ít khi đi dạo, cùng nhau, hoặc xé lẻ. Sau cả một ngày đi đứng, cha tôi không còn hứng thú lại đi dạo phố. Còn mẹ tôi, đứng sắp hàng tám tiếng đồng hồ tại văn phòng là đã quá ớn chuyện tản bộ; ngoài ra, ông cụ bà cụ còn quá nhiều chuyện để mà làm, tại nhà. Nếu có đi ra ngoài, thì là để gặp gỡ, tụ họp với bà con họ hàng [vào một dịp sinh nhật hay kỷ niệm đám cưới], hay là đi coi phim, rất ít khi ông bà đi coi hát.
Sống gần ông cụ bà cụ gần như suốt cuộc đời của mình, tôi gần như chẳng ý thức gì tới cái chuyện già cả của cả hai. Bây giờ, khi hồi ức của tôi nhẩy từ thập niên này qua thập niên khác, tôi nhìn thấy bà cụ, từ bao lơn theo dõi cái bóng dáng loạng quạng của ông cụ ở bên dưới đất, và tôi nghe mẹ tôi lẩm bẩm, ở bên dưới hơi thở của bà, “Đúng là một ông già, ông già kia ơi!”. Và tôi nghe ông cụ đáp lại, “Bà còn muốn theo dõi tôi tới tận nấm mồ!” Đó là những đối đáp sau cùng, kết thúc những cuộc cãi cọ của thập niên sáu mươi, thay cho một cú đập đóng cửa thật mạnh, và sau đó là tiếng chân bước mỗi lúc một xa dần của ông cụ, thập niên trước đó. Và tôi thấy, cọng râu bạc của ông cụ, khi cạo râu của mình.
Nếu trí tưởng của tôi loanh quanh với những hình ảnh của ông cụ bà cụ, khi họ đã già, có thể là do khả năng khôn ngoan và khéo léo của hồi ức, khi nó cố làm sao giữ cho được tốt đẹp nhất, những ấn tượng sau cùng (Cũng phải thêm vào đây, sự mê hoặc, phải nói là nghiền, tính lô gíc về đường nét, như câu thơ của một nhà thơ diễn tả, “nét cong, môi hồng mắt tình cờ, ngực hoa bối rối” [Thanh Tâm Tuyền, luôn cả sự mê tới nghiền, nguyên lý tiến hoá, thí dụ như, phát minh tuyệt vời của con người về nghệ thuật chụp hình). Nhưng tôi còn nghĩ thêm một tị, là về tuổi già của mình, nó cũng chơi một trò chơi  giống như thế: con người rất ít khi mơ, ngay cả về, một cái thời tuổi thơ, tuổi trẻ xa lắc xa lơ của chính nó, thí dụ như, khi nó mười hai tuổi. Nếu tôi có một quan niệm nào về tương lai, thì nó cũng được tạo nên giống như vậy. Chúng là những “Kilroy [?] thì có đây”  của tôi, cho ngày hôm sau ngày mai, thì cứ nói chuyện trước mắt như vậy.

28
Như hầu hết đám đực rựa, tôi có nhiều nét giống ông cụ hơn bà cụ. Tuy nhiên, khi còn là con nít, tôi quanh quẩn bên bà cụ nhiều hơn - một phần là do chiến tranh, một phần còn là do cuộc đời rong ruổi một mình của ông cụ sau đó. Mẹ tôi dậy tôi đọc chữ, khi tôi lên bốn, hầu hết những điệu bộ, cách ăn nói, cử chỉ, thói quen này nọ, của tôi, là từ bà cụ mà ra, tôi nghĩ như vậy. Một vài thói xấu nữa, thí dụ như, thói hút thuốc.
Theo tiêu chuẩn Nga, bà cụ như vậy là khá cao, năm feet ba, duyên dáng, mập mạp. Tóc bà mầu nâu nhạt, suốt đời bà để tóc ngắn. Mắt bà mầu xám. Bà thú vị lắm, về cái chuyện tôi thừa hưởng từ bà, cái mũi thẳng, chẳng khác gì mũi của người La mã, chứ không phải từ cái mũi khoằm khoằm của cha tôi, mũi như vậy mà bà lại mê, thế mới lạ! “Ah, cái mỏ đó!”, bà sẽ bắt đầu, chi li, rành rọt từng chữ, từng lời, bài nói chuyện của bà, với những ngừng, nghỉ. “Những cái mỏ như thế”, ngưng, “đã được rao bán ở trên trời”, ngưng, “sáu rúp một cái”. Tuy rất giống một trong cái mũi nếu nhìn nghiêng [kiểu] Sforza, của Piero della Francessa, cái mỏ đó là của dân Do Thái, và bà mẹ của tôi có lý do để mà hài lòng, rằng may mắn quá, phúc đức quá, thằng con trai không có cái mũi tố cáo dòng dõi Do Thái của ông bố!
Mặc dù tên hồi còn con gái (bà vẫn giữ nó, khi đã có gia đình), “chương, đoạn thứ năm” [qui thành phần Do Thái] không ảnh hưởng lắm tới bà, ấy là nhờ ở cái nhìn của bà. Bà thật là quyến rũ, theo kiểu chung của vùng Bắc Âu, tôi muốn nói, vùng biển Baltic. Theo một nghĩa nào đó, đây là lộc Trời ban cho bà. Bà chẳng gặp rắc rối trong tìm kiếm việc làm. Như là một hậu quả, bà phải làm lụng suốt cả cuộc đời, như là một con người có ý thức, rằng, ai sinh ra ở đời, mà chẳng phải làm, không việc này thì việc nọ. Cứ giả dụ như là bà đã thất bại trong việc giấu diếm lý lịch không phải ba, mà chắc là nhiều đời, không thuộc giai cấp bần cố nông, nhưng mà là gốc gác tiểu tư sản, thế là bà không được nhà nước cho phép, và bà đành từ bỏ những hy vọng ăn học cao, và thế là bà trải qua cả cuộc đời, hết văn phòng này tới văn phòng nọ, khi thì thư ký, khi thì nhân viên kế toán. Chiến tranh đem thay đổi: bà trở thành thông dịch viên trong một trại tù dành cho tù binh chiến tranh Đức, và có được cấp bậc trung uý, thuộc lực lượng của Bộ Nội Vụ. Khi Đức Quốc Xã tuyên bố đầu hàng, bà được hứa hẹn thăng chức và trở thành một nhân viên có hạng trong hệ thống của bộ này. Không khoái chuyện gia nhập Đảng, thế là bà đành từ chối ân huệ của bộ, của nhà nước, và lại trở về với ba cái hồ sơ, bốn cái bàn tính. “Tôi không có ý định, trước tiên là phải chào chồng mình”, bà nói với cấp trên của bà. “ Và tôi không muốn biến cái tủ áo của nhà mình thành một kho vũ khí”.

29
Chúng tôi gọi bà là “Marusya”, “Manya”, [cách gọi vắn tắt của cha tôi, và mấy chị em của mẹ tôi], và “Masya”, hay “Keesa”, hai cách gọi sau là do tôi nghĩ ra. Cùng với năm tháng, hai cách gọi sau ăn khách hơn, và ngay cả cha tôi cũng đã gọi mẹ tôi như vậy. Ngoại trừ “Keesa”, tất cả những cách gọi kia đều là từ tên của mẹ tôi đọc vắn lại. “Keesa” phát xuất từ một cách gọi thân yêu dành cho những “miêu cô nương”, và mẹ tôi lúc đầu đã không chịu cách gọi này. “Con dám gọi mẹ như vậy hả?”, bà đã từng tức giận với thằng con trai. “Và nghe mẹ nói đây này,  đừng bao giờ sử dụng tất cả những từ chỉ mèo cái như thế! Nếu không, sẽ có ngày óc của con sẽ biến thành óc mèo!”
Điều này thực ra là bà muốn nói tới cách ăn nói của tôi, khi còn là một thằng con nít, tôi có thói quen phát âm những từ có những nguyên âm, theo kiểu meo meo, mèo mèo. Thí dụ như từ “meat” [thịt], và vào lúc tôi mười lăm, trong gia đình tôi như bị lây cái tật meo meo này của tôi. Cha tôi là người đầu tiên, và chúng tôi bắt đầu gọi nhau bằng những từ như “Mèo Lớn”, “Mèo Nhỏ”. Một “meomeo” hay một “mimi”, hay một “miêu miêu”… những từ như vậy thay cho những từ biểu lộ tình cảm khác, thay vì "ôkê" thì là "ômiêu-eo", thí dụ vậy, hay những tình cảm như nghi ngờ, dửng dưng, cũng đành, tin cậy….  Dần dà, mẹ tôi cũng bắt đầu sử dụng chúng, nhưng chủ yếu là để biểu tỏ thái độ tách ra khỏi cái trò chơi này.
Tuy nhiên, cách gọi “Keesa” đó bám chặt lấy bà, nhất là khi bà đã có tuổi. Đã già. Phốp pháp, quàng thêm vài cái khăn mầu nâu, với khuôn mặt dịu dàng, thanh thoát, trông bà mới dễ chịu làm sao, và cũng thật mình ên, chẳng muốn làm phiền ai, và cũng chẳng muốn ai làm phiền mình. Như thể bà sẽ âm ư, ừ ừ, một cách rất ư là hài lòng. Nhưng thay vì ư u ừ ừ, như loài mèo, thì bà sẽ nói, “Sasha, ông trả tiền điện tháng này chưa?”, hay chẳng nhắm vào ai, “Tuần tới nhà mình làm vệ sinh căn hộ.” Có nghĩa, cọ rửa, lau chùi sàn nhà nơi hành lang, và nhà bếp, làm vệ sinh nhà tắm, nhà cầu. Bà sẽ nói, mà chẳng nhắm vào ai, bởi vì, bà biết, bà là người sẽ làm những việc đó.

30
Làm sao họ có thể xoay xở với tất cả mọi chuyện, nhất là ba cái vụ cọ rửa, làm tổng vệ sinh như thế đó, trong mười hai năm sau cùng. Tôi chẳng làm sao biết. Cuộc ra đi của tôi, lẽ dĩ nhiên, có nghĩa đỡ đi một miệng ăn, và họ có thể thuê mướn một người nào đó, thỉnh thoảng, khi nào quá cần, để đỡ đần công chuyện. Tuy nhiên, hiểu quá rõ vấn đề tiền nong của hai cụ (hai món hưu rất ư là thanh bạch, nghĩa là nhẹ hẫng), cộng thêm tính bà cụ, tôi không tin, họ sẽ cho phép họ xài sang, nghĩa là mướn người làm, dù chỉ là làm giờ, theo kiểu part time. Vả chăng, trong cuộc sống tập thể ở đó, cái việc làm này còn hiếm. Nói cho cùng, tính sa đích do bản chất mà ra, của đám láng giềng láng tỏi, cư dân ở miền đất đó, cái tính sa đích khốn kiếp đó, nó cần, một mức độ nào đó, cái gọi là sự thoả thuê, hài lòng, nếu không muốn nói, thấy ngưòi hàng xóm đau khổ, bên này, bên nhà mình sướng điên lên được! Một bà con, lúc tối lửa tắt đèn, còn được, một người làm mướn, [một ô sin hả?], không bao giờ, ở cái xứ đã thanh toán tới tận cùng tội ác người bóc lột người!
Tuy giầu có “như ông hoàng”, thì cứ cho là như vậy, với đồng lương đại học của tôi, nhưng ông cụ bà cụ sẽ chẳng bao giờ biết chuyện đổi tiền đổi nong, từ đô la đế quốc Mẽo thành đồng rúp. Họ coi đổi tiền theo giá nhà nước là một hình thức ăn cướp, nhưng cả hai đều rất kỹ tính, và rất sợ dây dưa với chợ đen chợ đỏ. Lý do sau cùng này là mạnh nhất, và họ vẫn còn nhớ như in vụ tiền hưu của họ bị nhà nước “ách" lại, vào năm 1964, khi họ ban cho thằng con năm năm tù. Và thế là họ lại phải đi tìm kiếm việc làm. Vì vậy, những gì mà tôi hay gửi về nhất, thì không phải là tiền, mà là quần áo, và sách nghệ thuật, thứ này mấy ông mê sách mê lắm. Ông cụ bà cụ bèn tân trang ba mớ quần áo cũ, nhất là của ông cụ, vốn ăn vận rất kỹ càng, và đem gửi ở chỗ bán quần áo cũ. Còn mấy sách nghệ thuật, thì họ giữ cho họ. Để mà ngắm nghiá, sau khi làm tổng vệ sinh căn phòng tập thể, ở vào tuổi  bẩy mươi lăm của cuộc đời.

31
Họ rất thích đọc sách đạo thiên chúa, bà cụ còn ưa cổ điển Nga. Cả ông cụ lẫn bà cụ đều không có những ý nghĩ rạch ròi về văn chương, âm nhạc, nghệ thuật, theo kiểu, nó phải thế này, thế nọ, mặc dù khi còn trẻ, họ đều quen biết một số nhà văn, nhà soạn nhạc, họa sĩ ở Leningrad (Zoshchenko, Zabolotsky, Shostakovich, Petro-Vodkin). Hai ông bà chỉ là những độc giả - độc giả buổi chiều, rõ hơn – và họ rất cẩn thận, khi làm mới, renew, thẻ mượn sách thư viện. Từ chỗ làm trở về nhà, trong giỏ xách của bà cụ, thường là một bịch đầy khoai tây, hay cải bắp. và sách thư viện, được bọc kín bằng nhật trình, để không bị lấm bụi.
Đó là bà cụ tôi, đã gợi ý thằng con, khi nó mười sáu tuổi đang làm việc tại một xưởng thợ, con nên “đăng ký” làm thẻ mượn sách tại thư viện thành phố; và tôi tin rằng, khi gợi ý như vậy, không hẳn cụ chỉ nghĩ,  mình nên tránh cho thằng bé khỏi lang thang, lêu lổng, la cà hết ngã tư đường này, tới hẻm phố kia. Về một mặt khác, theo như tôi hiểu được, bà muốn nó sau này sẽ là một họa sĩ. Bằng bất cứ giá nào, những căn phòng và những hành lang bệnh viện cũ của thành phố, ở bên hữu ngạn của con sông Fontanka [River] phải là nơi bắt đầu sự hư hỏng của tôi, và tôi còn nhớ, cuốn sách đầu tiên tôi hỏi, ở đó, theo lời cố vấn của mẹ tôi. Đó là cuốn Gulistan (Vườn Hồng), của một thi sĩ Ba Tư, Saadi. Bà cụ tôi hoá ra rất mê thơ Ba Tư. Cuốn tiếp theo, tôi hỏi, cũng ở đó, do chính tôi cố vấn cho tôi, là cuốn Căn Nhà Tellier, của nhà văn Pháp Maupassant.

32
Hồi ức có cái chung với nghệ thuật, đó là, tính tuyển chọn, thích xoáy vào chi tiết. Khen đấy, mà chửi cũng đấy, ấy là bởi vì, hồi ức vốn chỉ chứa chi tiết, chứ không trọn gói, trọn hình; hãy gạch đít, gạch chân, highlights, nếu bạn muốn, nhưng đừng trọn cả “sô”! Theo tôi tin tưởng, thì đây là do con người, một khi phải nhớ trọn một em, thì thường là theo kiểu “mài mại”, và cái rất ư niềm tin để cho muôn thú muôn loài cứ thế mà tiếp tục cuộc đời của chúng, đó là “không nền”, groundless, đó là “mài mại”.
Hơn bất cứ cái gì khác, hồi ức của con người, nó giống một thư viện mất trật tự, hổ lốn, không theo một bảng xếp loại abc nào, với không tuyển tập, của bất cứ một ai.

33
Thay vì như người ta, muốn “xem nó ăn uống ra làm sao, có cao thêm được tí nào, so với năm ngoái”, thường là bằng cách, cầm cục vôi hay cục phấn, bắt đứa bé đứng sát tường, thẳng người lên tao coi, rồi làm dấu, rồi gật gù - cha tôi, vào ngày sinh nhật của thằng bé, bèn lôi nó ra bao lơn, và làm một ‘bô’ hình. Những bức hình như thế, đều có cái nền, là quảng trường khu phố, mà trung tâm của nó, là Nhà Thờ, The Cathedral of the Savior of Her Imperial Majesty’s Tranfiguration Batallion. Vào những năm chiến tranh, hầm mộ nhà thờ được dùng làm hầm trú ẩn tránh bom, và những lần phi cơ dội bom mẹ tôi bắt tôi chui xuống đó, ở trong một cái hộp lớn đầy những dòng chữ tưởng nhớ. Có thể coi đây là một ân sủng, hoặc món nợ của tôi, đối với Chính Thống Giáo. Và điều này liên quan tới hồi nhớ.
Toà nhà thờ, là một kiến trúc cổ điển sáu tầng, chung quanh có một cái vườn đáng nể, đầy những cây sồi, chanh lá cam, phong, và là sân chơi của tôi những năm sau chiến tranh, và tôi vẫn còn nhớ những lần mẹ tôi ra tóm cổ thằng bé (bà đẩy, thằng nhóc trì lại, miệng la, hét: một ẩn dụ về sự hiểu lầm (an allegory of cross-purpose), và kéo tôi về nhà, bắt phải làm cho xong mớ bài tập. Cũng nhớ như in như vậy, là cảnh mẹ tôi, ông tôi, và cha tôi, ở lối đi nhỏ hẹp trong vườn, cố tập cho thằng bé đi xe đạp hai bánh [một ẩn dụ về một mục đích chung, common goal) hay về chuyển động (motion). Ở bức tường phiá sau, về phiá đông nhà thờ, được che phủ bằng một tấm kính dầy, là một bức tranh lớn, mờ mờ, trình bầy cảnh Biến Hình [Tranfiguration]: Chúa Giê Su bay trên không, bên dưới là đám tông đồ sững sờ lui lại. Chẳng ai có thể giải thích cho tôi ý nghĩa của cảnh đó; ngay cả bây giờ, tôi không nghĩ là tôi đã nắm bắt hoàn toàn. Có rất nhiều những đám mây ở trong bức tranh, và một cách nào đó, tôi gán ghép chúng với khí hậu địa phương

34
Bao quanh khu vườn, là một hàng rào bằng gang đen, với những cây cột cách đều nhau, là những khẩu cà nông lộn ngược nòng. Đây là những chiến lợi phẩm của binh lính thuộc Tiểu Đoàn Biến Hình [the Tranfiguration Battallion], trong cuộc chiến Crimean War với người Anh. Thêm vào cảnh sắc đó, là những nòng súng, trên một cái bệ đá, nối với nhau bằng những sợi dây sắt nặng, và trẻ con thường chơi trò nguy hiểm, hè nhau tung đi tung lại, lắc lên lắc xuống những sợi sên này, và khi mất đà, hoặc lỡ trớn, chúng té lộn tùng phèo xuống đám hoa oải hương ở bên dưới, hoặc để nghe những tiếng lenh keng. Chẳng cần phải nói, chơi với hàng rào gang, thú thì cũng thú, nhưng sao bằng bên trong nhà thờ, chỉ nội ngửi cái mùi nhang khói của nó, ấy là chưa kể nhiều trò tĩnh hơn nhiều, so với lay  sợi xích. “Nhìn mấy cái kia kìa?” cha tôi hỏi, tay chỉ mấy mối nối những sợi sên. “Chúng làm con nhớ tới cái gì nào?”. Tôi lúc đó học lớp hai, và cu cậu trả bài: “Chúng giống như một cái hình tám góc”. “Đúng rồi”, cha tôi nói. “Nhưng con biết hình tám góc là biểu tượng cho cái gì nào?” “Những con rắn”. “Gần đúng thôi. Chúng là biểu tượng của sự vô cùng”. “Vô cùng gì chứ, bố?”. “Cái đó thì con phải hỏi ở kia kìa.” Ông nói, nhe răng cười, còn tay thì chỉ về phía nhà thờ.

35
Tuy nhiên cũng chính ông, giữa ban ngày ban mặt, tóm thằng con, ở giữa ngay mặt lộ, hỏi, cớ chi mà giờ này lang thang ở đây, lại trốn học hả? Và khi nghe thằng con ấp úng, con đau răng quá, bèn tức tốc đưa thằng con tới bệnh viện răng, và thế là tôi phải trả giá cho những lời nói dối của mình, bằng hai giờ khủng khiếp. Và cũng chính ông, đứng về phía thằng con khi nó bị đưa ra Hội Đồng Sư Phạm, và đề nghị tống ra khỏi trường vì vi phạm kỷ luật. “Làm sao ông lại bênh nó, ông, một người mặc đồng phục của Quân đội chúng ta!”. “Hải Quân, thưa Bà.” “Và tôi bảo vệ thằng bé, vì tôi là cha nó. Đâu có gì là ngạc nhiên trong chuyện này. Ngay cả loài vật còn bảo vệ con của chúng. Ngay cả Brehm cũng nói vậy.” “Brehm? Brehm? Tôi…. Tôi sẽ báo cáo Chính Uỷ đơn vị của ông”.
Và bà ta đã làm chuyện này. Lẽ dĩ nhiên.

36
“Vào ngày sinh nhật của con hay là Năm Mới con nhớ luôn luôn mặc một cái gì hoàn toàn mới tinh. Ít nhất, thì cũng phải là những chiếc tất mới”, đó là giọng mẹ tôi. “Luôn luôn ăn một tí gì rồi mới đi gặp những người bậc trên của con: ông sếp, hay sĩ quan. Dằn bụng một chút vẫn hơn, con ạ”. (Đây là ông cụ nói). “Nếu con đi ra khỏi nhà, nhưng lại phải quay vội trở lại, vì quên một cái gì, nhớ nhìn lại mặt mày trong gương trước khi lại ra khỏi nhà. Nếu không, con sẽ gặp rắc rối” (Lại giọng bà cụ). “Đừng bao giờ để ý, đã xài bao nhiêu tiền. Hãy nghĩ, kiếm được bao nhiêu.” (Ông già nói.) “Đừng bao giờ đi ra phố mà không vận áo ngoài.” “Để tóc đỏ là tốt nhất con ạ. Kệ cho họ nói gì thì nói. Bố để tóc nâu đen, và nâu đen có lý hơn.”
Tôi nghe những lời cảnh cáo, những lời dặn dò của ông cụ bà cụ, nhưng chỉ là những mẩu đoạn, những chi tiết. Hồi ức bội phản tất cả mọi người, nhất là về những người mình hiểu rất rõ về họ. Nó là một đồng minh của quên lãng, một đồng minh của cái chết. Một cái vợt, cái lưới lủng đáy. Nước nôi không mà cá mú cũng không. Bạn đừng mong tái tạo một cái gì, khi nhờ vả tới cái gọi là hồi ức, ngay cả chỉ là tái tạo ở trên mặt tờ giấy.
Thế là thế nào? Thế thì còn cả triệu triệu tế bào thần kinh, tế bào não, không lẽ đồ bỏ? Thế còn câu thơ nổi tiếng của Pasternak, “Thèm chút mồ hôi trên ngấn cổ" [“Great god of love, great god of detail”]? Nhưng chi ly, nhưng chi tiết như thế nào, mà bạn phải chi ly, để mà được… nhớ?

37
Tôi nhìn thấy khuôn mặt của cha tôi, của mẹ tôi, thật là rõ ràng, và những nét vui buồn, lúc này lúc nọ, nhưng cũng chỉ là những mẩu đoạn: những lúc, những thoáng, những trường hợp, Chúng, lẽ dĩ nhiên, là hơn hẳn một bức hình, với nụ cười của hai cụ, thật là nhức nhối khi nhớ lại, nhưng, cũng vẫn chỉ là vụn nát, manh mún, tản mạn. Đã nhiều lần, tôi bắt đầu hồ nghi, hay là thằng con, tức là tôi, đang xây dựng một hình ảnh có tính tích luỹ, và được tổng quát hoá, về bố mẹ mình, theo cái kiểu kiến tha lâu đầy tổ, hoặc như là một nét ký, một công thức, hay một phác họa, từ đó, thằng con trai có thể nhận ra, à đây là ông via bà via của tớ. Một toan tính có tính ổn định, một lần cho xong, đại khái như vậy. Tôi nghĩ là tôi có thể, nhưng sau cùng nhận ra, đúng là một việc làm phi lý. Những nét, những lúc, những trường hợp như thế đó, chúng thiếu tính liên tục. Nói rõ hơn, bạn đừng quá trông mong vào hồi ức. Bạn đừng trông mong, vào một cái việc làm thật là tiếu lâm như thế này: vô trong một căn phòng tối thui, vận sáng hồi ức lên, rồi giơ cái máy chụp hình, bấm vài phát cho chắc ăn, rồi đem đi rửa! Lẽ dĩ nhiên, ở đâu ra một thằng khùng như vậy. Tuy nhiên, bạn chẳng đã đem tấm hình của người yêu, đến nhờ một ông thợ “tân trang”, nghĩa thêm một vài nét còn thiếu, hoặc đã mất?  

38
Thì cứ coi toàn thể vấn đề đại khái là như vầy: Rằng sẽ chẳng có liên tục, của bất cứ điều gì. Rằng thất bại của hồi ức thì cũng chỉ là một bằng chứng cho thấy, cái gọi là “sinh tử lão bịnh”. Chẳng có cuộc đời nào đáng được gìn giữ, bảo tồn. Trừ khi, đó là ông vua Pha a ông, còn ngoài ra, chẳng ai muốn biến thành xác ướp. Thì cứ cho rằng, con người, một khi sưu tầm những kỷ vật, là hàm ý trang trọng đối với người đã qua, và điều này làm chúng ta “tha thứ” cho hồi ức, một khi nó rách việc, nhớ nhảm, nhớ ba thứ lèm bèm, linh tinh, chẳng đáng nhớ. Con người bình thường chẳng mong ước sự liên tục, ngay cả cho chính anh ta, cho tác phẩm của anh ta [his works]. Một người bình thường không nhớ sáng hôm qua mình điểm tâm cái món gì. Chuyện đời, chuyện thường ngày xẩy ra theo lệ thường, routine, thiên nhiên lập lại, repetive nature, là để quên đi. Ăn sang là một, những người yêu thương, trân quí, trân trọng, là một chuyện khác. Tốt nhất nên thu xếp làm sao cho nó tiện gọn, đừng tốn chỗ, đừng chiếm nhiều không gian.
Và trong trường hợp như thế, con người có thể dùng mớ tế bào não dành dụm được đó, để tự hỏi, những thất bại của hồi ức phải chăng đó chính là tiếng nói câm nín của sự nghi ngờ, của một người nào đó, rằng, chúng ta, nói cho cùng, đều là những kẻ lạ, giữa kẻ này với người kia. Rằng cái cảm quan tự chủ, autonomy thì vẫn mạnh hơn là đơn vị, unity, hãy để riêng nguyên lý nhân quả ra một bên. Rằng, một đứa trẻ không nhớ bố mẹ, ấy là vì nó muốn tung tẩy, muốn ngó về tương lai. Nó, đứa bé, cũng dành dụm đầu óc của nó, để sử dụng cho tương lai. Hồi ức của bạn càng ngắn bao nhiêu, bạn càng sống lâu bấy nhiêu, một câu châm ngôn đã dạy. Cũng thế đó, tương lai của bạn càng xa, càng dài bao nhiêu, hồi ức của bạn càng cụt thun lủn bấy nhiêu. Đó là một cách thức để tính đếm vấn đề trường thọ, để mà bàn về tính cha chú, bề trên, phải nói là, tính bố già của tương lai. Nhưng bên này co thì bên kia kéo lại, bố già hay không bố già, tự chủ hay mắc míu, chúng ta, nói cho cùng, đều lập đi lập lại, mình làm sao thì con mình làm thế, mình ăn mặn thì con mình khát nước, thành ra, có Một Ông Lớn Nào Đó, sẽ dành dụm Não Của Ông Ta, để mà tính đếm cho tất cả lũ chúng ta.

39
Không phải là do thù hận ba thứ siêu hình, hay ghét bỏ tương lai, nhưng chủ yếu là như thế này, được bảo đảm bởi phẩm chất của hồi ức của chính mình, và chính cái phẩm chất này nó khiến tôi cứ nghiền ngẫm hoài về nó, thay vì làm những cú trở đi trở lại. Sự hoang tưởng về mình của một người viết, hay là sự sợ hãi phải đối diện với lời buộc tội, rằng mi toa rập với những định luật của thiên nhiên, để mà vờ bố mẹ, ba trò đó thật sự không mắc míu với vấn đề ở đây. Tôi giản đơn nghĩ rằng, những định luật thiên nhiên, chính chúng từ chối tính liên tục của bất cứ một người nào, và sự khiếm khuyết của hồi ức, là để phục vụ những quyền lợi quốc gia, nhà nước. Tới giờ này, tôi chưa hề muốn làm gì, cho sự tiến bộ của chúng.
Lẽ dĩ nhiên, những hy vọng để rồi thất vọng, rồi lại hy vọng để rồi lại thất vọng, ròng rã mười hai năm trời, chầu chực hết văn phòng ông cán này tới ông cán khác, sau cùng là tới nhà hoả táng nhà nước, những chuyện như vậy, chính chúng, cũng lập đi lập lại, không chỉ về thời lượng, mà còn về những trường hợp tương tự, đối với bất cứ một cặp ông bà già nào khác. Tuy nhiên, tôi không quan tâm nhiều tới chuyện dành dụm não bộ của mình, cho sự đơn điệu, buồn tẻ đó, mà là lo cho Ông Giời, và sự dành dụm bộ não của Chính Ông Ta. Cái của tôi, dù sao, thì cũng bị hư ruỗng rồi. Ngoài ra, nhớ mà nhớ bằng tiếng Anh thì cũng chẳng lợi lộc gì cho nhà nước hết. Vậy mà lại tốt cho tôi, để cứ thế tiếp tục.

40
Cũng thế, hai con quạ ngày càng thêm tỉnh bơ. Bây giờ, chúng hạ cánh ngay nơi cổng, và thăm thú đống gỗ cũ ở đó. Hai con quạ đen tuyền, và mặc dù tôi tránh nhìn chúng, có vẻ như hai con hơi khác nhau, về hình vóc. Một con thấp hơn con kia, theo cái kiểu bà cụ chỉ đứng tới vai ông cụ; tuy nhiên, hai cái mỏ thì y hệt nhau. Tôi không phải là một chuyện gia về loài cầm, nhưng tôi tin là giống quạ sống dai; ít nhất thì giống quạ lớn như kên kên này. Tuy không làm sao đoán chúng đã bao nhiêu tuổi, nhưng xem chừng, đây là một cặp quạ đã từng ăn ở với nhau lâu rồi. Mỗi lần qua lại, tôi không xua đuổi, mà cũng không tìm cách làm thân. Tôi cũng còn nhớ ra một điều là quạ không phải là một loài chim thiên di, dời đổi. Nếu như nguồn gốc của cái môn thần thoại, huyền thoại học của tôi, là sợ hãi và cô lập, thì cứ coi như tôi là cô lập, trơ cu lơ mỗi một mình, chẳng sao hết. Và tôi nhận ra rằng, biết bao nhiêu là chuyện làm tôi nhớ tới ông cụ bà cụ. Thì cũng là một cách nói, với cái kiểu thăm viếng bằng tưởng tượng như thế này, ai mà chẳng cần tới một trí nhớ tốt?

41
 Một dấu hiệu chỉ ra sự khiếm khuyết của hồi ức, đó là nó nhớ ba chuyện lẩm cẩm. Như số điện thoại đầu tiên, vào lúc đó năm số, ngay sau khi chiến tranh vừa chấm dứt. Nó là 265-39, và tôi cho rằng, cho tới giờ này, tôi vẫn không quên, đó là do điện thoại được lắp đặt đúng vào lúc tôi phải thuộc bản cửu chương. Nó đâu còn ích lợi gì cho tôi nữa, vào lúc này: cũng vậy, là số điện thoại sau cùng, trong căn phòng rưỡi của chúng tôi, cũng đâu còn dùng vào việc gì nữa. Tôi không nhớ số điện thoại sau cùng này, mặc dù suốt mười hai năm trời ròng rã, tuần lễ nào tôi cũng gọi. Thư từ thì chịu thua ông nhà nước rồi, thế là đành xoay sở với cái điện thoại. Nghe lén điện thoại thì dễ ợt, so với chuyện mở thư ra kiểm tra, rồi cho đi. Ôi chao, những cú điện thoại hàng tuần đi Liên Xô! Cái hãng điện thoại ITT của Mẽo mới ba trật bốn vuột làm sao!
 Trong những lần nói chuyện như thế, đâu có dám nói nhiều, mà toàn là nói vắn tắt, xa xôi, cố tạo rửng rưng, ra điều không quan trọng. Hầu hết, ba chuyện thời tiết, sức khoẻ, không được nhắc đến tên của bất cứ một ai; chủ yếu là căn dặn, ăn uống phải cẩn thận, phải kiêng khem như thế nào. Chủ yếu là nghe giọng của ông cụ, bà cụ, và ngược lại, hình dung ra được, hai cụ đang gật gù, đúng là giọng thằng con trai của chúng mình rồi! Thì cũng y chang cái kiểu loài vật nhận ra nhau, bằng cách hửi hửi, hếch hếch mũi. Đâu có mắc mớ gì đến ngôn ngữ, đến lời ăn tiếng nói. Tôi cũng chẳng còn nhớ, những chi tiết đặc biệt, từ những cuộc trò chuyện như vậy, ngoại trừ một lần, là câu trả lời của Ông Cụ, vào ngày thứ ba mẹ tôi nằm bệnh viện. “Mẹ sao, Bố?” Tôi hỏi. “Ờ, Mẹ không còn nữa, con biết rồi mà”, ông nói. Cái khúc “con biết rồi mà” có đó, là bởi vì, ngay cả trong trường hợp này, ông cụ vẫn cố gắng nói một cách thật là rửng rưng, coi như không phải chuyện quan trọng.

42
 Thì vẫn chuyện nhớ lẩm ca lẩm cẩm, là chiếc chìa khoá, nổi ngay lên mặt, sờ sờ trước mắt: một chiếc chìa khoá dài, không trầy, bỏ vào túi quần thật khó chịu, nhưng gọn ơi là gọn, ở trong bóp của bà cụ. Nó là chìa khoá mở cái cửa cao, mầu trắng, và tôi không thể hiểu, tại sao giờ này tôi vẫn còn nhớ, trong khi cái cửa không còn. Tôi ngờ rằng, ở đây có cái gì liên quan tới biểu tượng, và là biểu tượng dục cảm, erotic symbol, bởi vì, giữa ba chúng tôi, có ba ấn bản gập lại, replicated versions. Về vấn đề này, tôi không hiểu tại sao mình lại nhớ mấy nếp nhăn trên trán ông cụ, và ở dưới cằm, hay là má bên trái bà cụ, đỏ, như hơi bị lửa ăn [bà bảo, đó là do “ăn không ngồi rồi” gây nên], bởi vì những dấu vết đó, và ngay cả những người mang chúng, đều không còn nữa. Chỉ còn, là giọng nói của họ, đâu đó sống sót ở trong tôi: có thể là do ý thức của riêng tôi nhập vào những giọng nói đó, theo cách những dáng dấp của tôi hoà nhập với của họ. Nhũng cái còn lại – da thịt của họ, quần áo của họ, cái điện thoại, cái chìa khóa, những sở hữu của chúng tôi, đồ đạc, bàn ghế - tất cả đều mất tiêu, chẳng còn gì nữa, và chẳng thể nào tìm lại được, như thể căn phòng rưỡi của chúng tôi đã ăn một trái bom. Không phải bom hạt nhân, bởi vì bom này ít ra cũng để cho bàn ghế còn nguyên vẹn, nhưng một trái bom thời gian, nó cày nát hồi nhớ của bất cứ một người nào. Cái toà nhà thì vẫn sững đó, nhưng nơi chốn được dọn dẹp sạch sẽ, và những người ở mới, không, những toán binh sĩ, đã dọn vô ở: đó là tất cả những gì về trái bom thời gian. Bởi là vì, đó là thời chiến.

43
 Ông cụ bà cụ thích giọng opera arias, tenors, và những ngôi sao màn bạc hồi trẻ của họ, không để ý gì lắm tới tranh vẽ, có một quan niệm của họ, về nghệ thuật “cổ điển”, thích chơi trò giải mấy ô chữ, và rất ư là hãi hùng, và bực bội, về những theo đuổi văn học của thằng con trai. Họ nghĩ thằng con đi lầm đường, rất ư là lo lắng về cung cách ăn ở chơi bời của tôi, nhưng họ giúp đỡ thằng con, nhiều như là họ có thể, bởi vì tôi là thằng con trai của họ, chứ còn gì nữa! Sau đó, khi thấy thằng con loay hoay, lúc thì in cuốn này, lúc cuốn nọ, hai cụ tỏ ra hài lòng, và có những lúc, tự hào về nó nữa, thế mới sướng chứ! Nhưng tôi biết tỏng tòng tong, là, nếu mà tôi có vấp ngã, có thất bại, có chẳng làm nên vương tướng gì, thì hai cụ vuỡn cứ thương yêu, lo lắng, giúp đỡ thằng con của hai cụ y chang như vậy, thế mới lại càng sướng chứ! Họ yêu tôi còn hơn cả họ yêu họ, và chẳng hề hiểu được cái tình cảm tội lỗi của thằng con, của bất cứ một thằng con nào, đối với bố mẹ. Tất cả những vấn đề, là: bánh mì ở trên bàn, quần áo giặt giũ sạch sẽ ở trong tủ, và ăn ở thì làm sao cho vệ sinh, cho mạnh khỏe. Tất cả những thứ đó đồng nghĩa với tình yêu của họ, và tình yêu của họ thì hơn tình yêu của tôi.
 Lại nói thời chiến, vào lúc đó, họ chiến đấu thật là dũng cảm. Họ biết rằng, một trái bom sẽ nổ tung, nhưng chẳng bao giờ họ thay đổi phương cách sử sự. Khi nào còn đứng thẳng, là họ đi lại, mua đồ ăn, đồ dùng và chuyển thực phẩm tới những bè bạn phải ở trên giường, những bà con; cho quần áo, tiền bạc dành dụm được, và cho trú ẩn lúc này lúc nọ, những con người lâm đường cùng. Họ luôn luôn sống như vậy, như là bây giờ tôi vẫn còn nhớ về họ, y như vậy; không phải bởi vì họ cho rằng thi ân thì sau này sẽ được lên thiên đường, hay vô nước Chúa. Không, đây là một sự rộng lượng hết sức là tự nhiên, không có tính toán, của những người lo lắng cho môi trường chung quanh, cho những người khác, hơn là cho bản thân. Điều này lại càng hiển hiện hơn thêm lên, một khi mà cái người khác kia, thật thân cận với họ, là tôi, đã đi xa rồi, không còn được ở kế bên hai cụ. Và chính điều này, đối đế mà nói, đã làm cho tôi cảm thấy an lòng, ấy là nói về phẩm chất của cái gọi là hồi nhớ, của tôi.
 Rằng, cái chuyện các cụ muốn gặp thằng con một lần cuối trước khi chết, thật sự ra chẳng mắc mớ gì tới ước muốn, hay toan tính của họ, là làm sao cho trái bom tịt ngòi, làm sao ngăn chặn vụ nổ. Họ không hề muốn dời đổi, di chuyển, vượt biên, vượt biển, và sống những ngày cuối cùng của họ ở cái xứ Huê Kỳ. Họ cảm thấy quá già, cho bất kỳ một sự đổi thay, và đúng như thế, Huê Kỳ là cái chỗ mà thằng con của hai cụ đang ở, giá mà tới đó được để mà gặp nó thì thú lắm đấy! Điều này chỉ thực đối với họ, khi xoay quanh cái thực đó, là biết bao hồ nghi, về cái chuyện không biết có khi nào, và tới khi nào, ông nhà nước sẽ cho phép họ đi du lịch để thăm thằng con. Và, những trò mèo chuột gì nhà nước tính chơi, và họ phải chơi với cái đám cặn bã đó, để đổi lấy tờ giấy phép? Bà cụ sẽ phải làm đơn xin đi, một mình cụ thôi, ra ý cụ sẽ chẳng bao giờ dám bỏ chạy đất mẹ Liên Xô vĩ đại, bởi vì chồng của bà đang bị nhà nước bắt giữ, như là con tin, hay là một đảm bảo, khiến cho cụ bắt buộc phải trở về. Rồi thì cả một thời gian, họ chẳng thèm làm đơn làm điếc gì hết, ra ý hai tớ chán quá rồi, đếch thèm xin xỏ gì nữa! Thì cứ coi đây như là một cách hai người già chứng tỏ với nhà nước, rằng, họ hiểu, đất nước còn bao điều khó khăn, còn bao điều khẩn cấp, nào là bọn xấu chuyển lửa, bọn xấu âm mưu diễn tiến hoà bình, nhất là, lúc này, bang giao giữa nhà nước và đế quốc Mẽo đang căng thẳng. Rồi thì họ chỉ xin đi đúng có một tuần lễ, hoặc xin đi Phần lan, hay Ba Lan, chứ không xin đi Mẽo. Rồi thì họ đi tới thủ đô, xin yết kiến vị Chủ Tịch nhà nước, hay gõ cửa đủ mọi ông bộ trưởng, ngoại giao hay nội vụ. Tất cả đều vô ích; hệ thống, từ đầu cho tới đít, và từ đít cho tới đầu, chẳng bao giờ phạm, chỉ một lỗi lầm, dù là nhỏ xíu cỡ nào đi chăng nữa. Như hệ thống nhà nước xã hội của chúng ta, nó có thể tự hào về chính nó, về phương hướng, thành quả. Nhưng, cái gì vô nhân, thì cái đó thật dễ dàng tổ chức thành hệ thống. Về cái việc làm này, Liên xô chẳng cần đồ ngoại nhập. Hơn thế nữa, nếu muốn cho nó ngày một giầu có hơn, thì cứ việc xuất cảng hệ thống phi nhân đó.

44
Và đúng như vậy. Xứ sở vốn được coi là cái nôi của cách mạng vô sản đó, đã xuất cảng hệ thống phi nhân của nó đi khắp năm châu bốn bể, ngày ngày một tăng, in ever-increasing volume. Tuy nhiên, có thể bạn vẫn rút ra được một chút thoải mái nào đó (nếu không muốn nói, nhất thiết hy vọng) từ sự kiện (nếu không muốn nói, tiếng cười sau cùng), nếu như vậy, thì từ cuối cùng, last word, thuộc về mã truyền giống của 1 con người, one’s genetic code. Bởi vì tôi biết ơn ông già bà già tôi, không chỉ vì đã cho tôi ra đời, mà là, đã không thất bại, trong việc nuôi dưỡng nó trở thành một con người, chứ không phải một tên nô lệ. Họ đã cố gắng làm được điều tốt nhất mà họ có thể - không chỉ để cứu thằng con chống lại thực tại, là xã hội khốn kiếp mà nó được đẻ ra từ đó - mà còn cố làm sao cho thằng con đừng biến thành một tên tà lọt, điếu đóm, một tên thưa dạ bảo vâng của nhà nước, một thằng đảng viên trung thành. Rằng, sự kiện - họ đã không thành công, và họ phải trả giá cho việc này, với cặp mắt nhắm lại, không bởi thằng con, mà bởi bàn tay khốn nạn vô danh của nhà nước - chứng tỏ, không phải họ lỏng lẻo, lơ là [trong việc dạy dỗ thằng con], mà là nhờ phẩm chất của dòng dõi của họ, cái dòng dõi đó, cái thứ máu huyết đó, đã chung đúc lại, và tạo ra một cơ thể mà hệ thống khốn kiếp kia không làm sao đánh bật ra được, cho dù là nó rất ư là xa lạ, rất ư là ngoại lai, đối với hệ thống đó. Hãy nghĩ tới điều đó, còn mong gì tốt đẹp hơn thế nữa, hãy nghĩ tới cái sức mạnh được hoà hợp lại, của họ, để chịu đựng, và sống còn?
 Nếu điều này nghe ra có vẻ lớn lối, thì kệ cha nó, mặc mẹ nó! Sự kết hợp của hai dòng máu đó thật đáng để phách lối, tại sao không? Chẳng phải là, nó tỏ ra đề kháng, đếch coi nhà nước đó là gì [state-resistant]? Không giản dị chỉ là nhà nước, mà còn là Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Đầu Tiên trong Lịch Sử của Loài Người, như nó vẫn tự huênh hoang khoác lác, tự biên nhận về chính nó như vậy: một nhà nước đặc biệt là rất ư thành thạo trong việc ghép tạo, lai giống [gene-splicing]. Đó là lý do giải thích tại sao tay của nó lúc nào cũng ngập ngụa máu, do ngày đêm giết người, do những kinh nghiệm, do sự thành thạo của nó, trong việc cô lập, làm tê liệt những tế bào chuyên lo về ý chí, quyền năng của một con người. Chính vì việc xuất cảng đại trà và ngày ngày một tăng hệ thống nhà nước phi nhân mà tôi đã nói ở trên, thành thử bây giờ, nếu có người nào đó tính chuyện ăn đời ở kiếp, muốn xây dựng một gia đình, người đó nên hỏi, không chỉ về nhóm máu, hay về của hồi môn của người bạn đời, mà còn nên hỏi cả cái mẫu máu DNA của người đó nữa. Đó là lý do tại sao bây giờ người ta hay ngờ vực, hoặc không tán thành, những cuộc hôn nhân dị chủng [mixed marriages].
 Có hai bức hình của ông cụ và bà cụ của tôi, chụp khi họ còn trẻ, khi mới đôi mươi. Ông cụ, đứng trên boong một con tầu chạy bằng hơi nước: ông cười, tỏ ra chịu chơi, ở đằng sau là ống khói tầu; bà cụ, ở trên bục, và đang tính bước lên một chiếc xe lửa, tay vẫy vẫy cái bao tay trẻ con của bà cụ, đằng sau là bộ đồng phục của người tài xế xe lửa. Chẳng có ai là thèm để ý tới ai, chẳng ai thèm để ý đến sự hiện hữu của cái nửa kia của mình, có hay không, ở trên đời, và lẽ tất nhiên, chẳng có ai, là tôi, ở trong đó. Ngoài ra, thật vô phương, khi cảm nhận bất cứ ai, rằng người đó có đó, một cách khách quan, một cách vật chất, mà không mượn tới chính cái khối xương thịt, là chính mình đó, “…. Bố Mẹ mà/đâu phải hai người dưng”, như [hai câu thơ của] Auden nói. Và mặc dù tôi không thể sống lại quá khứ của họ, ngay cả như là một phần nhỏ bé nhất, của ông cụ hay của bà cụ, nhưng: cái gì có đó, ai có đó, để mà ngăn cấm thằng này, rằng bây giờ ông bà không còn hiện hữu một cách khách quan, tách biệt hẳn ra khỏi cái thân thể, chẳng còn giây mơ dễ má với cái thân thể này, rằng nó có quyền nói một cách hùng hồn rằng, nó, là tổng số, là tương lai, của ông cụ bà cụ?
Nhưng, liệu tôi ôm lấy mình, và nghĩ, đang ôm ông cụ bà cụ? Liệu tôi đành khuây khoả, với ý nghĩ, tất cả những cái gì còn lại, của ông cụ, bà cụ, là cái thằng tôi ở trên cõi đời này? Có thể tôi hài lòng với thuyết duy ngã, và không cưỡng lại, chuyện, họ co rút, sao cho bằng vóc dáng của linh hồn tôi, vốn nhỏ hơn của họ. Giả dụ như tôi cũng làm được chuyện đó. Và thế là tôi “meo meo” với tôi, sau khi nói “Kessa”? Và như thế, trong ba căn phòng mà tôi đang sống, tôi chạy vô căn phòng nào, để làm cho tiếng “meo meo” của tôi có tính thuyết phục?
Tôi là họ, lẽ dĩ nhiên. Chứ còn gì nữa! Tôi bây giờ là gia đình của tôi. Tuy nhiên, ấy là bởi vì, biết ra sao ngày sau, nghĩa là, chẳng ai biết tương lai của mình, tôi ngờ rằng, cách đây chừng bốn mươi năm, vào một đêm tháng Chín năm 1939, có một tia sáng loé lên ở trong họ, hay là, họ chợt ngộ ra rằng, hai đứa mình sẽ ra sao, ngày sau. Tuyệt nhất, theo tôi, đó là, họ nghĩ, hay là hai đứa mình cho một đứa bé ra chơi với đời? Hay là hai đứa mình khởi sự một gia đình, một mái nhà? Còn khá trẻ, lại sinh ra đời tự do nhất trên đời, ở trên đỉnh của tự do, họ đâu có ngờ rằng, trong cái xứ sở mà họ sinh ra đó, sau này trở thành một nhà nước, và nhà nước này quyết định, gia đình nào thì được nhà nước cho phép chỉ được có một mống con. Và nhà nước đó quyết định luôn cả chuyện, thằng nào, con nào được quyền lập gia đình. Khi họ quyết định như thế thì mọi chuyện đều trở thành quá trễ, ngoại trừ hy vọng. Đó là điều họ làm cho đến khi họ chết: họ hy vọng. Những con người có đầu óc, có nghĩ đến gia đình, family-minded people, họ không thể làm khác: họ hy vọng, hỳ hục xoay sở, cố (they hoped, planned, tried).

45
 Nói trộm viá hai cụ, thằng con của hai cụ chỉ mong, hai cụ đừng trông mong nhiều quá. Có lẽ bà cụ tôi làm được điều này, nhưng đây là do bản tính dịu dàng của cụ, và về điều này, ông cụ thường chẳng bỏ qua một dịp nào, để mà chọc quê, “Tự [hào phóng] về mình thì dễ ợt, bà nó ơi, Marusya ạ.” 
Còn về phần ông cụ, tôi nhớ lần hai cha con cùng tản bộ, một buổi chiều vàng nắng tại Vườn Mùa Hạ, khi tôi đã tròn mười chín, hoặc đôi mươi. Hai cha con ngừng lại nơi khoảnh vườn ban nhạc hải quân, Marine Brass Band, đang chơi mấy điệu luân vũ cổ, ông cụ muốn bấm vài bô hình ban nhạc này. Mờ mờ sáng, tối, chỗ này, chỗ nọ, là mấy bức tượng cẩm thạch trắng phủ lên những bóng dâm vằn vèo, người đi lại trên những lối đi sỏi cát, trẻ nô đùa nơi hồ bơi, và hai bố con nói về chiến tranh và những người Đức. Đưa mắt nhìn ban nhạc, tôi thấy mình đang hỏi ông cụ, trong hai trại tù, theo bố, cái nào khốn kiếp hơn cái nào: trại tù của người Đức, hay là của chúng ta?
“Về phần bố,” ông trả lời, “Thà rằng bố ra tro liền tù tì, trong một cái lò thiêu người, còn hơn là cứ thế ngắc ngoải, chết không chết, mà sống cũng chẳng xong, cứ kéo dài một cái chết chậm, và trong khi chết chậm như thế, khám phá ra ý nghĩa của tiến trình mười năm trồng cây, trăm năm trồng người.”

Và ông bấm liền mấy bô hình. 
1985 
Joseph Brodsky

Nguyễn Quốc Trụ dịch 
3.3.2005

Comments

Popular posts from this blog

30.4.2015

Nguyễn Ngọc Tư